Unnamed: 0
int64
0
228
index
int64
0
299
ID
int64
1
301
Para
stringlengths
486
3.95k
Claim
stringlengths
37
234
Evidence
stringlengths
133
255
Label
stringclasses
3 values
Explanation
stringlengths
50
255
Input
stringlengths
612
1.36k
0
0
1
An-My Lê hay Lê Mỹ An theo báo chí tiếng Việt (sinh năm 1960 tại Sài Gòn, nay là Thành phố Hồ Chí Minh ) là giáo sư khoa nhiếp ảnh Trường Đại học Bard tại New York, và là nhiếp ảnh gia người Mỹ gốc Việt . Bà được biết đến với nhiều tác phẩm nghệ thuật về chủ đề chiến tranh và phong cảnh. Năm 2012, bà là một trong những người nhận giải MacArthur Fellowship, được xem là "giải thiên tài" của Mỹ. Công việc của bà được giới thiệu ở Whitney Biennial 2017. Sinh ra ở Sài Gòn năm 1960, nhiếp ảnh gia An My Lê cùng gia đình di cư đến Hoa Kỳ với tư cách "tị nạn chính trị" vào năm 1975. Bà từng ở trại Pendleton rồi theo cha về Sacramento. Sau đó, vào năm 1985, bà lấy bằng tốt nghiệp (Cử nhân (BS) năm 1981 và thạc sĩ (MS) năm 1985) ngành Sinh học ở Viện Đại học Stanford và bằng thạc sĩ nghệ thuật (MFA) năm 1993 tại Viện Đại học Yale năm 1993. Từ năm 1998, bà là giảng viên rồi là giáo sư khoa nhiếp ảnh tại Trường Đại học Bard tại New York.
Giải thưởng được xem là dành cho thiên tài của Mỹ từng được Lê Mỹ An, một giáo sư nhiếp ảnh gốc Việt giành được.
An-My Lê hay Lê Mỹ An theo báo chí tiếng Việt (sinh năm 1960 tại Sài Gòn, nay là Thành phố Hồ Chí Minh ) là giáo sư khoa nhiếp ảnh Trường Đại học Bard tại New York, và là nhiếp ảnh gia người Mỹ gốc Việt . Năm 2012, bà là một trong những người nhận giải Ma
hỗ trợ
Lê Mỹ An sinh năm 1960 ở Thành phố Hồ Chí Minh, bà là một giáo sư khoa nhiếp ảnh ở đại học Bard, một nhiếp ảnh gia người Mỹ gốc Việt, bà giành được giải MacArthur Fellowship năm 2012, giải thưởng được xem là "giải thiên tài" của Mỹ.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " An-My Lê hay Lê Mỹ An theo báo chí tiếng Việt (sinh năm 1960 tại Sài Gòn, nay là Thành phố Hồ Chí Minh ) là giáo sư khoa nhiếp ảnh Trường Đại học Bard tại New York, và là nhiếp ảnh gia người Mỹ gốc Việt . Năm 2012, bà là một trong những người nhận giải Ma " Khẳng định: " Giải thưởng được xem là dành cho thiên tài của Mỹ từng được Lê Mỹ An, một giáo sư nhiếp ảnh gốc Việt giành được.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " An-My Lê hay Lê Mỹ An theo báo chí tiếng Việt (sinh năm 1960 tại Sài Gòn, nay là Thành phố Hồ Chí Minh ) là giáo sư khoa nhiếp ảnh Trường Đại học Bard tại New York, và là nhiếp ảnh gia người Mỹ gốc Việt . Năm 2012, bà là một trong những người nhận giải Ma " Khẳng định: " Giải thưởng được xem là dành cho thiên tài của Mỹ từng được Lê Mỹ An, một giáo sư nhiếp ảnh gốc Việt giành được. Giải thích: Lê Mỹ An sinh năm 1960 ở Thành phố Hồ Chí Minh, bà là một giáo sư khoa nhiếp ảnh ở đại học Bard, một nhiếp ảnh gia người Mỹ gốc Việt, bà giành được giải MacArthur Fellowship năm 2012, giải thưởng được xem là "giải thiên tài" của Mỹ.
1
1
2
An-My Lê hay Lê Mỹ An theo báo chí tiếng Việt (sinh năm 1960 tại Sài Gòn, nay là Thành phố Hồ Chí Minh ) là giáo sư khoa nhiếp ảnh Trường Đại học Bard tại New York, và là nhiếp ảnh gia người Mỹ gốc Việt . Bà được biết đến với nhiều tác phẩm nghệ thuật về chủ đề chiến tranh và phong cảnh. Năm 2012, bà là một trong những người nhận giải MacArthur Fellowship, được xem là "giải thiên tài" của Mỹ. Công việc của bà được giới thiệu ở Whitney Biennial 2017. Sinh ra ở Sài Gòn năm 1960, nhiếp ảnh gia An My Lê cùng gia đình di cư đến Hoa Kỳ với tư cách "tị nạn chính trị" vào năm 1975. Bà từng ở trại Pendleton rồi theo cha về Sacramento. Sau đó, vào năm 1985, bà lấy bằng tốt nghiệp (Cử nhân (BS) năm 1981 và thạc sĩ (MS) năm 1985) ngành Sinh học ở Viện Đại học Stanford và bằng thạc sĩ nghệ thuật (MFA) năm 1993 tại Viện Đại học Yale năm 1993. Từ năm 1998, bà là giảng viên rồi là giáo sư khoa nhiếp ảnh tại Trường Đại học Bard tại New York.
An My Lê và gia đình bị trục xuất khỏi Việt Nam năm 1975, sau đó vào năm 1985 bà đến bang Pensylvania và học đại học Harvard rồi tốt nghiệp ngành ngôn ngữ học.
Sinh ra ở Sài Gòn năm 1960, nhiếp ảnh gia An My Lê cùng gia đình di cư đến Hoa Kỳ với tư cách "tị nạn chính trị" vào năm 1975. Bà từng ở trại Pendleton rồi theo cha về Sacramento. Sau đó, vào năm 1985, bà lấy bằng tốt nghiệp (Cử nhân (BS) năm 1981 và thạ
bác bỏ
An My Lê và gia đình rời khỏi Việt Nam theo dạng "tị nạn chính trị" vào năm 1975 không phải bị trục xuất, bà từng ở Pendleton rồi tới Sacramento, đến năm 1981 thì bà tốt nghiệp ngành Sinh học ở đại học Stanford và năm 1985 bà tốt nghiệp thạc sĩ nghệ thuật
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Sinh ra ở Sài Gòn năm 1960, nhiếp ảnh gia An My Lê cùng gia đình di cư đến Hoa Kỳ với tư cách "tị nạn chính trị" vào năm 1975. Bà từng ở trại Pendleton rồi theo cha về Sacramento. Sau đó, vào năm 1985, bà lấy bằng tốt nghiệp (Cử nhân (BS) năm 1981 và thạ " Khẳng định: " An My Lê và gia đình bị trục xuất khỏi Việt Nam năm 1975, sau đó vào năm 1985 bà đến bang Pensylvania và học đại học Harvard rồi tốt nghiệp ngành ngôn ngữ học.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Sinh ra ở Sài Gòn năm 1960, nhiếp ảnh gia An My Lê cùng gia đình di cư đến Hoa Kỳ với tư cách "tị nạn chính trị" vào năm 1975. Bà từng ở trại Pendleton rồi theo cha về Sacramento. Sau đó, vào năm 1985, bà lấy bằng tốt nghiệp (Cử nhân (BS) năm 1981 và thạ " Khẳng định: " An My Lê và gia đình bị trục xuất khỏi Việt Nam năm 1975, sau đó vào năm 1985 bà đến bang Pensylvania và học đại học Harvard rồi tốt nghiệp ngành ngôn ngữ học. Giải thích: An My Lê và gia đình rời khỏi Việt Nam theo dạng "tị nạn chính trị" vào năm 1975 không phải bị trục xuất, bà từng ở Pendleton rồi tới Sacramento, đến năm 1981 thì bà tốt nghiệp ngành Sinh học ở đại học Stanford và năm 1985 bà tốt nghiệp thạc sĩ nghệ thuật
2
2
3
An-My Lê hay Lê Mỹ An theo báo chí tiếng Việt (sinh năm 1960 tại Sài Gòn, nay là Thành phố Hồ Chí Minh ) là giáo sư khoa nhiếp ảnh Trường Đại học Bard tại New York, và là nhiếp ảnh gia người Mỹ gốc Việt . Bà được biết đến với nhiều tác phẩm nghệ thuật về chủ đề chiến tranh và phong cảnh. Năm 2012, bà là một trong những người nhận giải MacArthur Fellowship, được xem là "giải thiên tài" của Mỹ. Công việc của bà được giới thiệu ở Whitney Biennial 2017. Sinh ra ở Sài Gòn năm 1960, nhiếp ảnh gia An My Lê cùng gia đình di cư đến Hoa Kỳ với tư cách "tị nạn chính trị" vào năm 1975. Bà từng ở trại Pendleton rồi theo cha về Sacramento. Sau đó, vào năm 1985, bà lấy bằng tốt nghiệp (Cử nhân (BS) năm 1981 và thạc sĩ (MS) năm 1985) ngành Sinh học ở Viện Đại học Stanford và bằng thạc sĩ nghệ thuật (MFA) năm 1993 tại Viện Đại học Yale năm 1993. Từ năm 1998, bà là giảng viên rồi là giáo sư khoa nhiếp ảnh tại Trường Đại học Bard tại New York.
Bên cạnh các tác phẩm về chiến tranh hay phong cảnh, nhiếp ảnh gia An-My Lê còn tham gia viết báo phản đối các chính sách chống phân biệt chủng tộc.
An-My Lê hay Lê Mỹ An theo báo chí tiếng Việt (sinh năm 1960 tại Sài Gòn, nay là Thành phố Hồ Chí Minh ) là giáo sư khoa nhiếp ảnh Trường Đại học Bard tại New York, và là nhiếp ảnh gia người Mỹ gốc Việt . Bà được biết đến với nhiều tác phẩm nghệ thuật về
không có thông tin
An-My Lê nổi tiếng với nhiều tác phẩm nghệ thuật về phong cảnh hay chiến tranh, tuy nhiên không có thông tin cụ thể về việc bà có tham gia vào báo chí hay không.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " An-My Lê hay Lê Mỹ An theo báo chí tiếng Việt (sinh năm 1960 tại Sài Gòn, nay là Thành phố Hồ Chí Minh ) là giáo sư khoa nhiếp ảnh Trường Đại học Bard tại New York, và là nhiếp ảnh gia người Mỹ gốc Việt . Bà được biết đến với nhiều tác phẩm nghệ thuật về " Khẳng định: " Bên cạnh các tác phẩm về chiến tranh hay phong cảnh, nhiếp ảnh gia An-My Lê còn tham gia viết báo phản đối các chính sách chống phân biệt chủng tộc.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " An-My Lê hay Lê Mỹ An theo báo chí tiếng Việt (sinh năm 1960 tại Sài Gòn, nay là Thành phố Hồ Chí Minh ) là giáo sư khoa nhiếp ảnh Trường Đại học Bard tại New York, và là nhiếp ảnh gia người Mỹ gốc Việt . Bà được biết đến với nhiều tác phẩm nghệ thuật về " Khẳng định: " Bên cạnh các tác phẩm về chiến tranh hay phong cảnh, nhiếp ảnh gia An-My Lê còn tham gia viết báo phản đối các chính sách chống phân biệt chủng tộc. Giải thích: An-My Lê nổi tiếng với nhiều tác phẩm nghệ thuật về phong cảnh hay chiến tranh, tuy nhiên không có thông tin cụ thể về việc bà có tham gia vào báo chí hay không.
3
3
4
Anh hùng xạ điêu là phần mở đầu trong bộ tiểu thuyết võ hiệp Xạ điêu tam bộ khúc của nhà văn Kim Dung. Trong truyện có nhiều nhân vật có tiểu sử riêng. Dưới đây là danh sách các nhân vật xuất hiện trong tiểu thuyết. Quách Khiếu Thiên (郭嘯天) là cha của nhân vật chính Quách Tĩnh. Ông là cháu nhiều đời của Trại Nhân Quý Quách Thịnh, một trong 108 anh hùng Lương Sơn Bạc trong tiểu thuyết Thủy Hử của nhà văn Thi Nại Am. Lý Bình (李萍) là mẹ của nhân vật chính Quách Tĩnh, là vợ của Quách Khiếu Thiên.
Tổ tiên của Quách Khiếu Thiên từng được đề cập đến trong tiểu thuyết Tây Du Kí.
Quách Khiếu Thiên (郭嘯天) là cha của nhân vật chính Quách Tĩnh. Ông là cháu nhiều đời của Trại Nhân Quý Quách Thịnh, một trong 108 anh hùng Lương Sơn Bạc trong tiểu thuyết Thủy Hử của nhà văn Thi Nại Am.
bác bỏ
Quách Khiếu Thiên là con cháu nhiều đời của Trại Nhân Quý Quách Thịnh, ông là một vị anh hùng ở Lương Sơn Bạc trong tiểu thuyết Thủy Hử của Thi Nại Am, không phải là tiểu thuyết Tây Du Kí.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Quách Khiếu Thiên (郭嘯天) là cha của nhân vật chính Quách Tĩnh. Ông là cháu nhiều đời của Trại Nhân Quý Quách Thịnh, một trong 108 anh hùng Lương Sơn Bạc trong tiểu thuyết Thủy Hử của nhà văn Thi Nại Am. " Khẳng định: " Tổ tiên của Quách Khiếu Thiên từng được đề cập đến trong tiểu thuyết Tây Du Kí.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Quách Khiếu Thiên (郭嘯天) là cha của nhân vật chính Quách Tĩnh. Ông là cháu nhiều đời của Trại Nhân Quý Quách Thịnh, một trong 108 anh hùng Lương Sơn Bạc trong tiểu thuyết Thủy Hử của nhà văn Thi Nại Am. " Khẳng định: " Tổ tiên của Quách Khiếu Thiên từng được đề cập đến trong tiểu thuyết Tây Du Kí. Giải thích: Quách Khiếu Thiên là con cháu nhiều đời của Trại Nhân Quý Quách Thịnh, ông là một vị anh hùng ở Lương Sơn Bạc trong tiểu thuyết Thủy Hử của Thi Nại Am, không phải là tiểu thuyết Tây Du Kí.
4
4
5
Anh hùng xạ điêu là phần mở đầu trong bộ tiểu thuyết võ hiệp Xạ điêu tam bộ khúc của nhà văn Kim Dung. Trong truyện có nhiều nhân vật có tiểu sử riêng. Dưới đây là danh sách các nhân vật xuất hiện trong tiểu thuyết. Quách Khiếu Thiên (郭嘯天) là cha của nhân vật chính Quách Tĩnh. Ông là cháu nhiều đời của Trại Nhân Quý Quách Thịnh, một trong 108 anh hùng Lương Sơn Bạc trong tiểu thuyết Thủy Hử của nhà văn Thi Nại Am. Lý Bình (李萍) là mẹ của nhân vật chính Quách Tĩnh, là vợ của Quách Khiếu Thiên.
Tổ tiên của Quách Khiếu Thiên từng xuất hiện trong tác phẩm Thủy Hử của Thi Nại Am.
Quách Khiếu Thiên (郭嘯天) là cha của nhân vật chính Quách Tĩnh. Ông là cháu nhiều đời của Trại Nhân Quý Quách Thịnh, một trong 108 anh hùng Lương Sơn Bạc trong tiểu thuyết Thủy Hử của nhà văn Thi Nại Am.
hỗ trợ
Quách Khiếu Thiên là con cháu nhiều đời của Trại Nhân Quý Quách Thịnh, ông là một trong các anh hùng Lương Sơn Bạc xuất hiện ở tiểu thuyết Thủy Hử của Thi Nại Am.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Quách Khiếu Thiên (郭嘯天) là cha của nhân vật chính Quách Tĩnh. Ông là cháu nhiều đời của Trại Nhân Quý Quách Thịnh, một trong 108 anh hùng Lương Sơn Bạc trong tiểu thuyết Thủy Hử của nhà văn Thi Nại Am. " Khẳng định: " Tổ tiên của Quách Khiếu Thiên từng xuất hiện trong tác phẩm Thủy Hử của Thi Nại Am.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Quách Khiếu Thiên (郭嘯天) là cha của nhân vật chính Quách Tĩnh. Ông là cháu nhiều đời của Trại Nhân Quý Quách Thịnh, một trong 108 anh hùng Lương Sơn Bạc trong tiểu thuyết Thủy Hử của nhà văn Thi Nại Am. " Khẳng định: " Tổ tiên của Quách Khiếu Thiên từng xuất hiện trong tác phẩm Thủy Hử của Thi Nại Am. Giải thích: Quách Khiếu Thiên là con cháu nhiều đời của Trại Nhân Quý Quách Thịnh, ông là một trong các anh hùng Lương Sơn Bạc xuất hiện ở tiểu thuyết Thủy Hử của Thi Nại Am.
5
5
6
Anh hùng xạ điêu là phần mở đầu trong bộ tiểu thuyết võ hiệp Xạ điêu tam bộ khúc của nhà văn Kim Dung. Trong truyện có nhiều nhân vật có tiểu sử riêng. Dưới đây là danh sách các nhân vật xuất hiện trong tiểu thuyết. Quách Khiếu Thiên (郭嘯天) là cha của nhân vật chính Quách Tĩnh. Ông là cháu nhiều đời của Trại Nhân Quý Quách Thịnh, một trong 108 anh hùng Lương Sơn Bạc trong tiểu thuyết Thủy Hử của nhà văn Thi Nại Am. Lý Bình (李萍) là mẹ của nhân vật chính Quách Tĩnh, là vợ của Quách Khiếu Thiên.
Mỗi tiểu sử riêng của một nhân vật trong truyện Anh hùng xạ điêu khiến Kim Dung mất tới 3 tháng để hoàn thành.
Anh hùng xạ điêu là phần mở đầu trong bộ tiểu thuyết võ hiệp Xạ điêu tam bộ khúc của nhà văn Kim Dung. Trong truyện có nhiều nhân vật có tiểu sử riêng.
không có thông tin
Nhiều nhân vật trong tiểu thuyết Anh hùng xạ điêu của Kim Dung được xây dựng riêng một tiểu sử tuy nhiên không có thông tin về khoảng thời gian cụ thể mà nhà văn mất để hoàn tất.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Anh hùng xạ điêu là phần mở đầu trong bộ tiểu thuyết võ hiệp Xạ điêu tam bộ khúc của nhà văn Kim Dung. Trong truyện có nhiều nhân vật có tiểu sử riêng. " Khẳng định: " Mỗi tiểu sử riêng của một nhân vật trong truyện Anh hùng xạ điêu khiến Kim Dung mất tới 3 tháng để hoàn thành.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Anh hùng xạ điêu là phần mở đầu trong bộ tiểu thuyết võ hiệp Xạ điêu tam bộ khúc của nhà văn Kim Dung. Trong truyện có nhiều nhân vật có tiểu sử riêng. " Khẳng định: " Mỗi tiểu sử riêng của một nhân vật trong truyện Anh hùng xạ điêu khiến Kim Dung mất tới 3 tháng để hoàn thành. Giải thích: Nhiều nhân vật trong tiểu thuyết Anh hùng xạ điêu của Kim Dung được xây dựng riêng một tiểu sử tuy nhiên không có thông tin về khoảng thời gian cụ thể mà nhà văn mất để hoàn tất.
6
6
7
Biển Đông là tên riêng mà Việt Nam dùng để gọi vùng biển có tên quốc tế là South China Sea (tiếng Anh, nghĩa là biển ở phía Nam Trung Quốc) hay Mer de Chine méridionale (tiếng Pháp), là một biển rìa lục địa và là một phần của Thái Bình Dương, trải rộng từ Singapore tới eo biển Đài Loan và bao phủ một diện tích khoảng 3.447.000 km². Vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan thuộc Biển Đông. Đây là biển lớn thứ tư thế giới sau biển Philippines, biển San Hô và biển Ả Rập. Vùng biển này và các quần đảo của nó là đối tượng tranh chấp và xung đột giữa một vài quốc gia trong vùng. Tại Việt Nam, tên gọi Biển Đông là tên gọi truyền thống, trước kia còn gọi là bể Đông hay Đông Hải theo từ Hán Việt, có nghĩa là vùng biển nằm ở phía đông Việt Nam. Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, mục Dư địa chí chép: Xét trong sách vở đã ghi chép, đất nước ta phía đông đến biển, phía tây giáp Vân Nam,... Trong Hoàng Việt địa dư chí, Phan Huy Chú viết: 其地西接哀牢,東臨大海,南夾廣南,北連乂安。/ Kỳ địa tây tiếp Ai Lao, đông lâm đại hải, nam giáp Quảng Nam, bắc liên Nghệ An. / Đất [Đàng Trong phía tây tiếp giáp Ai Lao, phía đông biển lớn, đoạn phía nam là Quảng Nam, phía bắc nối liền với Nghệ An. Trong Bình Ngô đại cáo, Biển Đông được nhắc đến với tên gọi là Đông Hải (東 海). Nguyễn Trãi viết: Thời Nhà Nguyễn, người Việt cũng vẫn gọi Biển Đông là bể Nam nhưng bằng chữ Nôm, với nghĩa là bể (biển) nước Nam, khác biệt với Nam Hải bằng chữ Hán theo cách viết văn tự chữ Hán (gọi theo người Trung Hoa). Trong cuốn Đại Nam Quốc sử Diễn ca (1870), viết bằng chữ Nôm với thể thơ lục bát, đoạn An Dương Vương mất nước Âu Lạc vào tay Triệu Đà có viết như sau (ở đây Bể Nam và Nam Hải tương đương về vần luật và dấu thanh, nhưng Bể Nam được dùng mà không phải là Nam Hải):
Biển Đông tọa lạc ở phía Nam Trung Quốc và nằm trong top 4 biển lớn nhất thế giới với gần 3.5 triệu km².
Biển Đông là tên riêng mà Việt Nam dùng để gọi vùng biển có tên quốc tế là South China Sea (tiếng Anh, nghĩa là biển ở phía Nam Trung Quốc) hay Mer de Chine méridionale (tiếng Pháp), là một biển rìa lục địa và là một phần của Thái Bình Dương, trải rộng từ
hỗ trợ
Biển Đông có tên quốc tế là South East Asia nghĩa là biển ở phía Nam Trung Quốc, có diện tích 3.447.000 km², lớn thứ tư trên thế giới sau biển Philippines, biển San Hô và biển Ả Rập.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Biển Đông là tên riêng mà Việt Nam dùng để gọi vùng biển có tên quốc tế là South China Sea (tiếng Anh, nghĩa là biển ở phía Nam Trung Quốc) hay Mer de Chine méridionale (tiếng Pháp), là một biển rìa lục địa và là một phần của Thái Bình Dương, trải rộng từ " Khẳng định: " Biển Đông tọa lạc ở phía Nam Trung Quốc và nằm trong top 4 biển lớn nhất thế giới với gần 3.5 triệu km².hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Biển Đông là tên riêng mà Việt Nam dùng để gọi vùng biển có tên quốc tế là South China Sea (tiếng Anh, nghĩa là biển ở phía Nam Trung Quốc) hay Mer de Chine méridionale (tiếng Pháp), là một biển rìa lục địa và là một phần của Thái Bình Dương, trải rộng từ " Khẳng định: " Biển Đông tọa lạc ở phía Nam Trung Quốc và nằm trong top 4 biển lớn nhất thế giới với gần 3.5 triệu km². Giải thích: Biển Đông có tên quốc tế là South East Asia nghĩa là biển ở phía Nam Trung Quốc, có diện tích 3.447.000 km², lớn thứ tư trên thế giới sau biển Philippines, biển San Hô và biển Ả Rập.
7
7
8
Biển Đông là tên riêng mà Việt Nam dùng để gọi vùng biển có tên quốc tế là South China Sea (tiếng Anh, nghĩa là biển ở phía Nam Trung Quốc) hay Mer de Chine méridionale (tiếng Pháp), là một biển rìa lục địa và là một phần của Thái Bình Dương, trải rộng từ Singapore tới eo biển Đài Loan và bao phủ một diện tích khoảng 3.447.000 km². Vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan thuộc Biển Đông. Đây là biển lớn thứ tư thế giới sau biển Philippines, biển San Hô và biển Ả Rập. Vùng biển này và các quần đảo của nó là đối tượng tranh chấp và xung đột giữa một vài quốc gia trong vùng. Tại Việt Nam, tên gọi Biển Đông là tên gọi truyền thống, trước kia còn gọi là bể Đông hay Đông Hải theo từ Hán Việt, có nghĩa là vùng biển nằm ở phía đông Việt Nam. Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, mục Dư địa chí chép: Xét trong sách vở đã ghi chép, đất nước ta phía đông đến biển, phía tây giáp Vân Nam,... Trong Hoàng Việt địa dư chí, Phan Huy Chú viết: 其地西接哀牢,東臨大海,南夾廣南,北連乂安。/ Kỳ địa tây tiếp Ai Lao, đông lâm đại hải, nam giáp Quảng Nam, bắc liên Nghệ An. / Đất [Đàng Trong phía tây tiếp giáp Ai Lao, phía đông biển lớn, đoạn phía nam là Quảng Nam, phía bắc nối liền với Nghệ An. Trong Bình Ngô đại cáo, Biển Đông được nhắc đến với tên gọi là Đông Hải (東 海). Nguyễn Trãi viết: Thời Nhà Nguyễn, người Việt cũng vẫn gọi Biển Đông là bể Nam nhưng bằng chữ Nôm, với nghĩa là bể (biển) nước Nam, khác biệt với Nam Hải bằng chữ Hán theo cách viết văn tự chữ Hán (gọi theo người Trung Hoa). Trong cuốn Đại Nam Quốc sử Diễn ca (1870), viết bằng chữ Nôm với thể thơ lục bát, đoạn An Dương Vương mất nước Âu Lạc vào tay Triệu Đà có viết như sau (ở đây Bể Nam và Nam Hải tương đương về vần luật và dấu thanh, nhưng Bể Nam được dùng mà không phải là Nam Hải):
Biển Đông là tên gọi mà Trung Quốc dành cho vùng biển này, nó có chủ quyền được công nhận hoàn toàn cho Trung Quốc về cả quần đảo và vùng biển.
Biển Đông là tên riêng mà Việt Nam dùng để gọi vùng biển có tên quốc tế là South China Sea (tiếng Anh, nghĩa là biển ở phía Nam Trung Quốc) hay Mer de Chine méridionale (tiếng Pháp), là một biển rìa lục địa và là một phần của Thái Bình Dương, trải rộng từ
bác bỏ
Biển Đông là tên riêng không phải do Trung Quốc dùng mà do Việt Nam sử dụng để ám chỉ vùng biển này, các quần đảo lẫn vùng biển vẫn đang chịu sự xung đột và tranh chấp của các quốc gia trong khu vực chứ không hoàn toàn thuộc về Trung Quốc.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Biển Đông là tên riêng mà Việt Nam dùng để gọi vùng biển có tên quốc tế là South China Sea (tiếng Anh, nghĩa là biển ở phía Nam Trung Quốc) hay Mer de Chine méridionale (tiếng Pháp), là một biển rìa lục địa và là một phần của Thái Bình Dương, trải rộng từ " Khẳng định: " Biển Đông là tên gọi mà Trung Quốc dành cho vùng biển này, nó có chủ quyền được công nhận hoàn toàn cho Trung Quốc về cả quần đảo và vùng biển.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Biển Đông là tên riêng mà Việt Nam dùng để gọi vùng biển có tên quốc tế là South China Sea (tiếng Anh, nghĩa là biển ở phía Nam Trung Quốc) hay Mer de Chine méridionale (tiếng Pháp), là một biển rìa lục địa và là một phần của Thái Bình Dương, trải rộng từ " Khẳng định: " Biển Đông là tên gọi mà Trung Quốc dành cho vùng biển này, nó có chủ quyền được công nhận hoàn toàn cho Trung Quốc về cả quần đảo và vùng biển. Giải thích: Biển Đông là tên riêng không phải do Trung Quốc dùng mà do Việt Nam sử dụng để ám chỉ vùng biển này, các quần đảo lẫn vùng biển vẫn đang chịu sự xung đột và tranh chấp của các quốc gia trong khu vực chứ không hoàn toàn thuộc về Trung Quốc.
8
8
9
Biển Đông là tên riêng mà Việt Nam dùng để gọi vùng biển có tên quốc tế là South China Sea (tiếng Anh, nghĩa là biển ở phía Nam Trung Quốc) hay Mer de Chine méridionale (tiếng Pháp), là một biển rìa lục địa và là một phần của Thái Bình Dương, trải rộng từ Singapore tới eo biển Đài Loan và bao phủ một diện tích khoảng 3.447.000 km². Vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan thuộc Biển Đông. Đây là biển lớn thứ tư thế giới sau biển Philippines, biển San Hô và biển Ả Rập. Vùng biển này và các quần đảo của nó là đối tượng tranh chấp và xung đột giữa một vài quốc gia trong vùng. Tại Việt Nam, tên gọi Biển Đông là tên gọi truyền thống, trước kia còn gọi là bể Đông hay Đông Hải theo từ Hán Việt, có nghĩa là vùng biển nằm ở phía đông Việt Nam. Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, mục Dư địa chí chép: Xét trong sách vở đã ghi chép, đất nước ta phía đông đến biển, phía tây giáp Vân Nam,... Trong Hoàng Việt địa dư chí, Phan Huy Chú viết: 其地西接哀牢,東臨大海,南夾廣南,北連乂安。/ Kỳ địa tây tiếp Ai Lao, đông lâm đại hải, nam giáp Quảng Nam, bắc liên Nghệ An. / Đất [Đàng Trong phía tây tiếp giáp Ai Lao, phía đông biển lớn, đoạn phía nam là Quảng Nam, phía bắc nối liền với Nghệ An. Trong Bình Ngô đại cáo, Biển Đông được nhắc đến với tên gọi là Đông Hải (東 海). Nguyễn Trãi viết: Thời Nhà Nguyễn, người Việt cũng vẫn gọi Biển Đông là bể Nam nhưng bằng chữ Nôm, với nghĩa là bể (biển) nước Nam, khác biệt với Nam Hải bằng chữ Hán theo cách viết văn tự chữ Hán (gọi theo người Trung Hoa). Trong cuốn Đại Nam Quốc sử Diễn ca (1870), viết bằng chữ Nôm với thể thơ lục bát, đoạn An Dương Vương mất nước Âu Lạc vào tay Triệu Đà có viết như sau (ở đây Bể Nam và Nam Hải tương đương về vần luật và dấu thanh, nhưng Bể Nam được dùng mà không phải là Nam Hải):
Tên gọi truyền thống Biển Đông đã có từ thời vua Hùng Vương thứ nhất và được truyền thừa qua nhiều đời, ghi chép trong nhiều sách vở tiêu biểu như Lịch triều hiến chương loại chí.
Tại Việt Nam, tên gọi Biển Đông là tên gọi truyền thống, trước kia còn gọi là bể Đông hay Đông Hải theo từ Hán Việt, có nghĩa là vùng biển nằm ở phía đông Việt Nam. Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, mục Dư địa chí chép: Xét trong sách vở đ
không có thông tin
Không có thông tin cụ thể về thời điểm mà tên gọi Biển Đông xuất hiện.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Tại Việt Nam, tên gọi Biển Đông là tên gọi truyền thống, trước kia còn gọi là bể Đông hay Đông Hải theo từ Hán Việt, có nghĩa là vùng biển nằm ở phía đông Việt Nam. Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, mục Dư địa chí chép: Xét trong sách vở đ " Khẳng định: " Tên gọi truyền thống Biển Đông đã có từ thời vua Hùng Vương thứ nhất và được truyền thừa qua nhiều đời, ghi chép trong nhiều sách vở tiêu biểu như Lịch triều hiến chương loại chí.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Tại Việt Nam, tên gọi Biển Đông là tên gọi truyền thống, trước kia còn gọi là bể Đông hay Đông Hải theo từ Hán Việt, có nghĩa là vùng biển nằm ở phía đông Việt Nam. Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, mục Dư địa chí chép: Xét trong sách vở đ " Khẳng định: " Tên gọi truyền thống Biển Đông đã có từ thời vua Hùng Vương thứ nhất và được truyền thừa qua nhiều đời, ghi chép trong nhiều sách vở tiêu biểu như Lịch triều hiến chương loại chí. Giải thích: Không có thông tin cụ thể về thời điểm mà tên gọi Biển Đông xuất hiện.
9
9
10
Bằng lăng nước hay đơn giản là bằng lăng (danh pháp hai phần: Lagerstroemia speciosa) là một loài thực vật thuộc chi Bằng lăng (Lagerstroemia - một chi lớn thảo mộc nước to). Tên này do Giáo sư Phạm Hoàng Hộ viết sách và đặt. Nó không hợp lý ở chỗ đây không phải là loài cây bẩm sinh sinh sống gần nước, mà nó còn mọc trên rừng, phù hợp nhiều loại đất. Do đó, nên đặt nó là bằng lăng lớn (giant crape-myrtle) hoặc bằng lăng Nữ hoàng (Queen's crape-myrtle) như tên Anh của nó. Tên tiếng Pháp là Lilas des Indes, tiếng Anh thông dụng là: Giant Crape-myrtle, Queen 's Crape-myrtle, Pride of India, Queen 's flower. Bằng lăng nước được gọi tên là Banabá theo tiếng Tagalog (dân tộc lớn nhất Philippines) là loài cây đặc thù của Ấn Độ. Loài này có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới Nam Á, hiện có nhiều ở Đông Nam Á, Ấn Độ và các vùng nhiệt đới khác. Thân cây thẳng và khá nhẵn nhụi. Lá màu xanh lục, dài từ 8 đến 15 cm, rộng từ 3 đến 7 cm, hình oval hoặc elip, rụng theo mùa. Hoa màu tím hoặc tím nhạt, mọc thành chùm dài từ 20 đến 40 cm, thường thấy vào giữa mùa hè. Mỗi bông hoa có 6 cánh, mỗi cánh dài chừng 2 đến 3,5 cm. Quả lúc tươi màu tím nhạt pha xanh lục, mềm. Quả già có đường kính 1,5 đến 2 cm, khô trên cây. Bằng lăng nước là loài bằng lăng hoa tím ở vùng nhiệt đới đã được dùng trong y học ở châu Mỹ, Ấn Độ, Philippines,... để trị bệnh tiểu đường. Lá láng bóng loài bằng lăng này chứa Corosolic acid ở mức cao (Corosolic acid là một hóa chất thực vật nổi tiếng làm hạ mức đường trong máu). Trong Y học truyền thống châu Á dùng lá bằng lăng nước làm nước trà để trị đau bao tử và bệnh tiểu đường. Các chất trích ly được thương mại hóa đôi khi cũng được dùng làm bớt mập phì. Chất trích lá bằng lăng nước thường tìm thấy trong các thuốc bổ sung đa thành phần để làm giảm cân, tỉ như Cortislim. Nồng lượng thay đổi tuỳ sản phẩm bán, nhưng thường chứa vài milligram đến vài tá milligram một ngày. Lá bằng lăng nước khó kiếm hơn nhưng được bán dưới dạng nước trích lỏng hoặc thể viên.
Việc lấy lá bằng lăng nước làm trà ở châu Á để chữa bệnh xuất phát lần đầu ở Ấn Độ khi mà họ đã tìm ra chất Cortislim có tác dụng tiêu mỡ.
Trong Y học truyền thống châu Á dùng lá bằng lăng nước làm nước trà để trị đau bao tử và bệnh tiểu đường. Chất trích lá bằng lăng nước thường tìm thấy trong các thuốc bổ sung đa thành phần để làm giảm cân, tỉ như Cortislim.
không có thông tin
Lá bằng lăng được dùng trong y học truyền thống châu Á nhưng không có thông tin về xuất xứ ban đầu của quốc gia sử dụng lá bằng lăng để chữa bệnh.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Trong Y học truyền thống châu Á dùng lá bằng lăng nước làm nước trà để trị đau bao tử và bệnh tiểu đường. Chất trích lá bằng lăng nước thường tìm thấy trong các thuốc bổ sung đa thành phần để làm giảm cân, tỉ như Cortislim. " Khẳng định: " Việc lấy lá bằng lăng nước làm trà ở châu Á để chữa bệnh xuất phát lần đầu ở Ấn Độ khi mà họ đã tìm ra chất Cortislim có tác dụng tiêu mỡ.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Trong Y học truyền thống châu Á dùng lá bằng lăng nước làm nước trà để trị đau bao tử và bệnh tiểu đường. Chất trích lá bằng lăng nước thường tìm thấy trong các thuốc bổ sung đa thành phần để làm giảm cân, tỉ như Cortislim. " Khẳng định: " Việc lấy lá bằng lăng nước làm trà ở châu Á để chữa bệnh xuất phát lần đầu ở Ấn Độ khi mà họ đã tìm ra chất Cortislim có tác dụng tiêu mỡ. Giải thích: Lá bằng lăng được dùng trong y học truyền thống châu Á nhưng không có thông tin về xuất xứ ban đầu của quốc gia sử dụng lá bằng lăng để chữa bệnh.
10
10
11
Bằng lăng nước hay đơn giản là bằng lăng (danh pháp hai phần: Lagerstroemia speciosa) là một loài thực vật thuộc chi Bằng lăng (Lagerstroemia - một chi lớn thảo mộc nước to). Tên này do Giáo sư Phạm Hoàng Hộ viết sách và đặt. Nó không hợp lý ở chỗ đây không phải là loài cây bẩm sinh sinh sống gần nước, mà nó còn mọc trên rừng, phù hợp nhiều loại đất. Do đó, nên đặt nó là bằng lăng lớn (giant crape-myrtle) hoặc bằng lăng Nữ hoàng (Queen's crape-myrtle) như tên Anh của nó. Tên tiếng Pháp là Lilas des Indes, tiếng Anh thông dụng là: Giant Crape-myrtle, Queen 's Crape-myrtle, Pride of India, Queen 's flower. Bằng lăng nước được gọi tên là Banabá theo tiếng Tagalog (dân tộc lớn nhất Philippines) là loài cây đặc thù của Ấn Độ. Loài này có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới Nam Á, hiện có nhiều ở Đông Nam Á, Ấn Độ và các vùng nhiệt đới khác. Thân cây thẳng và khá nhẵn nhụi. Lá màu xanh lục, dài từ 8 đến 15 cm, rộng từ 3 đến 7 cm, hình oval hoặc elip, rụng theo mùa. Hoa màu tím hoặc tím nhạt, mọc thành chùm dài từ 20 đến 40 cm, thường thấy vào giữa mùa hè. Mỗi bông hoa có 6 cánh, mỗi cánh dài chừng 2 đến 3,5 cm. Quả lúc tươi màu tím nhạt pha xanh lục, mềm. Quả già có đường kính 1,5 đến 2 cm, khô trên cây. Bằng lăng nước là loài bằng lăng hoa tím ở vùng nhiệt đới đã được dùng trong y học ở châu Mỹ, Ấn Độ, Philippines,... để trị bệnh tiểu đường. Lá láng bóng loài bằng lăng này chứa Corosolic acid ở mức cao (Corosolic acid là một hóa chất thực vật nổi tiếng làm hạ mức đường trong máu). Trong Y học truyền thống châu Á dùng lá bằng lăng nước làm nước trà để trị đau bao tử và bệnh tiểu đường. Các chất trích ly được thương mại hóa đôi khi cũng được dùng làm bớt mập phì. Chất trích lá bằng lăng nước thường tìm thấy trong các thuốc bổ sung đa thành phần để làm giảm cân, tỉ như Cortislim. Nồng lượng thay đổi tuỳ sản phẩm bán, nhưng thường chứa vài milligram đến vài tá milligram một ngày. Lá bằng lăng nước khó kiếm hơn nhưng được bán dưới dạng nước trích lỏng hoặc thể viên.
Tên gọi bằng lăng nước ám chỉ môi trường sống của loài thực vật này là trong nước hoặc các môi trường gần địa hình nước.
Bằng lăng nước hay đơn giản là bằng lăng (danh pháp hai phần: Lagerstroemia speciosa) là một loài thực vật thuộc chi Bằng lăng (Lagerstroemia - một chi lớn thảo mộc nước to). Nó không hợp lý ở chỗ đây không phải là loài cây bẩm sinh sinh sống gần nước, mà
bác bỏ
Mang tên bằng lăng nước nhưng đây không phải loài cây sống gần nước một cách tự nhiên mà nó còn có thể mọc trên rừng và sống được trên nhiều loại đất khác nhau.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Bằng lăng nước hay đơn giản là bằng lăng (danh pháp hai phần: Lagerstroemia speciosa) là một loài thực vật thuộc chi Bằng lăng (Lagerstroemia - một chi lớn thảo mộc nước to). Nó không hợp lý ở chỗ đây không phải là loài cây bẩm sinh sinh sống gần nước, mà " Khẳng định: " Tên gọi bằng lăng nước ám chỉ môi trường sống của loài thực vật này là trong nước hoặc các môi trường gần địa hình nước.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Bằng lăng nước hay đơn giản là bằng lăng (danh pháp hai phần: Lagerstroemia speciosa) là một loài thực vật thuộc chi Bằng lăng (Lagerstroemia - một chi lớn thảo mộc nước to). Nó không hợp lý ở chỗ đây không phải là loài cây bẩm sinh sinh sống gần nước, mà " Khẳng định: " Tên gọi bằng lăng nước ám chỉ môi trường sống của loài thực vật này là trong nước hoặc các môi trường gần địa hình nước. Giải thích: Mang tên bằng lăng nước nhưng đây không phải loài cây sống gần nước một cách tự nhiên mà nó còn có thể mọc trên rừng và sống được trên nhiều loại đất khác nhau.
11
11
12
Bằng lăng nước hay đơn giản là bằng lăng (danh pháp hai phần: Lagerstroemia speciosa) là một loài thực vật thuộc chi Bằng lăng (Lagerstroemia - một chi lớn thảo mộc nước to). Tên này do Giáo sư Phạm Hoàng Hộ viết sách và đặt. Nó không hợp lý ở chỗ đây không phải là loài cây bẩm sinh sinh sống gần nước, mà nó còn mọc trên rừng, phù hợp nhiều loại đất. Do đó, nên đặt nó là bằng lăng lớn (giant crape-myrtle) hoặc bằng lăng Nữ hoàng (Queen's crape-myrtle) như tên Anh của nó. Tên tiếng Pháp là Lilas des Indes, tiếng Anh thông dụng là: Giant Crape-myrtle, Queen 's Crape-myrtle, Pride of India, Queen 's flower. Bằng lăng nước được gọi tên là Banabá theo tiếng Tagalog (dân tộc lớn nhất Philippines) là loài cây đặc thù của Ấn Độ. Loài này có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới Nam Á, hiện có nhiều ở Đông Nam Á, Ấn Độ và các vùng nhiệt đới khác. Thân cây thẳng và khá nhẵn nhụi. Lá màu xanh lục, dài từ 8 đến 15 cm, rộng từ 3 đến 7 cm, hình oval hoặc elip, rụng theo mùa. Hoa màu tím hoặc tím nhạt, mọc thành chùm dài từ 20 đến 40 cm, thường thấy vào giữa mùa hè. Mỗi bông hoa có 6 cánh, mỗi cánh dài chừng 2 đến 3,5 cm. Quả lúc tươi màu tím nhạt pha xanh lục, mềm. Quả già có đường kính 1,5 đến 2 cm, khô trên cây. Bằng lăng nước là loài bằng lăng hoa tím ở vùng nhiệt đới đã được dùng trong y học ở châu Mỹ, Ấn Độ, Philippines,... để trị bệnh tiểu đường. Lá láng bóng loài bằng lăng này chứa Corosolic acid ở mức cao (Corosolic acid là một hóa chất thực vật nổi tiếng làm hạ mức đường trong máu). Trong Y học truyền thống châu Á dùng lá bằng lăng nước làm nước trà để trị đau bao tử và bệnh tiểu đường. Các chất trích ly được thương mại hóa đôi khi cũng được dùng làm bớt mập phì. Chất trích lá bằng lăng nước thường tìm thấy trong các thuốc bổ sung đa thành phần để làm giảm cân, tỉ như Cortislim. Nồng lượng thay đổi tuỳ sản phẩm bán, nhưng thường chứa vài milligram đến vài tá milligram một ngày. Lá bằng lăng nước khó kiếm hơn nhưng được bán dưới dạng nước trích lỏng hoặc thể viên.
Loài hoa bằng lăng tím có chứa chất Corosolic acid ở nồng độ cao, thích hợp cho việc chữa trị các bệnh liên quan đến đường huyết như tiểu đường.
Bằng lăng nước là loài bằng lăng hoa tím ở vùng nhiệt đới đã được dùng trong y học ở châu Mỹ, Ấn Độ, Philippines,… để trị bệnh tiểu đường. Lá láng bóng loài bằng lăng này chứa Corosolic acid ở mức cao (Corosolic acid là một hóa chất thực vật nổi tiếng làm
hỗ trợ
Trong y học châu Mỹ, Ấn Độ, Philippines,… loài bằng lăng hoa tím ở vùng nhiệt đới được sử dụng để chữa bệnh tiểu đường do lá có chứa Corosolic acid ,hóa chất nổi tiếng để hạ đường huyết, ở mức cao.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Bằng lăng nước là loài bằng lăng hoa tím ở vùng nhiệt đới đã được dùng trong y học ở châu Mỹ, Ấn Độ, Philippines,… để trị bệnh tiểu đường. Lá láng bóng loài bằng lăng này chứa Corosolic acid ở mức cao (Corosolic acid là một hóa chất thực vật nổi tiếng làm " Khẳng định: " Loài hoa bằng lăng tím có chứa chất Corosolic acid ở nồng độ cao, thích hợp cho việc chữa trị các bệnh liên quan đến đường huyết như tiểu đường.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Bằng lăng nước là loài bằng lăng hoa tím ở vùng nhiệt đới đã được dùng trong y học ở châu Mỹ, Ấn Độ, Philippines,… để trị bệnh tiểu đường. Lá láng bóng loài bằng lăng này chứa Corosolic acid ở mức cao (Corosolic acid là một hóa chất thực vật nổi tiếng làm " Khẳng định: " Loài hoa bằng lăng tím có chứa chất Corosolic acid ở nồng độ cao, thích hợp cho việc chữa trị các bệnh liên quan đến đường huyết như tiểu đường. Giải thích: Trong y học châu Mỹ, Ấn Độ, Philippines,… loài bằng lăng hoa tím ở vùng nhiệt đới được sử dụng để chữa bệnh tiểu đường do lá có chứa Corosolic acid ,hóa chất nổi tiếng để hạ đường huyết, ở mức cao.
12
12
13
Bố Chính (chữ Hán: 布政, tiếng Chăm: Po t'ling) là tên một địa danh cổ trong lịch sử Việt Nam gồm các huyện Quảng Trạch, Tuyên Hóa, Bố Trạch, Minh Hóa và thị xã Ba Đồn thuộc tỉnh Quảng Bình ngày nay. Bố Chính trước là một châu của Chiêm Thành, năm 1069 sau trận chiến với Đại Việt, vua Chăm là Chế Củ bị Lý Thánh Tông bắt đem về Thăng Long. Để được tha về nước, vua Chế Củ đã dâng 3 châu phía bắc Chăm Pa cho Đại Việt và Bố Chính là một trong số 3 châu đó. Đến thời nhà Lê chia làm hai châu là Bắc Bố Chính và Nam Bố Chính, lấy sông Gianh làm ranh giới hai châu.
Vua Chế Củ cho nhà Lý thuê châu Bố Chính sau trận thua Đại Việt để đổi lấy mạng sống về nước.
Bố Chính trước là một châu của Chiêm Thành, năm 1069 sau trận chiến với Đại Việt, vua Chăm là Chế Củ bị Lý Thánh Tông bắt đem về Thăng Long. Để được tha về nước, vua Chế Củ đã dâng 3 châu phía bắc Chăm Pa cho Đại Việt và Bố Chính là một trong số 3 châu đó
bác bỏ
Sau trận chiến với Đại Việt năm 1069 thì vua Chăm là Chế Củ bị bắt, để có thể được tha mạng về nước, ông đã dâng 3 châu cho Đại Việt trong đó có Bố Chính.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Bố Chính trước là một châu của Chiêm Thành, năm 1069 sau trận chiến với Đại Việt, vua Chăm là Chế Củ bị Lý Thánh Tông bắt đem về Thăng Long. Để được tha về nước, vua Chế Củ đã dâng 3 châu phía bắc Chăm Pa cho Đại Việt và Bố Chính là một trong số 3 châu đó " Khẳng định: " Vua Chế Củ cho nhà Lý thuê châu Bố Chính sau trận thua Đại Việt để đổi lấy mạng sống về nước.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Bố Chính trước là một châu của Chiêm Thành, năm 1069 sau trận chiến với Đại Việt, vua Chăm là Chế Củ bị Lý Thánh Tông bắt đem về Thăng Long. Để được tha về nước, vua Chế Củ đã dâng 3 châu phía bắc Chăm Pa cho Đại Việt và Bố Chính là một trong số 3 châu đó " Khẳng định: " Vua Chế Củ cho nhà Lý thuê châu Bố Chính sau trận thua Đại Việt để đổi lấy mạng sống về nước. Giải thích: Sau trận chiến với Đại Việt năm 1069 thì vua Chăm là Chế Củ bị bắt, để có thể được tha mạng về nước, ông đã dâng 3 châu cho Đại Việt trong đó có Bố Chính.
13
13
14
Bố Chính (chữ Hán: 布政, tiếng Chăm: Po t'ling) là tên một địa danh cổ trong lịch sử Việt Nam gồm các huyện Quảng Trạch, Tuyên Hóa, Bố Trạch, Minh Hóa và thị xã Ba Đồn thuộc tỉnh Quảng Bình ngày nay. Bố Chính trước là một châu của Chiêm Thành, năm 1069 sau trận chiến với Đại Việt, vua Chăm là Chế Củ bị Lý Thánh Tông bắt đem về Thăng Long. Để được tha về nước, vua Chế Củ đã dâng 3 châu phía bắc Chăm Pa cho Đại Việt và Bố Chính là một trong số 3 châu đó. Đến thời nhà Lê chia làm hai châu là Bắc Bố Chính và Nam Bố Chính, lấy sông Gianh làm ranh giới hai châu.
Bố Chính bị chia làm hai châu là do Chiêm Thành đòi lại một phần lãnh thổ từ nhà Lê.
Bố Chính trước là một châu của Chiêm Thành, năm 1069 sau trận chiến với Đại Việt, vua Chăm là Chế Củ bị Lý Thánh Tông bắt đem về Thăng Long. Đến thời nhà Lê chia làm hai châu là Bắc Bố Chính và Nam Bố Chính, lấy sông Gianh làm ranh giới hai châu.
không có thông tin
Không có thông tin cụ thể về nguyên nhân Bố Chính bị chia cắt dưới thời nhà Lê.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Bố Chính trước là một châu của Chiêm Thành, năm 1069 sau trận chiến với Đại Việt, vua Chăm là Chế Củ bị Lý Thánh Tông bắt đem về Thăng Long. Đến thời nhà Lê chia làm hai châu là Bắc Bố Chính và Nam Bố Chính, lấy sông Gianh làm ranh giới hai châu. " Khẳng định: " Bố Chính bị chia làm hai châu là do Chiêm Thành đòi lại một phần lãnh thổ từ nhà Lê.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Bố Chính trước là một châu của Chiêm Thành, năm 1069 sau trận chiến với Đại Việt, vua Chăm là Chế Củ bị Lý Thánh Tông bắt đem về Thăng Long. Đến thời nhà Lê chia làm hai châu là Bắc Bố Chính và Nam Bố Chính, lấy sông Gianh làm ranh giới hai châu. " Khẳng định: " Bố Chính bị chia làm hai châu là do Chiêm Thành đòi lại một phần lãnh thổ từ nhà Lê. Giải thích: Không có thông tin cụ thể về nguyên nhân Bố Chính bị chia cắt dưới thời nhà Lê.
14
14
15
Bố Chính (chữ Hán: 布政, tiếng Chăm: Po t'ling) là tên một địa danh cổ trong lịch sử Việt Nam gồm các huyện Quảng Trạch, Tuyên Hóa, Bố Trạch, Minh Hóa và thị xã Ba Đồn thuộc tỉnh Quảng Bình ngày nay. Bố Chính trước là một châu của Chiêm Thành, năm 1069 sau trận chiến với Đại Việt, vua Chăm là Chế Củ bị Lý Thánh Tông bắt đem về Thăng Long. Để được tha về nước, vua Chế Củ đã dâng 3 châu phía bắc Chăm Pa cho Đại Việt và Bố Chính là một trong số 3 châu đó. Đến thời nhà Lê chia làm hai châu là Bắc Bố Chính và Nam Bố Chính, lấy sông Gianh làm ranh giới hai châu.
Bố Chính là một trong 3 vùng lãnh thổ mà vua Chăm dùng để trao đổi với nhà Lý cho mạng sống của chính ông.
Bố Chính trước là một châu của Chiêm Thành, năm 1069 sau trận chiến với Đại Việt, vua Chăm là Chế Củ bị Lý Thánh Tông bắt đem về Thăng Long. Để được tha về nước, vua Chế Củ đã dâng 3 châu phía bắc Chăm Pa cho Đại Việt và Bố Chính là một trong số 3 châu đó
hỗ trợ
Bố Chính trước đây là một châu của Chiêm Thành, sau khi vua Chiêm bị bắt trong trận đánh với Đại Việt năm 1069, ông đã dâng lên 3 châu trong đó có Bố Chính để được thả về nước.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Bố Chính trước là một châu của Chiêm Thành, năm 1069 sau trận chiến với Đại Việt, vua Chăm là Chế Củ bị Lý Thánh Tông bắt đem về Thăng Long. Để được tha về nước, vua Chế Củ đã dâng 3 châu phía bắc Chăm Pa cho Đại Việt và Bố Chính là một trong số 3 châu đó " Khẳng định: " Bố Chính là một trong 3 vùng lãnh thổ mà vua Chăm dùng để trao đổi với nhà Lý cho mạng sống của chính ông.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Bố Chính trước là một châu của Chiêm Thành, năm 1069 sau trận chiến với Đại Việt, vua Chăm là Chế Củ bị Lý Thánh Tông bắt đem về Thăng Long. Để được tha về nước, vua Chế Củ đã dâng 3 châu phía bắc Chăm Pa cho Đại Việt và Bố Chính là một trong số 3 châu đó " Khẳng định: " Bố Chính là một trong 3 vùng lãnh thổ mà vua Chăm dùng để trao đổi với nhà Lý cho mạng sống của chính ông. Giải thích: Bố Chính trước đây là một châu của Chiêm Thành, sau khi vua Chiêm bị bắt trong trận đánh với Đại Việt năm 1069, ông đã dâng lên 3 châu trong đó có Bố Chính để được thả về nước.
15
17
19
Chi Dâm bụt (tên khác: Râm bụt hay Phù dung, danh pháp khoa học: Hibiscus) là một chi lớn chứa khoảng 200-220 loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ (Malvaceae), có nguồn gốc ở khu vực ôn đới ấm, cận nhiệt đới và nhiệt đới trên khắp thế giới. Chi này bao gồm các loại cây thân thảo một năm hay lâu năm cũng như các loại cây bụi thân gỗ và cây thân gỗ nhỏ. Lá mọc so le, loại lá đơn hình trứng hay hình mũi mác, thông thường với mép lá dạng răng cưa hay dạng thùy. Hoa lớn, dễ thấy, hình kèn, với 5 cánh hoa, có màu từ trắng tới hồng, đỏ, tía hay vàng và rộng từ 4–15 cm. Quả là loại quả nang năm thùy khô, chứa vài hạt trong mỗi thùy, được giải phóng khi quả nang tách ra khi chín. Nhiều loài trong chi này được trồng do có hoa sặc sỡ cũng như làm hàng rào trong một số vườn hay công viên. Hibiscus syriacus là loài quốc hoa của Hàn Quốc, trong khi Hibiscus rosa-sinensis là loài quốc hoa của Malaysia còn Hibiscus brackenridgei là loài hoa của bang Hawai‘i. Trong khu vực ôn đới, loài được trồng làm cảnh nhiều nhất có lẽ là Hibiscus syriacus. Tại khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, Hibiscus rosa-sinensis với nhiều giống lai có hoa sặc sỡ, là loại cây cảnh phổ biến. Các loài trong chi Hibiscus bị ấu trùng của một số loài thuộc bộ Cánh vẩy (Lepidoptera) phá hoại như Hypercompe hambletoni, Discestra trifolii và Agrotis segetum. Một loài Hibiscus, gọi là dâm bụt cần sa (Hibiscus cannabinus), được sử dụng rộng rãi trong sản xuất giấy. Một loài khác, lạc thần (Hibiscus sabdariffa) được dùng làm rau ăn và trà thuốc cũng như mứt (đặc biệt chỉ ở khu vực Caribe). Tại Mexico, nước uống jamaica rất phổ biến và được làm ra từ các đài hoa của cây lạc thần. Tại Ai Cập và Sudan, các cánh hoa của lạc thần được dùng làm một loại trà được ưa thích là karkade, nó có thể uống nóng hay được làm lạnh bằng nước đá.
Đài hoa hay cánh hoa của cây lạc thần đều có thể dùng tạo ra thức uống.
Tại Mexico, nước uống jamaica rất phổ biến và được làm ra từ các đài hoa của cây lạc thần. Tại Ai Cập và Sudan, các cánh hoa của lạc thần được dùng làm một loại trà được ưa thích là karkade, nó có thể uống nóng hay được làm lạnh bằng nước đá.
hỗ trợ
Ở Mexico đài hoa của cây lạc thần dùng làm nước uống jamaica, còn ở Ai Cập và Sudan thì cánh hoa được làm trà.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Tại Mexico, nước uống jamaica rất phổ biến và được làm ra từ các đài hoa của cây lạc thần. Tại Ai Cập và Sudan, các cánh hoa của lạc thần được dùng làm một loại trà được ưa thích là karkade, nó có thể uống nóng hay được làm lạnh bằng nước đá. " Khẳng định: " Đài hoa hay cánh hoa của cây lạc thần đều có thể dùng tạo ra thức uống.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Tại Mexico, nước uống jamaica rất phổ biến và được làm ra từ các đài hoa của cây lạc thần. Tại Ai Cập và Sudan, các cánh hoa của lạc thần được dùng làm một loại trà được ưa thích là karkade, nó có thể uống nóng hay được làm lạnh bằng nước đá. " Khẳng định: " Đài hoa hay cánh hoa của cây lạc thần đều có thể dùng tạo ra thức uống. Giải thích: Ở Mexico đài hoa của cây lạc thần dùng làm nước uống jamaica, còn ở Ai Cập và Sudan thì cánh hoa được làm trà.
16
18
20
Chi Dâm bụt (tên khác: Râm bụt hay Phù dung, danh pháp khoa học: Hibiscus) là một chi lớn chứa khoảng 200-220 loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ (Malvaceae), có nguồn gốc ở khu vực ôn đới ấm, cận nhiệt đới và nhiệt đới trên khắp thế giới. Chi này bao gồm các loại cây thân thảo một năm hay lâu năm cũng như các loại cây bụi thân gỗ và cây thân gỗ nhỏ. Lá mọc so le, loại lá đơn hình trứng hay hình mũi mác, thông thường với mép lá dạng răng cưa hay dạng thùy. Hoa lớn, dễ thấy, hình kèn, với 5 cánh hoa, có màu từ trắng tới hồng, đỏ, tía hay vàng và rộng từ 4–15 cm. Quả là loại quả nang năm thùy khô, chứa vài hạt trong mỗi thùy, được giải phóng khi quả nang tách ra khi chín. Nhiều loài trong chi này được trồng do có hoa sặc sỡ cũng như làm hàng rào trong một số vườn hay công viên. Hibiscus syriacus là loài quốc hoa của Hàn Quốc, trong khi Hibiscus rosa-sinensis là loài quốc hoa của Malaysia còn Hibiscus brackenridgei là loài hoa của bang Hawai‘i. Trong khu vực ôn đới, loài được trồng làm cảnh nhiều nhất có lẽ là Hibiscus syriacus. Tại khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, Hibiscus rosa-sinensis với nhiều giống lai có hoa sặc sỡ, là loại cây cảnh phổ biến. Các loài trong chi Hibiscus bị ấu trùng của một số loài thuộc bộ Cánh vẩy (Lepidoptera) phá hoại như Hypercompe hambletoni, Discestra trifolii và Agrotis segetum. Một loài Hibiscus, gọi là dâm bụt cần sa (Hibiscus cannabinus), được sử dụng rộng rãi trong sản xuất giấy. Một loài khác, lạc thần (Hibiscus sabdariffa) được dùng làm rau ăn và trà thuốc cũng như mứt (đặc biệt chỉ ở khu vực Caribe). Tại Mexico, nước uống jamaica rất phổ biến và được làm ra từ các đài hoa của cây lạc thần. Tại Ai Cập và Sudan, các cánh hoa của lạc thần được dùng làm một loại trà được ưa thích là karkade, nó có thể uống nóng hay được làm lạnh bằng nước đá.
Hibiscus syriacus được xem là quốc hoa của đất nước Hàn Quốc nhưng hiếm khi được trồng hay tìm thấy ở khu vực ôn đới.
Hibiscus syriacus là loài quốc hoa của Hàn Quốc, trong khi Hibiscus rosa-sinensis là loài quốc hoa của Malaysia còn Hibiscus brackenridgei là loài hoa của bang Hawai‘i. Trong khu vực ôn đới, loài được trồng làm cảnh nhiều nhất có lẽ là Hibiscus syriacus.
bác bỏ
Trong vùng ôn đới thì loài Hibiscus syriacus được trồng để làm cảnh nhiều nhất.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hibiscus syriacus là loài quốc hoa của Hàn Quốc, trong khi Hibiscus rosa-sinensis là loài quốc hoa của Malaysia còn Hibiscus brackenridgei là loài hoa của bang Hawai‘i. Trong khu vực ôn đới, loài được trồng làm cảnh nhiều nhất có lẽ là Hibiscus syriacus. " Khẳng định: " Hibiscus syriacus được xem là quốc hoa của đất nước Hàn Quốc nhưng hiếm khi được trồng hay tìm thấy ở khu vực ôn đới.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hibiscus syriacus là loài quốc hoa của Hàn Quốc, trong khi Hibiscus rosa-sinensis là loài quốc hoa của Malaysia còn Hibiscus brackenridgei là loài hoa của bang Hawai‘i. Trong khu vực ôn đới, loài được trồng làm cảnh nhiều nhất có lẽ là Hibiscus syriacus. " Khẳng định: " Hibiscus syriacus được xem là quốc hoa của đất nước Hàn Quốc nhưng hiếm khi được trồng hay tìm thấy ở khu vực ôn đới. Giải thích: Trong vùng ôn đới thì loài Hibiscus syriacus được trồng để làm cảnh nhiều nhất.
17
19
21
Chi Dâm bụt (tên khác: Râm bụt hay Phù dung, danh pháp khoa học: Hibiscus) là một chi lớn chứa khoảng 200-220 loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ (Malvaceae), có nguồn gốc ở khu vực ôn đới ấm, cận nhiệt đới và nhiệt đới trên khắp thế giới. Chi này bao gồm các loại cây thân thảo một năm hay lâu năm cũng như các loại cây bụi thân gỗ và cây thân gỗ nhỏ. Lá mọc so le, loại lá đơn hình trứng hay hình mũi mác, thông thường với mép lá dạng răng cưa hay dạng thùy. Hoa lớn, dễ thấy, hình kèn, với 5 cánh hoa, có màu từ trắng tới hồng, đỏ, tía hay vàng và rộng từ 4–15 cm. Quả là loại quả nang năm thùy khô, chứa vài hạt trong mỗi thùy, được giải phóng khi quả nang tách ra khi chín. Nhiều loài trong chi này được trồng do có hoa sặc sỡ cũng như làm hàng rào trong một số vườn hay công viên. Hibiscus syriacus là loài quốc hoa của Hàn Quốc, trong khi Hibiscus rosa-sinensis là loài quốc hoa của Malaysia còn Hibiscus brackenridgei là loài hoa của bang Hawai‘i. Trong khu vực ôn đới, loài được trồng làm cảnh nhiều nhất có lẽ là Hibiscus syriacus. Tại khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, Hibiscus rosa-sinensis với nhiều giống lai có hoa sặc sỡ, là loại cây cảnh phổ biến. Các loài trong chi Hibiscus bị ấu trùng của một số loài thuộc bộ Cánh vẩy (Lepidoptera) phá hoại như Hypercompe hambletoni, Discestra trifolii và Agrotis segetum. Một loài Hibiscus, gọi là dâm bụt cần sa (Hibiscus cannabinus), được sử dụng rộng rãi trong sản xuất giấy. Một loài khác, lạc thần (Hibiscus sabdariffa) được dùng làm rau ăn và trà thuốc cũng như mứt (đặc biệt chỉ ở khu vực Caribe). Tại Mexico, nước uống jamaica rất phổ biến và được làm ra từ các đài hoa của cây lạc thần. Tại Ai Cập và Sudan, các cánh hoa của lạc thần được dùng làm một loại trà được ưa thích là karkade, nó có thể uống nóng hay được làm lạnh bằng nước đá.
Các loài trong chi Hibiscus bị côn trùng phá hoại, dâm bụt cần sa hay lạc thần đều xuất hiện rộng rãi ở khu vực Caribe.
Các loài trong chi Hibiscus bị ấu trùng của một số loài thuộc bộ Cánh vẩy (Lepidoptera) phá hoại như Hypercompe hambletoni, Discestra trifolii và Agrotis segetum. Một loài Hibiscus, gọi là dâm bụt cần sa (Hibiscus cannabinus), được sử dụng rộng rãi trong
không có thông tin
Các loài trong chi Hibiscus bị ấu trùng phá hoại hay dâm bụt cần sa không có thông tin cụ thể về nơi xuất hiện, riêng lạc thần được dùng làm rau hay trà thuốc thì xuất hiện ở khu vực Caribe.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Các loài trong chi Hibiscus bị ấu trùng của một số loài thuộc bộ Cánh vẩy (Lepidoptera) phá hoại như Hypercompe hambletoni, Discestra trifolii và Agrotis segetum. Một loài Hibiscus, gọi là dâm bụt cần sa (Hibiscus cannabinus), được sử dụng rộng rãi trong " Khẳng định: " Các loài trong chi Hibiscus bị côn trùng phá hoại, dâm bụt cần sa hay lạc thần đều xuất hiện rộng rãi ở khu vực Caribe.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Các loài trong chi Hibiscus bị ấu trùng của một số loài thuộc bộ Cánh vẩy (Lepidoptera) phá hoại như Hypercompe hambletoni, Discestra trifolii và Agrotis segetum. Một loài Hibiscus, gọi là dâm bụt cần sa (Hibiscus cannabinus), được sử dụng rộng rãi trong " Khẳng định: " Các loài trong chi Hibiscus bị côn trùng phá hoại, dâm bụt cần sa hay lạc thần đều xuất hiện rộng rãi ở khu vực Caribe. Giải thích: Các loài trong chi Hibiscus bị ấu trùng phá hoại hay dâm bụt cần sa không có thông tin cụ thể về nơi xuất hiện, riêng lạc thần được dùng làm rau hay trà thuốc thì xuất hiện ở khu vực Caribe.
18
20
22
Chi Galanthus hay có tên thông thường là Hoa tuyết hay hoa tuyết điểm (tiếng Pháp: perce-neige), còn gọi là hoa giọt tuyết, hoa xuyên tuyết (tiếng Anh là Snowdrop, trong tiếng Hy Lạp gála có nghĩa là "sữa", ánthos có nghĩa là "hoa"). Đây là một chi nhỏ bao gồm khoảng 20 loài thuộc dạng cây thân thảo, có hành củ, trong họ Amaryllidaceae, phân họ Amaryllidoideae. Hầu hết các cây trong loài hoa nhỏ này có màu trắng và hương thơm, nở hoa vào mùa đông, thường trước Xuân phân (20 hay 21 Tháng Ba ở Bắc Bán cầu), tuy nhiên cũng có một số loài nở hoa vào đầu mùa xuân hay cuối mùa thu. Sinh thành trong mùa băng tuyết đang sắp sửa tan và là một trong các dấu hiệu báo xuân về, hoa xuyên tuyết ở phương Tây là biểu tượng của niềm an ủi và hy vọng. Hoa tuyết điểm thường dễ bị nhầm lẫn với một loài hoa cùng họ hàng là hoa chuông (hoa linh lang hay snowflakes), loài hoa này là Leucojum hay loài họ hàng xa hơn Acis. Tất cả các loài của chi Galanthus đều là cạy thân thảo lâu năm, phát triển từ thân hành. Từ mỗi thân hành sẽ mọc ra từ hai đến ba lá mọc dọc theo thân. Trên đĩnh của các cành mọc trực tiếp từ thân hành là các cành mang hoa, hoa mọc đơn độc, có màu trắng rủ xuống hình chuông. Hoa không có lá đài, nó bao gồm sáu tràng hoa, bên ngoài lớn hơn và lồi hơn so với các tràng xếp bên trong. Sáu bao phấn mở lỗ hay khe hở ngắn. Bầu nhuỵ xẻ ba, chia thành ba nang bào. Mỗi hạt màu trắng có một cái đuôi nhỏ, nhiều thịt (elaiosome) có chứa các chất hấp dẫn kiến phân phối hạt. Các lá héo sau một vài tuần sau khi hoa đã rụng.
Hoa tuyết điểm còn có tên gọi khác là hoa chuông, là biểu tượng cho mùa xuân sắp đến.
Sinh thành trong mùa băng tuyết đang sắp sửa tan và là một trong các dấu hiệu báo xuân về, hoa xuyên tuyết ở phương Tây là biểu tượng của niềm an ủi và hy vọng. Hoa tuyết điểm thường dễ bị nhầm lẫn với một loài hoa cùng họ hàng là hoa chuông (hoa linh lan
bác bỏ
Hoa xuyên tuyết là một trong các dấu hiệu cho thấy mùa xuân sắp về, hoa tuyết điểm còn thường dễ bị nhầm với một loài hoa cùng họ là hoa chuông.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Sinh thành trong mùa băng tuyết đang sắp sửa tan và là một trong các dấu hiệu báo xuân về, hoa xuyên tuyết ở phương Tây là biểu tượng của niềm an ủi và hy vọng. Hoa tuyết điểm thường dễ bị nhầm lẫn với một loài hoa cùng họ hàng là hoa chuông (hoa linh lan " Khẳng định: " Hoa tuyết điểm còn có tên gọi khác là hoa chuông, là biểu tượng cho mùa xuân sắp đến.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Sinh thành trong mùa băng tuyết đang sắp sửa tan và là một trong các dấu hiệu báo xuân về, hoa xuyên tuyết ở phương Tây là biểu tượng của niềm an ủi và hy vọng. Hoa tuyết điểm thường dễ bị nhầm lẫn với một loài hoa cùng họ hàng là hoa chuông (hoa linh lan " Khẳng định: " Hoa tuyết điểm còn có tên gọi khác là hoa chuông, là biểu tượng cho mùa xuân sắp đến. Giải thích: Hoa xuyên tuyết là một trong các dấu hiệu cho thấy mùa xuân sắp về, hoa tuyết điểm còn thường dễ bị nhầm với một loài hoa cùng họ là hoa chuông.
19
21
23
Chi Galanthus hay có tên thông thường là Hoa tuyết hay hoa tuyết điểm (tiếng Pháp: perce-neige), còn gọi là hoa giọt tuyết, hoa xuyên tuyết (tiếng Anh là Snowdrop, trong tiếng Hy Lạp gála có nghĩa là "sữa", ánthos có nghĩa là "hoa"). Đây là một chi nhỏ bao gồm khoảng 20 loài thuộc dạng cây thân thảo, có hành củ, trong họ Amaryllidaceae, phân họ Amaryllidoideae. Hầu hết các cây trong loài hoa nhỏ này có màu trắng và hương thơm, nở hoa vào mùa đông, thường trước Xuân phân (20 hay 21 Tháng Ba ở Bắc Bán cầu), tuy nhiên cũng có một số loài nở hoa vào đầu mùa xuân hay cuối mùa thu. Sinh thành trong mùa băng tuyết đang sắp sửa tan và là một trong các dấu hiệu báo xuân về, hoa xuyên tuyết ở phương Tây là biểu tượng của niềm an ủi và hy vọng. Hoa tuyết điểm thường dễ bị nhầm lẫn với một loài hoa cùng họ hàng là hoa chuông (hoa linh lang hay snowflakes), loài hoa này là Leucojum hay loài họ hàng xa hơn Acis. Tất cả các loài của chi Galanthus đều là cạy thân thảo lâu năm, phát triển từ thân hành. Từ mỗi thân hành sẽ mọc ra từ hai đến ba lá mọc dọc theo thân. Trên đĩnh của các cành mọc trực tiếp từ thân hành là các cành mang hoa, hoa mọc đơn độc, có màu trắng rủ xuống hình chuông. Hoa không có lá đài, nó bao gồm sáu tràng hoa, bên ngoài lớn hơn và lồi hơn so với các tràng xếp bên trong. Sáu bao phấn mở lỗ hay khe hở ngắn. Bầu nhuỵ xẻ ba, chia thành ba nang bào. Mỗi hạt màu trắng có một cái đuôi nhỏ, nhiều thịt (elaiosome) có chứa các chất hấp dẫn kiến phân phối hạt. Các lá héo sau một vài tuần sau khi hoa đã rụng.
Hoa xuyên tuyết có mùi thơm và màu trắng, là biểu tượng cho mùa xuân sắp về nhưng cũng có một số loài lại nở vào giai đoạn cuối thu.
Hầu hết các cây trong loài hoa nhỏ này có màu trắng và hương thơm, nở hoa vào mùa đông, thường trước Xuân phân (20 hay 21 Tháng Ba ở Bắc Bán cầu), tuy nhiên cũng có một số loài nở hoa vào đầu mùa xuân hay cuối mùa thu. Sinh thành trong mùa băng tuyết đang
hỗ trợ
Hầu hết các cây trong loài hoa xuyên tuyết có màu trắng và hương thơm, hoa nở vào mùa đông nhưng cũng có một vài loại nở vào đầu xuân hay cuối thu, vì sinh trưởng trong thời điểm băng sắp tan nên nó cũng là một dấu hiệu cho thấy mùa xuân sắp về.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hầu hết các cây trong loài hoa nhỏ này có màu trắng và hương thơm, nở hoa vào mùa đông, thường trước Xuân phân (20 hay 21 Tháng Ba ở Bắc Bán cầu), tuy nhiên cũng có một số loài nở hoa vào đầu mùa xuân hay cuối mùa thu. Sinh thành trong mùa băng tuyết đang " Khẳng định: " Hoa xuyên tuyết có mùi thơm và màu trắng, là biểu tượng cho mùa xuân sắp về nhưng cũng có một số loài lại nở vào giai đoạn cuối thu.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hầu hết các cây trong loài hoa nhỏ này có màu trắng và hương thơm, nở hoa vào mùa đông, thường trước Xuân phân (20 hay 21 Tháng Ba ở Bắc Bán cầu), tuy nhiên cũng có một số loài nở hoa vào đầu mùa xuân hay cuối mùa thu. Sinh thành trong mùa băng tuyết đang " Khẳng định: " Hoa xuyên tuyết có mùi thơm và màu trắng, là biểu tượng cho mùa xuân sắp về nhưng cũng có một số loài lại nở vào giai đoạn cuối thu. Giải thích: Hầu hết các cây trong loài hoa xuyên tuyết có màu trắng và hương thơm, hoa nở vào mùa đông nhưng cũng có một vài loại nở vào đầu xuân hay cuối thu, vì sinh trưởng trong thời điểm băng sắp tan nên nó cũng là một dấu hiệu cho thấy mùa xuân sắp về.
20
22
24
Chi Galanthus hay có tên thông thường là Hoa tuyết hay hoa tuyết điểm (tiếng Pháp: perce-neige), còn gọi là hoa giọt tuyết, hoa xuyên tuyết (tiếng Anh là Snowdrop, trong tiếng Hy Lạp gála có nghĩa là "sữa", ánthos có nghĩa là "hoa"). Đây là một chi nhỏ bao gồm khoảng 20 loài thuộc dạng cây thân thảo, có hành củ, trong họ Amaryllidaceae, phân họ Amaryllidoideae. Hầu hết các cây trong loài hoa nhỏ này có màu trắng và hương thơm, nở hoa vào mùa đông, thường trước Xuân phân (20 hay 21 Tháng Ba ở Bắc Bán cầu), tuy nhiên cũng có một số loài nở hoa vào đầu mùa xuân hay cuối mùa thu. Sinh thành trong mùa băng tuyết đang sắp sửa tan và là một trong các dấu hiệu báo xuân về, hoa xuyên tuyết ở phương Tây là biểu tượng của niềm an ủi và hy vọng. Hoa tuyết điểm thường dễ bị nhầm lẫn với một loài hoa cùng họ hàng là hoa chuông (hoa linh lang hay snowflakes), loài hoa này là Leucojum hay loài họ hàng xa hơn Acis. Tất cả các loài của chi Galanthus đều là cạy thân thảo lâu năm, phát triển từ thân hành. Từ mỗi thân hành sẽ mọc ra từ hai đến ba lá mọc dọc theo thân. Trên đĩnh của các cành mọc trực tiếp từ thân hành là các cành mang hoa, hoa mọc đơn độc, có màu trắng rủ xuống hình chuông. Hoa không có lá đài, nó bao gồm sáu tràng hoa, bên ngoài lớn hơn và lồi hơn so với các tràng xếp bên trong. Sáu bao phấn mở lỗ hay khe hở ngắn. Bầu nhuỵ xẻ ba, chia thành ba nang bào. Mỗi hạt màu trắng có một cái đuôi nhỏ, nhiều thịt (elaiosome) có chứa các chất hấp dẫn kiến phân phối hạt. Các lá héo sau một vài tuần sau khi hoa đã rụng.
Hoa tuyết được người Hy Lạp gọi là sữa vì thân và củ của nó có mùi thơm như sữa bò hay dê.
Chi Galanthus hay có tên thông thường là Hoa tuyết hay hoa tuyết điểm (tiếng Pháp: perce-neige), còn gọi là hoa giọt tuyết, hoa xuyên tuyết (tiếng Anh là Snowdrop, trong tiếng Hy Lạp gála có nghĩa là "sữa", ánthos có nghĩa là "hoa"). Đây là một chi nhỏ ba
không có thông tin
Hoa tuyết thuộc chi Galantus trong tiếng Hy Lạp thì gála có nghĩa là "sữa", tuy nhiên không có bằng chứng cho thấy người Hy Lạp gọi là "sữa" do có liên quan đến mùi thơm của thân hay củ.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chi Galanthus hay có tên thông thường là Hoa tuyết hay hoa tuyết điểm (tiếng Pháp: perce-neige), còn gọi là hoa giọt tuyết, hoa xuyên tuyết (tiếng Anh là Snowdrop, trong tiếng Hy Lạp gála có nghĩa là "sữa", ánthos có nghĩa là "hoa"). Đây là một chi nhỏ ba " Khẳng định: " Hoa tuyết được người Hy Lạp gọi là sữa vì thân và củ của nó có mùi thơm như sữa bò hay dê.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chi Galanthus hay có tên thông thường là Hoa tuyết hay hoa tuyết điểm (tiếng Pháp: perce-neige), còn gọi là hoa giọt tuyết, hoa xuyên tuyết (tiếng Anh là Snowdrop, trong tiếng Hy Lạp gála có nghĩa là "sữa", ánthos có nghĩa là "hoa"). Đây là một chi nhỏ ba " Khẳng định: " Hoa tuyết được người Hy Lạp gọi là sữa vì thân và củ của nó có mùi thơm như sữa bò hay dê. Giải thích: Hoa tuyết thuộc chi Galantus trong tiếng Hy Lạp thì gála có nghĩa là "sữa", tuy nhiên không có bằng chứng cho thấy người Hy Lạp gọi là "sữa" do có liên quan đến mùi thơm của thân hay củ.
21
23
25
Chi Hoa giấy hay chi Bông giấy (danh pháp khoa học: Bougainvillea) là một chi trong thực vật có hoa bản địa khu vực Nam Mỹ, từ Brasil về phía tây tới Peru và về phía nam tới miền nam Argentina (tỉnh Chubut). Các tác giả khác nhau công nhận từ 4 tới 18 loài trong chi. Tên gọi khoa học của chi xuất phát từ Louis Antoine de Bougainville, đô đốc của Hải quân Pháp, một trong số những người đã bắt gặp nó tại Brasil năm 1768. Các loài trong chi này là các loại dây leo dạng gỗ, cây bụi hay cây thân gỗ có gai. Các loài dây leo mọc cao tới 1–12 m, bò trên các loài cây khác bằng các gai có móc. Các gai có mũi nhọn chứa chất dạng sáp màu đen dễ dàng để lại trong thịt của các nạn nhân không ngờ vực. Chúng luôn xanh tươi khi lượng mưa dồi dào quanh năm, nhưng lại là sớm rụng lá nếu sống trong môi trường có mùa khô. Các lá mọc so le, lá đơn hình trứng nhọn mũi, dài 4–13 cm và rộng 2–6 cm. Hoa thật sự của chúng nhỏ và nói chung có màu trắng, nhưng mỗi cụm 3 hoa được bao quanh bằng 3 hay 6 lá bắc với màu rực rỡ gắn liền với nhóm thực vật này, bao gồm các màu hồng, tím, tía, đỏ, cam, trắng hay vàng. Bougainvillea glabra đôi khi được gọi là "hoa giấy" do các lá bắc của nó mỏng và giống như giấy. Quả là dạng quả bế hẹp, 5 thùy. Bougainvillea tương đối ít bị sâu bệnh, nhưng có thể bị tổn thương từ các loài giun và rệp. Ấu trùng của một số loài cánh vẩy cũng phá hoại chúng, chẳn hạn như Hypercompe scribonia.
Dù lá của Bougainvillea mỏng manh như những tờ giấy nhưng chúng có sức chống chịu sâu bệnh khá tốt do có một loại chất chứa trong cây giúp xua đuổi hầu hết các loài sâu bọ, ngoại trừ một số loài rệp hay ấu trùng của các loài cánh vẩy.
Bougainvillea glabra đôi khi được gọi là "hoa giấy" do các lá bắc của nó mỏng và giống như giấy. Bougainvillea tương đối ít bị sâu bệnh, nhưng có thể bị tổn thương từ các loài giun và rệp. Ấu trùng của một số loài cánh vẩy cũng phá hoại chúng, chẳn hạn nh
không có thông tin
Bougainvillea được gọi là hoa giấy vì cánh của chúng mỏng như giấy, tương đối ít bị sâu bệnh trừ vài loài giun, rệp, hay ấu trùng loài cánh vẩy, tuy nhiên không có thông tin cụ thể cho thấy trong cây có một loại chất gì để xua đuổi sâu bọ.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Bougainvillea glabra đôi khi được gọi là "hoa giấy" do các lá bắc của nó mỏng và giống như giấy. Bougainvillea tương đối ít bị sâu bệnh, nhưng có thể bị tổn thương từ các loài giun và rệp. Ấu trùng của một số loài cánh vẩy cũng phá hoại chúng, chẳn hạn nh " Khẳng định: " Dù lá của Bougainvillea mỏng manh như những tờ giấy nhưng chúng có sức chống chịu sâu bệnh khá tốt do có một loại chất chứa trong cây giúp xua đuổi hầu hết các loài sâu bọ, ngoại trừ một số loài rệp hay ấu trùng của các loài cánh vẩy.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Bougainvillea glabra đôi khi được gọi là "hoa giấy" do các lá bắc của nó mỏng và giống như giấy. Bougainvillea tương đối ít bị sâu bệnh, nhưng có thể bị tổn thương từ các loài giun và rệp. Ấu trùng của một số loài cánh vẩy cũng phá hoại chúng, chẳn hạn nh " Khẳng định: " Dù lá của Bougainvillea mỏng manh như những tờ giấy nhưng chúng có sức chống chịu sâu bệnh khá tốt do có một loại chất chứa trong cây giúp xua đuổi hầu hết các loài sâu bọ, ngoại trừ một số loài rệp hay ấu trùng của các loài cánh vẩy. Giải thích: Bougainvillea được gọi là hoa giấy vì cánh của chúng mỏng như giấy, tương đối ít bị sâu bệnh trừ vài loài giun, rệp, hay ấu trùng loài cánh vẩy, tuy nhiên không có thông tin cụ thể cho thấy trong cây có một loại chất gì để xua đuổi sâu bọ.
22
24
26
Chi Hoa giấy hay chi Bông giấy (danh pháp khoa học: Bougainvillea) là một chi trong thực vật có hoa bản địa khu vực Nam Mỹ, từ Brasil về phía tây tới Peru và về phía nam tới miền nam Argentina (tỉnh Chubut). Các tác giả khác nhau công nhận từ 4 tới 18 loài trong chi. Tên gọi khoa học của chi xuất phát từ Louis Antoine de Bougainville, đô đốc của Hải quân Pháp, một trong số những người đã bắt gặp nó tại Brasil năm 1768. Các loài trong chi này là các loại dây leo dạng gỗ, cây bụi hay cây thân gỗ có gai. Các loài dây leo mọc cao tới 1–12 m, bò trên các loài cây khác bằng các gai có móc. Các gai có mũi nhọn chứa chất dạng sáp màu đen dễ dàng để lại trong thịt của các nạn nhân không ngờ vực. Chúng luôn xanh tươi khi lượng mưa dồi dào quanh năm, nhưng lại là sớm rụng lá nếu sống trong môi trường có mùa khô. Các lá mọc so le, lá đơn hình trứng nhọn mũi, dài 4–13 cm và rộng 2–6 cm. Hoa thật sự của chúng nhỏ và nói chung có màu trắng, nhưng mỗi cụm 3 hoa được bao quanh bằng 3 hay 6 lá bắc với màu rực rỡ gắn liền với nhóm thực vật này, bao gồm các màu hồng, tím, tía, đỏ, cam, trắng hay vàng. Bougainvillea glabra đôi khi được gọi là "hoa giấy" do các lá bắc của nó mỏng và giống như giấy. Quả là dạng quả bế hẹp, 5 thùy. Bougainvillea tương đối ít bị sâu bệnh, nhưng có thể bị tổn thương từ các loài giun và rệp. Ấu trùng của một số loài cánh vẩy cũng phá hoại chúng, chẳn hạn như Hypercompe scribonia.
Bông giấy được công nhận tới hơn 20 loài, có tên khoa học xuất phát từ một vị đô đốc của Hải quân Hoa Kỳ.
Chi Hoa giấy hay chi Bông giấy (danh pháp khoa học: Bougainvillea) là một chi trong thực vật có hoa bản địa khu vực Nam Mỹ, từ Brasil về phía tây tới Peru và về phía nam tới miền nam Argentina (tỉnh Chubut). Các tác giả khác nhau công nhận từ 4 tới 18 loà
bác bỏ
Chi hoa giấy được nhiều tác giả công nhận chỉ từ 4 đến 18 loài trong chi, không phải 20, bên cạnh đó tên gọi khoa học của chi là đến từ Louis Antoine de Bougainville, một vị đô đốc hải quân người Pháp, không phải Hoa Kỳ, bắt gặp nó tại Brasil năm 1768.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chi Hoa giấy hay chi Bông giấy (danh pháp khoa học: Bougainvillea) là một chi trong thực vật có hoa bản địa khu vực Nam Mỹ, từ Brasil về phía tây tới Peru và về phía nam tới miền nam Argentina (tỉnh Chubut). Các tác giả khác nhau công nhận từ 4 tới 18 loà " Khẳng định: " Bông giấy được công nhận tới hơn 20 loài, có tên khoa học xuất phát từ một vị đô đốc của Hải quân Hoa Kỳ.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chi Hoa giấy hay chi Bông giấy (danh pháp khoa học: Bougainvillea) là một chi trong thực vật có hoa bản địa khu vực Nam Mỹ, từ Brasil về phía tây tới Peru và về phía nam tới miền nam Argentina (tỉnh Chubut). Các tác giả khác nhau công nhận từ 4 tới 18 loà " Khẳng định: " Bông giấy được công nhận tới hơn 20 loài, có tên khoa học xuất phát từ một vị đô đốc của Hải quân Hoa Kỳ. Giải thích: Chi hoa giấy được nhiều tác giả công nhận chỉ từ 4 đến 18 loài trong chi, không phải 20, bên cạnh đó tên gọi khoa học của chi là đến từ Louis Antoine de Bougainville, một vị đô đốc hải quân người Pháp, không phải Hoa Kỳ, bắt gặp nó tại Brasil năm 1768.
23
25
27
Chi Hoa giấy hay chi Bông giấy (danh pháp khoa học: Bougainvillea) là một chi trong thực vật có hoa bản địa khu vực Nam Mỹ, từ Brasil về phía tây tới Peru và về phía nam tới miền nam Argentina (tỉnh Chubut). Các tác giả khác nhau công nhận từ 4 tới 18 loài trong chi. Tên gọi khoa học của chi xuất phát từ Louis Antoine de Bougainville, đô đốc của Hải quân Pháp, một trong số những người đã bắt gặp nó tại Brasil năm 1768. Các loài trong chi này là các loại dây leo dạng gỗ, cây bụi hay cây thân gỗ có gai. Các loài dây leo mọc cao tới 1–12 m, bò trên các loài cây khác bằng các gai có móc. Các gai có mũi nhọn chứa chất dạng sáp màu đen dễ dàng để lại trong thịt của các nạn nhân không ngờ vực. Chúng luôn xanh tươi khi lượng mưa dồi dào quanh năm, nhưng lại là sớm rụng lá nếu sống trong môi trường có mùa khô. Các lá mọc so le, lá đơn hình trứng nhọn mũi, dài 4–13 cm và rộng 2–6 cm. Hoa thật sự của chúng nhỏ và nói chung có màu trắng, nhưng mỗi cụm 3 hoa được bao quanh bằng 3 hay 6 lá bắc với màu rực rỡ gắn liền với nhóm thực vật này, bao gồm các màu hồng, tím, tía, đỏ, cam, trắng hay vàng. Bougainvillea glabra đôi khi được gọi là "hoa giấy" do các lá bắc của nó mỏng và giống như giấy. Quả là dạng quả bế hẹp, 5 thùy. Bougainvillea tương đối ít bị sâu bệnh, nhưng có thể bị tổn thương từ các loài giun và rệp. Ấu trùng của một số loài cánh vẩy cũng phá hoại chúng, chẳn hạn như Hypercompe scribonia.
Chi Bông giấy có các loài thân leo cao nhiều dạng cũng như có các gai với chất sáp đen để bám vào thịt của nhiều loài cây khác.
Chi Hoa giấy hay chi Bông giấy (danh pháp khoa học: Bougainvillea) là một chi trong thực vật có hoa bản địa khu vực Nam Mỹ, từ Brasil về phía tây tới Peru và về phía nam tới miền nam Argentina (tỉnh Chubut). Các loài trong chi này là các loại dây leo dạn
hỗ trợ
Chi hoa giấy hay chi Bông giấy có các loài là các loại dây leo dạng gỗ hay bụi hay cây thân gỗ gai, các loại dây leo cao từ 1 đến 12 m, các gai của chúng có mũi nhọn chứa chất sáp màu đen dễ dàng để lại trong thịt của nạn nhân.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chi Hoa giấy hay chi Bông giấy (danh pháp khoa học: Bougainvillea) là một chi trong thực vật có hoa bản địa khu vực Nam Mỹ, từ Brasil về phía tây tới Peru và về phía nam tới miền nam Argentina (tỉnh Chubut). Các loài trong chi này là các loại dây leo dạn " Khẳng định: " Chi Bông giấy có các loài thân leo cao nhiều dạng cũng như có các gai với chất sáp đen để bám vào thịt của nhiều loài cây khác.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chi Hoa giấy hay chi Bông giấy (danh pháp khoa học: Bougainvillea) là một chi trong thực vật có hoa bản địa khu vực Nam Mỹ, từ Brasil về phía tây tới Peru và về phía nam tới miền nam Argentina (tỉnh Chubut). Các loài trong chi này là các loại dây leo dạn " Khẳng định: " Chi Bông giấy có các loài thân leo cao nhiều dạng cũng như có các gai với chất sáp đen để bám vào thịt của nhiều loài cây khác. Giải thích: Chi hoa giấy hay chi Bông giấy có các loài là các loại dây leo dạng gỗ hay bụi hay cây thân gỗ gai, các loại dây leo cao từ 1 đến 12 m, các gai của chúng có mũi nhọn chứa chất sáp màu đen dễ dàng để lại trong thịt của nạn nhân.
24
26
28
Chi Lay ơn hay Chi Lay dơn, Dơn (danh pháp khoa học: Gladiolus) là một chi hoa trưng biện khá phổ thông tại nhiều nước, được phương Tây đem sang phổ biến tại Việt Nam. Thân dài như cây kiếm nhỏ, có hoa (nhiều màu nhưng thường là màu đỏ hay hồng) nở dọc theo thân cây. Chi này có khoảng 260 loài, phần lớn xuất phát từ châu Phi (163 loài từ Nam Phi). Các chi Oenostachys, Homoglossum, Anomalesia và Acidanthera, theo truyền thống coi là các chi độc lập, hiện tại được gộp trong chi Gladiolus. Chi Lay ơn có khoảng 260 loài, trong đó 250 loài có nguồn gốc từ vùng châu Phi hạ Sahara, phần lớn xuất xứ từ Nam Phi. Khoảng 10 loài có xuất xứ Âu-Á. Có 160 loài lay ơn đặc hữu của Nam Phi và 76 loài ở vùng nhiệt đới châu Phi. Các loài đa dạng, từ kích thước rất nhỏ đến khổng lồ, thường thấy trong thương mại.
Hoa Lay ơn được dùng trong việc trang trí ở nhiều quốc gia với màu hoa đỏ, đa dạng về chủng loài.
Chi Lay ơn hay Chi Lay dơn, Dơn (danh pháp khoa học: Gladiolus) là một chi hoa trưng biện khá phổ thông tại nhiều nước, được phương Tây đem sang phổ biến tại Việt Nam. Thân dài như cây kiếm nhỏ, có hoa (nhiều màu nhưng thường là màu đỏ hay hồng) nở dọc th
hỗ trợ
Chi Lay ơn là loài hoa dùng để trưng bày ở nhiều nước, thân của chúng dài như cây kiếm, hoa có nhiều màu nhưng thường đỏ hay hồng, chi này có khoảng 260 loài đa số xuất phát từ châu Phi.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chi Lay ơn hay Chi Lay dơn, Dơn (danh pháp khoa học: Gladiolus) là một chi hoa trưng biện khá phổ thông tại nhiều nước, được phương Tây đem sang phổ biến tại Việt Nam. Thân dài như cây kiếm nhỏ, có hoa (nhiều màu nhưng thường là màu đỏ hay hồng) nở dọc th " Khẳng định: " Hoa Lay ơn được dùng trong việc trang trí ở nhiều quốc gia với màu hoa đỏ, đa dạng về chủng loài.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chi Lay ơn hay Chi Lay dơn, Dơn (danh pháp khoa học: Gladiolus) là một chi hoa trưng biện khá phổ thông tại nhiều nước, được phương Tây đem sang phổ biến tại Việt Nam. Thân dài như cây kiếm nhỏ, có hoa (nhiều màu nhưng thường là màu đỏ hay hồng) nở dọc th " Khẳng định: " Hoa Lay ơn được dùng trong việc trang trí ở nhiều quốc gia với màu hoa đỏ, đa dạng về chủng loài. Giải thích: Chi Lay ơn là loài hoa dùng để trưng bày ở nhiều nước, thân của chúng dài như cây kiếm, hoa có nhiều màu nhưng thường đỏ hay hồng, chi này có khoảng 260 loài đa số xuất phát từ châu Phi.
25
27
29
Chi Lay ơn hay Chi Lay dơn, Dơn (danh pháp khoa học: Gladiolus) là một chi hoa trưng biện khá phổ thông tại nhiều nước, được phương Tây đem sang phổ biến tại Việt Nam. Thân dài như cây kiếm nhỏ, có hoa (nhiều màu nhưng thường là màu đỏ hay hồng) nở dọc theo thân cây. Chi này có khoảng 260 loài, phần lớn xuất phát từ châu Phi (163 loài từ Nam Phi). Các chi Oenostachys, Homoglossum, Anomalesia và Acidanthera, theo truyền thống coi là các chi độc lập, hiện tại được gộp trong chi Gladiolus. Chi Lay ơn có khoảng 260 loài, trong đó 250 loài có nguồn gốc từ vùng châu Phi hạ Sahara, phần lớn xuất xứ từ Nam Phi. Khoảng 10 loài có xuất xứ Âu-Á. Có 160 loài lay ơn đặc hữu của Nam Phi và 76 loài ở vùng nhiệt đới châu Phi. Các loài đa dạng, từ kích thước rất nhỏ đến khổng lồ, thường thấy trong thương mại.
Dù đa dạng trong chủng loài với 260 loài, có hẳn 10 loài từ châu Á, châu Âu nhưng vì kích thước quá nhỏ nên người ta bỏ qua chúng trong lĩnh vực buôn bán.
Chi Lay ơn có khoảng 260 loài, trong đó 250 loài có nguồn gốc từ vùng châu Phi hạ Sahara, phần lớn xuất xứ từ Nam Phi. Khoảng 10 loài có xuất xứ Âu-Á. Các loài đa dạng, từ kích thước rất nhỏ đến khổng lồ, thường thấy trong thương mại.
bác bỏ
Các chi lay ơn có kích thước từ nhỏ đến lớn và được tìm thấy phổ biến trong thương mại.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chi Lay ơn có khoảng 260 loài, trong đó 250 loài có nguồn gốc từ vùng châu Phi hạ Sahara, phần lớn xuất xứ từ Nam Phi. Khoảng 10 loài có xuất xứ Âu-Á. Các loài đa dạng, từ kích thước rất nhỏ đến khổng lồ, thường thấy trong thương mại. " Khẳng định: " Dù đa dạng trong chủng loài với 260 loài, có hẳn 10 loài từ châu Á, châu Âu nhưng vì kích thước quá nhỏ nên người ta bỏ qua chúng trong lĩnh vực buôn bán.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chi Lay ơn có khoảng 260 loài, trong đó 250 loài có nguồn gốc từ vùng châu Phi hạ Sahara, phần lớn xuất xứ từ Nam Phi. Khoảng 10 loài có xuất xứ Âu-Á. Các loài đa dạng, từ kích thước rất nhỏ đến khổng lồ, thường thấy trong thương mại. " Khẳng định: " Dù đa dạng trong chủng loài với 260 loài, có hẳn 10 loài từ châu Á, châu Âu nhưng vì kích thước quá nhỏ nên người ta bỏ qua chúng trong lĩnh vực buôn bán. Giải thích: Các chi lay ơn có kích thước từ nhỏ đến lớn và được tìm thấy phổ biến trong thương mại.
26
28
30
Chi Lay ơn hay Chi Lay dơn, Dơn (danh pháp khoa học: Gladiolus) là một chi hoa trưng biện khá phổ thông tại nhiều nước, được phương Tây đem sang phổ biến tại Việt Nam. Thân dài như cây kiếm nhỏ, có hoa (nhiều màu nhưng thường là màu đỏ hay hồng) nở dọc theo thân cây. Chi này có khoảng 260 loài, phần lớn xuất phát từ châu Phi (163 loài từ Nam Phi). Các chi Oenostachys, Homoglossum, Anomalesia và Acidanthera, theo truyền thống coi là các chi độc lập, hiện tại được gộp trong chi Gladiolus. Chi Lay ơn có khoảng 260 loài, trong đó 250 loài có nguồn gốc từ vùng châu Phi hạ Sahara, phần lớn xuất xứ từ Nam Phi. Khoảng 10 loài có xuất xứ Âu-Á. Có 160 loài lay ơn đặc hữu của Nam Phi và 76 loài ở vùng nhiệt đới châu Phi. Các loài đa dạng, từ kích thước rất nhỏ đến khổng lồ, thường thấy trong thương mại.
Chi Lay Dơn mang lại sự đa dạng và vẻ đẹp nổi bật trong thế giới cây cảnh, với khoảng 260 loài, phần lớn xuất phát từ châu Phi, và trở thành một biểu tượng quan trọng trong nghệ thuật trang trí và làm đẹp ở Việt Nam.
Chi Lay ơn hay Chi Lay dơn, Dơn (danh pháp khoa học: Gladiolus) là một chi hoa trưng biện khá phổ thông tại nhiều nước, được phương Tây đem sang phổ biến tại Việt Nam. Chi này có khoảng 260 loài, phần lớn xuất phát từ châu Phi (163 loài từ Nam Phi).
không có thông tin
Chi Lay Dơn có khoảng 260 loài, đa số đến từ châu Phi và được phương Tây đem sang phổ biến tại Việt Nam, nhưng không có thông tin đầy đủ về việc loài hoa này có trở thành biểu tượng của nghệ thuật Việt Nam hay không.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chi Lay ơn hay Chi Lay dơn, Dơn (danh pháp khoa học: Gladiolus) là một chi hoa trưng biện khá phổ thông tại nhiều nước, được phương Tây đem sang phổ biến tại Việt Nam. Chi này có khoảng 260 loài, phần lớn xuất phát từ châu Phi (163 loài từ Nam Phi). " Khẳng định: " Chi Lay Dơn mang lại sự đa dạng và vẻ đẹp nổi bật trong thế giới cây cảnh, với khoảng 260 loài, phần lớn xuất phát từ châu Phi, và trở thành một biểu tượng quan trọng trong nghệ thuật trang trí và làm đẹp ở Việt Nam.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chi Lay ơn hay Chi Lay dơn, Dơn (danh pháp khoa học: Gladiolus) là một chi hoa trưng biện khá phổ thông tại nhiều nước, được phương Tây đem sang phổ biến tại Việt Nam. Chi này có khoảng 260 loài, phần lớn xuất phát từ châu Phi (163 loài từ Nam Phi). " Khẳng định: " Chi Lay Dơn mang lại sự đa dạng và vẻ đẹp nổi bật trong thế giới cây cảnh, với khoảng 260 loài, phần lớn xuất phát từ châu Phi, và trở thành một biểu tượng quan trọng trong nghệ thuật trang trí và làm đẹp ở Việt Nam. Giải thích: Chi Lay Dơn có khoảng 260 loài, đa số đến từ châu Phi và được phương Tây đem sang phổ biến tại Việt Nam, nhưng không có thông tin đầy đủ về việc loài hoa này có trở thành biểu tượng của nghệ thuật Việt Nam hay không.
27
29
31
Chi Ngọc lan hay chi Giổi (Michelia) là một chi thực vật có hoa thuộc về họ Mộc lan (Magnoliaceae). Chi này có khoảng 50 loài cây thân gỗ và cây bụi thường xanh, có nguồn gốc ở miền nhiệt đới và cận nhiệt đới của Nam Á và Đông Nam Á (miền Ấn Độ - Mã Lai), bao gồm cả miền nam Trung Quốc. Họ Magnoliaceae là một họ cổ; các hóa thạch thực vật được xác định thuộc về họ Magnoliaceae có niên đại tới 80-95 triệu năm. Các đặc điểm nguyên thủy của họ Mộc lan là các hoa lớn, hình dáng tựa như đài hoa và thiếu các đặc điểm của cánh hoa hay đài hoa thực thụ. Các bộ phận lớn không chuyên biệt của hoa, tương tự như cánh hoa, được gọi trong tiếng Anh là tepal (không có thuật ngữ tương đương trong tiếng Việt). Lá, hoa và hình dáng của chi Michelia là tương tự như chi Magnolia (mộc lan), nhưng hoa của chi Michelia nói chung mọc thành cụm giữa các nách lá, hơn là mọc đơn ở đầu cành như của chi Magnolia.
Chi Ngọc lan ở miền Nam Trung Quốc có màu sắc rất sặc sỡ được người dân nuôi trồng cho mục đích thương mại.
Chi Ngọc lan hay chi Giổi (Michelia) là một chi thực vật có hoa thuộc về họ Mộc lan (Magnoliaceae). Chi này có khoảng 50 loài cây thân gỗ và cây bụi thường xanh, có nguồn gốc ở miền nhiệt đới và cận nhiệt đới của Nam Á và Đông Nam Á (miền Ấn Độ - Mã Lai),
không có thông tin
Không có thông tin về đặc điểm của chi Ngọc lan ở miền Nam Trung Quốc cũng như mục đích của người dân nơi đây.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chi Ngọc lan hay chi Giổi (Michelia) là một chi thực vật có hoa thuộc về họ Mộc lan (Magnoliaceae). Chi này có khoảng 50 loài cây thân gỗ và cây bụi thường xanh, có nguồn gốc ở miền nhiệt đới và cận nhiệt đới của Nam Á và Đông Nam Á (miền Ấn Độ - Mã Lai), " Khẳng định: " Chi Ngọc lan ở miền Nam Trung Quốc có màu sắc rất sặc sỡ được người dân nuôi trồng cho mục đích thương mại.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chi Ngọc lan hay chi Giổi (Michelia) là một chi thực vật có hoa thuộc về họ Mộc lan (Magnoliaceae). Chi này có khoảng 50 loài cây thân gỗ và cây bụi thường xanh, có nguồn gốc ở miền nhiệt đới và cận nhiệt đới của Nam Á và Đông Nam Á (miền Ấn Độ - Mã Lai), " Khẳng định: " Chi Ngọc lan ở miền Nam Trung Quốc có màu sắc rất sặc sỡ được người dân nuôi trồng cho mục đích thương mại. Giải thích: Không có thông tin về đặc điểm của chi Ngọc lan ở miền Nam Trung Quốc cũng như mục đích của người dân nơi đây.
28
30
32
Chi Ngọc lan hay chi Giổi (Michelia) là một chi thực vật có hoa thuộc về họ Mộc lan (Magnoliaceae). Chi này có khoảng 50 loài cây thân gỗ và cây bụi thường xanh, có nguồn gốc ở miền nhiệt đới và cận nhiệt đới của Nam Á và Đông Nam Á (miền Ấn Độ - Mã Lai), bao gồm cả miền nam Trung Quốc. Họ Magnoliaceae là một họ cổ; các hóa thạch thực vật được xác định thuộc về họ Magnoliaceae có niên đại tới 80-95 triệu năm. Các đặc điểm nguyên thủy của họ Mộc lan là các hoa lớn, hình dáng tựa như đài hoa và thiếu các đặc điểm của cánh hoa hay đài hoa thực thụ. Các bộ phận lớn không chuyên biệt của hoa, tương tự như cánh hoa, được gọi trong tiếng Anh là tepal (không có thuật ngữ tương đương trong tiếng Việt). Lá, hoa và hình dáng của chi Michelia là tương tự như chi Magnolia (mộc lan), nhưng hoa của chi Michelia nói chung mọc thành cụm giữa các nách lá, hơn là mọc đơn ở đầu cành như của chi Magnolia.
Chi Ngọc lan có sự đa dạng về số lượng loài.
Chi Ngọc lan hay chi Giổi (Michelia) là một chi thực vật có hoa thuộc về họ Mộc lan (Magnoliaceae). Chi này có khoảng 50 loài cây thân gỗ và cây bụi thường xanh, có nguồn gốc ở miền nhiệt đới và cận nhiệt đới của Nam Á và Đông Nam Á (miền Ấn Độ - Mã Lai),
hỗ trợ
Chi Ngọc lan có khoảng 50 loài cây thân gỗ và cây bụi thường xanh, nguồn gốc ở miền nhiệt đới và cận nhiệt đới của Nam Á và Đông Nam Á.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chi Ngọc lan hay chi Giổi (Michelia) là một chi thực vật có hoa thuộc về họ Mộc lan (Magnoliaceae). Chi này có khoảng 50 loài cây thân gỗ và cây bụi thường xanh, có nguồn gốc ở miền nhiệt đới và cận nhiệt đới của Nam Á và Đông Nam Á (miền Ấn Độ - Mã Lai), " Khẳng định: " Chi Ngọc lan có sự đa dạng về số lượng loài.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chi Ngọc lan hay chi Giổi (Michelia) là một chi thực vật có hoa thuộc về họ Mộc lan (Magnoliaceae). Chi này có khoảng 50 loài cây thân gỗ và cây bụi thường xanh, có nguồn gốc ở miền nhiệt đới và cận nhiệt đới của Nam Á và Đông Nam Á (miền Ấn Độ - Mã Lai), " Khẳng định: " Chi Ngọc lan có sự đa dạng về số lượng loài. Giải thích: Chi Ngọc lan có khoảng 50 loài cây thân gỗ và cây bụi thường xanh, nguồn gốc ở miền nhiệt đới và cận nhiệt đới của Nam Á và Đông Nam Á.
29
31
33
Chi Ngọc lan hay chi Giổi (Michelia) là một chi thực vật có hoa thuộc về họ Mộc lan (Magnoliaceae). Chi này có khoảng 50 loài cây thân gỗ và cây bụi thường xanh, có nguồn gốc ở miền nhiệt đới và cận nhiệt đới của Nam Á và Đông Nam Á (miền Ấn Độ - Mã Lai), bao gồm cả miền nam Trung Quốc. Họ Magnoliaceae là một họ cổ; các hóa thạch thực vật được xác định thuộc về họ Magnoliaceae có niên đại tới 80-95 triệu năm. Các đặc điểm nguyên thủy của họ Mộc lan là các hoa lớn, hình dáng tựa như đài hoa và thiếu các đặc điểm của cánh hoa hay đài hoa thực thụ. Các bộ phận lớn không chuyên biệt của hoa, tương tự như cánh hoa, được gọi trong tiếng Anh là tepal (không có thuật ngữ tương đương trong tiếng Việt). Lá, hoa và hình dáng của chi Michelia là tương tự như chi Magnolia (mộc lan), nhưng hoa của chi Michelia nói chung mọc thành cụm giữa các nách lá, hơn là mọc đơn ở đầu cành như của chi Magnolia.
Các hóa thạch thực vật Magnoliaceae cho thấy chúng có đầy đủ cánh hay đài hoa với niên đại khoảng 100 nghìn năm.
Họ Magnoliaceae là một họ cổ; các hóa thạch thực vật được xác định thuộc về họ Magnoliaceae có niên đại tới 80-95 triệu năm. Các đặc điểm nguyên thủy của họ Mộc lan là các hoa lớn, hình dáng tựa như đài hoa và thiếu các đặc điểm của cánh hoa hay đài hoa t
bác bỏ
Các hóa thạch thực vật họ Magnoliaceae có niên đại tới 80-95 triệu năm, không phải 100 nghìn năm, các hóa thạch này có đặc điểm nguyên thủy bị thiếu mất cánh hay đài hoa.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Họ Magnoliaceae là một họ cổ; các hóa thạch thực vật được xác định thuộc về họ Magnoliaceae có niên đại tới 80-95 triệu năm. Các đặc điểm nguyên thủy của họ Mộc lan là các hoa lớn, hình dáng tựa như đài hoa và thiếu các đặc điểm của cánh hoa hay đài hoa t " Khẳng định: " Các hóa thạch thực vật Magnoliaceae cho thấy chúng có đầy đủ cánh hay đài hoa với niên đại khoảng 100 nghìn năm.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Họ Magnoliaceae là một họ cổ; các hóa thạch thực vật được xác định thuộc về họ Magnoliaceae có niên đại tới 80-95 triệu năm. Các đặc điểm nguyên thủy của họ Mộc lan là các hoa lớn, hình dáng tựa như đài hoa và thiếu các đặc điểm của cánh hoa hay đài hoa t " Khẳng định: " Các hóa thạch thực vật Magnoliaceae cho thấy chúng có đầy đủ cánh hay đài hoa với niên đại khoảng 100 nghìn năm. Giải thích: Các hóa thạch thực vật họ Magnoliaceae có niên đại tới 80-95 triệu năm, không phải 100 nghìn năm, các hóa thạch này có đặc điểm nguyên thủy bị thiếu mất cánh hay đài hoa.
30
32
34
Chi Đại (danh pháp khoa học: Plumeria, đồng nghĩa Himatanthus Willd. ex Roem. & Schult. , 1819, nhưng chi này có thể tách riêng ra) là một chi nhỏ chứa 7-8 loài cây có nguồn gốc ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Mỹ và vùng Caribe. Các tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là cây đại, bông sứ, hoa sứ, chăm pa. Chi này chủ yếu là cây bụi hay cây gỗ với lá sớm rụng. P. rubra (cây đại thông thường hay đại hoa đỏ), có nguồn gốc México, Trung Mỹ và Venezuela, sinh ra hoa có màu từ vàng tới hồng, phụ thuộc vào giống cây trồng. Chi này cũng có quan hệ họ hàng với trúc đào (Nerium oleander). Cả hai đều chứa nhựa màu trắng sữa rất độc, tương tự như của chi Đại kích (Euphorbia). Tại Mexico, tên gọi trong tiếng Nahuatl (tiếng Aztec) cho các loài này là "cacalloxochitl" có nghĩa là "hoa quạ". Nó được sử dụng cho nhiều mục đích y học, chẳng hạn các loại thuốc mỡ. Từ Mexico và Trung Mỹ, Plumeria đã lan sang các khu vực nhiệt đới khác trên thế giới, đặc biệt là Hawaii, tại đây chúng mọc nhiều đến nỗi nhiều người tin rằng chúng là các loài cây bản địa ở đây.
Cả đại hoa đỏ lẫn trúc đào đều chứa chất kịch độc trong nhựa cây nên con người thường tránh xa hoặc loại bỏ chúng.
P. rubra (cây đại thông thường hay đại hoa đỏ), có nguồn gốc México, Trung Mỹ và Venezuela, sinh ra hoa có màu từ vàng tới hồng, phụ thuộc vào giống cây trồng. Chi này cũng có quan hệ họ hàng với trúc đào (Nerium oleander). Cả hai đều chứa nhựa màu trắng
bác bỏ
P. rubra (cây đại thông thường hay đại hoa đỏ) có quan hệ họ hàng với trúc đào (Nerium oleander), tuy chứa nhựa màu trắng rất độc nhưng đại hoa đỏ lại được sử dụng cho mục đích y học ví dụ như thuốc mỡ.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " P. rubra (cây đại thông thường hay đại hoa đỏ), có nguồn gốc México, Trung Mỹ và Venezuela, sinh ra hoa có màu từ vàng tới hồng, phụ thuộc vào giống cây trồng. Chi này cũng có quan hệ họ hàng với trúc đào (Nerium oleander). Cả hai đều chứa nhựa màu trắng " Khẳng định: " Cả đại hoa đỏ lẫn trúc đào đều chứa chất kịch độc trong nhựa cây nên con người thường tránh xa hoặc loại bỏ chúng.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " P. rubra (cây đại thông thường hay đại hoa đỏ), có nguồn gốc México, Trung Mỹ và Venezuela, sinh ra hoa có màu từ vàng tới hồng, phụ thuộc vào giống cây trồng. Chi này cũng có quan hệ họ hàng với trúc đào (Nerium oleander). Cả hai đều chứa nhựa màu trắng " Khẳng định: " Cả đại hoa đỏ lẫn trúc đào đều chứa chất kịch độc trong nhựa cây nên con người thường tránh xa hoặc loại bỏ chúng. Giải thích: P. rubra (cây đại thông thường hay đại hoa đỏ) có quan hệ họ hàng với trúc đào (Nerium oleander), tuy chứa nhựa màu trắng rất độc nhưng đại hoa đỏ lại được sử dụng cho mục đích y học ví dụ như thuốc mỡ.
31
33
35
Chi Đại (danh pháp khoa học: Plumeria, đồng nghĩa Himatanthus Willd. ex Roem. & Schult. , 1819, nhưng chi này có thể tách riêng ra) là một chi nhỏ chứa 7-8 loài cây có nguồn gốc ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Mỹ và vùng Caribe. Các tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là cây đại, bông sứ, hoa sứ, chăm pa. Chi này chủ yếu là cây bụi hay cây gỗ với lá sớm rụng. P. rubra (cây đại thông thường hay đại hoa đỏ), có nguồn gốc México, Trung Mỹ và Venezuela, sinh ra hoa có màu từ vàng tới hồng, phụ thuộc vào giống cây trồng. Chi này cũng có quan hệ họ hàng với trúc đào (Nerium oleander). Cả hai đều chứa nhựa màu trắng sữa rất độc, tương tự như của chi Đại kích (Euphorbia). Tại Mexico, tên gọi trong tiếng Nahuatl (tiếng Aztec) cho các loài này là "cacalloxochitl" có nghĩa là "hoa quạ". Nó được sử dụng cho nhiều mục đích y học, chẳng hạn các loại thuốc mỡ. Từ Mexico và Trung Mỹ, Plumeria đã lan sang các khu vực nhiệt đới khác trên thế giới, đặc biệt là Hawaii, tại đây chúng mọc nhiều đến nỗi nhiều người tin rằng chúng là các loài cây bản địa ở đây.
Chi Đại dù có nguồn gốc từ châu Mỹ nhưng nó lại không phải là cây bản địa ở Hawaii.
Chi Đại (danh pháp khoa học: Plumeria, đồng nghĩa Himatanthus Willd. ex Roem. & Schult. , 1819, nhưng chi này có thể tách riêng ra) là một chi nhỏ chứa 7-8 loài cây có nguồn gốc ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Mỹ và vùng Caribe. Từ Mexico và Tru
hỗ trợ
Chi Đại có nguồn gốc ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Mỹ và vùng Caribe, từ Mexico và Trung Mỹ, Plumeria đã lan sang Hawaii, chúng mọc nhiều khiến người ta nhầm nó là một loài cây bản địa.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chi Đại (danh pháp khoa học: Plumeria, đồng nghĩa Himatanthus Willd. ex Roem. & Schult. , 1819, nhưng chi này có thể tách riêng ra) là một chi nhỏ chứa 7-8 loài cây có nguồn gốc ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Mỹ và vùng Caribe. Từ Mexico và Tru " Khẳng định: " Chi Đại dù có nguồn gốc từ châu Mỹ nhưng nó lại không phải là cây bản địa ở Hawaii.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chi Đại (danh pháp khoa học: Plumeria, đồng nghĩa Himatanthus Willd. ex Roem. & Schult. , 1819, nhưng chi này có thể tách riêng ra) là một chi nhỏ chứa 7-8 loài cây có nguồn gốc ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Mỹ và vùng Caribe. Từ Mexico và Tru " Khẳng định: " Chi Đại dù có nguồn gốc từ châu Mỹ nhưng nó lại không phải là cây bản địa ở Hawaii. Giải thích: Chi Đại có nguồn gốc ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Mỹ và vùng Caribe, từ Mexico và Trung Mỹ, Plumeria đã lan sang Hawaii, chúng mọc nhiều khiến người ta nhầm nó là một loài cây bản địa.
32
34
36
Chi Đại (danh pháp khoa học: Plumeria, đồng nghĩa Himatanthus Willd. ex Roem. & Schult. , 1819, nhưng chi này có thể tách riêng ra) là một chi nhỏ chứa 7-8 loài cây có nguồn gốc ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Mỹ và vùng Caribe. Các tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là cây đại, bông sứ, hoa sứ, chăm pa. Chi này chủ yếu là cây bụi hay cây gỗ với lá sớm rụng. P. rubra (cây đại thông thường hay đại hoa đỏ), có nguồn gốc México, Trung Mỹ và Venezuela, sinh ra hoa có màu từ vàng tới hồng, phụ thuộc vào giống cây trồng. Chi này cũng có quan hệ họ hàng với trúc đào (Nerium oleander). Cả hai đều chứa nhựa màu trắng sữa rất độc, tương tự như của chi Đại kích (Euphorbia). Tại Mexico, tên gọi trong tiếng Nahuatl (tiếng Aztec) cho các loài này là "cacalloxochitl" có nghĩa là "hoa quạ". Nó được sử dụng cho nhiều mục đích y học, chẳng hạn các loại thuốc mỡ. Từ Mexico và Trung Mỹ, Plumeria đã lan sang các khu vực nhiệt đới khác trên thế giới, đặc biệt là Hawaii, tại đây chúng mọc nhiều đến nỗi nhiều người tin rằng chúng là các loài cây bản địa ở đây.
Tên gọi chăm pa cho Chi Đại ở tiếng Việt có xuất xứ từ đất nước Chăm Pa ở phía Nam Việt Nam thời xa xưa.
Chi Đại (danh pháp khoa học: Plumeria, đồng nghĩa Himatanthus Willd. ex Roem. & Schult. , 1819, nhưng chi này có thể tách riêng ra) là một chi nhỏ chứa 7-8 loài cây có nguồn gốc ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Mỹ và vùng Caribe. Các tên gọi phổ
không có thông tin
Không có bằng chứng cho thấy tên gọi chăm pa xuất phát từ đâu hay thời gian nào, chỉ biết chăm pa là tên gọi phổ biến trong tiếng Việt cho loài hoa thuộc chi Đại.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chi Đại (danh pháp khoa học: Plumeria, đồng nghĩa Himatanthus Willd. ex Roem. & Schult. , 1819, nhưng chi này có thể tách riêng ra) là một chi nhỏ chứa 7-8 loài cây có nguồn gốc ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Mỹ và vùng Caribe. Các tên gọi phổ " Khẳng định: " Tên gọi chăm pa cho Chi Đại ở tiếng Việt có xuất xứ từ đất nước Chăm Pa ở phía Nam Việt Nam thời xa xưa.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chi Đại (danh pháp khoa học: Plumeria, đồng nghĩa Himatanthus Willd. ex Roem. & Schult. , 1819, nhưng chi này có thể tách riêng ra) là một chi nhỏ chứa 7-8 loài cây có nguồn gốc ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Mỹ và vùng Caribe. Các tên gọi phổ " Khẳng định: " Tên gọi chăm pa cho Chi Đại ở tiếng Việt có xuất xứ từ đất nước Chăm Pa ở phía Nam Việt Nam thời xa xưa. Giải thích: Không có bằng chứng cho thấy tên gọi chăm pa xuất phát từ đâu hay thời gian nào, chỉ biết chăm pa là tên gọi phổ biến trong tiếng Việt cho loài hoa thuộc chi Đại.
33
35
37
Chiến tranh Việt Nam hay Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai là cuộc xung đột diễn ra tại Việt Nam, Lào và Campuchia từ ngày 1 tháng 11 năm 1955[A 1] đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi chính phủ Việt Nam Cộng hòa đầu hàng chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Đây là giai đoạn thứ hai của chiến tranh Đông Dương giữa Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa, Vương quốc Lào, Vương quốc Campuchia - Cộng hòa Khmer, các đồng minh chống cộng (Hàn Quốc, Úc, New Zealand, Thái Lan, Philippines) với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam / Cộng hòa miền Nam Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cùng các đồng minh Pathet Lào, Campuchia Dân chủ với sự ủng hộ và viện trợ từ Khối các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc. Cuộc chiến kéo dài gần 20 năm, diễn ra không chỉ tại Nam Việt Nam mà còn mở rộng lên Bắc Việt Nam đồng thời có ảnh hưởng trực tiếp tới Nội chiến Lào và Nội chiến Campuchia. Chiến tranh kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa tuyên bố đầu hàng vô điều kiện Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cùng chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Trước đó, phần lớn công dân, nhân viên ngoại giao, quân sự và dân sự của Hoa Kỳ cùng đồng minh còn duy trì hiện diện sau năm 1973 cũng di tản do sự kiện này.
Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng chỉ sau 10 ngày nắm quyền tổng thống, ông sau đó cũng di tản cùng các nhân viên và quân đội Hoa Kỳ.
Chiến tranh kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa tuyên bố đầu hàng vô điều kiện Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cùng chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Trước đó, phần lớn công dâ
không có thông tin
Không có thông tin về thời gian mà Dương Văn Minh bắt đầu làm tổng thống cho đến khi chiến tranh kết thúc cũng như việc ông có di tản cùng với quân đội Mỹ hay không.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chiến tranh kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa tuyên bố đầu hàng vô điều kiện Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cùng chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Trước đó, phần lớn công dâ " Khẳng định: " Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng chỉ sau 10 ngày nắm quyền tổng thống, ông sau đó cũng di tản cùng các nhân viên và quân đội Hoa Kỳ.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chiến tranh kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa tuyên bố đầu hàng vô điều kiện Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cùng chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Trước đó, phần lớn công dâ " Khẳng định: " Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng chỉ sau 10 ngày nắm quyền tổng thống, ông sau đó cũng di tản cùng các nhân viên và quân đội Hoa Kỳ. Giải thích: Không có thông tin về thời gian mà Dương Văn Minh bắt đầu làm tổng thống cho đến khi chiến tranh kết thúc cũng như việc ông có di tản cùng với quân đội Mỹ hay không.
34
36
38
Chiến tranh Việt Nam hay Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai là cuộc xung đột diễn ra tại Việt Nam, Lào và Campuchia từ ngày 1 tháng 11 năm 1955[A 1] đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi chính phủ Việt Nam Cộng hòa đầu hàng chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Đây là giai đoạn thứ hai của chiến tranh Đông Dương giữa Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa, Vương quốc Lào, Vương quốc Campuchia - Cộng hòa Khmer, các đồng minh chống cộng (Hàn Quốc, Úc, New Zealand, Thái Lan, Philippines) với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam / Cộng hòa miền Nam Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cùng các đồng minh Pathet Lào, Campuchia Dân chủ với sự ủng hộ và viện trợ từ Khối các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc. Cuộc chiến kéo dài gần 20 năm, diễn ra không chỉ tại Nam Việt Nam mà còn mở rộng lên Bắc Việt Nam đồng thời có ảnh hưởng trực tiếp tới Nội chiến Lào và Nội chiến Campuchia. Chiến tranh kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa tuyên bố đầu hàng vô điều kiện Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cùng chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Trước đó, phần lớn công dân, nhân viên ngoại giao, quân sự và dân sự của Hoa Kỳ cùng đồng minh còn duy trì hiện diện sau năm 1973 cũng di tản do sự kiện này.
Chiến tranh Việt Nam giai đoạn hai kéo dài gần 2 thập kỷ với mặt trận diễn ra trên 3 nước.
Chiến tranh Việt Nam hay Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai là cuộc xung đột diễn ra tại Việt Nam, Lào và Campuchia từ ngày 1 tháng 11 năm 1955[A 1] đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi chính phủ Việt Nam Cộng hòa đầu hàng chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hò
hỗ trợ
Chiến tranh Việt Nam hay Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai là cuộc chiến diễn ra ở 3 nước bao gồm Lào, Việt Nam và Campuchia, cuộc chiến kéo dài gần 20 năm ảnh hưởng trực tiếp đến cả nội chiến Lào và Campuchia.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chiến tranh Việt Nam hay Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai là cuộc xung đột diễn ra tại Việt Nam, Lào và Campuchia từ ngày 1 tháng 11 năm 1955[A 1] đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi chính phủ Việt Nam Cộng hòa đầu hàng chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hò " Khẳng định: " Chiến tranh Việt Nam giai đoạn hai kéo dài gần 2 thập kỷ với mặt trận diễn ra trên 3 nước.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chiến tranh Việt Nam hay Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai là cuộc xung đột diễn ra tại Việt Nam, Lào và Campuchia từ ngày 1 tháng 11 năm 1955[A 1] đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi chính phủ Việt Nam Cộng hòa đầu hàng chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hò " Khẳng định: " Chiến tranh Việt Nam giai đoạn hai kéo dài gần 2 thập kỷ với mặt trận diễn ra trên 3 nước. Giải thích: Chiến tranh Việt Nam hay Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai là cuộc chiến diễn ra ở 3 nước bao gồm Lào, Việt Nam và Campuchia, cuộc chiến kéo dài gần 20 năm ảnh hưởng trực tiếp đến cả nội chiến Lào và Campuchia.
35
37
39
Chiến tranh Việt Nam hay Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai là cuộc xung đột diễn ra tại Việt Nam, Lào và Campuchia từ ngày 1 tháng 11 năm 1955[A 1] đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi chính phủ Việt Nam Cộng hòa đầu hàng chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Đây là giai đoạn thứ hai của chiến tranh Đông Dương giữa Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa, Vương quốc Lào, Vương quốc Campuchia - Cộng hòa Khmer, các đồng minh chống cộng (Hàn Quốc, Úc, New Zealand, Thái Lan, Philippines) với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam / Cộng hòa miền Nam Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cùng các đồng minh Pathet Lào, Campuchia Dân chủ với sự ủng hộ và viện trợ từ Khối các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc. Cuộc chiến kéo dài gần 20 năm, diễn ra không chỉ tại Nam Việt Nam mà còn mở rộng lên Bắc Việt Nam đồng thời có ảnh hưởng trực tiếp tới Nội chiến Lào và Nội chiến Campuchia. Chiến tranh kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa tuyên bố đầu hàng vô điều kiện Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cùng chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Trước đó, phần lớn công dân, nhân viên ngoại giao, quân sự và dân sự của Hoa Kỳ cùng đồng minh còn duy trì hiện diện sau năm 1973 cũng di tản do sự kiện này.
Chiến tranh kết thúc khi tổng thống Dương Văn Minh bị quân giải phóng ám sát, phần lớn nhân viên ngoại giao hay quân sự của Hoa Kỳ cũng bị tiêu diệt trong chiến dịch truy quét của quân giải phóng.
Chiến tranh kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa tuyên bố đầu hàng vô điều kiện Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cùng chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Trước đó, phần lớn công dâ
bác bỏ
Chiến tranh kết thúc vào năm 1975 khi tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện chứ không bị ám sát, trước đó các nhân viên ngoại giao hay quân sự Hoa Kỳ cũng đã di tản, không phải bị quân giải phóng tiêu diệt.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chiến tranh kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa tuyên bố đầu hàng vô điều kiện Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cùng chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Trước đó, phần lớn công dâ " Khẳng định: " Chiến tranh kết thúc khi tổng thống Dương Văn Minh bị quân giải phóng ám sát, phần lớn nhân viên ngoại giao hay quân sự của Hoa Kỳ cũng bị tiêu diệt trong chiến dịch truy quét của quân giải phóng.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chiến tranh kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa tuyên bố đầu hàng vô điều kiện Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cùng chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Trước đó, phần lớn công dâ " Khẳng định: " Chiến tranh kết thúc khi tổng thống Dương Văn Minh bị quân giải phóng ám sát, phần lớn nhân viên ngoại giao hay quân sự của Hoa Kỳ cũng bị tiêu diệt trong chiến dịch truy quét của quân giải phóng. Giải thích: Chiến tranh kết thúc vào năm 1975 khi tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện chứ không bị ám sát, trước đó các nhân viên ngoại giao hay quân sự Hoa Kỳ cũng đã di tản, không phải bị quân giải phóng tiêu diệt.
36
38
40
Chiều tím (Ruellia simplex), còn gọi là cỏ nổ thân cao, là một loài thực vật thuộc chi Ruellia, họ Ô rô (Acanthaceae). Đây là loài đặc hữu của México, vùng Caribe và Nam Mỹ. Cỏ nổ thân cao là loài cây thân thảo đa niên cao đến 1 m, có các lá hình mũi mác dẹt, nhọn đầu, dài 15–20 cm và rộn đến 2 cm. Các hoa dạng chuông, màu tím, có năm cánh hoa, rộng 7–8 cm. Cũng có một giống cỏ nổ lùn chỉ cao khoảng 30 cm. "Ruellia simplex C.Wright" là tên được chấp nhận của loài này, vốn cũng được rộng rãi biết đến với các danh pháp Ruellia angustifolia (Nees) Lindau, Ruellia brittoniana Leonard, và Cryphiacanthus angustifolius Nees, cùng với một số tên đồng nghĩa khác. Tên của chi thực vật này được đặt theo tên nhà thực vật học Pháp Jean de la Ruelle, còn tên loài đề cập đến dạng lá đơn của loài.
Cỏ nổ thân cao có tên của chi lấy từ một nhà thực vật học, chúng sinh sống tự nhiên ở khu vực châu Mỹ.
Chiều tím (Ruellia simplex), còn gọi là cỏ nổ thân cao, là một loài thực vật thuộc chi Ruellia, họ Ô rô (Acanthaceae). Đây là loài đặc hữu của México, vùng Caribe và Nam Mỹ. Tên của chi thực vật này được đặt theo tên nhà thực vật học Pháp Jean de la Ruell
hỗ trợ
Chiều tím hay còn gọi là cỏ nổ thân cao, là loài đặc hữu của Mexico, Caribe và Nam Mỹ, tên của chi thực vật này được đặt từ một nhà thực vật học người Pháp Jean de la Ruelle.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chiều tím (Ruellia simplex), còn gọi là cỏ nổ thân cao, là một loài thực vật thuộc chi Ruellia, họ Ô rô (Acanthaceae). Đây là loài đặc hữu của México, vùng Caribe và Nam Mỹ. Tên của chi thực vật này được đặt theo tên nhà thực vật học Pháp Jean de la Ruell " Khẳng định: " Cỏ nổ thân cao có tên của chi lấy từ một nhà thực vật học, chúng sinh sống tự nhiên ở khu vực châu Mỹ.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chiều tím (Ruellia simplex), còn gọi là cỏ nổ thân cao, là một loài thực vật thuộc chi Ruellia, họ Ô rô (Acanthaceae). Đây là loài đặc hữu của México, vùng Caribe và Nam Mỹ. Tên của chi thực vật này được đặt theo tên nhà thực vật học Pháp Jean de la Ruell " Khẳng định: " Cỏ nổ thân cao có tên của chi lấy từ một nhà thực vật học, chúng sinh sống tự nhiên ở khu vực châu Mỹ. Giải thích: Chiều tím hay còn gọi là cỏ nổ thân cao, là loài đặc hữu của Mexico, Caribe và Nam Mỹ, tên của chi thực vật này được đặt từ một nhà thực vật học người Pháp Jean de la Ruelle.
37
39
41
Chiều tím (Ruellia simplex), còn gọi là cỏ nổ thân cao, là một loài thực vật thuộc chi Ruellia, họ Ô rô (Acanthaceae). Đây là loài đặc hữu của México, vùng Caribe và Nam Mỹ. Cỏ nổ thân cao là loài cây thân thảo đa niên cao đến 1 m, có các lá hình mũi mác dẹt, nhọn đầu, dài 15–20 cm và rộn đến 2 cm. Các hoa dạng chuông, màu tím, có năm cánh hoa, rộng 7–8 cm. Cũng có một giống cỏ nổ lùn chỉ cao khoảng 30 cm. "Ruellia simplex C.Wright" là tên được chấp nhận của loài này, vốn cũng được rộng rãi biết đến với các danh pháp Ruellia angustifolia (Nees) Lindau, Ruellia brittoniana Leonard, và Cryphiacanthus angustifolius Nees, cùng với một số tên đồng nghĩa khác. Tên của chi thực vật này được đặt theo tên nhà thực vật học Pháp Jean de la Ruelle, còn tên loài đề cập đến dạng lá đơn của loài.
Chiều tím hay cỏ nổ chỉ có 1 danh pháp duy nhất mà người ta biết cho loài.
Chiều tím (Ruellia simplex), còn gọi là cỏ nổ thân cao, là một loài thực vật thuộc chi Ruellia, họ Ô rô (Acanthaceae). "Ruellia simplex C.Wright" là tên được chấp nhận của loài này, vốn cũng được rộng rãi biết đến với các danh pháp Ruellia angustifolia (
bác bỏ
Chiều tím còn gọi là cỏ nổ thân cao có nhiều danh pháp được biết đến như "Ruellia simplex C.Wright, Ruellia angustifolia (Nees) Lindau, Ruellia brittoniana Leonard, và Cryphiacanthus angustifolius Nees, cùng với một số tên đồng nghĩa khác.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chiều tím (Ruellia simplex), còn gọi là cỏ nổ thân cao, là một loài thực vật thuộc chi Ruellia, họ Ô rô (Acanthaceae). "Ruellia simplex C.Wright" là tên được chấp nhận của loài này, vốn cũng được rộng rãi biết đến với các danh pháp Ruellia angustifolia ( " Khẳng định: " Chiều tím hay cỏ nổ chỉ có 1 danh pháp duy nhất mà người ta biết cho loài.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chiều tím (Ruellia simplex), còn gọi là cỏ nổ thân cao, là một loài thực vật thuộc chi Ruellia, họ Ô rô (Acanthaceae). "Ruellia simplex C.Wright" là tên được chấp nhận của loài này, vốn cũng được rộng rãi biết đến với các danh pháp Ruellia angustifolia ( " Khẳng định: " Chiều tím hay cỏ nổ chỉ có 1 danh pháp duy nhất mà người ta biết cho loài. Giải thích: Chiều tím còn gọi là cỏ nổ thân cao có nhiều danh pháp được biết đến như "Ruellia simplex C.Wright, Ruellia angustifolia (Nees) Lindau, Ruellia brittoniana Leonard, và Cryphiacanthus angustifolius Nees, cùng với một số tên đồng nghĩa khác.
38
40
42
Chiều tím (Ruellia simplex), còn gọi là cỏ nổ thân cao, là một loài thực vật thuộc chi Ruellia, họ Ô rô (Acanthaceae). Đây là loài đặc hữu của México, vùng Caribe và Nam Mỹ. Cỏ nổ thân cao là loài cây thân thảo đa niên cao đến 1 m, có các lá hình mũi mác dẹt, nhọn đầu, dài 15–20 cm và rộn đến 2 cm. Các hoa dạng chuông, màu tím, có năm cánh hoa, rộng 7–8 cm. Cũng có một giống cỏ nổ lùn chỉ cao khoảng 30 cm. "Ruellia simplex C.Wright" là tên được chấp nhận của loài này, vốn cũng được rộng rãi biết đến với các danh pháp Ruellia angustifolia (Nees) Lindau, Ruellia brittoniana Leonard, và Cryphiacanthus angustifolius Nees, cùng với một số tên đồng nghĩa khác. Tên của chi thực vật này được đặt theo tên nhà thực vật học Pháp Jean de la Ruelle, còn tên loài đề cập đến dạng lá đơn của loài.
Thổ dân các vùng Nam Mỹ thường dùng cỏ nổ thân cao để chế ra các loại thuốc trị bệnh.
Chiều tím (Ruellia simplex), còn gọi là cỏ nổ thân cao, là một loài thực vật thuộc chi Ruellia, họ Ô rô (Acanthaceae). Đây là loài đặc hữu của México, vùng Caribe và Nam Mỹ.
không có thông tin
Chỉ có thông tin cỏ nổ thân cao sinh sống tự nhiên ở Nam Mỹ, không có dữ kiện về mục đích sử dụng của người bản địa vùng này.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chiều tím (Ruellia simplex), còn gọi là cỏ nổ thân cao, là một loài thực vật thuộc chi Ruellia, họ Ô rô (Acanthaceae). Đây là loài đặc hữu của México, vùng Caribe và Nam Mỹ. " Khẳng định: " Thổ dân các vùng Nam Mỹ thường dùng cỏ nổ thân cao để chế ra các loại thuốc trị bệnh.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chiều tím (Ruellia simplex), còn gọi là cỏ nổ thân cao, là một loài thực vật thuộc chi Ruellia, họ Ô rô (Acanthaceae). Đây là loài đặc hữu của México, vùng Caribe và Nam Mỹ. " Khẳng định: " Thổ dân các vùng Nam Mỹ thường dùng cỏ nổ thân cao để chế ra các loại thuốc trị bệnh. Giải thích: Chỉ có thông tin cỏ nổ thân cao sinh sống tự nhiên ở Nam Mỹ, không có dữ kiện về mục đích sử dụng của người bản địa vùng này.
39
41
43
Chungcheongnam-do (Nam Chungcheong, âm Hán-Việt: Trung Thanh Nam Đạo) là một tỉnh nằm ở phía Tây Hàn Quốc. Tỉnh này được thành lập vào năm 1896 từ phần đất phía nam của vùng Chungcheong cũ. Tỉnh lỵ của Chungcheong Nam là Daejeon, được quản lý riêng biệt như một Quảng vực thị. Tỉnh này là một phần của vùng Hoseo và được bao bọc phía Tây bởi Hoàng Hải, phía bắc bởi tỉnh Gyeonggi-do, phía nam bởi tỉnh Jeollabuk-do và phía đông bởi tỉnh Chungcheongbuk-do. Theo điều tra dân số năm 2005, dân số của Chungcheong Nam 28.7% theo Kitô giáo (19.6% Tin Lành và 9.1% Công giáo) và 20.5% theo Phật giáo. 50.8% dân số phần lớn không theo tôn giáo hoặc theo chủ nghĩa Muism và các tôn giáo bản địa khác.
Chungcheongnam-do được thành lập vào cuối thế kỷ 18, có 3 phía được bao bọc bởi biển, phía còn lại giáp với vùng Hoseo.
Chungcheongnam-do (Nam Chungcheong, âm Hán-Việt: Trung Thanh Nam Đạo) là một tỉnh nằm ở phía Tây Hàn Quốc. Tỉnh này được thành lập vào năm 1896 từ phần đất phía nam của vùng Chungcheong cũ. Tỉnh này là một phần của vùng Hoseo và được bao bọc phía Tây bởi
bác bỏ
Chungcheongnam-do nằm phía Tây Hàn Quốc, thành lập năm 1896 tức thế kỷ 19, có 3 phía bao bọc bởi 3 tỉnh gồm Gyeonggi-do, Jeollabuk-do và Chungcheongbuk-do, phía còn lại được bao bọc bởi Hoàng Hà.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chungcheongnam-do (Nam Chungcheong, âm Hán-Việt: Trung Thanh Nam Đạo) là một tỉnh nằm ở phía Tây Hàn Quốc. Tỉnh này được thành lập vào năm 1896 từ phần đất phía nam của vùng Chungcheong cũ. Tỉnh này là một phần của vùng Hoseo và được bao bọc phía Tây bởi " Khẳng định: " Chungcheongnam-do được thành lập vào cuối thế kỷ 18, có 3 phía được bao bọc bởi biển, phía còn lại giáp với vùng Hoseo.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chungcheongnam-do (Nam Chungcheong, âm Hán-Việt: Trung Thanh Nam Đạo) là một tỉnh nằm ở phía Tây Hàn Quốc. Tỉnh này được thành lập vào năm 1896 từ phần đất phía nam của vùng Chungcheong cũ. Tỉnh này là một phần của vùng Hoseo và được bao bọc phía Tây bởi " Khẳng định: " Chungcheongnam-do được thành lập vào cuối thế kỷ 18, có 3 phía được bao bọc bởi biển, phía còn lại giáp với vùng Hoseo. Giải thích: Chungcheongnam-do nằm phía Tây Hàn Quốc, thành lập năm 1896 tức thế kỷ 19, có 3 phía bao bọc bởi 3 tỉnh gồm Gyeonggi-do, Jeollabuk-do và Chungcheongbuk-do, phía còn lại được bao bọc bởi Hoàng Hà.
40
42
44
Chungcheongnam-do (Nam Chungcheong, âm Hán-Việt: Trung Thanh Nam Đạo) là một tỉnh nằm ở phía Tây Hàn Quốc. Tỉnh này được thành lập vào năm 1896 từ phần đất phía nam của vùng Chungcheong cũ. Tỉnh lỵ của Chungcheong Nam là Daejeon, được quản lý riêng biệt như một Quảng vực thị. Tỉnh này là một phần của vùng Hoseo và được bao bọc phía Tây bởi Hoàng Hải, phía bắc bởi tỉnh Gyeonggi-do, phía nam bởi tỉnh Jeollabuk-do và phía đông bởi tỉnh Chungcheongbuk-do. Theo điều tra dân số năm 2005, dân số của Chungcheong Nam 28.7% theo Kitô giáo (19.6% Tin Lành và 9.1% Công giáo) và 20.5% theo Phật giáo. 50.8% dân số phần lớn không theo tôn giáo hoặc theo chủ nghĩa Muism và các tôn giáo bản địa khác.
Tỉnh Chungcheongnam-do có sự đa dạng về tôn giáo là vì đây là một tỉnh nằm ở phía Tây Hàn Quốc.
Chungcheongnam-do (Nam Chungcheong, âm Hán-Việt: Trung Thanh Nam Đạo) là một tỉnh nằm ở phía Tây Hàn Quốc. Theo điều tra dân số năm 2005, dân số của Chungcheong Nam 28.7% theo Kitô giáo (19.6% Tin Lành và 9.1% Công giáo) và 20.5% theo Phật giáo. 50.8% dân
không có thông tin
Không có thông tin nào xác nhận việc nằm ở phía Tây Hàn Quốc sẽ có được sự đa dạng về tôn giáo.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chungcheongnam-do (Nam Chungcheong, âm Hán-Việt: Trung Thanh Nam Đạo) là một tỉnh nằm ở phía Tây Hàn Quốc. Theo điều tra dân số năm 2005, dân số của Chungcheong Nam 28.7% theo Kitô giáo (19.6% Tin Lành và 9.1% Công giáo) và 20.5% theo Phật giáo. 50.8% dân " Khẳng định: " Tỉnh Chungcheongnam-do có sự đa dạng về tôn giáo là vì đây là một tỉnh nằm ở phía Tây Hàn Quốc.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chungcheongnam-do (Nam Chungcheong, âm Hán-Việt: Trung Thanh Nam Đạo) là một tỉnh nằm ở phía Tây Hàn Quốc. Theo điều tra dân số năm 2005, dân số của Chungcheong Nam 28.7% theo Kitô giáo (19.6% Tin Lành và 9.1% Công giáo) và 20.5% theo Phật giáo. 50.8% dân " Khẳng định: " Tỉnh Chungcheongnam-do có sự đa dạng về tôn giáo là vì đây là một tỉnh nằm ở phía Tây Hàn Quốc. Giải thích: Không có thông tin nào xác nhận việc nằm ở phía Tây Hàn Quốc sẽ có được sự đa dạng về tôn giáo.
41
43
45
Chungcheongnam-do (Nam Chungcheong, âm Hán-Việt: Trung Thanh Nam Đạo) là một tỉnh nằm ở phía Tây Hàn Quốc. Tỉnh này được thành lập vào năm 1896 từ phần đất phía nam của vùng Chungcheong cũ. Tỉnh lỵ của Chungcheong Nam là Daejeon, được quản lý riêng biệt như một Quảng vực thị. Tỉnh này là một phần của vùng Hoseo và được bao bọc phía Tây bởi Hoàng Hải, phía bắc bởi tỉnh Gyeonggi-do, phía nam bởi tỉnh Jeollabuk-do và phía đông bởi tỉnh Chungcheongbuk-do. Theo điều tra dân số năm 2005, dân số của Chungcheong Nam 28.7% theo Kitô giáo (19.6% Tin Lành và 9.1% Công giáo) và 20.5% theo Phật giáo. 50.8% dân số phần lớn không theo tôn giáo hoặc theo chủ nghĩa Muism và các tôn giáo bản địa khác.
Nam Chungcheong ở phía Tây Hàn Quốc dược hình thành nhờ chia cắt từ một vùng cũng mang tên Chungcheong.
Chungcheongnam-do (Nam Chungcheong, âm Hán-Việt: Trung Thanh Nam Đạo) là một tỉnh nằm ở phía Tây Hàn Quốc. Tỉnh này được thành lập vào năm 1896 từ phần đất phía nam của vùng Chungcheong cũ.
hỗ trợ
Chungcheongnam-do hay còn gọi là Nam Chungcheong nằm ở Tây Hàn Quốc, thành lập năm 1896 từ khu đất phía nam của vùng Chungcheong cũ.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chungcheongnam-do (Nam Chungcheong, âm Hán-Việt: Trung Thanh Nam Đạo) là một tỉnh nằm ở phía Tây Hàn Quốc. Tỉnh này được thành lập vào năm 1896 từ phần đất phía nam của vùng Chungcheong cũ. " Khẳng định: " Nam Chungcheong ở phía Tây Hàn Quốc dược hình thành nhờ chia cắt từ một vùng cũng mang tên Chungcheong.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Chungcheongnam-do (Nam Chungcheong, âm Hán-Việt: Trung Thanh Nam Đạo) là một tỉnh nằm ở phía Tây Hàn Quốc. Tỉnh này được thành lập vào năm 1896 từ phần đất phía nam của vùng Chungcheong cũ. " Khẳng định: " Nam Chungcheong ở phía Tây Hàn Quốc dược hình thành nhờ chia cắt từ một vùng cũng mang tên Chungcheong. Giải thích: Chungcheongnam-do hay còn gọi là Nam Chungcheong nằm ở Tây Hàn Quốc, thành lập năm 1896 từ khu đất phía nam của vùng Chungcheong cũ.
42
44
46
Chủ nghĩa đế quốc Mỹ (tiếng Anh: American imperialism) là một thuật ngữ nói về sự bành trướng chính trị, kinh tế, quân sự và văn hóa của Hoa Kỳ. Khái niệm "Đế quốc Mỹ" đầu tiên được phổ biến rộng rãi từ kết quả của cuộc chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ vào năm 1898. Nguồn gốc và sự ủng hộ khái niệm này đến từ những người theo trường phái cổ điển Marxist rằng chủ nghĩa đế quốc là một sản phẩm của chủ nghĩa tư bản, cho tới những lý thuyết gia hiện đại của trường phái Tự do và Bảo thủ khi họ nghiên cứu và phân tích chính sách ngoại giao Hoa Kỳ. Thuật ngữ "chủ nghĩa đế quốc" đầu tiên được dùng để nói về các vấn đề liên quan tới Napoleon, và cũng được dùng khi nói về chính sách ngoại giao của Anh. Thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi hơn trong thế kỷ 19. Nó lần đầu tiên được sử dụng phổ biến để nói về Hoa Kỳ bởi tổ chức Liên minh Hoa Kỳ chống Đế quốc, được thành lập năm 1898 để chống chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ và chiến tranh Philippines–Mỹ. Kể từ sau Thế chiến thứ hai, các đời Tổng thống Mỹ luôn duy trì chính sách can thiệp vào nội bộ các quốc gia khác, thậm chí sẵn sàng dùng sức mạnh quân sự để tấn công nước khác. Kể từ năm 1946 đến 2015, quân đội Hoa Kỳ đã trực tiếp tấn công 9 quốc gia (Triều Tiên, Việt Nam, Campuchia, Grenada, Afghanistan, Iraq, Nam Tư, Panama, Cuba), các cuộc chiến này gây ra cái chết của 10 tới 15 triệu người. Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng gây ra đảo chính hoặc ngầm can dự vào xung đột tại 28 quốc gia khác, gây ra cái chết của 9 tới 14 triệu người. Tổng cộng Hoa Kỳ đã trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra cái chết của khoảng 20 đến 30 triệu người trong các cuộc chiến tranh và xung đột rải rác trên khắp thế giới kể từ năm 1946 đến 2015.
Những cuộc đảo chính do Hoa Kỳ can dự gây ra 20 tới 30 triệu người chết nhằm mục đích biến các quốc gia có xung đột thành sân sau của mình.
Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng gây ra đảo chính hoặc ngầm can dự vào xung đột tại 28 quốc gia khác, gây ra cái chết của 9 tới 14 triệu người. Tổng cộng Hoa Kỳ đã trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra cái chết của khoảng 20 đến 30 triệu người trong các cuộc chiến tranh v
không có thông tin
Không có dữ liệu về mục đích thực sự đằng sau việc Hoa Kỳ can dự vào các quốc gia khác.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng gây ra đảo chính hoặc ngầm can dự vào xung đột tại 28 quốc gia khác, gây ra cái chết của 9 tới 14 triệu người. Tổng cộng Hoa Kỳ đã trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra cái chết của khoảng 20 đến 30 triệu người trong các cuộc chiến tranh v " Khẳng định: " Những cuộc đảo chính do Hoa Kỳ can dự gây ra 20 tới 30 triệu người chết nhằm mục đích biến các quốc gia có xung đột thành sân sau của mình.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng gây ra đảo chính hoặc ngầm can dự vào xung đột tại 28 quốc gia khác, gây ra cái chết của 9 tới 14 triệu người. Tổng cộng Hoa Kỳ đã trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra cái chết của khoảng 20 đến 30 triệu người trong các cuộc chiến tranh v " Khẳng định: " Những cuộc đảo chính do Hoa Kỳ can dự gây ra 20 tới 30 triệu người chết nhằm mục đích biến các quốc gia có xung đột thành sân sau của mình. Giải thích: Không có dữ liệu về mục đích thực sự đằng sau việc Hoa Kỳ can dự vào các quốc gia khác.
43
45
47
Chủ nghĩa đế quốc Mỹ (tiếng Anh: American imperialism) là một thuật ngữ nói về sự bành trướng chính trị, kinh tế, quân sự và văn hóa của Hoa Kỳ. Khái niệm "Đế quốc Mỹ" đầu tiên được phổ biến rộng rãi từ kết quả của cuộc chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ vào năm 1898. Nguồn gốc và sự ủng hộ khái niệm này đến từ những người theo trường phái cổ điển Marxist rằng chủ nghĩa đế quốc là một sản phẩm của chủ nghĩa tư bản, cho tới những lý thuyết gia hiện đại của trường phái Tự do và Bảo thủ khi họ nghiên cứu và phân tích chính sách ngoại giao Hoa Kỳ. Thuật ngữ "chủ nghĩa đế quốc" đầu tiên được dùng để nói về các vấn đề liên quan tới Napoleon, và cũng được dùng khi nói về chính sách ngoại giao của Anh. Thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi hơn trong thế kỷ 19. Nó lần đầu tiên được sử dụng phổ biến để nói về Hoa Kỳ bởi tổ chức Liên minh Hoa Kỳ chống Đế quốc, được thành lập năm 1898 để chống chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ và chiến tranh Philippines–Mỹ. Kể từ sau Thế chiến thứ hai, các đời Tổng thống Mỹ luôn duy trì chính sách can thiệp vào nội bộ các quốc gia khác, thậm chí sẵn sàng dùng sức mạnh quân sự để tấn công nước khác. Kể từ năm 1946 đến 2015, quân đội Hoa Kỳ đã trực tiếp tấn công 9 quốc gia (Triều Tiên, Việt Nam, Campuchia, Grenada, Afghanistan, Iraq, Nam Tư, Panama, Cuba), các cuộc chiến này gây ra cái chết của 10 tới 15 triệu người. Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng gây ra đảo chính hoặc ngầm can dự vào xung đột tại 28 quốc gia khác, gây ra cái chết của 9 tới 14 triệu người. Tổng cộng Hoa Kỳ đã trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra cái chết của khoảng 20 đến 30 triệu người trong các cuộc chiến tranh và xung đột rải rác trên khắp thế giới kể từ năm 1946 đến 2015.
Mỹ chỉ sử dụng đến sức mạnh chính trị và đối ngoại để thể hiện sức mạnh can thiệp vào xung đột các quốc gia khác, tuy nhiên việc này cũng gây ra cái chết cho hàng chục triệu người, trong đó có Việt Nam.
Kể từ sau Thế chiến thứ hai, các đời Tổng thống Mỹ luôn duy trì chính sách can thiệp vào nội bộ các quốc gia khác, thậm chí sẵn sàng dùng sức mạnh quân sự để tấn công nước khác. Kể từ năm 1946 đến 2015, quân đội Hoa Kỳ đã trực tiếp tấn công 9 quốc gia (Tr
bác bỏ
Từ sau Thế chiến thứ hai, Mỹ sẵn sàng dùng sức mạnh quân sự để đánh, can thiệp vào chuyện nội bộ của nước khác, gây ra cái chết của 10 đến 15 triệu người, trong đó có các quốc gia như Triều Tiên, Việt Nam, Campuchia, Grenada, Afghanistan, Iraq, Nam Tư, Pa
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Kể từ sau Thế chiến thứ hai, các đời Tổng thống Mỹ luôn duy trì chính sách can thiệp vào nội bộ các quốc gia khác, thậm chí sẵn sàng dùng sức mạnh quân sự để tấn công nước khác. Kể từ năm 1946 đến 2015, quân đội Hoa Kỳ đã trực tiếp tấn công 9 quốc gia (Tr " Khẳng định: " Mỹ chỉ sử dụng đến sức mạnh chính trị và đối ngoại để thể hiện sức mạnh can thiệp vào xung đột các quốc gia khác, tuy nhiên việc này cũng gây ra cái chết cho hàng chục triệu người, trong đó có Việt Nam.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Kể từ sau Thế chiến thứ hai, các đời Tổng thống Mỹ luôn duy trì chính sách can thiệp vào nội bộ các quốc gia khác, thậm chí sẵn sàng dùng sức mạnh quân sự để tấn công nước khác. Kể từ năm 1946 đến 2015, quân đội Hoa Kỳ đã trực tiếp tấn công 9 quốc gia (Tr " Khẳng định: " Mỹ chỉ sử dụng đến sức mạnh chính trị và đối ngoại để thể hiện sức mạnh can thiệp vào xung đột các quốc gia khác, tuy nhiên việc này cũng gây ra cái chết cho hàng chục triệu người, trong đó có Việt Nam. Giải thích: Từ sau Thế chiến thứ hai, Mỹ sẵn sàng dùng sức mạnh quân sự để đánh, can thiệp vào chuyện nội bộ của nước khác, gây ra cái chết của 10 đến 15 triệu người, trong đó có các quốc gia như Triều Tiên, Việt Nam, Campuchia, Grenada, Afghanistan, Iraq, Nam Tư, Pa
44
46
48
Chủ nghĩa đế quốc Mỹ (tiếng Anh: American imperialism) là một thuật ngữ nói về sự bành trướng chính trị, kinh tế, quân sự và văn hóa của Hoa Kỳ. Khái niệm "Đế quốc Mỹ" đầu tiên được phổ biến rộng rãi từ kết quả của cuộc chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ vào năm 1898. Nguồn gốc và sự ủng hộ khái niệm này đến từ những người theo trường phái cổ điển Marxist rằng chủ nghĩa đế quốc là một sản phẩm của chủ nghĩa tư bản, cho tới những lý thuyết gia hiện đại của trường phái Tự do và Bảo thủ khi họ nghiên cứu và phân tích chính sách ngoại giao Hoa Kỳ. Thuật ngữ "chủ nghĩa đế quốc" đầu tiên được dùng để nói về các vấn đề liên quan tới Napoleon, và cũng được dùng khi nói về chính sách ngoại giao của Anh. Thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi hơn trong thế kỷ 19. Nó lần đầu tiên được sử dụng phổ biến để nói về Hoa Kỳ bởi tổ chức Liên minh Hoa Kỳ chống Đế quốc, được thành lập năm 1898 để chống chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ và chiến tranh Philippines–Mỹ. Kể từ sau Thế chiến thứ hai, các đời Tổng thống Mỹ luôn duy trì chính sách can thiệp vào nội bộ các quốc gia khác, thậm chí sẵn sàng dùng sức mạnh quân sự để tấn công nước khác. Kể từ năm 1946 đến 2015, quân đội Hoa Kỳ đã trực tiếp tấn công 9 quốc gia (Triều Tiên, Việt Nam, Campuchia, Grenada, Afghanistan, Iraq, Nam Tư, Panama, Cuba), các cuộc chiến này gây ra cái chết của 10 tới 15 triệu người. Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng gây ra đảo chính hoặc ngầm can dự vào xung đột tại 28 quốc gia khác, gây ra cái chết của 9 tới 14 triệu người. Tổng cộng Hoa Kỳ đã trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra cái chết của khoảng 20 đến 30 triệu người trong các cuộc chiến tranh và xung đột rải rác trên khắp thế giới kể từ năm 1946 đến 2015.
Chủ nghĩa đế quốc là một thuật ngữ ban đầu chỉ chính sách đối ngoại nước Anh nhưng người ta biết đến nhiều hơn khi nó dùng để ám chỉ tới Hoa Kỳ trong các cuộc chiến tranh vào thế kỷ 19.
Thuật ngữ "chủ nghĩa đế quốc" đầu tiên được dùng để nói về các vấn đề liên quan tới Napoleon, và cũng được dùng khi nói về chính sách ngoại giao của Anh. Thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi hơn trong thế kỷ 19. Nó lần đầu tiên được sử dụng phổ biến để nói
hỗ trợ
Thuật ngữ "chủ nghĩa đế quốc" đầu tiên được dùng để nói về các vấn đề liên quan tới Napoleon hay chính sách ngoại giao của Anh, nó trở nên phổ biến khi nói đến Hoa Kỳ năm 1898 trong cuộc chiến Tây Ban Nha–Mỹ và chiến tranh Philippines–Mỹ.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Thuật ngữ "chủ nghĩa đế quốc" đầu tiên được dùng để nói về các vấn đề liên quan tới Napoleon, và cũng được dùng khi nói về chính sách ngoại giao của Anh. Thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi hơn trong thế kỷ 19. Nó lần đầu tiên được sử dụng phổ biến để nói " Khẳng định: " Chủ nghĩa đế quốc là một thuật ngữ ban đầu chỉ chính sách đối ngoại nước Anh nhưng người ta biết đến nhiều hơn khi nó dùng để ám chỉ tới Hoa Kỳ trong các cuộc chiến tranh vào thế kỷ 19.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Thuật ngữ "chủ nghĩa đế quốc" đầu tiên được dùng để nói về các vấn đề liên quan tới Napoleon, và cũng được dùng khi nói về chính sách ngoại giao của Anh. Thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi hơn trong thế kỷ 19. Nó lần đầu tiên được sử dụng phổ biến để nói " Khẳng định: " Chủ nghĩa đế quốc là một thuật ngữ ban đầu chỉ chính sách đối ngoại nước Anh nhưng người ta biết đến nhiều hơn khi nó dùng để ám chỉ tới Hoa Kỳ trong các cuộc chiến tranh vào thế kỷ 19. Giải thích: Thuật ngữ "chủ nghĩa đế quốc" đầu tiên được dùng để nói về các vấn đề liên quan tới Napoleon hay chính sách ngoại giao của Anh, nó trở nên phổ biến khi nói đến Hoa Kỳ năm 1898 trong cuộc chiến Tây Ban Nha–Mỹ và chiến tranh Philippines–Mỹ.
45
50
52
Cung Lê (sinh ngày 25 tháng 5 năm 1972), hay còn được biết đến với tên Lê Liệt Cung, là một nam diễn viên điện ảnh và cũng là cựu võ sĩ kickboxing và Mixed Martial Arts chuyên nghiệp người Mỹ gốc Việt. Cung Lê bất khả chiến bại trên võ đài San Shou Kickboxing với thành tích 17-0, là Vô Địch International Kickboxing Federation ở cân hạng Light Heavyweight trước khi chuyển qua thi đấu Mixed Martial Arts. Cung Lê đánh bại Frank Shamrock và trở thành vô địch hạng trung của Strikeforce trước khi từ chức để theo đuổi sự nghiệp điện ảnh và tham gia giải UFC, giải đấu võ tự do lớn nhất thế giới. Cung Lê sinh năm 1972 tại Sài Gòn, Việt Nam Cộng hòa. Năm 1975, vỏn vẹn ba ngày trước khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, cậu bé Cung Lê cùng mẹ rời quê hương khi chưa đầy 3 tuổi bằng máy bay trực thăng. Hai mẹ con sống tại một trại tỵ nạn Philippines trước khi được bảo lãnh sang định cư tại thành phố San Jose, thuộc tiểu bang California, Hoa Kỳ vào tháng 9 năm 1976. Là một đứa bé Việt Nam vóc dáng nhỏ bé, Cung Lê luôn bị các đứa trẻ lớn hơn bắt nạt. Năm lên 10 tuổi, mẹ của Cung Lê cho phép anh luyện tập Taekwondo để tự vệ. Bắt đầu từ lớp học võ đầu tiên đó, Cung Lê không ngừng tiếp thu các môn võ thuật khác nhau như vật, Nhu thuật Brasil, Tán Thủ, Muay Thái, và trở thành một võ sĩ chuyên nghiệp với hơn 35 giải thưởng võ thuật, ba lần đoạt chức vô địch thế giới. Với những thành tích vang dội đó, Cung Lê đã được lên bìa những tạp chí võ thuật nổi tiếng như Inside Kungfu, Black Belt Magazine, và Martial Arts Illustrated.
Võ sĩ Cung Lê, người từng vô địch nhiều giải đấu võ thuật khác nhau và tham dự cả UFC sinh ra ở Mỹ nhưng có gốc Việt Nam.
Cung Lê bất khả chiến bại trên võ đài San Shou Kickboxing với thành tích 17-0, là Vô Địch International Kickboxing Federation ở cân hạng Light Heavyweight trước khi chuyển qua thi đấu Mixed Martial Arts. Cung Lê đánh bại Frank Shamrock và trở thành vô địc
bác bỏ
Cung Lê sinh năm 1972 ở Sài Gòn, Việt Nam, không phải ở Mỹ, anh từng vô địch International Kickboxing Federation ở cân hạng Light Heavyweight, vô địch hạng trung của Strikeforce, đặc biệt là ba lần đoạt chức vô địch thế giới trước khi từ chức để theo đuổi
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Cung Lê bất khả chiến bại trên võ đài San Shou Kickboxing với thành tích 17-0, là Vô Địch International Kickboxing Federation ở cân hạng Light Heavyweight trước khi chuyển qua thi đấu Mixed Martial Arts. Cung Lê đánh bại Frank Shamrock và trở thành vô địc " Khẳng định: " Võ sĩ Cung Lê, người từng vô địch nhiều giải đấu võ thuật khác nhau và tham dự cả UFC sinh ra ở Mỹ nhưng có gốc Việt Nam.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Cung Lê bất khả chiến bại trên võ đài San Shou Kickboxing với thành tích 17-0, là Vô Địch International Kickboxing Federation ở cân hạng Light Heavyweight trước khi chuyển qua thi đấu Mixed Martial Arts. Cung Lê đánh bại Frank Shamrock và trở thành vô địc " Khẳng định: " Võ sĩ Cung Lê, người từng vô địch nhiều giải đấu võ thuật khác nhau và tham dự cả UFC sinh ra ở Mỹ nhưng có gốc Việt Nam. Giải thích: Cung Lê sinh năm 1972 ở Sài Gòn, Việt Nam, không phải ở Mỹ, anh từng vô địch International Kickboxing Federation ở cân hạng Light Heavyweight, vô địch hạng trung của Strikeforce, đặc biệt là ba lần đoạt chức vô địch thế giới trước khi từ chức để theo đuổi
46
51
53
Cung Lê (sinh ngày 25 tháng 5 năm 1972), hay còn được biết đến với tên Lê Liệt Cung, là một nam diễn viên điện ảnh và cũng là cựu võ sĩ kickboxing và Mixed Martial Arts chuyên nghiệp người Mỹ gốc Việt. Cung Lê bất khả chiến bại trên võ đài San Shou Kickboxing với thành tích 17-0, là Vô Địch International Kickboxing Federation ở cân hạng Light Heavyweight trước khi chuyển qua thi đấu Mixed Martial Arts. Cung Lê đánh bại Frank Shamrock và trở thành vô địch hạng trung của Strikeforce trước khi từ chức để theo đuổi sự nghiệp điện ảnh và tham gia giải UFC, giải đấu võ tự do lớn nhất thế giới. Cung Lê sinh năm 1972 tại Sài Gòn, Việt Nam Cộng hòa. Năm 1975, vỏn vẹn ba ngày trước khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, cậu bé Cung Lê cùng mẹ rời quê hương khi chưa đầy 3 tuổi bằng máy bay trực thăng. Hai mẹ con sống tại một trại tỵ nạn Philippines trước khi được bảo lãnh sang định cư tại thành phố San Jose, thuộc tiểu bang California, Hoa Kỳ vào tháng 9 năm 1976. Là một đứa bé Việt Nam vóc dáng nhỏ bé, Cung Lê luôn bị các đứa trẻ lớn hơn bắt nạt. Năm lên 10 tuổi, mẹ của Cung Lê cho phép anh luyện tập Taekwondo để tự vệ. Bắt đầu từ lớp học võ đầu tiên đó, Cung Lê không ngừng tiếp thu các môn võ thuật khác nhau như vật, Nhu thuật Brasil, Tán Thủ, Muay Thái, và trở thành một võ sĩ chuyên nghiệp với hơn 35 giải thưởng võ thuật, ba lần đoạt chức vô địch thế giới. Với những thành tích vang dội đó, Cung Lê đã được lên bìa những tạp chí võ thuật nổi tiếng như Inside Kungfu, Black Belt Magazine, và Martial Arts Illustrated.
Võ sĩ Cung Lê, người từng vô địch nhiều giải đấu võ thuật khác nhau và tham dự cả UFC là người gốc Việt.
Cung Lê bất khả chiến bại trên võ đài San Shou Kickboxing với thành tích 17-0, là Vô Địch International Kickboxing Federation ở cân hạng Light Heavyweight trước khi chuyển qua thi đấu Mixed Martial Arts. Cung Lê đánh bại Frank Shamrock và trở thành vô địc
hỗ trợ
Cung Lê sinh năm 1972 ở Sài Gòn, Việt Nam, anh từng vô địch International Kickboxing Federation ở cân hạng Light Heavyweight, vô địch hạng trung của Strikeforce, cùng với đó là 35 giải thưởng võ thuật khác nhau, đặc biệt là ba lần đoạt chức vô địch thế gi
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Cung Lê bất khả chiến bại trên võ đài San Shou Kickboxing với thành tích 17-0, là Vô Địch International Kickboxing Federation ở cân hạng Light Heavyweight trước khi chuyển qua thi đấu Mixed Martial Arts. Cung Lê đánh bại Frank Shamrock và trở thành vô địc " Khẳng định: " Võ sĩ Cung Lê, người từng vô địch nhiều giải đấu võ thuật khác nhau và tham dự cả UFC là người gốc Việt.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Cung Lê bất khả chiến bại trên võ đài San Shou Kickboxing với thành tích 17-0, là Vô Địch International Kickboxing Federation ở cân hạng Light Heavyweight trước khi chuyển qua thi đấu Mixed Martial Arts. Cung Lê đánh bại Frank Shamrock và trở thành vô địc " Khẳng định: " Võ sĩ Cung Lê, người từng vô địch nhiều giải đấu võ thuật khác nhau và tham dự cả UFC là người gốc Việt. Giải thích: Cung Lê sinh năm 1972 ở Sài Gòn, Việt Nam, anh từng vô địch International Kickboxing Federation ở cân hạng Light Heavyweight, vô địch hạng trung của Strikeforce, cùng với đó là 35 giải thưởng võ thuật khác nhau, đặc biệt là ba lần đoạt chức vô địch thế gi
47
52
54
Cung Lê (sinh ngày 25 tháng 5 năm 1972), hay còn được biết đến với tên Lê Liệt Cung, là một nam diễn viên điện ảnh và cũng là cựu võ sĩ kickboxing và Mixed Martial Arts chuyên nghiệp người Mỹ gốc Việt. Cung Lê bất khả chiến bại trên võ đài San Shou Kickboxing với thành tích 17-0, là Vô Địch International Kickboxing Federation ở cân hạng Light Heavyweight trước khi chuyển qua thi đấu Mixed Martial Arts. Cung Lê đánh bại Frank Shamrock và trở thành vô địch hạng trung của Strikeforce trước khi từ chức để theo đuổi sự nghiệp điện ảnh và tham gia giải UFC, giải đấu võ tự do lớn nhất thế giới. Cung Lê sinh năm 1972 tại Sài Gòn, Việt Nam Cộng hòa. Năm 1975, vỏn vẹn ba ngày trước khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, cậu bé Cung Lê cùng mẹ rời quê hương khi chưa đầy 3 tuổi bằng máy bay trực thăng. Hai mẹ con sống tại một trại tỵ nạn Philippines trước khi được bảo lãnh sang định cư tại thành phố San Jose, thuộc tiểu bang California, Hoa Kỳ vào tháng 9 năm 1976. Là một đứa bé Việt Nam vóc dáng nhỏ bé, Cung Lê luôn bị các đứa trẻ lớn hơn bắt nạt. Năm lên 10 tuổi, mẹ của Cung Lê cho phép anh luyện tập Taekwondo để tự vệ. Bắt đầu từ lớp học võ đầu tiên đó, Cung Lê không ngừng tiếp thu các môn võ thuật khác nhau như vật, Nhu thuật Brasil, Tán Thủ, Muay Thái, và trở thành một võ sĩ chuyên nghiệp với hơn 35 giải thưởng võ thuật, ba lần đoạt chức vô địch thế giới. Với những thành tích vang dội đó, Cung Lê đã được lên bìa những tạp chí võ thuật nổi tiếng như Inside Kungfu, Black Belt Magazine, và Martial Arts Illustrated.
Người dạy Cung Lê Taekwondo cũng như Muay Thái từ năm 10 tuổi là một võ sư người Thái Lan.
Năm lên 10 tuổi, mẹ của Cung Lê cho phép anh luyện tập Taekwondo để tự vệ. Bắt đầu từ lớp học võ đầu tiên đó, Cung Lê không ngừng tiếp thu các môn võ thuật khác nhau như vật, Nhu thuật Brasil, Tán Thủ, Muay Thái, và trở thành một võ sĩ chuyên nghiệp với h
không có thông tin
Năm 10 tuổi, Cung Lê đi học Taekwondo để tự vệ sau đó tiếp tục học thêm vật, Muay Thái, Tán Thủ nhưng không có thông tin về người dạy anh các môn võ.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Năm lên 10 tuổi, mẹ của Cung Lê cho phép anh luyện tập Taekwondo để tự vệ. Bắt đầu từ lớp học võ đầu tiên đó, Cung Lê không ngừng tiếp thu các môn võ thuật khác nhau như vật, Nhu thuật Brasil, Tán Thủ, Muay Thái, và trở thành một võ sĩ chuyên nghiệp với h " Khẳng định: " Người dạy Cung Lê Taekwondo cũng như Muay Thái từ năm 10 tuổi là một võ sư người Thái Lan.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Năm lên 10 tuổi, mẹ của Cung Lê cho phép anh luyện tập Taekwondo để tự vệ. Bắt đầu từ lớp học võ đầu tiên đó, Cung Lê không ngừng tiếp thu các môn võ thuật khác nhau như vật, Nhu thuật Brasil, Tán Thủ, Muay Thái, và trở thành một võ sĩ chuyên nghiệp với h " Khẳng định: " Người dạy Cung Lê Taekwondo cũng như Muay Thái từ năm 10 tuổi là một võ sư người Thái Lan. Giải thích: Năm 10 tuổi, Cung Lê đi học Taekwondo để tự vệ sau đó tiếp tục học thêm vật, Muay Thái, Tán Thủ nhưng không có thông tin về người dạy anh các môn võ.
48
53
55
Cuộc nổi dậy Tạ Văn Phụng, hay còn gọi là Cuộc bạo loạn ven biển hoặc Nạn giặc biển; là tên gọi của cuộc nổi dậy do Tạ Văn Phụng lãnh đạo chống lại triều đình nhà Nguyễn ở vùng ven biển Bắc Kỳ từ 1861 cho tới 1865. Lê Duy Phụng tên thật là Tạ Văn Phụng, trước đã từng tham gia trong lực lượng Pháp tiến đánh Nam Kỳ. Đầu năm 1862, ông mạo xưng là Lê Duy Minh, con cháu nhà Lê để nổi dậy chống lại triều đình, nổi lên cướp phá ở vùng ven biển gây thêm khó khăn cho triều Nguyễn. Theo nhà nghiên cứu Đào Duy Anh thì Lê Duy Phụng hẳn là hành động theo lệnh Pháp vì khi đó Pháp đang xâm chiếm Nam Kỳ. Cuộc nổi dậy đã được các nhóm nổi dậy khác ở khắp Bắc Kỳ như Hải Dương, Bắc Ninh, Sơn Tây, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Thanh Hoá, Nghệ An và hải tặc ngoài biển ủng hộ. Ông Phụng đã liên kết với một đạo trưởng tên Trường nổi lên ở miền Quảng Yên vào tháng 12 năm Tân Dậu (1861). Tháng 8 năm 1862 quân của Phụng vây đánh tỉnh thành Hải Dương. Triều đình phải sai Binh bộ Thượng thư Trương Quốc Dụng đem quân Kinh và quân Thanh-Nghệ ra công tiễu, giải vây Hải Dương cuối tháng 9.
Việc ông Phụng nổi dậy khởi nghĩa được sự ủng hộ từ nhiều nơi, ông còn liên minh với một người đạo trưởng tiến đánh Hải Dương buộc triều đình phải đưa quân ra chống đỡ.
Cuộc nổi dậy đã được các nhóm nổi dậy khác ở khắp Bắc Kỳ như Hải Dương, Bắc Ninh, Sơn Tây, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Thanh Hoá, Nghệ An và hải tặc ngoài biển ủng hộ. Ông Phụng đã liên kết với một đạo trưởng tên Trường nổi lên ở miền Quảng Yên vào tháng 1
hỗ trợ
Cuộc nổi dậy của ông Phụng được các nhóm khác ở Bắc Kỳ và cả hải tặc ủng hộ, ông liên kết với một đạo trưởng tên Trường ở Quang Yên rồi tiến đánh Hải Dương tháng 8 năm 1862 buộc triều đình phải sai Binh bộ Thượng thư Trương Quốc Dụng đem quân ra giải vây.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Cuộc nổi dậy đã được các nhóm nổi dậy khác ở khắp Bắc Kỳ như Hải Dương, Bắc Ninh, Sơn Tây, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Thanh Hoá, Nghệ An và hải tặc ngoài biển ủng hộ. Ông Phụng đã liên kết với một đạo trưởng tên Trường nổi lên ở miền Quảng Yên vào tháng 1 " Khẳng định: " Việc ông Phụng nổi dậy khởi nghĩa được sự ủng hộ từ nhiều nơi, ông còn liên minh với một người đạo trưởng tiến đánh Hải Dương buộc triều đình phải đưa quân ra chống đỡ.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Cuộc nổi dậy đã được các nhóm nổi dậy khác ở khắp Bắc Kỳ như Hải Dương, Bắc Ninh, Sơn Tây, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Thanh Hoá, Nghệ An và hải tặc ngoài biển ủng hộ. Ông Phụng đã liên kết với một đạo trưởng tên Trường nổi lên ở miền Quảng Yên vào tháng 1 " Khẳng định: " Việc ông Phụng nổi dậy khởi nghĩa được sự ủng hộ từ nhiều nơi, ông còn liên minh với một người đạo trưởng tiến đánh Hải Dương buộc triều đình phải đưa quân ra chống đỡ. Giải thích: Cuộc nổi dậy của ông Phụng được các nhóm khác ở Bắc Kỳ và cả hải tặc ủng hộ, ông liên kết với một đạo trưởng tên Trường ở Quang Yên rồi tiến đánh Hải Dương tháng 8 năm 1862 buộc triều đình phải sai Binh bộ Thượng thư Trương Quốc Dụng đem quân ra giải vây.
49
54
56
Cuộc nổi dậy Tạ Văn Phụng, hay còn gọi là Cuộc bạo loạn ven biển hoặc Nạn giặc biển; là tên gọi của cuộc nổi dậy do Tạ Văn Phụng lãnh đạo chống lại triều đình nhà Nguyễn ở vùng ven biển Bắc Kỳ từ 1861 cho tới 1865. Lê Duy Phụng tên thật là Tạ Văn Phụng, trước đã từng tham gia trong lực lượng Pháp tiến đánh Nam Kỳ. Đầu năm 1862, ông mạo xưng là Lê Duy Minh, con cháu nhà Lê để nổi dậy chống lại triều đình, nổi lên cướp phá ở vùng ven biển gây thêm khó khăn cho triều Nguyễn. Theo nhà nghiên cứu Đào Duy Anh thì Lê Duy Phụng hẳn là hành động theo lệnh Pháp vì khi đó Pháp đang xâm chiếm Nam Kỳ. Cuộc nổi dậy đã được các nhóm nổi dậy khác ở khắp Bắc Kỳ như Hải Dương, Bắc Ninh, Sơn Tây, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Thanh Hoá, Nghệ An và hải tặc ngoài biển ủng hộ. Ông Phụng đã liên kết với một đạo trưởng tên Trường nổi lên ở miền Quảng Yên vào tháng 12 năm Tân Dậu (1861). Tháng 8 năm 1862 quân của Phụng vây đánh tỉnh thành Hải Dương. Triều đình phải sai Binh bộ Thượng thư Trương Quốc Dụng đem quân Kinh và quân Thanh-Nghệ ra công tiễu, giải vây Hải Dương cuối tháng 9.
Lê Duy Phụng là con cháu nhà Lê cũ nên ông đưa quân chống lại Pháp và cả triều đình nhà Nguyễn trên toàn cõi Nam Kỳ.
Lê Duy Phụng tên thật là Tạ Văn Phụng, trước đã từng tham gia trong lực lượng Pháp tiến đánh Nam Kỳ. Đầu năm 1862, ông mạo xưng là Lê Duy Minh, con cháu nhà Lê để nổi dậy chống lại triều đình, nổi lên cướp phá ở vùng ven biển gây thêm khó khăn cho triều N
bác bỏ
Lê Duy Phụng tên thật là Tạ Văn Phụng, ông mạo danh là con cháu nhà Lê để nổi dậy đánh triều đình nhà Nguyễn, theo Đào Duy Anh thì ông hành động như vậy là theo lệnh của quân Pháp cho thấy ông là một người theo Pháp chống nhà Nguyễn.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Lê Duy Phụng tên thật là Tạ Văn Phụng, trước đã từng tham gia trong lực lượng Pháp tiến đánh Nam Kỳ. Đầu năm 1862, ông mạo xưng là Lê Duy Minh, con cháu nhà Lê để nổi dậy chống lại triều đình, nổi lên cướp phá ở vùng ven biển gây thêm khó khăn cho triều N " Khẳng định: " Lê Duy Phụng là con cháu nhà Lê cũ nên ông đưa quân chống lại Pháp và cả triều đình nhà Nguyễn trên toàn cõi Nam Kỳ.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Lê Duy Phụng tên thật là Tạ Văn Phụng, trước đã từng tham gia trong lực lượng Pháp tiến đánh Nam Kỳ. Đầu năm 1862, ông mạo xưng là Lê Duy Minh, con cháu nhà Lê để nổi dậy chống lại triều đình, nổi lên cướp phá ở vùng ven biển gây thêm khó khăn cho triều N " Khẳng định: " Lê Duy Phụng là con cháu nhà Lê cũ nên ông đưa quân chống lại Pháp và cả triều đình nhà Nguyễn trên toàn cõi Nam Kỳ. Giải thích: Lê Duy Phụng tên thật là Tạ Văn Phụng, ông mạo danh là con cháu nhà Lê để nổi dậy đánh triều đình nhà Nguyễn, theo Đào Duy Anh thì ông hành động như vậy là theo lệnh của quân Pháp cho thấy ông là một người theo Pháp chống nhà Nguyễn.
50
55
57
Cuộc nổi dậy Tạ Văn Phụng, hay còn gọi là Cuộc bạo loạn ven biển hoặc Nạn giặc biển; là tên gọi của cuộc nổi dậy do Tạ Văn Phụng lãnh đạo chống lại triều đình nhà Nguyễn ở vùng ven biển Bắc Kỳ từ 1861 cho tới 1865. Lê Duy Phụng tên thật là Tạ Văn Phụng, trước đã từng tham gia trong lực lượng Pháp tiến đánh Nam Kỳ. Đầu năm 1862, ông mạo xưng là Lê Duy Minh, con cháu nhà Lê để nổi dậy chống lại triều đình, nổi lên cướp phá ở vùng ven biển gây thêm khó khăn cho triều Nguyễn. Theo nhà nghiên cứu Đào Duy Anh thì Lê Duy Phụng hẳn là hành động theo lệnh Pháp vì khi đó Pháp đang xâm chiếm Nam Kỳ. Cuộc nổi dậy đã được các nhóm nổi dậy khác ở khắp Bắc Kỳ như Hải Dương, Bắc Ninh, Sơn Tây, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Thanh Hoá, Nghệ An và hải tặc ngoài biển ủng hộ. Ông Phụng đã liên kết với một đạo trưởng tên Trường nổi lên ở miền Quảng Yên vào tháng 12 năm Tân Dậu (1861). Tháng 8 năm 1862 quân của Phụng vây đánh tỉnh thành Hải Dương. Triều đình phải sai Binh bộ Thượng thư Trương Quốc Dụng đem quân Kinh và quân Thanh-Nghệ ra công tiễu, giải vây Hải Dương cuối tháng 9.
Quân triều đình khi giải vây Hải Dương đã tiêu diệt hơn một nửa quân của ông Phụng và đạo trưởng Trường buộc ông phải tháo lui vào năm 1862.
Ông Phụng đã liên kết với một đạo trưởng tên Trường nổi lên ở miền Quảng Yên vào tháng 12 năm Tân Dậu (1861). Tháng 8 năm 1862 quân của Phụng vây đánh tỉnh thành Hải Dương. Triều đình phải sai Binh bộ Thượng thư Trương Quốc Dụng đem quân Kinh và quân Than
không có thông tin
Ông Phụng liên kết với một đạo trưởng tên Trường ở Quảng Yên rồi đến tháng 8 năm 1862 thì ông vây đánh Hải Dương khiến triều đình phải sai người ra giải vây, tuy nhiên không có số liệu về thương vong của quân số ông Phụng và đồng minh.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Ông Phụng đã liên kết với một đạo trưởng tên Trường nổi lên ở miền Quảng Yên vào tháng 12 năm Tân Dậu (1861). Tháng 8 năm 1862 quân của Phụng vây đánh tỉnh thành Hải Dương. Triều đình phải sai Binh bộ Thượng thư Trương Quốc Dụng đem quân Kinh và quân Than " Khẳng định: " Quân triều đình khi giải vây Hải Dương đã tiêu diệt hơn một nửa quân của ông Phụng và đạo trưởng Trường buộc ông phải tháo lui vào năm 1862.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Ông Phụng đã liên kết với một đạo trưởng tên Trường nổi lên ở miền Quảng Yên vào tháng 12 năm Tân Dậu (1861). Tháng 8 năm 1862 quân của Phụng vây đánh tỉnh thành Hải Dương. Triều đình phải sai Binh bộ Thượng thư Trương Quốc Dụng đem quân Kinh và quân Than " Khẳng định: " Quân triều đình khi giải vây Hải Dương đã tiêu diệt hơn một nửa quân của ông Phụng và đạo trưởng Trường buộc ông phải tháo lui vào năm 1862. Giải thích: Ông Phụng liên kết với một đạo trưởng tên Trường ở Quảng Yên rồi đến tháng 8 năm 1862 thì ông vây đánh Hải Dương khiến triều đình phải sai người ra giải vây, tuy nhiên không có số liệu về thương vong của quân số ông Phụng và đồng minh.
51
56
58
Cuộc thi sắc đẹp là cuộc thi mang tính truyền thống tập trung vào việc đánh giá và xếp hạng các chỉ số hình thể của các thí sinh. Các cuộc thi hiện nay đã phát triển để bao gồm vẻ đẹp bên trong, với các tiêu chí bao gồm đánh giá về nhân cách, trí thông minh, tài năng, tính cách và việc tham gia từ thiện, thông qua các cuộc phỏng vấn riêng với giám khảo và trả lời các câu hỏi công khai trên sân khấu. Thuật ngữ cuộc thi sắc đẹp ban đầu dùng để chỉ Tứ đại Hoa hậu (Big Four). Cuộc thi sắc đẹp bao gồm các cuộc thi dành cho nữ (với các danh hiệu Hoa hậu, Á hậu, Hoa khôi, Á khôi, Nữ hoàng, Á hoàng, Người đẹp) và dành cho nam (với các danh hiệu Nam vương, Hoa vương, Á vương, Quý ông); ngoài ra còn có các cuộc thi dành cho các đối tượng khác như phụ nữ đã lập gia đình (Hoa hậu Quý bà, Hoa hậu Doanh nhân... ), thanh thiếu niên (Nam vương Thiếu niên, Hoa hậu Thiếu niên, Hoa hậu Tuổi teen hay Miss Teen) hay dành cho người thuộc cộng đồng LGBT (Hoa hậu chuyển giới, Nam vương chuyển giới, Hoa hậu Bình đẳng... ). Hàng năm, có tới hàng trăm, thậm chí hàng nghìn cuộc thi sắc đẹp diễn ra trên khắp thế giới. Tuy nhiên, hiện có bốn cuộc thi sắc đẹp được xem là có quy mô và uy tín nhất hay Tứ đại Hoa hậu (Big Four): Hoa hậu Hoàn vũ, Hoa hậu Thế giới, Hoa hậu Quốc tế và Hoa hậu Trái Đất. Người chiến thắng của mỗi cuộc thi sắc đẹp sẽ nhận được vương miện, băng gôn, hoa, cúp, tiền thưởng, các hiện vật có giá trị tinh thần và kỷ niệm. Đến đầu thế kỷ 21, mức độ quan tâm đến các cuộc thi sắc đẹp tại Bắc Mỹ, châu Âu và Đông Á đã suy giảm nhanh chóng, nguyên nhân xuất phát từ những chỉ trích về những điều bị cho là "hữu danh vô thực" mà các cuộc thi này mang lại, sự phê phán việc đánh giá chấm điểm cơ thể người phụ nữ, đồng thời do những hoạt động giải trí tại các quốc gia này đã trở nên phát triển hơn thời kỳ trước. Điều này khiến làn sóng phản đối các cuộc thi sắc đẹp ở các quốc gia này ngày càng lớn. Trái lại, những quốc gia Nam Mỹ và Đông Nam Á vẫn tiếp tục tích cực tổ chức các cuộc thi hoa hậu, việc này được cho là đáp ứng ham muốn dùng sắc đẹp để đổi lấy sự giàu sang, tâm lý thích "hư danh" của công chúng.
Có cả ngàn cuộc thi sắc đẹp trên thế giới mỗi năm, nhưng người ta chỉ quan tâm đến cuộc thi dành cho nữ, riêng cuộc thi giành cho người chuyển giới bị phản đối dữ dội ở nhiều quốc gia.
Cuộc thi sắc đẹp bao gồm các cuộc thi dành cho nữ (với các danh hiệu Hoa hậu, Á hậu, Hoa khôi, Á khôi, Nữ hoàng, Á hoàng, Người đẹp) và dành cho nam (với các danh hiệu Nam vương, Hoa vương, Á vương, Quý ông); ngoài ra còn có các cuộc thi dành cho các đối
không có thông tin
Các cuộc thi sắc đẹp bao gồm cho nữ, nam, phụ nữ lập gia đình, thanh thiếu niên và cả người chuyển giới, có cả hàng trăm hay hàng ngàn cuộc thi như vậy mỗi năm nhưng không có thông tin về sự quan tâm hay phản đối của công chúng với từng cuộc thi riêng biệ
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Cuộc thi sắc đẹp bao gồm các cuộc thi dành cho nữ (với các danh hiệu Hoa hậu, Á hậu, Hoa khôi, Á khôi, Nữ hoàng, Á hoàng, Người đẹp) và dành cho nam (với các danh hiệu Nam vương, Hoa vương, Á vương, Quý ông); ngoài ra còn có các cuộc thi dành cho các đối " Khẳng định: " Có cả ngàn cuộc thi sắc đẹp trên thế giới mỗi năm, nhưng người ta chỉ quan tâm đến cuộc thi dành cho nữ, riêng cuộc thi giành cho người chuyển giới bị phản đối dữ dội ở nhiều quốc gia.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Cuộc thi sắc đẹp bao gồm các cuộc thi dành cho nữ (với các danh hiệu Hoa hậu, Á hậu, Hoa khôi, Á khôi, Nữ hoàng, Á hoàng, Người đẹp) và dành cho nam (với các danh hiệu Nam vương, Hoa vương, Á vương, Quý ông); ngoài ra còn có các cuộc thi dành cho các đối " Khẳng định: " Có cả ngàn cuộc thi sắc đẹp trên thế giới mỗi năm, nhưng người ta chỉ quan tâm đến cuộc thi dành cho nữ, riêng cuộc thi giành cho người chuyển giới bị phản đối dữ dội ở nhiều quốc gia. Giải thích: Các cuộc thi sắc đẹp bao gồm cho nữ, nam, phụ nữ lập gia đình, thanh thiếu niên và cả người chuyển giới, có cả hàng trăm hay hàng ngàn cuộc thi như vậy mỗi năm nhưng không có thông tin về sự quan tâm hay phản đối của công chúng với từng cuộc thi riêng biệ
52
57
59
Cuộc thi sắc đẹp là cuộc thi mang tính truyền thống tập trung vào việc đánh giá và xếp hạng các chỉ số hình thể của các thí sinh. Các cuộc thi hiện nay đã phát triển để bao gồm vẻ đẹp bên trong, với các tiêu chí bao gồm đánh giá về nhân cách, trí thông minh, tài năng, tính cách và việc tham gia từ thiện, thông qua các cuộc phỏng vấn riêng với giám khảo và trả lời các câu hỏi công khai trên sân khấu. Thuật ngữ cuộc thi sắc đẹp ban đầu dùng để chỉ Tứ đại Hoa hậu (Big Four). Cuộc thi sắc đẹp bao gồm các cuộc thi dành cho nữ (với các danh hiệu Hoa hậu, Á hậu, Hoa khôi, Á khôi, Nữ hoàng, Á hoàng, Người đẹp) và dành cho nam (với các danh hiệu Nam vương, Hoa vương, Á vương, Quý ông); ngoài ra còn có các cuộc thi dành cho các đối tượng khác như phụ nữ đã lập gia đình (Hoa hậu Quý bà, Hoa hậu Doanh nhân... ), thanh thiếu niên (Nam vương Thiếu niên, Hoa hậu Thiếu niên, Hoa hậu Tuổi teen hay Miss Teen) hay dành cho người thuộc cộng đồng LGBT (Hoa hậu chuyển giới, Nam vương chuyển giới, Hoa hậu Bình đẳng... ). Hàng năm, có tới hàng trăm, thậm chí hàng nghìn cuộc thi sắc đẹp diễn ra trên khắp thế giới. Tuy nhiên, hiện có bốn cuộc thi sắc đẹp được xem là có quy mô và uy tín nhất hay Tứ đại Hoa hậu (Big Four): Hoa hậu Hoàn vũ, Hoa hậu Thế giới, Hoa hậu Quốc tế và Hoa hậu Trái Đất. Người chiến thắng của mỗi cuộc thi sắc đẹp sẽ nhận được vương miện, băng gôn, hoa, cúp, tiền thưởng, các hiện vật có giá trị tinh thần và kỷ niệm. Đến đầu thế kỷ 21, mức độ quan tâm đến các cuộc thi sắc đẹp tại Bắc Mỹ, châu Âu và Đông Á đã suy giảm nhanh chóng, nguyên nhân xuất phát từ những chỉ trích về những điều bị cho là "hữu danh vô thực" mà các cuộc thi này mang lại, sự phê phán việc đánh giá chấm điểm cơ thể người phụ nữ, đồng thời do những hoạt động giải trí tại các quốc gia này đã trở nên phát triển hơn thời kỳ trước. Điều này khiến làn sóng phản đối các cuộc thi sắc đẹp ở các quốc gia này ngày càng lớn. Trái lại, những quốc gia Nam Mỹ và Đông Nam Á vẫn tiếp tục tích cực tổ chức các cuộc thi hoa hậu, việc này được cho là đáp ứng ham muốn dùng sắc đẹp để đổi lấy sự giàu sang, tâm lý thích "hư danh" của công chúng.
Các cuộc thi sắc đẹp trong đầu thế kỉ 21 vấp phải nhiều sự chỉ trích gay gắt của các quốc gia tuy nhiên chúng vẫn phổ biến ở Đông Nam Á bởi sự ưa thích hư danh nơi đây.
Đến đầu thế kỷ 21, mức độ quan tâm đến các cuộc thi sắc đẹp tại Bắc Mỹ, châu Âu và Đông Á đã suy giảm nhanh chóng, nguyên nhân xuất phát từ những chỉ trích về những điều bị cho là "hữu danh vô thực" mà các cuộc thi này mang lại, sự phê phán việc đánh giá
hỗ trợ
Đầu thế kỷ 21, các cuộc thi sắc đẹp tại Bắc Mỹ, châu Âu và Đông Á suy giảm do những chỉ trích, phản đối ngày càng lớn, tuy nhiên ở Đông Nam Á hay Nam Mỹ các cuộc thi vẫn tiếp tục tích cực tổ chức, việc này được cho là đáp ứng ham muốn dùng sắc đẹp để đổi
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Đến đầu thế kỷ 21, mức độ quan tâm đến các cuộc thi sắc đẹp tại Bắc Mỹ, châu Âu và Đông Á đã suy giảm nhanh chóng, nguyên nhân xuất phát từ những chỉ trích về những điều bị cho là "hữu danh vô thực" mà các cuộc thi này mang lại, sự phê phán việc đánh giá " Khẳng định: " Các cuộc thi sắc đẹp trong đầu thế kỉ 21 vấp phải nhiều sự chỉ trích gay gắt của các quốc gia tuy nhiên chúng vẫn phổ biến ở Đông Nam Á bởi sự ưa thích hư danh nơi đây.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Đến đầu thế kỷ 21, mức độ quan tâm đến các cuộc thi sắc đẹp tại Bắc Mỹ, châu Âu và Đông Á đã suy giảm nhanh chóng, nguyên nhân xuất phát từ những chỉ trích về những điều bị cho là "hữu danh vô thực" mà các cuộc thi này mang lại, sự phê phán việc đánh giá " Khẳng định: " Các cuộc thi sắc đẹp trong đầu thế kỉ 21 vấp phải nhiều sự chỉ trích gay gắt của các quốc gia tuy nhiên chúng vẫn phổ biến ở Đông Nam Á bởi sự ưa thích hư danh nơi đây. Giải thích: Đầu thế kỷ 21, các cuộc thi sắc đẹp tại Bắc Mỹ, châu Âu và Đông Á suy giảm do những chỉ trích, phản đối ngày càng lớn, tuy nhiên ở Đông Nam Á hay Nam Mỹ các cuộc thi vẫn tiếp tục tích cực tổ chức, việc này được cho là đáp ứng ham muốn dùng sắc đẹp để đổi
53
58
60
Cuộc thi sắc đẹp là cuộc thi mang tính truyền thống tập trung vào việc đánh giá và xếp hạng các chỉ số hình thể của các thí sinh. Các cuộc thi hiện nay đã phát triển để bao gồm vẻ đẹp bên trong, với các tiêu chí bao gồm đánh giá về nhân cách, trí thông minh, tài năng, tính cách và việc tham gia từ thiện, thông qua các cuộc phỏng vấn riêng với giám khảo và trả lời các câu hỏi công khai trên sân khấu. Thuật ngữ cuộc thi sắc đẹp ban đầu dùng để chỉ Tứ đại Hoa hậu (Big Four). Cuộc thi sắc đẹp bao gồm các cuộc thi dành cho nữ (với các danh hiệu Hoa hậu, Á hậu, Hoa khôi, Á khôi, Nữ hoàng, Á hoàng, Người đẹp) và dành cho nam (với các danh hiệu Nam vương, Hoa vương, Á vương, Quý ông); ngoài ra còn có các cuộc thi dành cho các đối tượng khác như phụ nữ đã lập gia đình (Hoa hậu Quý bà, Hoa hậu Doanh nhân... ), thanh thiếu niên (Nam vương Thiếu niên, Hoa hậu Thiếu niên, Hoa hậu Tuổi teen hay Miss Teen) hay dành cho người thuộc cộng đồng LGBT (Hoa hậu chuyển giới, Nam vương chuyển giới, Hoa hậu Bình đẳng... ). Hàng năm, có tới hàng trăm, thậm chí hàng nghìn cuộc thi sắc đẹp diễn ra trên khắp thế giới. Tuy nhiên, hiện có bốn cuộc thi sắc đẹp được xem là có quy mô và uy tín nhất hay Tứ đại Hoa hậu (Big Four): Hoa hậu Hoàn vũ, Hoa hậu Thế giới, Hoa hậu Quốc tế và Hoa hậu Trái Đất. Người chiến thắng của mỗi cuộc thi sắc đẹp sẽ nhận được vương miện, băng gôn, hoa, cúp, tiền thưởng, các hiện vật có giá trị tinh thần và kỷ niệm. Đến đầu thế kỷ 21, mức độ quan tâm đến các cuộc thi sắc đẹp tại Bắc Mỹ, châu Âu và Đông Á đã suy giảm nhanh chóng, nguyên nhân xuất phát từ những chỉ trích về những điều bị cho là "hữu danh vô thực" mà các cuộc thi này mang lại, sự phê phán việc đánh giá chấm điểm cơ thể người phụ nữ, đồng thời do những hoạt động giải trí tại các quốc gia này đã trở nên phát triển hơn thời kỳ trước. Điều này khiến làn sóng phản đối các cuộc thi sắc đẹp ở các quốc gia này ngày càng lớn. Trái lại, những quốc gia Nam Mỹ và Đông Nam Á vẫn tiếp tục tích cực tổ chức các cuộc thi hoa hậu, việc này được cho là đáp ứng ham muốn dùng sắc đẹp để đổi lấy sự giàu sang, tâm lý thích "hư danh" của công chúng.
Cuộc thi sắc đẹp cả truyền thống lẫn hiện đại đều tập trung vào đánh giá hình thể bên ngoài qua bầu chọn của khán giả và các câu hỏi kín của ban giám khảo.
Cuộc thi sắc đẹp là cuộc thi mang tính truyền thống tập trung vào việc đánh giá và xếp hạng các chỉ số hình thể của các thí sinh. Các cuộc thi hiện nay đã phát triển để bao gồm vẻ đẹp bên trong, với các tiêu chí bao gồm đánh giá về nhân cách, trí thông mi
bác bỏ
Cuộc thi sắc đẹp truyền thống chỉ tập trung đánh giá các chỉ số hình thể của thí sinh, còn các cuộc thi hiện đại có thêm vẻ đẹp bên trong, với các tiêu chí bao gồm đánh giá về nhân cách, trí thông minh, tài năng, tính cách và việc tham gia từ thiện thông
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Cuộc thi sắc đẹp là cuộc thi mang tính truyền thống tập trung vào việc đánh giá và xếp hạng các chỉ số hình thể của các thí sinh. Các cuộc thi hiện nay đã phát triển để bao gồm vẻ đẹp bên trong, với các tiêu chí bao gồm đánh giá về nhân cách, trí thông mi " Khẳng định: " Cuộc thi sắc đẹp cả truyền thống lẫn hiện đại đều tập trung vào đánh giá hình thể bên ngoài qua bầu chọn của khán giả và các câu hỏi kín của ban giám khảo.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Cuộc thi sắc đẹp là cuộc thi mang tính truyền thống tập trung vào việc đánh giá và xếp hạng các chỉ số hình thể của các thí sinh. Các cuộc thi hiện nay đã phát triển để bao gồm vẻ đẹp bên trong, với các tiêu chí bao gồm đánh giá về nhân cách, trí thông mi " Khẳng định: " Cuộc thi sắc đẹp cả truyền thống lẫn hiện đại đều tập trung vào đánh giá hình thể bên ngoài qua bầu chọn của khán giả và các câu hỏi kín của ban giám khảo. Giải thích: Cuộc thi sắc đẹp truyền thống chỉ tập trung đánh giá các chỉ số hình thể của thí sinh, còn các cuộc thi hiện đại có thêm vẻ đẹp bên trong, với các tiêu chí bao gồm đánh giá về nhân cách, trí thông minh, tài năng, tính cách và việc tham gia từ thiện thông
54
62
64
Cách mạng Mỹ là một cuộc cách mạng tư tưởng và chính trị diễn ra từ năm 1765 đến năm 1783 tại mười ba thuộc địa của Đế quốc Anh ở Bắc Mỹ, làm nảy sinh cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ chống lại Anh Quốc (1775–1783). Với sự hỗ trợ của Pháp, 13 bang thuộc địa đã thắng lợi, qua đó chính thức giành được độc lập từ tay đế quốc Anh và thành lập nên một quốc gia mới là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, nền dân chủ tự do lập hiến đầu tiên thời hiện đại. Nhân dân các thuộc địa Bắc Mỹ đã tuyên bố lập trường của họ "không đánh thuế mà không có đại diện", sau khi Quốc hội Anh thông qua Đạo luật thuế tem năm 1765. Họ khẳng định rằng Quốc hội Anh không có quyền áp đặt thuế đối với họ khi mà cả 13 thuộc địa Bắc Mỹ đều không có bất kỳ một thành viên đại diện nào trong quốc hội. Các cuộc biểu tình liên tục leo thang đến Cuộc thảm sát Boston năm 1770 và vụ đốt tàu Gaspee ở Đảo Rhodes năm 1772. Mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm sau sự kiện Tiệc trà Boston vào tháng 12 năm 1773, khi mà những người ủng hộ độc lập đã phá hủy một lô hàng trà bị đánh thuế tại cảng Boston ở Massachusetts. Người Anh đã đáp trả bằng cách phong tỏa cảng Boston, tiếp đó là ban hành một loạt các đạo luật nhằm loại bỏ có hiệu quả quyền tự trị của Massachusetts. Vào cuối năm 1774, những người ủng hộ độc lập cho các thuộc địa ở Bắc Mỹ đã thành lập một chính phủ của riêng họ tại Hội nghị lục địa lần thứ nhất, với mục đích phối hợp tốt hơn các nỗ lực kháng chiến chống lại Đế quốc Anh; họ được gọi là Patriots (người yêu nước) hoặc Whigs. Trong khi đó một bộ phận người dân Bắc Mỹ vẫn trung thành với Hoàng gia Anh, họ được gọi là Loyalists (người trung thành) hoặc Tories.
Người dân các thuộc địa đồng ý cho việc thu thuế dù không có thành viên quốc hội Anh nào đại diện, điều này khiến căng thẳng leo thang dẫn tới thảm sát Boston hay đốt tàu.
Nhân dân các thuộc địa Bắc Mỹ đã tuyên bố lập trường của họ "không đánh thuế mà không có đại diện", sau khi Quốc hội Anh thông qua Đạo luật thuế tem năm 1765. Họ khẳng định rằng Quốc hội Anh không có quyền áp đặt thuế đối với họ khi mà cả 13 thuộc địa Bắc
bác bỏ
Nhân dân tại các vùng thuộc địa Bắc Mỹ không cho phép đánh thuế nếu không có đại diện, người Anh cũng không có bất kỳ một thành viên đại diện nào trong quốc hội ở 13 thuộc địa Bắc Mỹ, điều này dẫn tới các cuộc biểu tình leo thang đến thảm sát Boston năm 1
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Nhân dân các thuộc địa Bắc Mỹ đã tuyên bố lập trường của họ "không đánh thuế mà không có đại diện", sau khi Quốc hội Anh thông qua Đạo luật thuế tem năm 1765. Họ khẳng định rằng Quốc hội Anh không có quyền áp đặt thuế đối với họ khi mà cả 13 thuộc địa Bắc " Khẳng định: " Người dân các thuộc địa đồng ý cho việc thu thuế dù không có thành viên quốc hội Anh nào đại diện, điều này khiến căng thẳng leo thang dẫn tới thảm sát Boston hay đốt tàu.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Nhân dân các thuộc địa Bắc Mỹ đã tuyên bố lập trường của họ "không đánh thuế mà không có đại diện", sau khi Quốc hội Anh thông qua Đạo luật thuế tem năm 1765. Họ khẳng định rằng Quốc hội Anh không có quyền áp đặt thuế đối với họ khi mà cả 13 thuộc địa Bắc " Khẳng định: " Người dân các thuộc địa đồng ý cho việc thu thuế dù không có thành viên quốc hội Anh nào đại diện, điều này khiến căng thẳng leo thang dẫn tới thảm sát Boston hay đốt tàu. Giải thích: Nhân dân tại các vùng thuộc địa Bắc Mỹ không cho phép đánh thuế nếu không có đại diện, người Anh cũng không có bất kỳ một thành viên đại diện nào trong quốc hội ở 13 thuộc địa Bắc Mỹ, điều này dẫn tới các cuộc biểu tình leo thang đến thảm sát Boston năm 1
55
63
65
Cách mạng Mỹ là một cuộc cách mạng tư tưởng và chính trị diễn ra từ năm 1765 đến năm 1783 tại mười ba thuộc địa của Đế quốc Anh ở Bắc Mỹ, làm nảy sinh cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ chống lại Anh Quốc (1775–1783). Với sự hỗ trợ của Pháp, 13 bang thuộc địa đã thắng lợi, qua đó chính thức giành được độc lập từ tay đế quốc Anh và thành lập nên một quốc gia mới là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, nền dân chủ tự do lập hiến đầu tiên thời hiện đại. Nhân dân các thuộc địa Bắc Mỹ đã tuyên bố lập trường của họ "không đánh thuế mà không có đại diện", sau khi Quốc hội Anh thông qua Đạo luật thuế tem năm 1765. Họ khẳng định rằng Quốc hội Anh không có quyền áp đặt thuế đối với họ khi mà cả 13 thuộc địa Bắc Mỹ đều không có bất kỳ một thành viên đại diện nào trong quốc hội. Các cuộc biểu tình liên tục leo thang đến Cuộc thảm sát Boston năm 1770 và vụ đốt tàu Gaspee ở Đảo Rhodes năm 1772. Mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm sau sự kiện Tiệc trà Boston vào tháng 12 năm 1773, khi mà những người ủng hộ độc lập đã phá hủy một lô hàng trà bị đánh thuế tại cảng Boston ở Massachusetts. Người Anh đã đáp trả bằng cách phong tỏa cảng Boston, tiếp đó là ban hành một loạt các đạo luật nhằm loại bỏ có hiệu quả quyền tự trị của Massachusetts. Vào cuối năm 1774, những người ủng hộ độc lập cho các thuộc địa ở Bắc Mỹ đã thành lập một chính phủ của riêng họ tại Hội nghị lục địa lần thứ nhất, với mục đích phối hợp tốt hơn các nỗ lực kháng chiến chống lại Đế quốc Anh; họ được gọi là Patriots (người yêu nước) hoặc Whigs. Trong khi đó một bộ phận người dân Bắc Mỹ vẫn trung thành với Hoàng gia Anh, họ được gọi là Loyalists (người trung thành) hoặc Tories.
Người dân Boston phả hủy lô hàng trà bằng cách ném chúng xuống biển, điều này khiến người Anh tức giận và phong tỏa cảng Boston.
Mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm sau sự kiện Tiệc trà Boston vào tháng 12 năm 1773, khi mà những người ủng hộ độc lập đã phá hủy một lô hàng trà bị đánh thuế tại cảng Boston ở Massachusetts. Người Anh đã đáp trả bằng cách phong tỏa cảng Boston, tiếp đó là ban
không có thông tin
Không có dữ kiện về cách mà người dân Boston phá hủy lô trà năm 1773.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm sau sự kiện Tiệc trà Boston vào tháng 12 năm 1773, khi mà những người ủng hộ độc lập đã phá hủy một lô hàng trà bị đánh thuế tại cảng Boston ở Massachusetts. Người Anh đã đáp trả bằng cách phong tỏa cảng Boston, tiếp đó là ban " Khẳng định: " Người dân Boston phả hủy lô hàng trà bằng cách ném chúng xuống biển, điều này khiến người Anh tức giận và phong tỏa cảng Boston.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm sau sự kiện Tiệc trà Boston vào tháng 12 năm 1773, khi mà những người ủng hộ độc lập đã phá hủy một lô hàng trà bị đánh thuế tại cảng Boston ở Massachusetts. Người Anh đã đáp trả bằng cách phong tỏa cảng Boston, tiếp đó là ban " Khẳng định: " Người dân Boston phả hủy lô hàng trà bằng cách ném chúng xuống biển, điều này khiến người Anh tức giận và phong tỏa cảng Boston. Giải thích: Không có dữ kiện về cách mà người dân Boston phá hủy lô trà năm 1773.
56
64
66
Cách mạng Mỹ là một cuộc cách mạng tư tưởng và chính trị diễn ra từ năm 1765 đến năm 1783 tại mười ba thuộc địa của Đế quốc Anh ở Bắc Mỹ, làm nảy sinh cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ chống lại Anh Quốc (1775–1783). Với sự hỗ trợ của Pháp, 13 bang thuộc địa đã thắng lợi, qua đó chính thức giành được độc lập từ tay đế quốc Anh và thành lập nên một quốc gia mới là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, nền dân chủ tự do lập hiến đầu tiên thời hiện đại. Nhân dân các thuộc địa Bắc Mỹ đã tuyên bố lập trường của họ "không đánh thuế mà không có đại diện", sau khi Quốc hội Anh thông qua Đạo luật thuế tem năm 1765. Họ khẳng định rằng Quốc hội Anh không có quyền áp đặt thuế đối với họ khi mà cả 13 thuộc địa Bắc Mỹ đều không có bất kỳ một thành viên đại diện nào trong quốc hội. Các cuộc biểu tình liên tục leo thang đến Cuộc thảm sát Boston năm 1770 và vụ đốt tàu Gaspee ở Đảo Rhodes năm 1772. Mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm sau sự kiện Tiệc trà Boston vào tháng 12 năm 1773, khi mà những người ủng hộ độc lập đã phá hủy một lô hàng trà bị đánh thuế tại cảng Boston ở Massachusetts. Người Anh đã đáp trả bằng cách phong tỏa cảng Boston, tiếp đó là ban hành một loạt các đạo luật nhằm loại bỏ có hiệu quả quyền tự trị của Massachusetts. Vào cuối năm 1774, những người ủng hộ độc lập cho các thuộc địa ở Bắc Mỹ đã thành lập một chính phủ của riêng họ tại Hội nghị lục địa lần thứ nhất, với mục đích phối hợp tốt hơn các nỗ lực kháng chiến chống lại Đế quốc Anh; họ được gọi là Patriots (người yêu nước) hoặc Whigs. Trong khi đó một bộ phận người dân Bắc Mỹ vẫn trung thành với Hoàng gia Anh, họ được gọi là Loyalists (người trung thành) hoặc Tories.
Người dân Bắc Mỹ chia làm 2 phe cuối năm 1774, những người ủng hộ và chống đối Đế quốc Anh.
Vào cuối năm 1774, những người ủng hộ độc lập cho các thuộc địa ở Bắc Mỹ đã thành lập một chính phủ của riêng họ tại Hội nghị lục địa lần thứ nhất, với mục đích phối hợp tốt hơn các nỗ lực kháng chiến chống lại Đế quốc Anh; họ được gọi là Patriots (người
hỗ trợ
Cuối năm 1774, người ủng hộ độc lập cho thuộc địa Bắc Mỹ đã thành lập chính phủ riêng để nỗ lực kháng chiến chống quân Anh gọi là Patriots, trong khi một bộ phận khác vẫn trung thành với Hoàng gia Anh gọi là Loyalists.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Vào cuối năm 1774, những người ủng hộ độc lập cho các thuộc địa ở Bắc Mỹ đã thành lập một chính phủ của riêng họ tại Hội nghị lục địa lần thứ nhất, với mục đích phối hợp tốt hơn các nỗ lực kháng chiến chống lại Đế quốc Anh; họ được gọi là Patriots (người " Khẳng định: " Người dân Bắc Mỹ chia làm 2 phe cuối năm 1774, những người ủng hộ và chống đối Đế quốc Anh.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Vào cuối năm 1774, những người ủng hộ độc lập cho các thuộc địa ở Bắc Mỹ đã thành lập một chính phủ của riêng họ tại Hội nghị lục địa lần thứ nhất, với mục đích phối hợp tốt hơn các nỗ lực kháng chiến chống lại Đế quốc Anh; họ được gọi là Patriots (người " Khẳng định: " Người dân Bắc Mỹ chia làm 2 phe cuối năm 1774, những người ủng hộ và chống đối Đế quốc Anh. Giải thích: Cuối năm 1774, người ủng hộ độc lập cho thuộc địa Bắc Mỹ đã thành lập chính phủ riêng để nỗ lực kháng chiến chống quân Anh gọi là Patriots, trong khi một bộ phận khác vẫn trung thành với Hoàng gia Anh gọi là Loyalists.
57
65
67
Cổ Long là nhà văn viết tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng, với 69 tác phẩm văn học đã được trình bày đến công chúng cùng với nhiều nhân vật chính và phụ điển hình. Tiểu thuyết của ông mang phong cách hiện đại, tính triết lý sâu sắc, rất khác biệt với các võ hiệp tiểu thuyết gia cùng thời và trước đó. Truyện của ông hoàn toàn hư cấu về thời gian và không gian nhưng tâm lý và quan hệ của các nhân vật trong truyện lại rất thật. Cổ Long không miêu tả kỹ về xuất thân và võ công mà xoay quanh nội tâm của các nhân vật, thường thì họ không phải những mẫu anh hùng điển hình toàn diện, mà là một con người thực, có tốt có xấu, có lúc sai có lúc đúng, ham mê tửu sắc giống như bản thân Cổ Long. Kết thúc truyện của ông đôi khi rất dở dang nhưng chính sự dở dang đó đã để lại nhiều suy nghĩ trong lòng người đọc, giúp chúng ta hiểu ra được nhiều điều
Các nhân vật của Cổ Long cũng như kết thúc truyện giống như chính ông, không toàn diện đem lại nhiều điều trăn trở cho người đọc.
Cổ Long không miêu tả kỹ về xuất thân và võ công mà xoay quanh nội tâm của các nhân vật, thường thì họ không phải những mẫu anh hùng điển hình toàn diện, mà là một con người thực, có tốt có xấu, có lúc sai có lúc đúng, ham mê tửu sắc giống như bản thân Cổ
hỗ trợ
Nhân vật trong truyện của Cổ Long không phải là những anh hùng toàn diện mà là những người có tốt, có xấu giống như bản thân Cổ Long, kết thúc truyện của ông cũng đôi khi dở dang để lại trong lòng người đọc nhiều suy ngẫm.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Cổ Long không miêu tả kỹ về xuất thân và võ công mà xoay quanh nội tâm của các nhân vật, thường thì họ không phải những mẫu anh hùng điển hình toàn diện, mà là một con người thực, có tốt có xấu, có lúc sai có lúc đúng, ham mê tửu sắc giống như bản thân Cổ " Khẳng định: " Các nhân vật của Cổ Long cũng như kết thúc truyện giống như chính ông, không toàn diện đem lại nhiều điều trăn trở cho người đọc.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Cổ Long không miêu tả kỹ về xuất thân và võ công mà xoay quanh nội tâm của các nhân vật, thường thì họ không phải những mẫu anh hùng điển hình toàn diện, mà là một con người thực, có tốt có xấu, có lúc sai có lúc đúng, ham mê tửu sắc giống như bản thân Cổ " Khẳng định: " Các nhân vật của Cổ Long cũng như kết thúc truyện giống như chính ông, không toàn diện đem lại nhiều điều trăn trở cho người đọc. Giải thích: Nhân vật trong truyện của Cổ Long không phải là những anh hùng toàn diện mà là những người có tốt, có xấu giống như bản thân Cổ Long, kết thúc truyện của ông cũng đôi khi dở dang để lại trong lòng người đọc nhiều suy ngẫm.
58
66
68
Cổ Long là nhà văn viết tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng, với 69 tác phẩm văn học đã được trình bày đến công chúng cùng với nhiều nhân vật chính và phụ điển hình. Tiểu thuyết của ông mang phong cách hiện đại, tính triết lý sâu sắc, rất khác biệt với các võ hiệp tiểu thuyết gia cùng thời và trước đó. Truyện của ông hoàn toàn hư cấu về thời gian và không gian nhưng tâm lý và quan hệ của các nhân vật trong truyện lại rất thật. Cổ Long không miêu tả kỹ về xuất thân và võ công mà xoay quanh nội tâm của các nhân vật, thường thì họ không phải những mẫu anh hùng điển hình toàn diện, mà là một con người thực, có tốt có xấu, có lúc sai có lúc đúng, ham mê tửu sắc giống như bản thân Cổ Long. Kết thúc truyện của ông đôi khi rất dở dang nhưng chính sự dở dang đó đã để lại nhiều suy nghĩ trong lòng người đọc, giúp chúng ta hiểu ra được nhiều điều
Có đến hơn 40 tác phẩm trong số 69 tác phẩm của Cổ Long được dựng thành phim bởi phong cách hiện đại và triết lý sâu sắc, thích hợp với các nhà làm phim thời đó.
Cổ Long là nhà văn viết tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng, với 69 tác phẩm văn học đã được trình bày đến công chúng cùng với nhiều nhân vật chính và phụ điển hình. Tiểu thuyết của ông mang phong cách hiện đại, tính triết lý sâu sắc, rất khác biệt với các võ
không có thông tin
Không có số liệu cụ thể về số lượng tác phẩm của Cổ Long được dựng thành phim hay sự ưa chuộng của các nhà làm phim với các tiểu thuyết của ông.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Cổ Long là nhà văn viết tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng, với 69 tác phẩm văn học đã được trình bày đến công chúng cùng với nhiều nhân vật chính và phụ điển hình. Tiểu thuyết của ông mang phong cách hiện đại, tính triết lý sâu sắc, rất khác biệt với các võ " Khẳng định: " Có đến hơn 40 tác phẩm trong số 69 tác phẩm của Cổ Long được dựng thành phim bởi phong cách hiện đại và triết lý sâu sắc, thích hợp với các nhà làm phim thời đó.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Cổ Long là nhà văn viết tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng, với 69 tác phẩm văn học đã được trình bày đến công chúng cùng với nhiều nhân vật chính và phụ điển hình. Tiểu thuyết của ông mang phong cách hiện đại, tính triết lý sâu sắc, rất khác biệt với các võ " Khẳng định: " Có đến hơn 40 tác phẩm trong số 69 tác phẩm của Cổ Long được dựng thành phim bởi phong cách hiện đại và triết lý sâu sắc, thích hợp với các nhà làm phim thời đó. Giải thích: Không có số liệu cụ thể về số lượng tác phẩm của Cổ Long được dựng thành phim hay sự ưa chuộng của các nhà làm phim với các tiểu thuyết của ông.
59
67
69
Cổ Long là nhà văn viết tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng, với 69 tác phẩm văn học đã được trình bày đến công chúng cùng với nhiều nhân vật chính và phụ điển hình. Tiểu thuyết của ông mang phong cách hiện đại, tính triết lý sâu sắc, rất khác biệt với các võ hiệp tiểu thuyết gia cùng thời và trước đó. Truyện của ông hoàn toàn hư cấu về thời gian và không gian nhưng tâm lý và quan hệ của các nhân vật trong truyện lại rất thật. Cổ Long không miêu tả kỹ về xuất thân và võ công mà xoay quanh nội tâm của các nhân vật, thường thì họ không phải những mẫu anh hùng điển hình toàn diện, mà là một con người thực, có tốt có xấu, có lúc sai có lúc đúng, ham mê tửu sắc giống như bản thân Cổ Long. Kết thúc truyện của ông đôi khi rất dở dang nhưng chính sự dở dang đó đã để lại nhiều suy nghĩ trong lòng người đọc, giúp chúng ta hiểu ra được nhiều điều
Cổ Long là một cây bút chuyên viết truyện tiên hiệp với nhiều tác phẩm đa dạng mang phong cách cổ điển khác xa với các tiểu thuyết gia cùng thời.
Cổ Long là nhà văn viết tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng, với 69 tác phẩm văn học đã được trình bày đến công chúng cùng với nhiều nhân vật chính và phụ điển hình. Tiểu thuyết của ông mang phong cách hiện đại, tính triết lý sâu sắc, rất khác biệt với các võ
bác bỏ
Cổ Long là một tiểu thuyết gia viết truyện võ hiệp, không phải tiên hiệp, các tác phẩm của ông cũng mang phong cách hiện đại và tính triết lý sâu sắc, khác xa các nhà văn cùng thời và trước đó.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Cổ Long là nhà văn viết tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng, với 69 tác phẩm văn học đã được trình bày đến công chúng cùng với nhiều nhân vật chính và phụ điển hình. Tiểu thuyết của ông mang phong cách hiện đại, tính triết lý sâu sắc, rất khác biệt với các võ " Khẳng định: " Cổ Long là một cây bút chuyên viết truyện tiên hiệp với nhiều tác phẩm đa dạng mang phong cách cổ điển khác xa với các tiểu thuyết gia cùng thời.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Cổ Long là nhà văn viết tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng, với 69 tác phẩm văn học đã được trình bày đến công chúng cùng với nhiều nhân vật chính và phụ điển hình. Tiểu thuyết của ông mang phong cách hiện đại, tính triết lý sâu sắc, rất khác biệt với các võ " Khẳng định: " Cổ Long là một cây bút chuyên viết truyện tiên hiệp với nhiều tác phẩm đa dạng mang phong cách cổ điển khác xa với các tiểu thuyết gia cùng thời. Giải thích: Cổ Long là một tiểu thuyết gia viết truyện võ hiệp, không phải tiên hiệp, các tác phẩm của ông cũng mang phong cách hiện đại và tính triết lý sâu sắc, khác xa các nhà văn cùng thời và trước đó.
60
68
70
Cộng hòa tự trị Nam Kỳ (tiếng Pháp: République autonome de Cochinchine) hay Nam kỳ tự trị là chính thể tự trị trong khuôn khổ Liên bang Đông Dương, do Pháp lập nên, tồn tại trong giai đoạn 1946 - 1948 ở địa phận Nam Kỳ. Sau đảo chính ngày 09 tháng 3 năm 1945, Đế quốc Nhật Bản xem Nam Kỳ là một phần Đế quốc Việt Nam, tuy nhiên Chính phủ Đế quốc Việt Nam chưa kịp thiết lập hệ thống hành chính thì đã sụp đổ. Ngày 25 tháng 8 năm 1945, Việt Minh thành lập Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, tuyên bố Việt Nam độc lập với lãnh thổ bao gồm ba xứ Nam Kỳ, Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
Vì Đế quốc Nhật Bản xem Nam Kỳ như một phần của Đế quốc Việt Nam sau đảo chính nên Việt Minh tạm thời không có hành động gì tác động lên hệ thống hành chính của khu vực này.
Sau đảo chính ngày 09 tháng 3 năm 1945, Đế quốc Nhật Bản xem Nam Kỳ là một phần Đế quốc Việt Nam, tuy nhiên Chính phủ Đế quốc Việt Nam chưa kịp thiết lập hệ thống hành chính thì đã sụp đổ. Ngày 25 tháng 8 năm 1945, Việt Minh thành lập Ủy ban Hành chính L
bác bỏ
Sau đảo chính năm 1945, Nam Kỳ được Đế quốc Nhật Bản xem như một phần của Đế quốc Việt Nam nhưng chưa kịp lập hệ thống hành chính thì đã sụp đổ, cho đến ngày 25 tháng 8 năm 1945 thì được Việt Minh thành lập Ủy bản Hành chính Lâm thời Nam Bộ.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Sau đảo chính ngày 09 tháng 3 năm 1945, Đế quốc Nhật Bản xem Nam Kỳ là một phần Đế quốc Việt Nam, tuy nhiên Chính phủ Đế quốc Việt Nam chưa kịp thiết lập hệ thống hành chính thì đã sụp đổ. Ngày 25 tháng 8 năm 1945, Việt Minh thành lập Ủy ban Hành chính L " Khẳng định: " Vì Đế quốc Nhật Bản xem Nam Kỳ như một phần của Đế quốc Việt Nam sau đảo chính nên Việt Minh tạm thời không có hành động gì tác động lên hệ thống hành chính của khu vực này.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Sau đảo chính ngày 09 tháng 3 năm 1945, Đế quốc Nhật Bản xem Nam Kỳ là một phần Đế quốc Việt Nam, tuy nhiên Chính phủ Đế quốc Việt Nam chưa kịp thiết lập hệ thống hành chính thì đã sụp đổ. Ngày 25 tháng 8 năm 1945, Việt Minh thành lập Ủy ban Hành chính L " Khẳng định: " Vì Đế quốc Nhật Bản xem Nam Kỳ như một phần của Đế quốc Việt Nam sau đảo chính nên Việt Minh tạm thời không có hành động gì tác động lên hệ thống hành chính của khu vực này. Giải thích: Sau đảo chính năm 1945, Nam Kỳ được Đế quốc Nhật Bản xem như một phần của Đế quốc Việt Nam nhưng chưa kịp lập hệ thống hành chính thì đã sụp đổ, cho đến ngày 25 tháng 8 năm 1945 thì được Việt Minh thành lập Ủy bản Hành chính Lâm thời Nam Bộ.
61
69
71
Cộng hòa tự trị Nam Kỳ (tiếng Pháp: République autonome de Cochinchine) hay Nam kỳ tự trị là chính thể tự trị trong khuôn khổ Liên bang Đông Dương, do Pháp lập nên, tồn tại trong giai đoạn 1946 - 1948 ở địa phận Nam Kỳ. Sau đảo chính ngày 09 tháng 3 năm 1945, Đế quốc Nhật Bản xem Nam Kỳ là một phần Đế quốc Việt Nam, tuy nhiên Chính phủ Đế quốc Việt Nam chưa kịp thiết lập hệ thống hành chính thì đã sụp đổ. Ngày 25 tháng 8 năm 1945, Việt Minh thành lập Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, tuyên bố Việt Nam độc lập với lãnh thổ bao gồm ba xứ Nam Kỳ, Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
Việc Pháp lập nên nền cộng hòa ở Nam Kỳ và chia lãnh thổ Việt Nam làm ba miền nhằm mục đích chia rẽ đoàn kết dân tộc cho đến khi được chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thống nhất.
Cộng hòa tự trị Nam Kỳ (tiếng Pháp: République autonome de Cochinchine) hay Nam kỳ tự trị là chính thể tự trị trong khuôn khổ Liên bang Đông Dương, do Pháp lập nên, tồn tại trong giai đoạn 1946 - 1948 ở địa phận Nam Kỳ. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, chính phủ
không có thông tin
Không có dữ kiện về mục đích Pháp lập nên nền cộng hòa ở Nam Kỳ cũng như chia cắt 3 miền lãnh thổ Việt Nam.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Cộng hòa tự trị Nam Kỳ (tiếng Pháp: République autonome de Cochinchine) hay Nam kỳ tự trị là chính thể tự trị trong khuôn khổ Liên bang Đông Dương, do Pháp lập nên, tồn tại trong giai đoạn 1946 - 1948 ở địa phận Nam Kỳ. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, chính phủ " Khẳng định: " Việc Pháp lập nên nền cộng hòa ở Nam Kỳ và chia lãnh thổ Việt Nam làm ba miền nhằm mục đích chia rẽ đoàn kết dân tộc cho đến khi được chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thống nhất.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Cộng hòa tự trị Nam Kỳ (tiếng Pháp: République autonome de Cochinchine) hay Nam kỳ tự trị là chính thể tự trị trong khuôn khổ Liên bang Đông Dương, do Pháp lập nên, tồn tại trong giai đoạn 1946 - 1948 ở địa phận Nam Kỳ. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, chính phủ " Khẳng định: " Việc Pháp lập nên nền cộng hòa ở Nam Kỳ và chia lãnh thổ Việt Nam làm ba miền nhằm mục đích chia rẽ đoàn kết dân tộc cho đến khi được chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thống nhất. Giải thích: Không có dữ kiện về mục đích Pháp lập nên nền cộng hòa ở Nam Kỳ cũng như chia cắt 3 miền lãnh thổ Việt Nam.
62
70
72
Cộng hòa tự trị Nam Kỳ (tiếng Pháp: République autonome de Cochinchine) hay Nam kỳ tự trị là chính thể tự trị trong khuôn khổ Liên bang Đông Dương, do Pháp lập nên, tồn tại trong giai đoạn 1946 - 1948 ở địa phận Nam Kỳ. Sau đảo chính ngày 09 tháng 3 năm 1945, Đế quốc Nhật Bản xem Nam Kỳ là một phần Đế quốc Việt Nam, tuy nhiên Chính phủ Đế quốc Việt Nam chưa kịp thiết lập hệ thống hành chính thì đã sụp đổ. Ngày 25 tháng 8 năm 1945, Việt Minh thành lập Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, tuyên bố Việt Nam độc lập với lãnh thổ bao gồm ba xứ Nam Kỳ, Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
Thời gian tồn tại của chính quyền cộng hòa Nam Kỳ chỉ tồn tại vỏn vẹn 2 năm cho đến khi xảy ra cuộc đảo chính.
Cộng hòa tự trị Nam Kỳ (tiếng Pháp: République autonome de Cochinchine) hay Nam kỳ tự trị là chính thể tự trị trong khuôn khổ Liên bang Đông Dương, do Pháp lập nên, tồn tại trong giai đoạn 1946 - 1948 ở địa phận Nam Kỳ. Sau đảo chính ngày 09 tháng 3 năm
hỗ trợ
Cộng hòa tự trị Nam Kỳ tồn tại trong 2 năm, từ 1946 đến 1948, sau khi đảo chính xảy ra ngày 9 tháng 3 năm 1945 thì được Đế quốc Nhật Bản xem xét thiết lập hệ thống hành chính mới nhưng chưa kịp thực hiện thì đã sụp đổ.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Cộng hòa tự trị Nam Kỳ (tiếng Pháp: République autonome de Cochinchine) hay Nam kỳ tự trị là chính thể tự trị trong khuôn khổ Liên bang Đông Dương, do Pháp lập nên, tồn tại trong giai đoạn 1946 - 1948 ở địa phận Nam Kỳ. Sau đảo chính ngày 09 tháng 3 năm " Khẳng định: " Thời gian tồn tại của chính quyền cộng hòa Nam Kỳ chỉ tồn tại vỏn vẹn 2 năm cho đến khi xảy ra cuộc đảo chính.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Cộng hòa tự trị Nam Kỳ (tiếng Pháp: République autonome de Cochinchine) hay Nam kỳ tự trị là chính thể tự trị trong khuôn khổ Liên bang Đông Dương, do Pháp lập nên, tồn tại trong giai đoạn 1946 - 1948 ở địa phận Nam Kỳ. Sau đảo chính ngày 09 tháng 3 năm " Khẳng định: " Thời gian tồn tại của chính quyền cộng hòa Nam Kỳ chỉ tồn tại vỏn vẹn 2 năm cho đến khi xảy ra cuộc đảo chính. Giải thích: Cộng hòa tự trị Nam Kỳ tồn tại trong 2 năm, từ 1946 đến 1948, sau khi đảo chính xảy ra ngày 9 tháng 3 năm 1945 thì được Đế quốc Nhật Bản xem xét thiết lập hệ thống hành chính mới nhưng chưa kịp thực hiện thì đã sụp đổ.
63
71
73
Du Tử Lê (1942 – 2019) tên thật là Lê Cự Phách, là một nhà thơ. Ông sinh năm 1942, tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Sau Hiệp định Genève, 1954, Lê Cự Phách di cư vào Nam cùng với gia đình. Đầu tiên ông định cư ở Hội An, Quảng Nam, sau đó là Đà Nẵng. Đến năm 1956, ông vào Sài Gòn và theo học trường Trần Lục, trường Chu Văn An, sau cùng là Đại học Văn Khoa. Ông làm thơ từ rất sớm, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội. Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 (cái tên "Du Tử" được ông lấy từ bài thơ "Du Tử ngâm" của thi sĩ Mạnh Giao thời Đường, nghĩa là "đứa con xa mẹ", còn "Lê" là họ của ông) cho bài "Bến tâm hồn", đăng trên tạp chí Mai.
Du Tử Lê sinh ra, định cư và học tập tại Sài Gòn, mãi cho đến lúc học cấp 3 thì ông mới bắt đầu làm thơ.
Du Tử Lê (1942 – 2019) tên thật là Lê Cự Phách, là một nhà thơ. Ông sinh năm 1942, tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Sau Hiệp định Genève, 1954, Lê Cự Phách di cư vào Nam cùng với gia đình. Đầu tiên ông định cư ở Hội An, Quảng Nam, sau đó là Đà Nẵng. Đến
bác bỏ
Du Tử Lê sinh ra tại tỉnh Hà Nam, đến năm 1954 ông vào Nam định cư ở Quảng Nam rồi đến Đà Nẵng, năm 1956 thì mới đến Sài Gòn và học trường Trần Lục, trường Chu Văn An rồi Đại học Văn Khoa, ông đã bắt đầu làm thơ từ rất sớm khi đang học tiểu học ở Hà Nội.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Du Tử Lê (1942 – 2019) tên thật là Lê Cự Phách, là một nhà thơ. Ông sinh năm 1942, tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Sau Hiệp định Genève, 1954, Lê Cự Phách di cư vào Nam cùng với gia đình. Đầu tiên ông định cư ở Hội An, Quảng Nam, sau đó là Đà Nẵng. Đến " Khẳng định: " Du Tử Lê sinh ra, định cư và học tập tại Sài Gòn, mãi cho đến lúc học cấp 3 thì ông mới bắt đầu làm thơ.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Du Tử Lê (1942 – 2019) tên thật là Lê Cự Phách, là một nhà thơ. Ông sinh năm 1942, tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Sau Hiệp định Genève, 1954, Lê Cự Phách di cư vào Nam cùng với gia đình. Đầu tiên ông định cư ở Hội An, Quảng Nam, sau đó là Đà Nẵng. Đến " Khẳng định: " Du Tử Lê sinh ra, định cư và học tập tại Sài Gòn, mãi cho đến lúc học cấp 3 thì ông mới bắt đầu làm thơ. Giải thích: Du Tử Lê sinh ra tại tỉnh Hà Nam, đến năm 1954 ông vào Nam định cư ở Quảng Nam rồi đến Đà Nẵng, năm 1956 thì mới đến Sài Gòn và học trường Trần Lục, trường Chu Văn An rồi Đại học Văn Khoa, ông đã bắt đầu làm thơ từ rất sớm khi đang học tiểu học ở Hà Nội.
64
72
74
Du Tử Lê (1942 – 2019) tên thật là Lê Cự Phách, là một nhà thơ. Ông sinh năm 1942, tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Sau Hiệp định Genève, 1954, Lê Cự Phách di cư vào Nam cùng với gia đình. Đầu tiên ông định cư ở Hội An, Quảng Nam, sau đó là Đà Nẵng. Đến năm 1956, ông vào Sài Gòn và theo học trường Trần Lục, trường Chu Văn An, sau cùng là Đại học Văn Khoa. Ông làm thơ từ rất sớm, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội. Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 (cái tên "Du Tử" được ông lấy từ bài thơ "Du Tử ngâm" của thi sĩ Mạnh Giao thời Đường, nghĩa là "đứa con xa mẹ", còn "Lê" là họ của ông) cho bài "Bến tâm hồn", đăng trên tạp chí Mai.
Nhiều bút hiệu của Du Tử Lê xuất hiện từ sau khi ông chuyển vào Sài Gòn, trong đó có một bút danh lấy từ tên bài thơ của một thi sĩ thời Đường.
Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 (cái tên "Du Tử" được ông lấy từ bài thơ "Du Tử ngâm" của thi sĩ Mạnh Giao thời Đường, nghĩ
hỗ trợ
Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác bằng nhiều bút hiệu khác nhau trong đó bút hiệu Du Tử Lê có cái tên Du Tử được ông lấy từ bài "Du Tử ngâm" của thi sĩ Mạnh Giao thời Đường.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 (cái tên "Du Tử" được ông lấy từ bài thơ "Du Tử ngâm" của thi sĩ Mạnh Giao thời Đường, nghĩ " Khẳng định: " Nhiều bút hiệu của Du Tử Lê xuất hiện từ sau khi ông chuyển vào Sài Gòn, trong đó có một bút danh lấy từ tên bài thơ của một thi sĩ thời Đường.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 (cái tên "Du Tử" được ông lấy từ bài thơ "Du Tử ngâm" của thi sĩ Mạnh Giao thời Đường, nghĩ " Khẳng định: " Nhiều bút hiệu của Du Tử Lê xuất hiện từ sau khi ông chuyển vào Sài Gòn, trong đó có một bút danh lấy từ tên bài thơ của một thi sĩ thời Đường. Giải thích: Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác bằng nhiều bút hiệu khác nhau trong đó bút hiệu Du Tử Lê có cái tên Du Tử được ông lấy từ bài "Du Tử ngâm" của thi sĩ Mạnh Giao thời Đường.
65
73
75
Du Tử Lê (1942 – 2019) tên thật là Lê Cự Phách, là một nhà thơ. Ông sinh năm 1942, tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Sau Hiệp định Genève, 1954, Lê Cự Phách di cư vào Nam cùng với gia đình. Đầu tiên ông định cư ở Hội An, Quảng Nam, sau đó là Đà Nẵng. Đến năm 1956, ông vào Sài Gòn và theo học trường Trần Lục, trường Chu Văn An, sau cùng là Đại học Văn Khoa. Ông làm thơ từ rất sớm, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội. Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 (cái tên "Du Tử" được ông lấy từ bài thơ "Du Tử ngâm" của thi sĩ Mạnh Giao thời Đường, nghĩa là "đứa con xa mẹ", còn "Lê" là họ của ông) cho bài "Bến tâm hồn", đăng trên tạp chí Mai.
Lê Cự Phách làm thơ từ sớm nhờ đam mê và sự khuyến khích từ người thầy giáo dạy ông thời tiểu học.
Du Tử Lê (1942 – 2019) tên thật là Lê Cự Phách, là một nhà thơ. Ông làm thơ từ rất sớm, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội.
không có thông tin
Du Tử Lê làm thơ từ rất sớm nhưng không có thông tin về người tác động đến việc bắt đầu làm thơ từ thời tiểu học của ông.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Du Tử Lê (1942 – 2019) tên thật là Lê Cự Phách, là một nhà thơ. Ông làm thơ từ rất sớm, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội. " Khẳng định: " Lê Cự Phách làm thơ từ sớm nhờ đam mê và sự khuyến khích từ người thầy giáo dạy ông thời tiểu học.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Du Tử Lê (1942 – 2019) tên thật là Lê Cự Phách, là một nhà thơ. Ông làm thơ từ rất sớm, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội. " Khẳng định: " Lê Cự Phách làm thơ từ sớm nhờ đam mê và sự khuyến khích từ người thầy giáo dạy ông thời tiểu học. Giải thích: Du Tử Lê làm thơ từ rất sớm nhưng không có thông tin về người tác động đến việc bắt đầu làm thơ từ thời tiểu học của ông.
66
74
76
Dũng Nhi là diễn viên điện ảnh và truyền hình Việt Nam, ông được biết với vai Kiên trong Sao tháng Tám. Ông thường thể hiện những vai chính diện, quan chức, tri thức; tuy nhiên ông vẫn thành công với vai phản diện, điển hình là Năm Sài Gòn trong phim Bỉ vỏ. Dũng Nhi tên đầy đủ là Lê Dũng Nhi, sinh ngày 8 tháng 5 năm 1951 trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật, ông ngoại, mẹ và dì ông đều là nghệ sĩ. Ông có hai anh trai đã hy sinh và ba người em đã từng theo nghệ thuật sân khấu. Vợ ông cũng làm nghệ thuật, họ có 3 người con, trong đó vợ chồng người con trai lớn Lê Vũ Long là nghệ sĩ múa. Năm 1967 là niên học duy nhất cả nước không tổ chức kì thi tuyển sinh vào đại học, học sinh được phân về các trường, căn cứ vào bảng điểm và cả một phần lý lịch gia đình. Dũng Nhi tốt nghiệp phổ thông và theo học Cao đẳng Sư phạm trong ba năm. Môn yêu thích nhất là Sinh học, nhưng nhìn vào kết quả học ban xét duyệt cho ông vào khoa Văn; vì đây là môn học được nền giáo dục bấy giờ đề cao nhất.
Năm 1967 do chiến tranh đánh Mỹ đang rất ác liệt nên không có kỳ thi tuyển sinh đại học, vì thế mà Dũng Nhi sau tốt nghiệp phổ thông được phân thẳng về học Cao đẳng Sư phạm.
Năm 1967 là niên học duy nhất cả nước không tổ chức kì thi tuyển sinh vào đại học, học sinh được phân về các trường, căn cứ vào bảng điểm và cả một phần lý lịch gia đình. Dũng Nhi tốt nghiệp phổ thông và theo học Cao đẳng Sư phạm trong ba năm.
không có thông tin
Không có thông tin cụ thể cho thấy nguyên nhân năm 1967 không có kỳ thi tuyển sinh đại học.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Năm 1967 là niên học duy nhất cả nước không tổ chức kì thi tuyển sinh vào đại học, học sinh được phân về các trường, căn cứ vào bảng điểm và cả một phần lý lịch gia đình. Dũng Nhi tốt nghiệp phổ thông và theo học Cao đẳng Sư phạm trong ba năm. " Khẳng định: " Năm 1967 do chiến tranh đánh Mỹ đang rất ác liệt nên không có kỳ thi tuyển sinh đại học, vì thế mà Dũng Nhi sau tốt nghiệp phổ thông được phân thẳng về học Cao đẳng Sư phạm.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Năm 1967 là niên học duy nhất cả nước không tổ chức kì thi tuyển sinh vào đại học, học sinh được phân về các trường, căn cứ vào bảng điểm và cả một phần lý lịch gia đình. Dũng Nhi tốt nghiệp phổ thông và theo học Cao đẳng Sư phạm trong ba năm. " Khẳng định: " Năm 1967 do chiến tranh đánh Mỹ đang rất ác liệt nên không có kỳ thi tuyển sinh đại học, vì thế mà Dũng Nhi sau tốt nghiệp phổ thông được phân thẳng về học Cao đẳng Sư phạm. Giải thích: Không có thông tin cụ thể cho thấy nguyên nhân năm 1967 không có kỳ thi tuyển sinh đại học.
67
75
77
Dũng Nhi là diễn viên điện ảnh và truyền hình Việt Nam, ông được biết với vai Kiên trong Sao tháng Tám. Ông thường thể hiện những vai chính diện, quan chức, tri thức; tuy nhiên ông vẫn thành công với vai phản diện, điển hình là Năm Sài Gòn trong phim Bỉ vỏ. Dũng Nhi tên đầy đủ là Lê Dũng Nhi, sinh ngày 8 tháng 5 năm 1951 trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật, ông ngoại, mẹ và dì ông đều là nghệ sĩ. Ông có hai anh trai đã hy sinh và ba người em đã từng theo nghệ thuật sân khấu. Vợ ông cũng làm nghệ thuật, họ có 3 người con, trong đó vợ chồng người con trai lớn Lê Vũ Long là nghệ sĩ múa. Năm 1967 là niên học duy nhất cả nước không tổ chức kì thi tuyển sinh vào đại học, học sinh được phân về các trường, căn cứ vào bảng điểm và cả một phần lý lịch gia đình. Dũng Nhi tốt nghiệp phổ thông và theo học Cao đẳng Sư phạm trong ba năm. Môn yêu thích nhất là Sinh học, nhưng nhìn vào kết quả học ban xét duyệt cho ông vào khoa Văn; vì đây là môn học được nền giáo dục bấy giờ đề cao nhất.
Cả gia đình của Dũng Nhi thậm chí vợ ông đều là những người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật.
Dũng Nhi tên đầy đủ là Lê Dũng Nhi, sinh ngày 8 tháng 5 năm 1951 trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật, ông ngoại, mẹ và dì ông đều là nghệ sĩ. Ông có hai anh trai đã hy sinh và ba người em đã từng theo nghệ thuật sân khấu. Vợ ông cũng làm nghệ th
hỗ trợ
Dũng Nhi có gia đình theo truyền thống nghệ thuật, từ ông ngoại, mẹ, dì cho đến hai anh trai đã mất và ba người em, vợ ông cũng làm nghệ thuật và cả vợ chồng người con trai lớn cũng là nghệ sĩ múa.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Dũng Nhi tên đầy đủ là Lê Dũng Nhi, sinh ngày 8 tháng 5 năm 1951 trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật, ông ngoại, mẹ và dì ông đều là nghệ sĩ. Ông có hai anh trai đã hy sinh và ba người em đã từng theo nghệ thuật sân khấu. Vợ ông cũng làm nghệ th " Khẳng định: " Cả gia đình của Dũng Nhi thậm chí vợ ông đều là những người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Dũng Nhi tên đầy đủ là Lê Dũng Nhi, sinh ngày 8 tháng 5 năm 1951 trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật, ông ngoại, mẹ và dì ông đều là nghệ sĩ. Ông có hai anh trai đã hy sinh và ba người em đã từng theo nghệ thuật sân khấu. Vợ ông cũng làm nghệ th " Khẳng định: " Cả gia đình của Dũng Nhi thậm chí vợ ông đều là những người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật. Giải thích: Dũng Nhi có gia đình theo truyền thống nghệ thuật, từ ông ngoại, mẹ, dì cho đến hai anh trai đã mất và ba người em, vợ ông cũng làm nghệ thuật và cả vợ chồng người con trai lớn cũng là nghệ sĩ múa.
68
76
78
Dũng Nhi là diễn viên điện ảnh và truyền hình Việt Nam, ông được biết với vai Kiên trong Sao tháng Tám. Ông thường thể hiện những vai chính diện, quan chức, tri thức; tuy nhiên ông vẫn thành công với vai phản diện, điển hình là Năm Sài Gòn trong phim Bỉ vỏ. Dũng Nhi tên đầy đủ là Lê Dũng Nhi, sinh ngày 8 tháng 5 năm 1951 trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật, ông ngoại, mẹ và dì ông đều là nghệ sĩ. Ông có hai anh trai đã hy sinh và ba người em đã từng theo nghệ thuật sân khấu. Vợ ông cũng làm nghệ thuật, họ có 3 người con, trong đó vợ chồng người con trai lớn Lê Vũ Long là nghệ sĩ múa. Năm 1967 là niên học duy nhất cả nước không tổ chức kì thi tuyển sinh vào đại học, học sinh được phân về các trường, căn cứ vào bảng điểm và cả một phần lý lịch gia đình. Dũng Nhi tốt nghiệp phổ thông và theo học Cao đẳng Sư phạm trong ba năm. Môn yêu thích nhất là Sinh học, nhưng nhìn vào kết quả học ban xét duyệt cho ông vào khoa Văn; vì đây là môn học được nền giáo dục bấy giờ đề cao nhất.
Dũng Nhi mất tới 4 năm để hoàn thành khóa học cao đẳng vì ông chọn môn Sinh, môn học yêu thích của ông.
Dũng Nhi tốt nghiệp phổ thông và theo học Cao đẳng Sư phạm trong ba năm. Môn yêu thích nhất là Sinh học, nhưng nhìn vào kết quả học ban xét duyệt cho ông vào khoa Văn; vì đây là môn học được nền giáo dục bấy giờ đề cao nhất.
bác bỏ
Dũng Nhi theo học Cao đẳng sư phạm trong ba năm, không phải 4 năm, mặc dù yêu thích Sinh học nhưng ban xét duyệt lại cho ông vào khoa Văn dựa trên kết quả học tập thời phổ thông của ông.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Dũng Nhi tốt nghiệp phổ thông và theo học Cao đẳng Sư phạm trong ba năm. Môn yêu thích nhất là Sinh học, nhưng nhìn vào kết quả học ban xét duyệt cho ông vào khoa Văn; vì đây là môn học được nền giáo dục bấy giờ đề cao nhất. " Khẳng định: " Dũng Nhi mất tới 4 năm để hoàn thành khóa học cao đẳng vì ông chọn môn Sinh, môn học yêu thích của ông.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Dũng Nhi tốt nghiệp phổ thông và theo học Cao đẳng Sư phạm trong ba năm. Môn yêu thích nhất là Sinh học, nhưng nhìn vào kết quả học ban xét duyệt cho ông vào khoa Văn; vì đây là môn học được nền giáo dục bấy giờ đề cao nhất. " Khẳng định: " Dũng Nhi mất tới 4 năm để hoàn thành khóa học cao đẳng vì ông chọn môn Sinh, môn học yêu thích của ông. Giải thích: Dũng Nhi theo học Cao đẳng sư phạm trong ba năm, không phải 4 năm, mặc dù yêu thích Sinh học nhưng ban xét duyệt lại cho ông vào khoa Văn dựa trên kết quả học tập thời phổ thông của ông.
69
77
79
Gyeongsangnam-do (phiên âm Hán Việt: Khánh Thượng Nam đạo) là một tỉnh ở phía đông của Hàn Quốc. Busan là thành phố trực thuộc Trung ương, không thuộc tỉnh về mặt hành chính nhưng nằm trong tỉnh về mặt địa lý. Trước năm 1895, khu vực ngày nay là Gyeongsangnam-do là một phần của tỉnh Gyeongsang, một trong Tám tỉnh của Triều Tiên trong thời kỳ triều đại Triều Tiên. Năm 1895, phía nam Gyeongsang đã được thay bằng các huyện Jinju ở phía tây và Dongnae (ngày nay là Busan) ở phía đông. Năm 1896, hai huyện được sáp nhập để tạo thành Gyeongsangnam-do. Tỉnh lỵ nguyên là Jinju, sau đó được dời về Busan năm 1925. Năm 1948, Gyeongsangnam-do đã trở thành một phần của Hàn Quốc. Năm 1963, Busan được tách khỏi Gyeongsangnam-do để thành một thành phố trực thuộc trung ương (Jikhalsi). Năm 1983, tỉnh lỵ dời từ Busan đến Changwon. Năm 1995, trở thành một quảng vực thị (Gwangyeoksi). Năm 1997, Ulsan được tách khỏi Gyeongsangnam-do thành một quảng vực thị.
Gyeongsangnam-do từng thuộc quyền sở hữu của Triều Tiên nhưng đến năm 1948 thì lại thuộc Hàn Quốc có lý do xuất phát từ cuộc chiến hai miền Nam và Bắc Triều Tiên.
Trước năm 1895, khu vực ngày nay là Gyeongsangnam-do là một phần của tỉnh Gyeongsang, một trong Tám tỉnh của Triều Tiên trong thời kỳ triều đại Triều Tiên. Năm 1948, Gyeongsangnam-do đã trở thành một phần của Hàn Quốc.
không có thông tin
Không có dữ kiện cụ thể cho thấy nguyên nhân Gyeongsangnam-do thuộc Triều Tiên năm 1895 nhưng đến 1948 lại thuộc quyền quản lý của Hàn Quốc.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Trước năm 1895, khu vực ngày nay là Gyeongsangnam-do là một phần của tỉnh Gyeongsang, một trong Tám tỉnh của Triều Tiên trong thời kỳ triều đại Triều Tiên. Năm 1948, Gyeongsangnam-do đã trở thành một phần của Hàn Quốc. " Khẳng định: " Gyeongsangnam-do từng thuộc quyền sở hữu của Triều Tiên nhưng đến năm 1948 thì lại thuộc Hàn Quốc có lý do xuất phát từ cuộc chiến hai miền Nam và Bắc Triều Tiên.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Trước năm 1895, khu vực ngày nay là Gyeongsangnam-do là một phần của tỉnh Gyeongsang, một trong Tám tỉnh của Triều Tiên trong thời kỳ triều đại Triều Tiên. Năm 1948, Gyeongsangnam-do đã trở thành một phần của Hàn Quốc. " Khẳng định: " Gyeongsangnam-do từng thuộc quyền sở hữu của Triều Tiên nhưng đến năm 1948 thì lại thuộc Hàn Quốc có lý do xuất phát từ cuộc chiến hai miền Nam và Bắc Triều Tiên. Giải thích: Không có dữ kiện cụ thể cho thấy nguyên nhân Gyeongsangnam-do thuộc Triều Tiên năm 1895 nhưng đến 1948 lại thuộc quyền quản lý của Hàn Quốc.
70
78
80
Gyeongsangnam-do (phiên âm Hán Việt: Khánh Thượng Nam đạo) là một tỉnh ở phía đông của Hàn Quốc. Busan là thành phố trực thuộc Trung ương, không thuộc tỉnh về mặt hành chính nhưng nằm trong tỉnh về mặt địa lý. Trước năm 1895, khu vực ngày nay là Gyeongsangnam-do là một phần của tỉnh Gyeongsang, một trong Tám tỉnh của Triều Tiên trong thời kỳ triều đại Triều Tiên. Năm 1895, phía nam Gyeongsang đã được thay bằng các huyện Jinju ở phía tây và Dongnae (ngày nay là Busan) ở phía đông. Năm 1896, hai huyện được sáp nhập để tạo thành Gyeongsangnam-do. Tỉnh lỵ nguyên là Jinju, sau đó được dời về Busan năm 1925. Năm 1948, Gyeongsangnam-do đã trở thành một phần của Hàn Quốc. Năm 1963, Busan được tách khỏi Gyeongsangnam-do để thành một thành phố trực thuộc trung ương (Jikhalsi). Năm 1983, tỉnh lỵ dời từ Busan đến Changwon. Năm 1995, trở thành một quảng vực thị (Gwangyeoksi). Năm 1997, Ulsan được tách khỏi Gyeongsangnam-do thành một quảng vực thị.
Busan vốn nằm trong Gyeongsangnam-do nhưng lại không chịu sự quản lý của chính quyền tỉnh Gyeongsangnam-do.
Gyeongsangnam-do (phiên âm Hán Việt: Khánh Thượng Nam đạo) là một tỉnh ở phía đông của Hàn Quốc. Busan là thành phố trực thuộc Trung ương, không thuộc tỉnh về mặt hành chính nhưng nằm trong tỉnh về mặt địa lý.
hỗ trợ
Busan vốn là thành phố trực thuộc trung ương nên không chịu bất kỳ quản lý hành chính nào đến từ tỉnh Gyeongsangnam-do dù vẫn nằm bên trong tỉnh về mặt địa lý.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Gyeongsangnam-do (phiên âm Hán Việt: Khánh Thượng Nam đạo) là một tỉnh ở phía đông của Hàn Quốc. Busan là thành phố trực thuộc Trung ương, không thuộc tỉnh về mặt hành chính nhưng nằm trong tỉnh về mặt địa lý. " Khẳng định: " Busan vốn nằm trong Gyeongsangnam-do nhưng lại không chịu sự quản lý của chính quyền tỉnh Gyeongsangnam-do.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Gyeongsangnam-do (phiên âm Hán Việt: Khánh Thượng Nam đạo) là một tỉnh ở phía đông của Hàn Quốc. Busan là thành phố trực thuộc Trung ương, không thuộc tỉnh về mặt hành chính nhưng nằm trong tỉnh về mặt địa lý. " Khẳng định: " Busan vốn nằm trong Gyeongsangnam-do nhưng lại không chịu sự quản lý của chính quyền tỉnh Gyeongsangnam-do. Giải thích: Busan vốn là thành phố trực thuộc trung ương nên không chịu bất kỳ quản lý hành chính nào đến từ tỉnh Gyeongsangnam-do dù vẫn nằm bên trong tỉnh về mặt địa lý.
71
79
81
Gyeongsangnam-do (phiên âm Hán Việt: Khánh Thượng Nam đạo) là một tỉnh ở phía đông của Hàn Quốc. Busan là thành phố trực thuộc Trung ương, không thuộc tỉnh về mặt hành chính nhưng nằm trong tỉnh về mặt địa lý. Trước năm 1895, khu vực ngày nay là Gyeongsangnam-do là một phần của tỉnh Gyeongsang, một trong Tám tỉnh của Triều Tiên trong thời kỳ triều đại Triều Tiên. Năm 1895, phía nam Gyeongsang đã được thay bằng các huyện Jinju ở phía tây và Dongnae (ngày nay là Busan) ở phía đông. Năm 1896, hai huyện được sáp nhập để tạo thành Gyeongsangnam-do. Tỉnh lỵ nguyên là Jinju, sau đó được dời về Busan năm 1925. Năm 1948, Gyeongsangnam-do đã trở thành một phần của Hàn Quốc. Năm 1963, Busan được tách khỏi Gyeongsangnam-do để thành một thành phố trực thuộc trung ương (Jikhalsi). Năm 1983, tỉnh lỵ dời từ Busan đến Changwon. Năm 1995, trở thành một quảng vực thị (Gwangyeoksi). Năm 1997, Ulsan được tách khỏi Gyeongsangnam-do thành một quảng vực thị.
Busan dù trực thuộc trung ương nhưng vẫn đặt dưới quyền kiểm soát Gyeongsangnam-do ngay cả sau khi đã tách ra từ năm 1963.
Busan là thành phố trực thuộc Trung ương, không thuộc tỉnh về mặt hành chính nhưng nằm trong tỉnh về mặt địa lý. Năm 1963, Busan được tách khỏi Gyeongsangnam-do để thành một thành phố trực thuộc trung ương (Jikhalsi).
bác bỏ
Busan là thành phố trực thuộc trung ương dù nằm trong về mặt địa lý nhưng không chịu sự quản lý hành chính.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Busan là thành phố trực thuộc Trung ương, không thuộc tỉnh về mặt hành chính nhưng nằm trong tỉnh về mặt địa lý. Năm 1963, Busan được tách khỏi Gyeongsangnam-do để thành một thành phố trực thuộc trung ương (Jikhalsi). " Khẳng định: " Busan dù trực thuộc trung ương nhưng vẫn đặt dưới quyền kiểm soát Gyeongsangnam-do ngay cả sau khi đã tách ra từ năm 1963.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Busan là thành phố trực thuộc Trung ương, không thuộc tỉnh về mặt hành chính nhưng nằm trong tỉnh về mặt địa lý. Năm 1963, Busan được tách khỏi Gyeongsangnam-do để thành một thành phố trực thuộc trung ương (Jikhalsi). " Khẳng định: " Busan dù trực thuộc trung ương nhưng vẫn đặt dưới quyền kiểm soát Gyeongsangnam-do ngay cả sau khi đã tách ra từ năm 1963. Giải thích: Busan là thành phố trực thuộc trung ương dù nằm trong về mặt địa lý nhưng không chịu sự quản lý hành chính.
72
86
88
Hanazawa Kana (花澤 香菜 (Hoa-Trạch Hương-Thái), Hanazawa Kana? sinh ngày 25 tháng 2 năm 1989) là một seiyuu, ca sĩ và diễn viên do Công ty giới thiệu tài năng Osawa đại diện. Cô được biết đến nhiều nhất khi cô tham gia lồng giọng cho nhiều nhân vật chính trong nhiều anime nổi tiếng. Ngoài lồng giọng, cô còn tham gia thực hiện các bài hát chủ đề của anime và game. Hanazawa bắt đầu tham gia diễn xuất khi còn học mẫu giáo. Cô xuất hiện thường xuyên tại chương trình tạp kỹ Yappari Sanma Daisensei. Vào năm 2003, cô lần đầu tiên tham gia lồng tiếng trong vai Holly trong Last Exile. Năm 2006, cô tham gia lồng tiếng cho nhân vật Ryoko Kaminagi trong Zegapain.
Hanazawa Kana thực hiện nhiều công việc khác nhau trong giới nghệ thuật như lồng tiếng cho game hay anime, cô đã bắt đầu sự nghiệp diễn xuất khi vừa học hết cấp 3.
Hanazawa Kana (花澤 香菜 (Hoa-Trạch Hương-Thái), Hanazawa Kana? sinh ngày 25 tháng 2 năm 1989) là một seiyuu, ca sĩ và diễn viên do Công ty giới thiệu tài năng Osawa đại diện. Ngoài lồng giọng, cô còn tham gia thực hiện các bài hát chủ đề của anime và game. H
bác bỏ
Hanazawa Kana là một seiyuu, ca sĩ và diễn viên, ngoài ra cô còn lồng tiếng cho game và anime, cô đã bắt đầu sự nghiệp diễn của mình ngay từ cấp 1, không phải cấp 3.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hanazawa Kana (花澤 香菜 (Hoa-Trạch Hương-Thái), Hanazawa Kana? sinh ngày 25 tháng 2 năm 1989) là một seiyuu, ca sĩ và diễn viên do Công ty giới thiệu tài năng Osawa đại diện. Ngoài lồng giọng, cô còn tham gia thực hiện các bài hát chủ đề của anime và game. H " Khẳng định: " Hanazawa Kana thực hiện nhiều công việc khác nhau trong giới nghệ thuật như lồng tiếng cho game hay anime, cô đã bắt đầu sự nghiệp diễn xuất khi vừa học hết cấp 3.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hanazawa Kana (花澤 香菜 (Hoa-Trạch Hương-Thái), Hanazawa Kana? sinh ngày 25 tháng 2 năm 1989) là một seiyuu, ca sĩ và diễn viên do Công ty giới thiệu tài năng Osawa đại diện. Ngoài lồng giọng, cô còn tham gia thực hiện các bài hát chủ đề của anime và game. H " Khẳng định: " Hanazawa Kana thực hiện nhiều công việc khác nhau trong giới nghệ thuật như lồng tiếng cho game hay anime, cô đã bắt đầu sự nghiệp diễn xuất khi vừa học hết cấp 3. Giải thích: Hanazawa Kana là một seiyuu, ca sĩ và diễn viên, ngoài ra cô còn lồng tiếng cho game và anime, cô đã bắt đầu sự nghiệp diễn của mình ngay từ cấp 1, không phải cấp 3.
73
87
89
Hanazawa Kana (花澤 香菜 (Hoa-Trạch Hương-Thái), Hanazawa Kana? sinh ngày 25 tháng 2 năm 1989) là một seiyuu, ca sĩ và diễn viên do Công ty giới thiệu tài năng Osawa đại diện. Cô được biết đến nhiều nhất khi cô tham gia lồng giọng cho nhiều nhân vật chính trong nhiều anime nổi tiếng. Ngoài lồng giọng, cô còn tham gia thực hiện các bài hát chủ đề của anime và game. Hanazawa bắt đầu tham gia diễn xuất khi còn học mẫu giáo. Cô xuất hiện thường xuyên tại chương trình tạp kỹ Yappari Sanma Daisensei. Vào năm 2003, cô lần đầu tiên tham gia lồng tiếng trong vai Holly trong Last Exile. Năm 2006, cô tham gia lồng tiếng cho nhân vật Ryoko Kaminagi trong Zegapain.
Việc tham gia lồng tiếng cho Last Exile là ước mơ từ thuở còn học mẫu giáo của Hanazawa, cô chia sẻ điều này trên tạp kỹ Yappari Sanma Daisensei.
Hanazawa bắt đầu tham gia diễn xuất khi còn học mẫu giáo. Cô xuất hiện thường xuyên tại chương trình tạp kỹ Yappari Sanma Daisensei. Vào năm 2003, cô lần đầu tiên tham gia lồng tiếng trong vai Holly trong Last Exile
không có thông tin
Không có thông tin cho thấy việc tham gia lồng tiếng cho Last Exile xuất phát từ đâu hay khi nào trong cuộc đời của Hanazawa.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hanazawa bắt đầu tham gia diễn xuất khi còn học mẫu giáo. Cô xuất hiện thường xuyên tại chương trình tạp kỹ Yappari Sanma Daisensei. Vào năm 2003, cô lần đầu tiên tham gia lồng tiếng trong vai Holly trong Last Exile " Khẳng định: " Việc tham gia lồng tiếng cho Last Exile là ước mơ từ thuở còn học mẫu giáo của Hanazawa, cô chia sẻ điều này trên tạp kỹ Yappari Sanma Daisensei.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hanazawa bắt đầu tham gia diễn xuất khi còn học mẫu giáo. Cô xuất hiện thường xuyên tại chương trình tạp kỹ Yappari Sanma Daisensei. Vào năm 2003, cô lần đầu tiên tham gia lồng tiếng trong vai Holly trong Last Exile " Khẳng định: " Việc tham gia lồng tiếng cho Last Exile là ước mơ từ thuở còn học mẫu giáo của Hanazawa, cô chia sẻ điều này trên tạp kỹ Yappari Sanma Daisensei. Giải thích: Không có thông tin cho thấy việc tham gia lồng tiếng cho Last Exile xuất phát từ đâu hay khi nào trong cuộc đời của Hanazawa.
74
88
90
Hanazawa Kana (花澤 香菜 (Hoa-Trạch Hương-Thái), Hanazawa Kana? sinh ngày 25 tháng 2 năm 1989) là một seiyuu, ca sĩ và diễn viên do Công ty giới thiệu tài năng Osawa đại diện. Cô được biết đến nhiều nhất khi cô tham gia lồng giọng cho nhiều nhân vật chính trong nhiều anime nổi tiếng. Ngoài lồng giọng, cô còn tham gia thực hiện các bài hát chủ đề của anime và game. Hanazawa bắt đầu tham gia diễn xuất khi còn học mẫu giáo. Cô xuất hiện thường xuyên tại chương trình tạp kỹ Yappari Sanma Daisensei. Vào năm 2003, cô lần đầu tiên tham gia lồng tiếng trong vai Holly trong Last Exile. Năm 2006, cô tham gia lồng tiếng cho nhân vật Ryoko Kaminagi trong Zegapain.
Hanazawa là một ca sĩ nhưng nổi tiếng nhất với vai trò tham gia công tác lồng tiếng.
Hanazawa Kana (花澤 香菜 (Hoa-Trạch Hương-Thái), Hanazawa Kana? sinh ngày 25 tháng 2 năm 1989) là một seiyuu, ca sĩ và diễn viên do Công ty giới thiệu tài năng Osawa đại diện. Cô được biết đến nhiều nhất khi cô tham gia lồng giọng cho nhiều nhân vật chính tro
hỗ trợ
Hanazawa Kana là một seiyuu, ca sĩ và diễn viên của Công ty giới thiệu tài năng Osawa, nhưng bản thân cô được biết đến nhiều nhất qua việc tham gia lồng giọng cho nhiều anime nổi tiếng.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hanazawa Kana (花澤 香菜 (Hoa-Trạch Hương-Thái), Hanazawa Kana? sinh ngày 25 tháng 2 năm 1989) là một seiyuu, ca sĩ và diễn viên do Công ty giới thiệu tài năng Osawa đại diện. Cô được biết đến nhiều nhất khi cô tham gia lồng giọng cho nhiều nhân vật chính tro " Khẳng định: " Hanazawa là một ca sĩ nhưng nổi tiếng nhất với vai trò tham gia công tác lồng tiếng.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hanazawa Kana (花澤 香菜 (Hoa-Trạch Hương-Thái), Hanazawa Kana? sinh ngày 25 tháng 2 năm 1989) là một seiyuu, ca sĩ và diễn viên do Công ty giới thiệu tài năng Osawa đại diện. Cô được biết đến nhiều nhất khi cô tham gia lồng giọng cho nhiều nhân vật chính tro " Khẳng định: " Hanazawa là một ca sĩ nhưng nổi tiếng nhất với vai trò tham gia công tác lồng tiếng. Giải thích: Hanazawa Kana là một seiyuu, ca sĩ và diễn viên của Công ty giới thiệu tài năng Osawa, nhưng bản thân cô được biết đến nhiều nhất qua việc tham gia lồng giọng cho nhiều anime nổi tiếng.
75
89
91
Hoa Du Ký (tiếng Hàn: 화유기; Hanja: 華遊記/花遊記/和遊記; tựa tiếng Anh: A Korean Odyssey) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc có sự tham gia của Lee Seung-gi, Cha Seung-won, Oh Yeon-seo, Lee Hong-gi và Jang Gwang. Được viết bởi chị em nhà Hong, bộ phim là spin-off của tác phẩm Trung Hoa kinh điển Tây du ký. Hwayugi bắt đầu được phát sóng trên kênh truyền hình cáp tvN bắt đầu từ ngày 23 tháng 12 năm 2017 đến ngày 4 tháng 3 năm 2018 vào lúc 21:00 (KST) mỗi thứ Bảy và Chủ Nhật hàng tuần. Tôn Ngộ Không trong thời hiện đại là chảnh nam Son O Gong với vẻ ngoài rất phong cách. Tuy nhiên, thực chất thì Son O Gong là một yêu quái, luôn tự cao tự đại vì có võ nghệ và phép thuật cao cường. Vì dám thách thức cả Ngọc hoàng Thượng đế với danh xưng tự phong "Tề Thiên Đại Thánh", Son O Gong đã bị trục xuất xuống trần gian, toàn bộ phép thuật cũng bị phong ấn. Và định mệnh đã đẩy đưa Son O Gong rơi vào vòng xoáy của cuộc chiến thiện ác, cùng với mối quan hệ oan gia ngõ hẹp giữa Son O Gong và Woo Ma Wang, Jin Sun Mi người mang trong mình dòng máu có mùi thơm của hoa sen thu hút yêu ma và là người có thể hóa giải phong ấn cho Tôn Ngộ Không. Trong bảng bên dưới, chữ số màu xanh đại diện cho tập phim có tỷ suất người xem thấp nhất và chữ số màu đỏ đại diện cho tập phim có tỷ suất người xem cao nhất.
Bộ phim Hoa Du Ký là một tác phẩm điện ảnh Hàn Quốc lấy cảm hứng từ tiểu thuyết Tây Du Ký.
Hoa Du Ký (tiếng Hàn: 화유기; Hanja: 華遊記/花遊記/和遊記; tựa tiếng Anh: A Korean Odyssey) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc có sự tham gia của Lee Seung-gi, Cha Seung-won, Oh Yeon-seo, Lee Hong-gi và Jang Gwang. Được viết bởi chị em nhà Hong, bộ phim là spin-off
hỗ trợ
Hoa Du Ký là một bộ phim truyền hình của Hàn Quốc được viết bởi chị em nhà Hong và là một spin-off của tác phẩm kinh điển từ Trung Hoa, Tây Du Ký.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Du Ký (tiếng Hàn: 화유기; Hanja: 華遊記/花遊記/和遊記; tựa tiếng Anh: A Korean Odyssey) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc có sự tham gia của Lee Seung-gi, Cha Seung-won, Oh Yeon-seo, Lee Hong-gi và Jang Gwang. Được viết bởi chị em nhà Hong, bộ phim là spin-off " Khẳng định: " Bộ phim Hoa Du Ký là một tác phẩm điện ảnh Hàn Quốc lấy cảm hứng từ tiểu thuyết Tây Du Ký.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Du Ký (tiếng Hàn: 화유기; Hanja: 華遊記/花遊記/和遊記; tựa tiếng Anh: A Korean Odyssey) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc có sự tham gia của Lee Seung-gi, Cha Seung-won, Oh Yeon-seo, Lee Hong-gi và Jang Gwang. Được viết bởi chị em nhà Hong, bộ phim là spin-off " Khẳng định: " Bộ phim Hoa Du Ký là một tác phẩm điện ảnh Hàn Quốc lấy cảm hứng từ tiểu thuyết Tây Du Ký. Giải thích: Hoa Du Ký là một bộ phim truyền hình của Hàn Quốc được viết bởi chị em nhà Hong và là một spin-off của tác phẩm kinh điển từ Trung Hoa, Tây Du Ký.
76
90
92
Hoa Du Ký (tiếng Hàn: 화유기; Hanja: 華遊記/花遊記/和遊記; tựa tiếng Anh: A Korean Odyssey) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc có sự tham gia của Lee Seung-gi, Cha Seung-won, Oh Yeon-seo, Lee Hong-gi và Jang Gwang. Được viết bởi chị em nhà Hong, bộ phim là spin-off của tác phẩm Trung Hoa kinh điển Tây du ký. Hwayugi bắt đầu được phát sóng trên kênh truyền hình cáp tvN bắt đầu từ ngày 23 tháng 12 năm 2017 đến ngày 4 tháng 3 năm 2018 vào lúc 21:00 (KST) mỗi thứ Bảy và Chủ Nhật hàng tuần. Tôn Ngộ Không trong thời hiện đại là chảnh nam Son O Gong với vẻ ngoài rất phong cách. Tuy nhiên, thực chất thì Son O Gong là một yêu quái, luôn tự cao tự đại vì có võ nghệ và phép thuật cao cường. Vì dám thách thức cả Ngọc hoàng Thượng đế với danh xưng tự phong "Tề Thiên Đại Thánh", Son O Gong đã bị trục xuất xuống trần gian, toàn bộ phép thuật cũng bị phong ấn. Và định mệnh đã đẩy đưa Son O Gong rơi vào vòng xoáy của cuộc chiến thiện ác, cùng với mối quan hệ oan gia ngõ hẹp giữa Son O Gong và Woo Ma Wang, Jin Sun Mi người mang trong mình dòng máu có mùi thơm của hoa sen thu hút yêu ma và là người có thể hóa giải phong ấn cho Tôn Ngộ Không. Trong bảng bên dưới, chữ số màu xanh đại diện cho tập phim có tỷ suất người xem thấp nhất và chữ số màu đỏ đại diện cho tập phim có tỷ suất người xem cao nhất.
Tôn Ngộ Không thời hiện đại được thủ vai bởi Son O Gong trong phim là nhân vật anh hùng điển hình, khiêm tốn mặc dù pháp thuật khá yếu.
Tôn Ngộ Không trong thời hiện đại là chảnh nam Son O Gong với vẻ ngoài rất phong cách. Tuy nhiên, thực chất thì Son O Gong là một yêu quái, luôn tự cao tự đại vì có võ nghệ và phép thuật cao cường.
bác bỏ
Tôn Ngộ Không trong thời hiện đại đóng bởi Son O Gong là một yêu quái tự cao tự đại và có phép thuật lẫn võ nghệ rất cao cường, không phải một mẫu anh hùng khiêm tốn, yếu đuối.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Tôn Ngộ Không trong thời hiện đại là chảnh nam Son O Gong với vẻ ngoài rất phong cách. Tuy nhiên, thực chất thì Son O Gong là một yêu quái, luôn tự cao tự đại vì có võ nghệ và phép thuật cao cường. " Khẳng định: " Tôn Ngộ Không thời hiện đại được thủ vai bởi Son O Gong trong phim là nhân vật anh hùng điển hình, khiêm tốn mặc dù pháp thuật khá yếu.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Tôn Ngộ Không trong thời hiện đại là chảnh nam Son O Gong với vẻ ngoài rất phong cách. Tuy nhiên, thực chất thì Son O Gong là một yêu quái, luôn tự cao tự đại vì có võ nghệ và phép thuật cao cường. " Khẳng định: " Tôn Ngộ Không thời hiện đại được thủ vai bởi Son O Gong trong phim là nhân vật anh hùng điển hình, khiêm tốn mặc dù pháp thuật khá yếu. Giải thích: Tôn Ngộ Không trong thời hiện đại đóng bởi Son O Gong là một yêu quái tự cao tự đại và có phép thuật lẫn võ nghệ rất cao cường, không phải một mẫu anh hùng khiêm tốn, yếu đuối.
77
91
93
Hoa Du Ký (tiếng Hàn: 화유기; Hanja: 華遊記/花遊記/和遊記; tựa tiếng Anh: A Korean Odyssey) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc có sự tham gia của Lee Seung-gi, Cha Seung-won, Oh Yeon-seo, Lee Hong-gi và Jang Gwang. Được viết bởi chị em nhà Hong, bộ phim là spin-off của tác phẩm Trung Hoa kinh điển Tây du ký. Hwayugi bắt đầu được phát sóng trên kênh truyền hình cáp tvN bắt đầu từ ngày 23 tháng 12 năm 2017 đến ngày 4 tháng 3 năm 2018 vào lúc 21:00 (KST) mỗi thứ Bảy và Chủ Nhật hàng tuần. Tôn Ngộ Không trong thời hiện đại là chảnh nam Son O Gong với vẻ ngoài rất phong cách. Tuy nhiên, thực chất thì Son O Gong là một yêu quái, luôn tự cao tự đại vì có võ nghệ và phép thuật cao cường. Vì dám thách thức cả Ngọc hoàng Thượng đế với danh xưng tự phong "Tề Thiên Đại Thánh", Son O Gong đã bị trục xuất xuống trần gian, toàn bộ phép thuật cũng bị phong ấn. Và định mệnh đã đẩy đưa Son O Gong rơi vào vòng xoáy của cuộc chiến thiện ác, cùng với mối quan hệ oan gia ngõ hẹp giữa Son O Gong và Woo Ma Wang, Jin Sun Mi người mang trong mình dòng máu có mùi thơm của hoa sen thu hút yêu ma và là người có thể hóa giải phong ấn cho Tôn Ngộ Không. Trong bảng bên dưới, chữ số màu xanh đại diện cho tập phim có tỷ suất người xem thấp nhất và chữ số màu đỏ đại diện cho tập phim có tỷ suất người xem cao nhất.
Hoa Du Ký được chiếu ở Việt Nam cùng thời điểm với Hàn Quốc trong năm 2018.
Hoa Du Ký (tiếng Hàn: 화유기; Hanja: 華遊記/花遊記/和遊記; tựa tiếng Anh: A Korean Odyssey) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc có sự tham gia của Lee Seung-gi, Cha Seung-won, Oh Yeon-seo, Lee Hong-gi và Jang Gwang. Hwayugi bắt đầu được phát sóng trên kênh truyền hìn
không có thông tin
Không có dữ liệu về thời điểm bộ phim công chiếu ở Việt Nam, chỉ biết phim được chiếu ở Hàn Quốc trên kênh truyền hình cáp tvN bắt đầu từ ngày 23 tháng 12 năm 2017 đến ngày 4 tháng 3 năm 2018 vào lúc 21:00 (KST) mỗi thứ Bảy và Chủ Nhật hàng tuần
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Du Ký (tiếng Hàn: 화유기; Hanja: 華遊記/花遊記/和遊記; tựa tiếng Anh: A Korean Odyssey) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc có sự tham gia của Lee Seung-gi, Cha Seung-won, Oh Yeon-seo, Lee Hong-gi và Jang Gwang. Hwayugi bắt đầu được phát sóng trên kênh truyền hìn " Khẳng định: " Hoa Du Ký được chiếu ở Việt Nam cùng thời điểm với Hàn Quốc trong năm 2018.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Du Ký (tiếng Hàn: 화유기; Hanja: 華遊記/花遊記/和遊記; tựa tiếng Anh: A Korean Odyssey) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc có sự tham gia của Lee Seung-gi, Cha Seung-won, Oh Yeon-seo, Lee Hong-gi và Jang Gwang. Hwayugi bắt đầu được phát sóng trên kênh truyền hìn " Khẳng định: " Hoa Du Ký được chiếu ở Việt Nam cùng thời điểm với Hàn Quốc trong năm 2018. Giải thích: Không có dữ liệu về thời điểm bộ phim công chiếu ở Việt Nam, chỉ biết phim được chiếu ở Hàn Quốc trên kênh truyền hình cáp tvN bắt đầu từ ngày 23 tháng 12 năm 2017 đến ngày 4 tháng 3 năm 2018 vào lúc 21:00 (KST) mỗi thứ Bảy và Chủ Nhật hàng tuần
78
92
94
Hoa Dương Thái hậu (Phồn thể: 華陽太后; giản thể: 华阳太后; ? - 230 TCN), thường được gọi là Hoa Dương hậu (華陽后) hoặc Hoa Dương phu nhân (華陽夫人), là Vương hậu của Tần Hiếu Văn vương Doanh Trụ, đích mẫu của Tần Trang Tương vương Doanh Tử Sở và là bà nội trên danh nghĩa của Tần Thủy Hoàng Doanh Chính. Với vị thế của một Thái hậu, bà là người có địa vị cao nhất trong vương thất Đại Tần khi ấy, và cũng đứng sau những tranh chấp chính trị liên tiếp trong thời gian này. Tuy nhiên, bà có vẻ lu mờ so với những việc làm của Triệu Cơ - mẹ của Doanh Chính. Hoa Dương hậu là người thuộc vương thất nước Sở, họ Mị (芈姓), không rõ tên gì và cha mẹ là ai. Thời gian nào bà đến nước Tần và trở thành chính thê của An Quốc quân Doanh Trụ cũng chưa được xác định. Bà cùng với Tuyên Thái hậu - mẹ Tần Chiêu Tương vương là hai nhân vật nổi tiếng xuất thân quý tộc ở Sở, được gả cho Tần.
Hoa Dương Thái Hậu và Triệu Cơ có một mối hiềm khích to lớn trong lịch sử liên quan đến chính trị nước Tần thời chiến.
Hoa Dương Thái hậu (Phồn thể: 華陽太后; giản thể: 华阳太后; ? - 230 TCN), thường được gọi là Hoa Dương hậu (華陽后) hoặc Hoa Dương phu nhân (華陽夫人), là Vương hậu của Tần Hiếu Văn vương Doanh Trụ, đích mẫu của Tần Trang Tương vương Doanh Tử Sở và là bà nội trên danh n
không có thông tin
Không có thông tin về mối quan hệ hiềm khích giữa Hoa Dương Thái Hậu và Triệu Cơ trong thông tin được cung cấp.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Dương Thái hậu (Phồn thể: 華陽太后; giản thể: 华阳太后; ? - 230 TCN), thường được gọi là Hoa Dương hậu (華陽后) hoặc Hoa Dương phu nhân (華陽夫人), là Vương hậu của Tần Hiếu Văn vương Doanh Trụ, đích mẫu của Tần Trang Tương vương Doanh Tử Sở và là bà nội trên danh n " Khẳng định: " Hoa Dương Thái Hậu và Triệu Cơ có một mối hiềm khích to lớn trong lịch sử liên quan đến chính trị nước Tần thời chiến.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Dương Thái hậu (Phồn thể: 華陽太后; giản thể: 华阳太后; ? - 230 TCN), thường được gọi là Hoa Dương hậu (華陽后) hoặc Hoa Dương phu nhân (華陽夫人), là Vương hậu của Tần Hiếu Văn vương Doanh Trụ, đích mẫu của Tần Trang Tương vương Doanh Tử Sở và là bà nội trên danh n " Khẳng định: " Hoa Dương Thái Hậu và Triệu Cơ có một mối hiềm khích to lớn trong lịch sử liên quan đến chính trị nước Tần thời chiến. Giải thích: Không có thông tin về mối quan hệ hiềm khích giữa Hoa Dương Thái Hậu và Triệu Cơ trong thông tin được cung cấp.
79
93
95
Hoa Dương Thái hậu (Phồn thể: 華陽太后; giản thể: 华阳太后; ? - 230 TCN), thường được gọi là Hoa Dương hậu (華陽后) hoặc Hoa Dương phu nhân (華陽夫人), là Vương hậu của Tần Hiếu Văn vương Doanh Trụ, đích mẫu của Tần Trang Tương vương Doanh Tử Sở và là bà nội trên danh nghĩa của Tần Thủy Hoàng Doanh Chính. Với vị thế của một Thái hậu, bà là người có địa vị cao nhất trong vương thất Đại Tần khi ấy, và cũng đứng sau những tranh chấp chính trị liên tiếp trong thời gian này. Tuy nhiên, bà có vẻ lu mờ so với những việc làm của Triệu Cơ - mẹ của Doanh Chính. Hoa Dương hậu là người thuộc vương thất nước Sở, họ Mị (芈姓), không rõ tên gì và cha mẹ là ai. Thời gian nào bà đến nước Tần và trở thành chính thê của An Quốc quân Doanh Trụ cũng chưa được xác định. Bà cùng với Tuyên Thái hậu - mẹ Tần Chiêu Tương vương là hai nhân vật nổi tiếng xuất thân quý tộc ở Sở, được gả cho Tần.
Hoa Dương Thái hậu và Tuyên Thái hậu có quê gốc là nước Sở.
Hoa Dương Thái hậu (Phồn thể: 華陽太后; giản thể: 华阳太后; ? - 230 TCN), thường được gọi là Hoa Dương hậu (華陽后) hoặc Hoa Dương phu nhân (華陽夫人), là Vương hậu của Tần Hiếu Văn vương Doanh Trụ, đích mẫu của Tần Trang Tương vương Doanh Tử Sở và là bà nội trên danh n
hỗ trợ
Hoa Dương Thái Hậu là Vương hậu của Tần Hiếu Văn vương Doanh Trụ, đích mẫu của Tần Trang Tương vương Doanh Tử Sở và là bà nội trên danh nghĩa của Tần Thủy Hoàng Doanh Chính , bà cùng với Tuyên Thái hậu, mẹ của Tần Chiêu Tương vương đều là quý tộc xuất thâ
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Dương Thái hậu (Phồn thể: 華陽太后; giản thể: 华阳太后; ? - 230 TCN), thường được gọi là Hoa Dương hậu (華陽后) hoặc Hoa Dương phu nhân (華陽夫人), là Vương hậu của Tần Hiếu Văn vương Doanh Trụ, đích mẫu của Tần Trang Tương vương Doanh Tử Sở và là bà nội trên danh n " Khẳng định: " Hoa Dương Thái hậu và Tuyên Thái hậu có quê gốc là nước Sở.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Dương Thái hậu (Phồn thể: 華陽太后; giản thể: 华阳太后; ? - 230 TCN), thường được gọi là Hoa Dương hậu (華陽后) hoặc Hoa Dương phu nhân (華陽夫人), là Vương hậu của Tần Hiếu Văn vương Doanh Trụ, đích mẫu của Tần Trang Tương vương Doanh Tử Sở và là bà nội trên danh n " Khẳng định: " Hoa Dương Thái hậu và Tuyên Thái hậu có quê gốc là nước Sở. Giải thích: Hoa Dương Thái Hậu là Vương hậu của Tần Hiếu Văn vương Doanh Trụ, đích mẫu của Tần Trang Tương vương Doanh Tử Sở và là bà nội trên danh nghĩa của Tần Thủy Hoàng Doanh Chính , bà cùng với Tuyên Thái hậu, mẹ của Tần Chiêu Tương vương đều là quý tộc xuất thâ
80
94
96
Hoa Dương Thái hậu (Phồn thể: 華陽太后; giản thể: 华阳太后; ? - 230 TCN), thường được gọi là Hoa Dương hậu (華陽后) hoặc Hoa Dương phu nhân (華陽夫人), là Vương hậu của Tần Hiếu Văn vương Doanh Trụ, đích mẫu của Tần Trang Tương vương Doanh Tử Sở và là bà nội trên danh nghĩa của Tần Thủy Hoàng Doanh Chính. Với vị thế của một Thái hậu, bà là người có địa vị cao nhất trong vương thất Đại Tần khi ấy, và cũng đứng sau những tranh chấp chính trị liên tiếp trong thời gian này. Tuy nhiên, bà có vẻ lu mờ so với những việc làm của Triệu Cơ - mẹ của Doanh Chính. Hoa Dương hậu là người thuộc vương thất nước Sở, họ Mị (芈姓), không rõ tên gì và cha mẹ là ai. Thời gian nào bà đến nước Tần và trở thành chính thê của An Quốc quân Doanh Trụ cũng chưa được xác định. Bà cùng với Tuyên Thái hậu - mẹ Tần Chiêu Tương vương là hai nhân vật nổi tiếng xuất thân quý tộc ở Sở, được gả cho Tần.
Hoa Dương hậu là con của một vị tướng lỗi lạc bên nước Sở, sau này đến năm bà 20 tuổi thì được gả qua nước Tần.
Hoa Dương hậu là người thuộc vương thất nước Sở, họ Mị (芈姓), không rõ tên gì và cha mẹ là ai. Thời gian nào bà đến nước Tần và trở thành chính thê của An Quốc quân Doanh Trụ cũng chưa được xác định.
bác bỏ
Vẫn chưa có thông tin rõ ràng về tên cha mẹ của Hoa Dương hậu cũng như thời điểm bà được gả qua nước Tần.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Dương hậu là người thuộc vương thất nước Sở, họ Mị (芈姓), không rõ tên gì và cha mẹ là ai. Thời gian nào bà đến nước Tần và trở thành chính thê của An Quốc quân Doanh Trụ cũng chưa được xác định. " Khẳng định: " Hoa Dương hậu là con của một vị tướng lỗi lạc bên nước Sở, sau này đến năm bà 20 tuổi thì được gả qua nước Tần.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Dương hậu là người thuộc vương thất nước Sở, họ Mị (芈姓), không rõ tên gì và cha mẹ là ai. Thời gian nào bà đến nước Tần và trở thành chính thê của An Quốc quân Doanh Trụ cũng chưa được xác định. " Khẳng định: " Hoa Dương hậu là con của một vị tướng lỗi lạc bên nước Sở, sau này đến năm bà 20 tuổi thì được gả qua nước Tần. Giải thích: Vẫn chưa có thông tin rõ ràng về tên cha mẹ của Hoa Dương hậu cũng như thời điểm bà được gả qua nước Tần.
81
95
97
Hoa Hạ (chữ Hán: 華夏; bính âm: huá xià) là 1 danh từ dùng để chỉ những người cư dân nông nghiệp, là tổ tiên trực tiếp của người Hán, sống ở vùng Trung Nguyên tại lưu vực sông Hoàng Hà trước khi họ mở rộng lãnh thổ ra khắp tứ di. Đây là thuật ngữ lỏng lẻo để chỉ những người Trung Quốc cổ xưa trước thời kỳ phong kiến của Trung Quốc; người Hoa Hạ tự nhận mình là Trung Hoa, Trung Quốc. Căn cứ vào ghi chép trong Tả truyện, nhà Hạ ở Trung Nguyên là một xứ đại diện cho 1 sự công bằng và chuẩn mực. Học sĩ Khổng Dĩnh Đạt (孔颖达) trong sách Xuân thu tả truyện chính nghĩa (春秋左傳正義) có giải thích: ["Trung Quốc hữu lễ nghi chi đại, cố xưng Hạ. Hữu phục chương chi mỹ, vị chi Hoa"; (Trung Quốc có lễ nghi to lớn, nên gọi Hạ. Có quần áo đẹp, cũng gọi Hoa); 中國有禮儀之大,故稱夏;有服章之美,謂之華]. Cũng có thể Hạ chỉ sông Hạ Thủy (tên khác của sông Hán Thủy) còn Hoa chỉ Hoa Sơn. Cả hai con sông và ngọn núi này đều có ý nghĩa lịch sử và văn hoá quan trọng thời cổ đại Trung Quốc.
Nguồn gốc của toàn bộ người Hán là những người Hoa Hạ xuất hiện trước chế độ phong kiến, nhà Hạ còn dùng để biểu trưng cho sự công minh.
Hoa Hạ (chữ Hán: 華夏; bính âm: huá xià) là 1 danh từ dùng để chỉ những người cư dân nông nghiệp, là tổ tiên trực tiếp của người Hán, sống ở vùng Trung Nguyên tại lưu vực sông Hoàng Hà trước khi họ mở rộng lãnh thổ ra khắp tứ di. Đây là thuật ngữ lỏng lẻo đ
bác bỏ
Hoa Hạ là 1 danh từ chỉ tổ tiên trực tiếp của người Hán sông ở Trung Nguyên tại lưu vực sông Hoàng Hà, không phải toàn bộ tộc người Hán, Hoa Hạ còn dùng để ám chỉ những người Trung Quốc xưa trước thời kỳ phong kiến, theo ghi chép trong Tả truyện thì nhà H
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Hạ (chữ Hán: 華夏; bính âm: huá xià) là 1 danh từ dùng để chỉ những người cư dân nông nghiệp, là tổ tiên trực tiếp của người Hán, sống ở vùng Trung Nguyên tại lưu vực sông Hoàng Hà trước khi họ mở rộng lãnh thổ ra khắp tứ di. Đây là thuật ngữ lỏng lẻo đ " Khẳng định: " Nguồn gốc của toàn bộ người Hán là những người Hoa Hạ xuất hiện trước chế độ phong kiến, nhà Hạ còn dùng để biểu trưng cho sự công minh.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Hạ (chữ Hán: 華夏; bính âm: huá xià) là 1 danh từ dùng để chỉ những người cư dân nông nghiệp, là tổ tiên trực tiếp của người Hán, sống ở vùng Trung Nguyên tại lưu vực sông Hoàng Hà trước khi họ mở rộng lãnh thổ ra khắp tứ di. Đây là thuật ngữ lỏng lẻo đ " Khẳng định: " Nguồn gốc của toàn bộ người Hán là những người Hoa Hạ xuất hiện trước chế độ phong kiến, nhà Hạ còn dùng để biểu trưng cho sự công minh. Giải thích: Hoa Hạ là 1 danh từ chỉ tổ tiên trực tiếp của người Hán sông ở Trung Nguyên tại lưu vực sông Hoàng Hà, không phải toàn bộ tộc người Hán, Hoa Hạ còn dùng để ám chỉ những người Trung Quốc xưa trước thời kỳ phong kiến, theo ghi chép trong Tả truyện thì nhà H
82
96
98
Hoa Hạ (chữ Hán: 華夏; bính âm: huá xià) là 1 danh từ dùng để chỉ những người cư dân nông nghiệp, là tổ tiên trực tiếp của người Hán, sống ở vùng Trung Nguyên tại lưu vực sông Hoàng Hà trước khi họ mở rộng lãnh thổ ra khắp tứ di. Đây là thuật ngữ lỏng lẻo để chỉ những người Trung Quốc cổ xưa trước thời kỳ phong kiến của Trung Quốc; người Hoa Hạ tự nhận mình là Trung Hoa, Trung Quốc. Căn cứ vào ghi chép trong Tả truyện, nhà Hạ ở Trung Nguyên là một xứ đại diện cho 1 sự công bằng và chuẩn mực. Học sĩ Khổng Dĩnh Đạt (孔颖达) trong sách Xuân thu tả truyện chính nghĩa (春秋左傳正義) có giải thích: ["Trung Quốc hữu lễ nghi chi đại, cố xưng Hạ. Hữu phục chương chi mỹ, vị chi Hoa"; (Trung Quốc có lễ nghi to lớn, nên gọi Hạ. Có quần áo đẹp, cũng gọi Hoa); 中國有禮儀之大,故稱夏;有服章之美,謂之華]. Cũng có thể Hạ chỉ sông Hạ Thủy (tên khác của sông Hán Thủy) còn Hoa chỉ Hoa Sơn. Cả hai con sông và ngọn núi này đều có ý nghĩa lịch sử và văn hoá quan trọng thời cổ đại Trung Quốc.
Nhà Hạ có kinh đô tại lưu vực sông Hoàng Hà và là triều đại đầu tiên của vùng đất Trung Nguyên.
Hoa Hạ (chữ Hán: 華夏; bính âm: huá xià) là 1 danh từ dùng để chỉ những người cư dân nông nghiệp, là tổ tiên trực tiếp của người Hán, sống ở vùng Trung Nguyên tại lưu vực sông Hoàng Hà trước khi họ mở rộng lãnh thổ ra khắp tứ di. Căn cứ vào ghi chép trong
không có thông tin
Không có thông tin cho thấy vị trí của nhà Hạ cũng như việc nhà Hạ có phải là triều đại đầu tiên của mảnh đất Trung Nguyên hay không.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Hạ (chữ Hán: 華夏; bính âm: huá xià) là 1 danh từ dùng để chỉ những người cư dân nông nghiệp, là tổ tiên trực tiếp của người Hán, sống ở vùng Trung Nguyên tại lưu vực sông Hoàng Hà trước khi họ mở rộng lãnh thổ ra khắp tứ di. Căn cứ vào ghi chép trong " Khẳng định: " Nhà Hạ có kinh đô tại lưu vực sông Hoàng Hà và là triều đại đầu tiên của vùng đất Trung Nguyên.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Hạ (chữ Hán: 華夏; bính âm: huá xià) là 1 danh từ dùng để chỉ những người cư dân nông nghiệp, là tổ tiên trực tiếp của người Hán, sống ở vùng Trung Nguyên tại lưu vực sông Hoàng Hà trước khi họ mở rộng lãnh thổ ra khắp tứ di. Căn cứ vào ghi chép trong " Khẳng định: " Nhà Hạ có kinh đô tại lưu vực sông Hoàng Hà và là triều đại đầu tiên của vùng đất Trung Nguyên. Giải thích: Không có thông tin cho thấy vị trí của nhà Hạ cũng như việc nhà Hạ có phải là triều đại đầu tiên của mảnh đất Trung Nguyên hay không.
83
97
99
Hoa Hạ (chữ Hán: 華夏; bính âm: huá xià) là 1 danh từ dùng để chỉ những người cư dân nông nghiệp, là tổ tiên trực tiếp của người Hán, sống ở vùng Trung Nguyên tại lưu vực sông Hoàng Hà trước khi họ mở rộng lãnh thổ ra khắp tứ di. Đây là thuật ngữ lỏng lẻo để chỉ những người Trung Quốc cổ xưa trước thời kỳ phong kiến của Trung Quốc; người Hoa Hạ tự nhận mình là Trung Hoa, Trung Quốc. Căn cứ vào ghi chép trong Tả truyện, nhà Hạ ở Trung Nguyên là một xứ đại diện cho 1 sự công bằng và chuẩn mực. Học sĩ Khổng Dĩnh Đạt (孔颖达) trong sách Xuân thu tả truyện chính nghĩa (春秋左傳正義) có giải thích: ["Trung Quốc hữu lễ nghi chi đại, cố xưng Hạ. Hữu phục chương chi mỹ, vị chi Hoa"; (Trung Quốc có lễ nghi to lớn, nên gọi Hạ. Có quần áo đẹp, cũng gọi Hoa); 中國有禮儀之大,故稱夏;有服章之美,謂之華]. Cũng có thể Hạ chỉ sông Hạ Thủy (tên khác của sông Hán Thủy) còn Hoa chỉ Hoa Sơn. Cả hai con sông và ngọn núi này đều có ý nghĩa lịch sử và văn hoá quan trọng thời cổ đại Trung Quốc.
Hoa có thể giải thích bằng sự xinh đẹp còn Hạ là lễ nghi to lớn, nhưng cũng có ý kiến cho rằng từ Hoa đến từ Hoa Sơn còn Hạ nằm trong tên gọi khác của sông Hán Thủy.
Học sĩ Khổng Dĩnh Đạt (孔颖达) trong sách Xuân thu tả truyện chính nghĩa (春秋左傳正義) có giải thích: ["Trung Quốc hữu lễ nghi chi đại, cố xưng Hạ. Hữu phục chương chi mỹ, vị chi Hoa"; (Trung Quốc có lễ nghi to lớn, nên gọi Hạ. Có quần áo đẹp, cũng gọi Hoa); 中國有禮
hỗ trợ
Theo học sĩ Khổng Dĩnh Đạt giải thích trong sách Xuân thu tả truyện chính nghĩa thì Trung Quốc có lễ nghi to lớn nên gọi là Hạ, có quần áo đẹp gọi là Hoa, nhưng cũng có ý kiến cho rằng Hạ để chỉ sông Hạ Thủy còn Hoa thì dùng để chỉ Hoa Sơn.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Học sĩ Khổng Dĩnh Đạt (孔颖达) trong sách Xuân thu tả truyện chính nghĩa (春秋左傳正義) có giải thích: ["Trung Quốc hữu lễ nghi chi đại, cố xưng Hạ. Hữu phục chương chi mỹ, vị chi Hoa"; (Trung Quốc có lễ nghi to lớn, nên gọi Hạ. Có quần áo đẹp, cũng gọi Hoa); 中國有禮 " Khẳng định: " Hoa có thể giải thích bằng sự xinh đẹp còn Hạ là lễ nghi to lớn, nhưng cũng có ý kiến cho rằng từ Hoa đến từ Hoa Sơn còn Hạ nằm trong tên gọi khác của sông Hán Thủy.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Học sĩ Khổng Dĩnh Đạt (孔颖达) trong sách Xuân thu tả truyện chính nghĩa (春秋左傳正義) có giải thích: ["Trung Quốc hữu lễ nghi chi đại, cố xưng Hạ. Hữu phục chương chi mỹ, vị chi Hoa"; (Trung Quốc có lễ nghi to lớn, nên gọi Hạ. Có quần áo đẹp, cũng gọi Hoa); 中國有禮 " Khẳng định: " Hoa có thể giải thích bằng sự xinh đẹp còn Hạ là lễ nghi to lớn, nhưng cũng có ý kiến cho rằng từ Hoa đến từ Hoa Sơn còn Hạ nằm trong tên gọi khác của sông Hán Thủy. Giải thích: Theo học sĩ Khổng Dĩnh Đạt giải thích trong sách Xuân thu tả truyện chính nghĩa thì Trung Quốc có lễ nghi to lớn nên gọi là Hạ, có quần áo đẹp gọi là Hoa, nhưng cũng có ý kiến cho rằng Hạ để chỉ sông Hạ Thủy còn Hoa thì dùng để chỉ Hoa Sơn.
84
98
100
Hoa Học Trò (còn gọi là H2T, HHT) là ấn phẩm của báo Tiền phong, là tờ báo dành cho lứa tuổi thanh thiếu niên. Số đầu tiên của Hoa Học Trò bắt đầu phát hành từ ngày 15 tháng 10 năm 1991, dưới sự hỗ trợ của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Vào ngày 15 tháng 10 năm 1991, Hoa Học Trò phát hành số báo đầu tiên, mỗi tháng ra một kỳ. Lúc đó, phần thiết kế của báo vẫn còn khá đơn giản với một vài mục như. Thơ, Truyện cười,... Tháng 9 năm 1993, HHT tăng lên hai kỳ một tháng, sau đó phát hành hàng tuần kể từ năm 1995. Tháng 10 năm 1998, trên cơ sở quy hoạch báo chí của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, báo Sinh viên Việt Nam chính thức ra mắt. Hoa Học Trò tách khỏi báo Thiếu niên Tiền phong và trở thành tuần san của báo Sinh viên Việt Nam kể từ đó.
Báo Hoa Học Trò ban đầu chỉ in 1 lần 1 tháng, cuối cùng tăng lên 1 lần 1 tuần.
Vào ngày 15 tháng 10 năm 1991, Hoa Học Trò phát hành số báo đầu tiên, mỗi tháng ra một kỳ. Tháng 9 năm 1993, HHT tăng lên hai kỳ một tháng, sau đó phát hành hàng tuần kể từ năm 1995.
hỗ trợ
Lần đầu ra mắt năm 1991, Hoa Học Trò phát hành mỗi tháng một kỳ sau đó phát hành mỗi tuần một kỳ từ năm 1995.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Vào ngày 15 tháng 10 năm 1991, Hoa Học Trò phát hành số báo đầu tiên, mỗi tháng ra một kỳ. Tháng 9 năm 1993, HHT tăng lên hai kỳ một tháng, sau đó phát hành hàng tuần kể từ năm 1995. " Khẳng định: " Báo Hoa Học Trò ban đầu chỉ in 1 lần 1 tháng, cuối cùng tăng lên 1 lần 1 tuần.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Vào ngày 15 tháng 10 năm 1991, Hoa Học Trò phát hành số báo đầu tiên, mỗi tháng ra một kỳ. Tháng 9 năm 1993, HHT tăng lên hai kỳ một tháng, sau đó phát hành hàng tuần kể từ năm 1995. " Khẳng định: " Báo Hoa Học Trò ban đầu chỉ in 1 lần 1 tháng, cuối cùng tăng lên 1 lần 1 tuần. Giải thích: Lần đầu ra mắt năm 1991, Hoa Học Trò phát hành mỗi tháng một kỳ sau đó phát hành mỗi tuần một kỳ từ năm 1995.
85
99
101
Hoa Học Trò (còn gọi là H2T, HHT) là ấn phẩm của báo Tiền phong, là tờ báo dành cho lứa tuổi thanh thiếu niên. Số đầu tiên của Hoa Học Trò bắt đầu phát hành từ ngày 15 tháng 10 năm 1991, dưới sự hỗ trợ của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Vào ngày 15 tháng 10 năm 1991, Hoa Học Trò phát hành số báo đầu tiên, mỗi tháng ra một kỳ. Lúc đó, phần thiết kế của báo vẫn còn khá đơn giản với một vài mục như. Thơ, Truyện cười,... Tháng 9 năm 1993, HHT tăng lên hai kỳ một tháng, sau đó phát hành hàng tuần kể từ năm 1995. Tháng 10 năm 1998, trên cơ sở quy hoạch báo chí của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, báo Sinh viên Việt Nam chính thức ra mắt. Hoa Học Trò tách khỏi báo Thiếu niên Tiền phong và trở thành tuần san của báo Sinh viên Việt Nam kể từ đó.
Khi tách khỏi báo Tiền Phong để đầu quân cho báo Sinh Viên Việt Nam, báo Hoa Học Trò chuyển sang phát hành dưới hình thức báo điện tử.
Tháng 10 năm 1998, trên cơ sở quy hoạch báo chí của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, báo Sinh viên Việt Nam chính thức ra mắt. Hoa Học Trò tách khỏi báo Thiếu niên Tiền phong và trở thành tuần san của báo Sinh viên Việt Nam kể từ đó.
không có thông tin
Chỉ có thông tin về việc báo Hoa Học Trò tách khỏi báo Thiếu niên Tiền Phong rồi trở thành tuần san báo Sinh viên Việt Nam vào năm 1998, không có hình thức phát hành của báo Hoa Học Trò về sau.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Tháng 10 năm 1998, trên cơ sở quy hoạch báo chí của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, báo Sinh viên Việt Nam chính thức ra mắt. Hoa Học Trò tách khỏi báo Thiếu niên Tiền phong và trở thành tuần san của báo Sinh viên Việt Nam kể từ đó. " Khẳng định: " Khi tách khỏi báo Tiền Phong để đầu quân cho báo Sinh Viên Việt Nam, báo Hoa Học Trò chuyển sang phát hành dưới hình thức báo điện tử.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Tháng 10 năm 1998, trên cơ sở quy hoạch báo chí của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, báo Sinh viên Việt Nam chính thức ra mắt. Hoa Học Trò tách khỏi báo Thiếu niên Tiền phong và trở thành tuần san của báo Sinh viên Việt Nam kể từ đó. " Khẳng định: " Khi tách khỏi báo Tiền Phong để đầu quân cho báo Sinh Viên Việt Nam, báo Hoa Học Trò chuyển sang phát hành dưới hình thức báo điện tử. Giải thích: Chỉ có thông tin về việc báo Hoa Học Trò tách khỏi báo Thiếu niên Tiền Phong rồi trở thành tuần san báo Sinh viên Việt Nam vào năm 1998, không có hình thức phát hành của báo Hoa Học Trò về sau.
86
100
102
Hoa Học Trò (còn gọi là H2T, HHT) là ấn phẩm của báo Tiền phong, là tờ báo dành cho lứa tuổi thanh thiếu niên. Số đầu tiên của Hoa Học Trò bắt đầu phát hành từ ngày 15 tháng 10 năm 1991, dưới sự hỗ trợ của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Vào ngày 15 tháng 10 năm 1991, Hoa Học Trò phát hành số báo đầu tiên, mỗi tháng ra một kỳ. Lúc đó, phần thiết kế của báo vẫn còn khá đơn giản với một vài mục như. Thơ, Truyện cười,... Tháng 9 năm 1993, HHT tăng lên hai kỳ một tháng, sau đó phát hành hàng tuần kể từ năm 1995. Tháng 10 năm 1998, trên cơ sở quy hoạch báo chí của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, báo Sinh viên Việt Nam chính thức ra mắt. Hoa Học Trò tách khỏi báo Thiếu niên Tiền phong và trở thành tuần san của báo Sinh viên Việt Nam kể từ đó.
Khi được đưa ra số báo đầu tiên, Hoa Học Trò đã cho thấy những nội dung đầy đủ về công tác Đoàn viên thanh niên cũng như đường lối hoạt động.
Vào ngày 15 tháng 10 năm 1991, Hoa Học Trò phát hành số báo đầu tiên, mỗi tháng ra một kỳ. Lúc đó, phần thiết kế của báo vẫn còn khá đơn giản với một vài mục như. Thơ, Truyện cười,..
bác bỏ
Khi phát hành số báo đầu tiên năm 1991, báo Hoa Học Trò có thiết kế khá đơn giản, chỉ gồm những mục cơ bản như Thơ hay Truyện cười,…
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Vào ngày 15 tháng 10 năm 1991, Hoa Học Trò phát hành số báo đầu tiên, mỗi tháng ra một kỳ. Lúc đó, phần thiết kế của báo vẫn còn khá đơn giản với một vài mục như. Thơ, Truyện cười,.. " Khẳng định: " Khi được đưa ra số báo đầu tiên, Hoa Học Trò đã cho thấy những nội dung đầy đủ về công tác Đoàn viên thanh niên cũng như đường lối hoạt động.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Vào ngày 15 tháng 10 năm 1991, Hoa Học Trò phát hành số báo đầu tiên, mỗi tháng ra một kỳ. Lúc đó, phần thiết kế của báo vẫn còn khá đơn giản với một vài mục như. Thơ, Truyện cười,.. " Khẳng định: " Khi được đưa ra số báo đầu tiên, Hoa Học Trò đã cho thấy những nội dung đầy đủ về công tác Đoàn viên thanh niên cũng như đường lối hoạt động. Giải thích: Khi phát hành số báo đầu tiên năm 1991, báo Hoa Học Trò có thiết kế khá đơn giản, chỉ gồm những mục cơ bản như Thơ hay Truyện cười,…
87
101
103
Hoa Kim Chính Nhật là một giống hoa mang tên cố lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Chính Nhật. Đây là một giống cây trồng thuộc Nhóm Tuberhybrida (Begonia × tuberhybrida) của chi thu hải đường. Mặc dù được gọi là hoa Kim Chính Nhật song đây không phải là quốc hoa của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Quốc hoa của đất nước này là Mộc lan. Để kỉ niệm sinh nhật lần thứ 46 của Kim Chính Nhật vào năm 1988, nhà thực vật học người Nhật Bản Kamo Mototeru đã trồng một giống thu hải đường lâu năm mang tên "kimjongilia" (có nghĩa là "hoa Kim Chính Nhật"), đại diện cho sự nghiệp cách mạng Chủ thể của Lãnh thụ Kính yêu. Giống hoa được mô tả như là một "vật kỉ niệm của tình hữu nghị Triều-Nhật". Giống hoa này tượng trưng cho minh triết, tình yêu, công bằng và hòa bình. Loại cây này được chăm sóc để nở hoa hàng năm vào đúng ngày sinh nhật 16 tháng 2 của Kim Chính Nhật.
Hoa Kim Chính Nhật, được một nhà thực vật học gieo trồng kỉ niệm cho ngày sinh 46 tuổi của lãnh tụ Triều Tiên, tượng trưng cho tình hữu nghị giữa hai đất nước Triều Tiên và Nhật Bản.
Hoa Kim Chính Nhật là một giống hoa mang tên cố lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Chính Nhật. Để kỉ niệm sinh nhật lần thứ 46 của Kim Chính Nhật vào năm 1988, nhà thực vật học người Nhật Bản Kamo Mototeru đã trồng một giống thu hải đường lâu năm mang tên "kimj
hỗ trợ
Hoa Kim Chính Nhật có tên trùng với tên cố lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Chính Nhật, để kỉ niệm sinh nhật thứ 46 của Kim Chính Nhật, nhà thực vật học người Nhật Kamo Mototeru đã trồng loài hoa này, nó được mô tả là một "vật kỉ niệm của tình hữu nghị Triều-N
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Kim Chính Nhật là một giống hoa mang tên cố lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Chính Nhật. Để kỉ niệm sinh nhật lần thứ 46 của Kim Chính Nhật vào năm 1988, nhà thực vật học người Nhật Bản Kamo Mototeru đã trồng một giống thu hải đường lâu năm mang tên "kimj " Khẳng định: " Hoa Kim Chính Nhật, được một nhà thực vật học gieo trồng kỉ niệm cho ngày sinh 46 tuổi của lãnh tụ Triều Tiên, tượng trưng cho tình hữu nghị giữa hai đất nước Triều Tiên và Nhật Bản.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Kim Chính Nhật là một giống hoa mang tên cố lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Chính Nhật. Để kỉ niệm sinh nhật lần thứ 46 của Kim Chính Nhật vào năm 1988, nhà thực vật học người Nhật Bản Kamo Mototeru đã trồng một giống thu hải đường lâu năm mang tên "kimj " Khẳng định: " Hoa Kim Chính Nhật, được một nhà thực vật học gieo trồng kỉ niệm cho ngày sinh 46 tuổi của lãnh tụ Triều Tiên, tượng trưng cho tình hữu nghị giữa hai đất nước Triều Tiên và Nhật Bản. Giải thích: Hoa Kim Chính Nhật có tên trùng với tên cố lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Chính Nhật, để kỉ niệm sinh nhật thứ 46 của Kim Chính Nhật, nhà thực vật học người Nhật Kamo Mototeru đã trồng loài hoa này, nó được mô tả là một "vật kỉ niệm của tình hữu nghị Triều-N
88
102
104
Hoa Kim Chính Nhật là một giống hoa mang tên cố lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Chính Nhật. Đây là một giống cây trồng thuộc Nhóm Tuberhybrida (Begonia × tuberhybrida) của chi thu hải đường. Mặc dù được gọi là hoa Kim Chính Nhật song đây không phải là quốc hoa của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Quốc hoa của đất nước này là Mộc lan. Để kỉ niệm sinh nhật lần thứ 46 của Kim Chính Nhật vào năm 1988, nhà thực vật học người Nhật Bản Kamo Mototeru đã trồng một giống thu hải đường lâu năm mang tên "kimjongilia" (có nghĩa là "hoa Kim Chính Nhật"), đại diện cho sự nghiệp cách mạng Chủ thể của Lãnh thụ Kính yêu. Giống hoa được mô tả như là một "vật kỉ niệm của tình hữu nghị Triều-Nhật". Giống hoa này tượng trưng cho minh triết, tình yêu, công bằng và hòa bình. Loại cây này được chăm sóc để nở hoa hàng năm vào đúng ngày sinh nhật 16 tháng 2 của Kim Chính Nhật.
Hoa Kim Chính Nhật là một giống hải đường nên khi chăm sóc để cho nở đúng vào ngày sinh nhật của Kim Chính Nhật đòi hỏi người chăm sóc phải là các chuyên gia về lĩnh vực sinh học.
Hoa Kim Chính Nhật là một giống hoa mang tên cố lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Chính Nhật. Đây là một giống cây trồng thuộc Nhóm Tuberhybrida (Begonia × tuberhybrida) của chi thu hải đường. Loại cây này được chăm sóc để nở hoa hàng năm vào đúng ngày sinh nhậ
không có thông tin
Chỉ có thông tin về việc hoa Kim Chính Nhật được chăm sóc để nở hoa hàng năm vào đúng ngày sinh nhật 16 tháng 2 của Kim Chính Nhật, không có thông tin cụ thể về cách chăm sóc.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Kim Chính Nhật là một giống hoa mang tên cố lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Chính Nhật. Đây là một giống cây trồng thuộc Nhóm Tuberhybrida (Begonia × tuberhybrida) của chi thu hải đường. Loại cây này được chăm sóc để nở hoa hàng năm vào đúng ngày sinh nhậ " Khẳng định: " Hoa Kim Chính Nhật là một giống hải đường nên khi chăm sóc để cho nở đúng vào ngày sinh nhật của Kim Chính Nhật đòi hỏi người chăm sóc phải là các chuyên gia về lĩnh vực sinh học.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Kim Chính Nhật là một giống hoa mang tên cố lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Chính Nhật. Đây là một giống cây trồng thuộc Nhóm Tuberhybrida (Begonia × tuberhybrida) của chi thu hải đường. Loại cây này được chăm sóc để nở hoa hàng năm vào đúng ngày sinh nhậ " Khẳng định: " Hoa Kim Chính Nhật là một giống hải đường nên khi chăm sóc để cho nở đúng vào ngày sinh nhật của Kim Chính Nhật đòi hỏi người chăm sóc phải là các chuyên gia về lĩnh vực sinh học. Giải thích: Chỉ có thông tin về việc hoa Kim Chính Nhật được chăm sóc để nở hoa hàng năm vào đúng ngày sinh nhật 16 tháng 2 của Kim Chính Nhật, không có thông tin cụ thể về cách chăm sóc.
89
103
105
Hoa Kim Chính Nhật là một giống hoa mang tên cố lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Chính Nhật. Đây là một giống cây trồng thuộc Nhóm Tuberhybrida (Begonia × tuberhybrida) của chi thu hải đường. Mặc dù được gọi là hoa Kim Chính Nhật song đây không phải là quốc hoa của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Quốc hoa của đất nước này là Mộc lan. Để kỉ niệm sinh nhật lần thứ 46 của Kim Chính Nhật vào năm 1988, nhà thực vật học người Nhật Bản Kamo Mototeru đã trồng một giống thu hải đường lâu năm mang tên "kimjongilia" (có nghĩa là "hoa Kim Chính Nhật"), đại diện cho sự nghiệp cách mạng Chủ thể của Lãnh thụ Kính yêu. Giống hoa được mô tả như là một "vật kỉ niệm của tình hữu nghị Triều-Nhật". Giống hoa này tượng trưng cho minh triết, tình yêu, công bằng và hòa bình. Loại cây này được chăm sóc để nở hoa hàng năm vào đúng ngày sinh nhật 16 tháng 2 của Kim Chính Nhật.
Hoạt động chăm sóc của loài hoa Kim Chính Nhật bị cấm ở Triều Tiên do trùng tên với cố lãnh đạo của họ cũng như là quốc hoa của đối thủ kế cận, Nhật Bản.
Hoa Kim Chính Nhật là một giống hoa mang tên cố lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Chính Nhật. Giống hoa được mô tả như là một "vật kỉ niệm của tình hữu nghị Triều-Nhật". Loại cây này được chăm sóc để nở hoa hàng năm vào đúng ngày sinh nhật 16 tháng 2 của Kim Ch
bác bỏ
Hoa Kim Chính Nhật mang tên cố lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Chính Nhật và được mô tả như là một "vật kỉ niệm của tình hữu nghị Triều-Nhật", nó thậm chí còn được chăm sóc để nở hoa hàng năm vào đúng ngày sinh nhật 16 tháng 2 của Kim Chính Nhật, không có chu
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Kim Chính Nhật là một giống hoa mang tên cố lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Chính Nhật. Giống hoa được mô tả như là một "vật kỉ niệm của tình hữu nghị Triều-Nhật". Loại cây này được chăm sóc để nở hoa hàng năm vào đúng ngày sinh nhật 16 tháng 2 của Kim Ch " Khẳng định: " Hoạt động chăm sóc của loài hoa Kim Chính Nhật bị cấm ở Triều Tiên do trùng tên với cố lãnh đạo của họ cũng như là quốc hoa của đối thủ kế cận, Nhật Bản.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Kim Chính Nhật là một giống hoa mang tên cố lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Chính Nhật. Giống hoa được mô tả như là một "vật kỉ niệm của tình hữu nghị Triều-Nhật". Loại cây này được chăm sóc để nở hoa hàng năm vào đúng ngày sinh nhật 16 tháng 2 của Kim Ch " Khẳng định: " Hoạt động chăm sóc của loài hoa Kim Chính Nhật bị cấm ở Triều Tiên do trùng tên với cố lãnh đạo của họ cũng như là quốc hoa của đối thủ kế cận, Nhật Bản. Giải thích: Hoa Kim Chính Nhật mang tên cố lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Chính Nhật và được mô tả như là một "vật kỉ niệm của tình hữu nghị Triều-Nhật", nó thậm chí còn được chăm sóc để nở hoa hàng năm vào đúng ngày sinh nhật 16 tháng 2 của Kim Chính Nhật, không có chu
90
104
106
Hoa Kim Nhật Thành là một loại cây trồng lai thuộc chi Lan hoàng thảo của họ Lan được cấy ở Indonesia bởi nhà trồng hoa lan C. L. Bundt, vào năm 1964 đã đăng ký tên Dendrobium Clara Bundt cho tất cả các hoa có nguồn gốc này, đặt theo tên con gái ông Có một dự tính đặt tên hoa này theo chủ tịch vĩnh viễn của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Kim Nhật Thành nhưng không thành công, bây giờ nó được xem là một từ đồng nghĩa với Dendrobium Clara Bundt. Một loài hoa khác mang tên Hoa Kim Chính Nhật, được đặt theo tên con trai của ông. Cả hai loài hoa Nhật Nhật Thành và hoa Kim Chính Nhật đều không phải là quốc hoa của Bắc Triều Tiên. Quốc hoa của đất nước này là Mộc lan. Chính phủ Bắc Triều Tiên nói rằng tính cách độc nhất vô nhị của Kim Nhật Thành được "phản ánh đầy đủ trong loài hoa bất tử" với đặc tính "nở ở bất cứ nơi đâu trên năm châu lục". Ông dừng chân trước một loài hoa đặc biệt, thân của nó dài thẳng, lá của nó trải đều cân bằng, mang dáng vẻ điềm tĩnh, và những bông hoa màu hồng của cây toát lên vẻ tao nhã và đài các của chúng; ông nói loài cây trông thú vị, nói rằng đánh giá cao thành công trong việc trồng nó. Sukarno nói rằng đây là loài cây chưa được đặt tên, và rằng ông sẽ đặt tên nó là Kim Nhật Thành. Kim Nhật Thành đã từ chối lời đề nghị của này, nhưng Sukarno đã tha thiết rằng sự tôn trọng Kim Nhật Thành bằng cách đặt tên giống như một vinh dự tuyệt vời, vì ông đã sẵn sàng dấn thân vào các hoạt động cực kỳ dũng cảm vì lợi ích của nhân loại.
Hoa Mộc lan cũng giống như hoa Kim Chính Nhật là đều nở về đêm và mọc ở cả 5 châu lục.
Cả hai loài hoa Nhật Nhật Thành và hoa Kim Chính Nhật đều không phải là quốc hoa của Bắc Triều Tiên. Quốc hoa của đất nước này là Mộc lan. Chính phủ Bắc Triều Tiên nói rằng tính cách độc nhất vô nhị của Kim Nhật Thành được "phản ánh đầy đủ trong loài hoa
không có thông tin
Không có thông tin về thời điểm mà hoa Mộc lan cũng như hoa Kim Chính Nhật nở.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Cả hai loài hoa Nhật Nhật Thành và hoa Kim Chính Nhật đều không phải là quốc hoa của Bắc Triều Tiên. Quốc hoa của đất nước này là Mộc lan. Chính phủ Bắc Triều Tiên nói rằng tính cách độc nhất vô nhị của Kim Nhật Thành được "phản ánh đầy đủ trong loài hoa " Khẳng định: " Hoa Mộc lan cũng giống như hoa Kim Chính Nhật là đều nở về đêm và mọc ở cả 5 châu lục.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Cả hai loài hoa Nhật Nhật Thành và hoa Kim Chính Nhật đều không phải là quốc hoa của Bắc Triều Tiên. Quốc hoa của đất nước này là Mộc lan. Chính phủ Bắc Triều Tiên nói rằng tính cách độc nhất vô nhị của Kim Nhật Thành được "phản ánh đầy đủ trong loài hoa " Khẳng định: " Hoa Mộc lan cũng giống như hoa Kim Chính Nhật là đều nở về đêm và mọc ở cả 5 châu lục. Giải thích: Không có thông tin về thời điểm mà hoa Mộc lan cũng như hoa Kim Chính Nhật nở.
91
105
107
Hoa Kim Nhật Thành là một loại cây trồng lai thuộc chi Lan hoàng thảo của họ Lan được cấy ở Indonesia bởi nhà trồng hoa lan C. L. Bundt, vào năm 1964 đã đăng ký tên Dendrobium Clara Bundt cho tất cả các hoa có nguồn gốc này, đặt theo tên con gái ông Có một dự tính đặt tên hoa này theo chủ tịch vĩnh viễn của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Kim Nhật Thành nhưng không thành công, bây giờ nó được xem là một từ đồng nghĩa với Dendrobium Clara Bundt. Một loài hoa khác mang tên Hoa Kim Chính Nhật, được đặt theo tên con trai của ông. Cả hai loài hoa Nhật Nhật Thành và hoa Kim Chính Nhật đều không phải là quốc hoa của Bắc Triều Tiên. Quốc hoa của đất nước này là Mộc lan. Chính phủ Bắc Triều Tiên nói rằng tính cách độc nhất vô nhị của Kim Nhật Thành được "phản ánh đầy đủ trong loài hoa bất tử" với đặc tính "nở ở bất cứ nơi đâu trên năm châu lục". Ông dừng chân trước một loài hoa đặc biệt, thân của nó dài thẳng, lá của nó trải đều cân bằng, mang dáng vẻ điềm tĩnh, và những bông hoa màu hồng của cây toát lên vẻ tao nhã và đài các của chúng; ông nói loài cây trông thú vị, nói rằng đánh giá cao thành công trong việc trồng nó. Sukarno nói rằng đây là loài cây chưa được đặt tên, và rằng ông sẽ đặt tên nó là Kim Nhật Thành. Kim Nhật Thành đã từ chối lời đề nghị của này, nhưng Sukarno đã tha thiết rằng sự tôn trọng Kim Nhật Thành bằng cách đặt tên giống như một vinh dự tuyệt vời, vì ông đã sẵn sàng dấn thân vào các hoạt động cực kỳ dũng cảm vì lợi ích của nhân loại.
Sukarno đã lén lút đặt tên cho một loài cây vô danh là Kim Nhật Thành vì mục đích muốn kéo quan hệ giữa hai nước.
Sukarno nói rằng đây là loài cây chưa được đặt tên, và rằng ông sẽ đặt tên nó là Kim Nhật Thành. Kim Nhật Thành đã từ chối lời đề nghị của này, nhưng Sukarno đã tha thiết rằng sự tôn trọng Kim Nhật Thành bằng cách đặt tên giống như một vinh dự tuyệt vời,
bác bỏ
Sukarno đã đề nghị đặt tên loài cây vô danh là Kim Nhật Thành, vì ông muốn thể hiện sự tôn trọng Kim Nhật Thành cũng như việc đặt tên là một vinh dự tuyệt vời.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Sukarno nói rằng đây là loài cây chưa được đặt tên, và rằng ông sẽ đặt tên nó là Kim Nhật Thành. Kim Nhật Thành đã từ chối lời đề nghị của này, nhưng Sukarno đã tha thiết rằng sự tôn trọng Kim Nhật Thành bằng cách đặt tên giống như một vinh dự tuyệt vời, " Khẳng định: " Sukarno đã lén lút đặt tên cho một loài cây vô danh là Kim Nhật Thành vì mục đích muốn kéo quan hệ giữa hai nước.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Sukarno nói rằng đây là loài cây chưa được đặt tên, và rằng ông sẽ đặt tên nó là Kim Nhật Thành. Kim Nhật Thành đã từ chối lời đề nghị của này, nhưng Sukarno đã tha thiết rằng sự tôn trọng Kim Nhật Thành bằng cách đặt tên giống như một vinh dự tuyệt vời, " Khẳng định: " Sukarno đã lén lút đặt tên cho một loài cây vô danh là Kim Nhật Thành vì mục đích muốn kéo quan hệ giữa hai nước. Giải thích: Sukarno đã đề nghị đặt tên loài cây vô danh là Kim Nhật Thành, vì ông muốn thể hiện sự tôn trọng Kim Nhật Thành cũng như việc đặt tên là một vinh dự tuyệt vời.
92
106
108
Hoa Kim Nhật Thành là một loại cây trồng lai thuộc chi Lan hoàng thảo của họ Lan được cấy ở Indonesia bởi nhà trồng hoa lan C. L. Bundt, vào năm 1964 đã đăng ký tên Dendrobium Clara Bundt cho tất cả các hoa có nguồn gốc này, đặt theo tên con gái ông Có một dự tính đặt tên hoa này theo chủ tịch vĩnh viễn của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Kim Nhật Thành nhưng không thành công, bây giờ nó được xem là một từ đồng nghĩa với Dendrobium Clara Bundt. Một loài hoa khác mang tên Hoa Kim Chính Nhật, được đặt theo tên con trai của ông. Cả hai loài hoa Nhật Nhật Thành và hoa Kim Chính Nhật đều không phải là quốc hoa của Bắc Triều Tiên. Quốc hoa của đất nước này là Mộc lan. Chính phủ Bắc Triều Tiên nói rằng tính cách độc nhất vô nhị của Kim Nhật Thành được "phản ánh đầy đủ trong loài hoa bất tử" với đặc tính "nở ở bất cứ nơi đâu trên năm châu lục". Ông dừng chân trước một loài hoa đặc biệt, thân của nó dài thẳng, lá của nó trải đều cân bằng, mang dáng vẻ điềm tĩnh, và những bông hoa màu hồng của cây toát lên vẻ tao nhã và đài các của chúng; ông nói loài cây trông thú vị, nói rằng đánh giá cao thành công trong việc trồng nó. Sukarno nói rằng đây là loài cây chưa được đặt tên, và rằng ông sẽ đặt tên nó là Kim Nhật Thành. Kim Nhật Thành đã từ chối lời đề nghị của này, nhưng Sukarno đã tha thiết rằng sự tôn trọng Kim Nhật Thành bằng cách đặt tên giống như một vinh dự tuyệt vời, vì ông đã sẵn sàng dấn thân vào các hoạt động cực kỳ dũng cảm vì lợi ích của nhân loại.
Hoa Mộc Lan là quốc hoa của Bắc Triều Tiên chứ không phải hoa Nhật Nhật Thành hay hoa Kim Chính Nhật, vì nó phản ánh con người của Kim Nhật Thành.
Cả hai loài hoa Nhật Nhật Thành và hoa Kim Chính Nhật đều không phải là quốc hoa của Bắc Triều Tiên. Quốc hoa của đất nước này là Mộc lan. Chính phủ Bắc Triều Tiên nói rằng tính cách độc nhất vô nhị của Kim Nhật Thành được "phản ánh đầy đủ trong loài hoa
hỗ trợ
Quốc hoa của đất nước Bắc Triều Tiên là Mộc lan vì chính phủ cho rằng hoa mộc lan phản ánh tính cách độc nhất vô nhị của Kim Nhật Thành với đặc tính có thể nở bất cứ đâu trong 5 châu lục.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Cả hai loài hoa Nhật Nhật Thành và hoa Kim Chính Nhật đều không phải là quốc hoa của Bắc Triều Tiên. Quốc hoa của đất nước này là Mộc lan. Chính phủ Bắc Triều Tiên nói rằng tính cách độc nhất vô nhị của Kim Nhật Thành được "phản ánh đầy đủ trong loài hoa " Khẳng định: " Hoa Mộc Lan là quốc hoa của Bắc Triều Tiên chứ không phải hoa Nhật Nhật Thành hay hoa Kim Chính Nhật, vì nó phản ánh con người của Kim Nhật Thành.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Cả hai loài hoa Nhật Nhật Thành và hoa Kim Chính Nhật đều không phải là quốc hoa của Bắc Triều Tiên. Quốc hoa của đất nước này là Mộc lan. Chính phủ Bắc Triều Tiên nói rằng tính cách độc nhất vô nhị của Kim Nhật Thành được "phản ánh đầy đủ trong loài hoa " Khẳng định: " Hoa Mộc Lan là quốc hoa của Bắc Triều Tiên chứ không phải hoa Nhật Nhật Thành hay hoa Kim Chính Nhật, vì nó phản ánh con người của Kim Nhật Thành. Giải thích: Quốc hoa của đất nước Bắc Triều Tiên là Mộc lan vì chính phủ cho rằng hoa mộc lan phản ánh tính cách độc nhất vô nhị của Kim Nhật Thành với đặc tính có thể nở bất cứ đâu trong 5 châu lục.
93
107
109
Hoa Kỳ Lục địa (tiếng Anh: continental United States) là một thuật từ dùng để chỉ phần đất chính của Hoa Kỳ nằm trên lục địa Bắc Mỹ. Tùy theo cách dùng, nó có thể có nghĩa là: Định nghĩa đầu tiên có tính truyền thống hơn, ngược thời gian trở về thời trước khi Alaska trở thành tiểu bang, và là định nghĩa được sử dụng phổ biến hơn. Định nghĩa thứ hai, về mặt kỹ thuật thì có vẽ chính xác hơn vì Alaska cũng nằm trên lục địa Bắc Mỹ, phía tây bắc của Canada. Trong cả hai ý nghĩa, Hawaii – một chuỗi các đảo nằm ở tây nam Bắc Mỹ trong Thái Bình Dương - không được tính vào. Thuật từ lower 48 states (48 tiểu bang vùng hạ) là để diễn tả những tiểu bang nằm trong Bắc Mỹ nhưng ở phía dưới so với tiểu bang Alaska. Nếu diễn giải đúng văn tự thì tiểu bang Hawaii nằm xa về phía nam hơn so với nhiều tiểu bang khác, và như vậy thì thuật từ này có nghĩa là tất cả các tiểu bang kể cả Hawaii, trừ Alaska và Minnesota vì chúng là hai tiểu bang cận bắc nhất. Tuy nhiên thuật từ này không dùng theo ý nghĩa đó mà được hiểu là để chỉ toàn bộ những tiểu bang kề cận nhau của Hoa Kỳ mà không tính Alaska và Hawaii. 48 tiểu bang kề cận này có tổng diện tích là 7.825.268 km².
Khi nhắc tới Hoa Kỳ Lục Địa người ta sẽ nghĩ tới ngay phần đất Hoa Kỳ mà không có Alaska.
Hoa Kỳ Lục địa (tiếng Anh: continental United States) là một thuật từ dùng để chỉ phần đất chính của Hoa Kỳ nằm trên lục địa Bắc Mỹ. Tùy theo cách dùng, nó có thể có nghĩa là: Định nghĩa đầu tiên có tính truyền thống hơn, ngược thời gian trở về thời trước
hỗ trợ
Hoa Kỳ Lục địa dùng để chỉ phần đất chính của Hoa Kỳ nằm trên lục địa Bắc Mỹ, nóđược định nghĩa ban đầu là ngược thời gian trở về thời trước khi Alaska trở thành tiểu bang, và là định nghĩa được sử dụng phổ biến hơn.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Kỳ Lục địa (tiếng Anh: continental United States) là một thuật từ dùng để chỉ phần đất chính của Hoa Kỳ nằm trên lục địa Bắc Mỹ. Tùy theo cách dùng, nó có thể có nghĩa là: Định nghĩa đầu tiên có tính truyền thống hơn, ngược thời gian trở về thời trước " Khẳng định: " Khi nhắc tới Hoa Kỳ Lục Địa người ta sẽ nghĩ tới ngay phần đất Hoa Kỳ mà không có Alaska.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Kỳ Lục địa (tiếng Anh: continental United States) là một thuật từ dùng để chỉ phần đất chính của Hoa Kỳ nằm trên lục địa Bắc Mỹ. Tùy theo cách dùng, nó có thể có nghĩa là: Định nghĩa đầu tiên có tính truyền thống hơn, ngược thời gian trở về thời trước " Khẳng định: " Khi nhắc tới Hoa Kỳ Lục Địa người ta sẽ nghĩ tới ngay phần đất Hoa Kỳ mà không có Alaska. Giải thích: Hoa Kỳ Lục địa dùng để chỉ phần đất chính của Hoa Kỳ nằm trên lục địa Bắc Mỹ, nóđược định nghĩa ban đầu là ngược thời gian trở về thời trước khi Alaska trở thành tiểu bang, và là định nghĩa được sử dụng phổ biến hơn.
94
108
110
Hoa Kỳ Lục địa (tiếng Anh: continental United States) là một thuật từ dùng để chỉ phần đất chính của Hoa Kỳ nằm trên lục địa Bắc Mỹ. Tùy theo cách dùng, nó có thể có nghĩa là: Định nghĩa đầu tiên có tính truyền thống hơn, ngược thời gian trở về thời trước khi Alaska trở thành tiểu bang, và là định nghĩa được sử dụng phổ biến hơn. Định nghĩa thứ hai, về mặt kỹ thuật thì có vẽ chính xác hơn vì Alaska cũng nằm trên lục địa Bắc Mỹ, phía tây bắc của Canada. Trong cả hai ý nghĩa, Hawaii – một chuỗi các đảo nằm ở tây nam Bắc Mỹ trong Thái Bình Dương - không được tính vào. Thuật từ lower 48 states (48 tiểu bang vùng hạ) là để diễn tả những tiểu bang nằm trong Bắc Mỹ nhưng ở phía dưới so với tiểu bang Alaska. Nếu diễn giải đúng văn tự thì tiểu bang Hawaii nằm xa về phía nam hơn so với nhiều tiểu bang khác, và như vậy thì thuật từ này có nghĩa là tất cả các tiểu bang kể cả Hawaii, trừ Alaska và Minnesota vì chúng là hai tiểu bang cận bắc nhất. Tuy nhiên thuật từ này không dùng theo ý nghĩa đó mà được hiểu là để chỉ toàn bộ những tiểu bang kề cận nhau của Hoa Kỳ mà không tính Alaska và Hawaii. 48 tiểu bang kề cận này có tổng diện tích là 7.825.268 km².
Vì bang Alaska và Hawaii được thu nạp từ thời điểm sau thế kỷ 20 nên cụm từ Hoa Kỳ Lục địa chỉ định nghĩa các phần đất trên lục địa Bắc Mỹ.
Hoa Kỳ Lục địa (tiếng Anh: continental United States) là một thuật từ dùng để chỉ phần đất chính của Hoa Kỳ nằm trên lục địa Bắc Mỹ. Tùy theo cách dùng, nó có thể có nghĩa là: Định nghĩa đầu tiên có tính truyền thống hơn, ngược thời gian trở về thời trước
không có thông tin
Không có thông tin về thời điểm mà bang Alaska lẫn Hawaii được thu nạp.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Kỳ Lục địa (tiếng Anh: continental United States) là một thuật từ dùng để chỉ phần đất chính của Hoa Kỳ nằm trên lục địa Bắc Mỹ. Tùy theo cách dùng, nó có thể có nghĩa là: Định nghĩa đầu tiên có tính truyền thống hơn, ngược thời gian trở về thời trước " Khẳng định: " Vì bang Alaska và Hawaii được thu nạp từ thời điểm sau thế kỷ 20 nên cụm từ Hoa Kỳ Lục địa chỉ định nghĩa các phần đất trên lục địa Bắc Mỹ.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Kỳ Lục địa (tiếng Anh: continental United States) là một thuật từ dùng để chỉ phần đất chính của Hoa Kỳ nằm trên lục địa Bắc Mỹ. Tùy theo cách dùng, nó có thể có nghĩa là: Định nghĩa đầu tiên có tính truyền thống hơn, ngược thời gian trở về thời trước " Khẳng định: " Vì bang Alaska và Hawaii được thu nạp từ thời điểm sau thế kỷ 20 nên cụm từ Hoa Kỳ Lục địa chỉ định nghĩa các phần đất trên lục địa Bắc Mỹ. Giải thích: Không có thông tin về thời điểm mà bang Alaska lẫn Hawaii được thu nạp.
95
109
111
Hoa Kỳ Lục địa (tiếng Anh: continental United States) là một thuật từ dùng để chỉ phần đất chính của Hoa Kỳ nằm trên lục địa Bắc Mỹ. Tùy theo cách dùng, nó có thể có nghĩa là: Định nghĩa đầu tiên có tính truyền thống hơn, ngược thời gian trở về thời trước khi Alaska trở thành tiểu bang, và là định nghĩa được sử dụng phổ biến hơn. Định nghĩa thứ hai, về mặt kỹ thuật thì có vẽ chính xác hơn vì Alaska cũng nằm trên lục địa Bắc Mỹ, phía tây bắc của Canada. Trong cả hai ý nghĩa, Hawaii – một chuỗi các đảo nằm ở tây nam Bắc Mỹ trong Thái Bình Dương - không được tính vào. Thuật từ lower 48 states (48 tiểu bang vùng hạ) là để diễn tả những tiểu bang nằm trong Bắc Mỹ nhưng ở phía dưới so với tiểu bang Alaska. Nếu diễn giải đúng văn tự thì tiểu bang Hawaii nằm xa về phía nam hơn so với nhiều tiểu bang khác, và như vậy thì thuật từ này có nghĩa là tất cả các tiểu bang kể cả Hawaii, trừ Alaska và Minnesota vì chúng là hai tiểu bang cận bắc nhất. Tuy nhiên thuật từ này không dùng theo ý nghĩa đó mà được hiểu là để chỉ toàn bộ những tiểu bang kề cận nhau của Hoa Kỳ mà không tính Alaska và Hawaii. 48 tiểu bang kề cận này có tổng diện tích là 7.825.268 km².
Thuật ngữ 48 tiểu bang vùng hạ để chỉ các bang của nước Mỹ trừ Hawaii và Minesota.
Thuật từ lower 48 states (48 tiểu bang vùng hạ) là để diễn tả những tiểu bang nằm trong Bắc Mỹ nhưng ở phía dưới so với tiểu bang Alaska. Nếu diễn giải đúng văn tự thì tiểu bang Hawaii nằm xa về phía nam hơn so với nhiều tiểu bang khác, và như vậy thì thu
bác bỏ
Thuật từ lower 48 states hay 48 tiểu bang vùng hạ để diễn tả những tiểu bang nằm trong Bắc Mỹ nhưng ở phía dưới so với tiểu bang Alaska, thuật từ này có nghĩa là tất cả các tiểu bang kể cả Hawaii, trừ Alaska và Minnesota.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Thuật từ lower 48 states (48 tiểu bang vùng hạ) là để diễn tả những tiểu bang nằm trong Bắc Mỹ nhưng ở phía dưới so với tiểu bang Alaska. Nếu diễn giải đúng văn tự thì tiểu bang Hawaii nằm xa về phía nam hơn so với nhiều tiểu bang khác, và như vậy thì thu " Khẳng định: " Thuật ngữ 48 tiểu bang vùng hạ để chỉ các bang của nước Mỹ trừ Hawaii và Minesota.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Thuật từ lower 48 states (48 tiểu bang vùng hạ) là để diễn tả những tiểu bang nằm trong Bắc Mỹ nhưng ở phía dưới so với tiểu bang Alaska. Nếu diễn giải đúng văn tự thì tiểu bang Hawaii nằm xa về phía nam hơn so với nhiều tiểu bang khác, và như vậy thì thu " Khẳng định: " Thuật ngữ 48 tiểu bang vùng hạ để chỉ các bang của nước Mỹ trừ Hawaii và Minesota. Giải thích: Thuật từ lower 48 states hay 48 tiểu bang vùng hạ để diễn tả những tiểu bang nằm trong Bắc Mỹ nhưng ở phía dưới so với tiểu bang Alaska, thuật từ này có nghĩa là tất cả các tiểu bang kể cả Hawaii, trừ Alaska và Minnesota.
96
113
115
Hoa Kỳ – Tôm Việt Nam (tiếng Anh: United States — Anti-dumping Measures on Certain Shrimp from Viet Nam, viết tắt: US – Shrimp (Viet Nam), DS404) là vụ giải quyết tranh chấp đầu tiên của Việt Nam tại Tổ chức Thương mại Thế giới giai đoạn 2010–11 về các biện pháp chống bán phá giá đối với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam xuất khẩu mặt hàng tôm sang Hoa Kỳ sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ năm 1995, sau đó phải đối mặt với các biện pháp hành chính về điều tra chống bán phá giá cùng với thuế suất áp dụng đi kèm. Bộ Thương mại Hoa Kỳ lựa chọn các doanh nghiệp lớn nhất để điều tra và rà soát hành chính bằng phương pháp Zeroing, sau đó áp dụng những loại thuế suất khác nhau cho các doanh nghiệp còn lại, khiến các doanh nghiệp không được điều tra chịu thuế suất lớn trong nhiều năm liên tiếp. Việt Nam được các tổ chức phi chính phủ lĩnh vực doanh nghiệp và thương mại đề xuất khiếu kiện Hoa Kỳ lên WTO, khởi xướng vụ giải quyết tranh chấp và giành chiến thắng pháp lý về việc chứng minh Zeroing vi phạm điều ước quốc tế. Việc thực thi phán quyết sau đó bị trì hoãn, góp phần làm phát sinh tranh chấp Hoa Kỳ – Tôm Việt Nam II kết thúc năm 2016. Những năm 2000, các doanh nghiệp khu vực Đồng bằng sông Cửu Long xuất khẩu thủy sản sang Mỹ, trong đó có tôm thuộc loại vùng nước ấm, được xử lý đông lạnh. Tháng 1 năm 2004, Bộ Thương mại Hoa Kỳ bắt đầu tiến hành điều tra chống bán phá giá sản phẩm này, thực hiện đối với ba doanh nghiệp có sản lượng xuất khẩu lớn nhất là Tập đoàn Thủy sản Minh Phú, Thủy sản Minh Hải và Tập đoàn Camimex theo dạng bị đơn bắt buộc. Một số doanh nghiệp tự nguyện (hoặc "bị đơn tự nguyện" – voluntary respondents) chấp nhận điều tra nhưng không được điều tra. Tháng 2 năm 2005, DOC chính thức áp thuế chống bán phá giá với các thuế suất khác nhau gồm mức thuế từ 4,3% đến 5,24% đối với từng bị đơn bắt buộc; mức 4,57%, tức bình quân gia quyền đối với các bị đơn tự nguyện không được lựa chọn điều tra; và mức thuế suất toàn quốc 25,76% cho tất cả các doanh nghiệp còn lại dựa trên Smoot–Hawley Tariff Act 1930. Theo pháp luật về chống bán phá giá của Hoa Kỳ, sau tròn mỗi năm kể từ ngày lệnh áp thuế chống bán phá giá của DOC được ban hành, DOC sẽ tiến hành rà soát hành chính (Proof of Review – POR) để xét lại mức thuế chính thức mà cơ quan đã áp đối với khoảng thời gian một năm liền trước đó. Theo đó, tính tới thời điểm tháng 2 năm 2010, Bộ Thương mại đã tiến hành ba cuộc rà soát hành chính.
Hoa Kỳ - Tôm Việt Nam dùng để ám chỉ việc hợp tác và phát triển giá xuất khẩu tôm từ Việt Nam sang Hoa Kỳ khi 2 nước quyết định bình thường hóa quan hệ năm 95.
Hoa Kỳ – Tôm Việt Nam (tiếng Anh: United States — Anti-dumping Measures on Certain Shrimp from Viet Nam, viết tắt: US – Shrimp (Viet Nam), DS404) là vụ giải quyết tranh chấp đầu tiên của Việt Nam tại Tổ chức Thương mại Thế giới giai đoạn 2010–11 về các bi
bác bỏ
Hoa Kỳ - Tôm Việt Nam là một vụ giải quyết tranh chấp đầu tiên của Việt Nam về các biện pháp chống bán phá giá tôm xuất khẩu sang Hoa Kỳ từ khi 2 nước bình thường hóa quan hệ năm 1995.
bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Kỳ – Tôm Việt Nam (tiếng Anh: United States — Anti-dumping Measures on Certain Shrimp from Viet Nam, viết tắt: US – Shrimp (Viet Nam), DS404) là vụ giải quyết tranh chấp đầu tiên của Việt Nam tại Tổ chức Thương mại Thế giới giai đoạn 2010–11 về các bi " Khẳng định: " Hoa Kỳ - Tôm Việt Nam dùng để ám chỉ việc hợp tác và phát triển giá xuất khẩu tôm từ Việt Nam sang Hoa Kỳ khi 2 nước quyết định bình thường hóa quan hệ năm 95.bác bỏ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Kỳ – Tôm Việt Nam (tiếng Anh: United States — Anti-dumping Measures on Certain Shrimp from Viet Nam, viết tắt: US – Shrimp (Viet Nam), DS404) là vụ giải quyết tranh chấp đầu tiên của Việt Nam tại Tổ chức Thương mại Thế giới giai đoạn 2010–11 về các bi " Khẳng định: " Hoa Kỳ - Tôm Việt Nam dùng để ám chỉ việc hợp tác và phát triển giá xuất khẩu tôm từ Việt Nam sang Hoa Kỳ khi 2 nước quyết định bình thường hóa quan hệ năm 95. Giải thích: Hoa Kỳ - Tôm Việt Nam là một vụ giải quyết tranh chấp đầu tiên của Việt Nam về các biện pháp chống bán phá giá tôm xuất khẩu sang Hoa Kỳ từ khi 2 nước bình thường hóa quan hệ năm 1995.
97
114
116
Hoa Kỳ – Tôm Việt Nam (tiếng Anh: United States — Anti-dumping Measures on Certain Shrimp from Viet Nam, viết tắt: US – Shrimp (Viet Nam), DS404) là vụ giải quyết tranh chấp đầu tiên của Việt Nam tại Tổ chức Thương mại Thế giới giai đoạn 2010–11 về các biện pháp chống bán phá giá đối với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam xuất khẩu mặt hàng tôm sang Hoa Kỳ sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ năm 1995, sau đó phải đối mặt với các biện pháp hành chính về điều tra chống bán phá giá cùng với thuế suất áp dụng đi kèm. Bộ Thương mại Hoa Kỳ lựa chọn các doanh nghiệp lớn nhất để điều tra và rà soát hành chính bằng phương pháp Zeroing, sau đó áp dụng những loại thuế suất khác nhau cho các doanh nghiệp còn lại, khiến các doanh nghiệp không được điều tra chịu thuế suất lớn trong nhiều năm liên tiếp. Việt Nam được các tổ chức phi chính phủ lĩnh vực doanh nghiệp và thương mại đề xuất khiếu kiện Hoa Kỳ lên WTO, khởi xướng vụ giải quyết tranh chấp và giành chiến thắng pháp lý về việc chứng minh Zeroing vi phạm điều ước quốc tế. Việc thực thi phán quyết sau đó bị trì hoãn, góp phần làm phát sinh tranh chấp Hoa Kỳ – Tôm Việt Nam II kết thúc năm 2016. Những năm 2000, các doanh nghiệp khu vực Đồng bằng sông Cửu Long xuất khẩu thủy sản sang Mỹ, trong đó có tôm thuộc loại vùng nước ấm, được xử lý đông lạnh. Tháng 1 năm 2004, Bộ Thương mại Hoa Kỳ bắt đầu tiến hành điều tra chống bán phá giá sản phẩm này, thực hiện đối với ba doanh nghiệp có sản lượng xuất khẩu lớn nhất là Tập đoàn Thủy sản Minh Phú, Thủy sản Minh Hải và Tập đoàn Camimex theo dạng bị đơn bắt buộc. Một số doanh nghiệp tự nguyện (hoặc "bị đơn tự nguyện" – voluntary respondents) chấp nhận điều tra nhưng không được điều tra. Tháng 2 năm 2005, DOC chính thức áp thuế chống bán phá giá với các thuế suất khác nhau gồm mức thuế từ 4,3% đến 5,24% đối với từng bị đơn bắt buộc; mức 4,57%, tức bình quân gia quyền đối với các bị đơn tự nguyện không được lựa chọn điều tra; và mức thuế suất toàn quốc 25,76% cho tất cả các doanh nghiệp còn lại dựa trên Smoot–Hawley Tariff Act 1930. Theo pháp luật về chống bán phá giá của Hoa Kỳ, sau tròn mỗi năm kể từ ngày lệnh áp thuế chống bán phá giá của DOC được ban hành, DOC sẽ tiến hành rà soát hành chính (Proof of Review – POR) để xét lại mức thuế chính thức mà cơ quan đã áp đối với khoảng thời gian một năm liền trước đó. Theo đó, tính tới thời điểm tháng 2 năm 2010, Bộ Thương mại đã tiến hành ba cuộc rà soát hành chính.
Các doanh nghiệp Việt Nam nằm trong các doanh nghiệp không được Bộ Thương mại Hoa Kỳ điều tra hành chính dẫn đến chịu thuế lớn trong nhiều năm buộc họ phải khởi kiện lên WTO.
Bộ Thương mại Hoa Kỳ lựa chọn các doanh nghiệp lớn nhất để điều tra và rà soát hành chính bằng phương pháp Zeroing, sau đó áp dụng những loại thuế suất khác nhau cho các doanh nghiệp còn lại, khiến các doanh nghiệp không được điều tra chịu thuế suất lớn t
hỗ trợ
Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã chọn các doanh nghiệp lớn nhất để điều tra và rà soát hành chính qua phương pháp Zeroing, rồi áp dụng thuế khác nhau lên các doanh nghiệp còn lại khiến cho nhiều doanh nghiệp nằm ngoài cuộc điều tra chịu thuế lớn, Việt Nam được các
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Bộ Thương mại Hoa Kỳ lựa chọn các doanh nghiệp lớn nhất để điều tra và rà soát hành chính bằng phương pháp Zeroing, sau đó áp dụng những loại thuế suất khác nhau cho các doanh nghiệp còn lại, khiến các doanh nghiệp không được điều tra chịu thuế suất lớn t " Khẳng định: " Các doanh nghiệp Việt Nam nằm trong các doanh nghiệp không được Bộ Thương mại Hoa Kỳ điều tra hành chính dẫn đến chịu thuế lớn trong nhiều năm buộc họ phải khởi kiện lên WTO.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Bộ Thương mại Hoa Kỳ lựa chọn các doanh nghiệp lớn nhất để điều tra và rà soát hành chính bằng phương pháp Zeroing, sau đó áp dụng những loại thuế suất khác nhau cho các doanh nghiệp còn lại, khiến các doanh nghiệp không được điều tra chịu thuế suất lớn t " Khẳng định: " Các doanh nghiệp Việt Nam nằm trong các doanh nghiệp không được Bộ Thương mại Hoa Kỳ điều tra hành chính dẫn đến chịu thuế lớn trong nhiều năm buộc họ phải khởi kiện lên WTO. Giải thích: Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã chọn các doanh nghiệp lớn nhất để điều tra và rà soát hành chính qua phương pháp Zeroing, rồi áp dụng thuế khác nhau lên các doanh nghiệp còn lại khiến cho nhiều doanh nghiệp nằm ngoài cuộc điều tra chịu thuế lớn, Việt Nam được các
98
115
117
Hoa Kỳ – Tôm Việt Nam (tiếng Anh: United States — Anti-dumping Measures on Certain Shrimp from Viet Nam, viết tắt: US – Shrimp (Viet Nam), DS404) là vụ giải quyết tranh chấp đầu tiên của Việt Nam tại Tổ chức Thương mại Thế giới giai đoạn 2010–11 về các biện pháp chống bán phá giá đối với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam xuất khẩu mặt hàng tôm sang Hoa Kỳ sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ năm 1995, sau đó phải đối mặt với các biện pháp hành chính về điều tra chống bán phá giá cùng với thuế suất áp dụng đi kèm. Bộ Thương mại Hoa Kỳ lựa chọn các doanh nghiệp lớn nhất để điều tra và rà soát hành chính bằng phương pháp Zeroing, sau đó áp dụng những loại thuế suất khác nhau cho các doanh nghiệp còn lại, khiến các doanh nghiệp không được điều tra chịu thuế suất lớn trong nhiều năm liên tiếp. Việt Nam được các tổ chức phi chính phủ lĩnh vực doanh nghiệp và thương mại đề xuất khiếu kiện Hoa Kỳ lên WTO, khởi xướng vụ giải quyết tranh chấp và giành chiến thắng pháp lý về việc chứng minh Zeroing vi phạm điều ước quốc tế. Việc thực thi phán quyết sau đó bị trì hoãn, góp phần làm phát sinh tranh chấp Hoa Kỳ – Tôm Việt Nam II kết thúc năm 2016. Những năm 2000, các doanh nghiệp khu vực Đồng bằng sông Cửu Long xuất khẩu thủy sản sang Mỹ, trong đó có tôm thuộc loại vùng nước ấm, được xử lý đông lạnh. Tháng 1 năm 2004, Bộ Thương mại Hoa Kỳ bắt đầu tiến hành điều tra chống bán phá giá sản phẩm này, thực hiện đối với ba doanh nghiệp có sản lượng xuất khẩu lớn nhất là Tập đoàn Thủy sản Minh Phú, Thủy sản Minh Hải và Tập đoàn Camimex theo dạng bị đơn bắt buộc. Một số doanh nghiệp tự nguyện (hoặc "bị đơn tự nguyện" – voluntary respondents) chấp nhận điều tra nhưng không được điều tra. Tháng 2 năm 2005, DOC chính thức áp thuế chống bán phá giá với các thuế suất khác nhau gồm mức thuế từ 4,3% đến 5,24% đối với từng bị đơn bắt buộc; mức 4,57%, tức bình quân gia quyền đối với các bị đơn tự nguyện không được lựa chọn điều tra; và mức thuế suất toàn quốc 25,76% cho tất cả các doanh nghiệp còn lại dựa trên Smoot–Hawley Tariff Act 1930. Theo pháp luật về chống bán phá giá của Hoa Kỳ, sau tròn mỗi năm kể từ ngày lệnh áp thuế chống bán phá giá của DOC được ban hành, DOC sẽ tiến hành rà soát hành chính (Proof of Review – POR) để xét lại mức thuế chính thức mà cơ quan đã áp đối với khoảng thời gian một năm liền trước đó. Theo đó, tính tới thời điểm tháng 2 năm 2010, Bộ Thương mại đã tiến hành ba cuộc rà soát hành chính.
Tính đến thời điểm 2010, DOC đã rà soát hành chính hơn 30 quốc gia khác nhau về lệnh chống bán phá giá.
Theo pháp luật về chống bán phá giá của Hoa Kỳ, sau tròn mỗi năm kể từ ngày lệnh áp thuế chống bán phá giá của DOC được ban hành, DOC sẽ tiến hành rà soát hành chính (Proof of Review – POR) để xét lại mức thuế chính thức mà cơ quan đã áp đối với khoảng th
không có thông tin
Chỉ có thông tin tính đến năm 2010, DOC đã tiến hành rà soát hành chính ba cuộc, không có thông tin về số lượng quốc gia bị rà soát.
không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Theo pháp luật về chống bán phá giá của Hoa Kỳ, sau tròn mỗi năm kể từ ngày lệnh áp thuế chống bán phá giá của DOC được ban hành, DOC sẽ tiến hành rà soát hành chính (Proof of Review – POR) để xét lại mức thuế chính thức mà cơ quan đã áp đối với khoảng th " Khẳng định: " Tính đến thời điểm 2010, DOC đã rà soát hành chính hơn 30 quốc gia khác nhau về lệnh chống bán phá giá.không có thông tin ### Đầu vào: Bằng chứng: " Theo pháp luật về chống bán phá giá của Hoa Kỳ, sau tròn mỗi năm kể từ ngày lệnh áp thuế chống bán phá giá của DOC được ban hành, DOC sẽ tiến hành rà soát hành chính (Proof of Review – POR) để xét lại mức thuế chính thức mà cơ quan đã áp đối với khoảng th " Khẳng định: " Tính đến thời điểm 2010, DOC đã rà soát hành chính hơn 30 quốc gia khác nhau về lệnh chống bán phá giá. Giải thích: Chỉ có thông tin tính đến năm 2010, DOC đã tiến hành rà soát hành chính ba cuộc, không có thông tin về số lượng quốc gia bị rà soát.
99
116
118
Hoa Kỳ – Tôm Việt Nam II (tiếng Anh: United States — Anti-dumping Measures on Certain Shrimp from Viet Nam II, viết tắt: US – Shrimp II (Viet Nam), DS429) là vụ giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, tiếp nối vụ việc Hoa Kỳ – Tôm Việt Nam, đồng thời kết thúc chuỗi tranh chấp của hai quốc gia về vấn đề chống bán phá giá mặt hàng tôm nước ấm đông lạnh. Trong quá trình giải quyết tranh chấp DS404, Hoa Kỳ tiếp tục điều tra, rà soát hành chính đủ các kỳ cho rà soát cuối kỳ, vẫn áp thuế cho các doanh nghiệp xuất khẩu tôm từ Việt Nam, cộng thêm việc sử dụng một số biện pháp khác, dẫn tới tranh chấp mới và Việt Nam tiếp tục khiếu kiện vụ DS429. Vụ kiện này ngoài việc duy trì cáo buộc Zeroing của vụ kiện cũ thì đã có thêm những yếu tố mới được đề cập tới là rà soát cuối kỳ, nhóm doanh nghiệp thuộc nước có nền kinh tế phi thị trường, biện pháp thu hồi thuế, và sự trì hoãn trong hoạt động của Hoa Kỳ. Dựa trên các vụ tranh chấp tương tự về hoạt động chống bán phá giá của Hoa Kỳ và các nước khác trước đó, dựa trên phán quyết đã thắng kiện của DS404, tranh qua quá trình tố tụng giai đoạn 2012–15, đầy đủ các bước của Ban Hội thẩm, Cơ quan Phúc thẩm, Việt Nam tiếp tục giành ưu thế ở DS429, cuối cùng là giành chiến thắng về mặt pháp lý ở cả hai vụ kiện này. Và sau đó, 2016, trong tiến trình thực thi khuyến nghị, Việt Nam và Hoa Kỳ đã thống nhất được biện pháp giải quyết vướng mắc, Việt Nam đạt được mục đích đưa các doanh nghiệp xuất khẩu tôm ra khỏi nhóm doanh nghiệp bán phá giá và chịu bất lợi liên quan tại Hoa Kỳ. Sau giai đoạn giải quyết tranh chấp 2010–11, phán quyết của vụ Hoa Kỳ – Tôm Việt Nam được ban hành, các đối tượng pháp lý của tranh chấp này bao gồm rà soát hành chính lần hai (2007–08) và lần ba (2008–09), song, trên thực tế, Bộ Thương mại Hoa Kỳ tiếp tục tiến hành rà soát lần thứ tư (2010), thứ năm (2011), rà soát hoàng hôn (sunset review) cùng thời kỳ Ban Hội thẩm DS404 xử lý vụ việc. Các doanh nghiệp xuất khẩu tôm nước ấm đông lạnh của Việt Nam tiếp tục bị điều tra, rà soát hành chính và chịu thuế theo nhóm mandatory respondents, voluntary respondents, và all others như cũ, đồng thời thuộc diện được xem xét để duy trì thuế hoặc bỏ thuế sau sunset review. Ngày 20 tháng 2 năm 2012, Việt Nam yêu cầu tham vấn, tập trung tới POR thứ ba, thứ tư, sunset review, dẫn chiếu tới pháp luật, quy định, thủ tục và thực tiễn áp dụng của Hoa Kỳ, bao gồm cả Zeroing đã phán quyết trước đó.
Hoa Kỳ – Tôm Việt Nam II là vụ giải quyết tranh chấp Việt Nam - Hoa Kỳ có cả những vụ việc cũ chưa giải quyết xong.
Hoa Kỳ – Tôm Việt Nam II (tiếng Anh: United States — Anti-dumping Measures on Certain Shrimp from Viet Nam II, viết tắt: US – Shrimp II (Viet Nam), DS429) là vụ giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, tiếp nối vụ việc Hoa Kỳ – Tô
hỗ trợ
Hoa Kỳ – Tôm Việt Nam II là vụ giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, tiếp nối vụ việc Hoa Kỳ – Tôm Việt Nam, vụ kiện này bên cạnh cáo buộc Zeroing của vụ kiện cũ thì còn có thêm những yếu tố mới.
hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Kỳ – Tôm Việt Nam II (tiếng Anh: United States — Anti-dumping Measures on Certain Shrimp from Viet Nam II, viết tắt: US – Shrimp II (Viet Nam), DS429) là vụ giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, tiếp nối vụ việc Hoa Kỳ – Tô " Khẳng định: " Hoa Kỳ – Tôm Việt Nam II là vụ giải quyết tranh chấp Việt Nam - Hoa Kỳ có cả những vụ việc cũ chưa giải quyết xong.hỗ trợ ### Đầu vào: Bằng chứng: " Hoa Kỳ – Tôm Việt Nam II (tiếng Anh: United States — Anti-dumping Measures on Certain Shrimp from Viet Nam II, viết tắt: US – Shrimp II (Viet Nam), DS429) là vụ giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, tiếp nối vụ việc Hoa Kỳ – Tô " Khẳng định: " Hoa Kỳ – Tôm Việt Nam II là vụ giải quyết tranh chấp Việt Nam - Hoa Kỳ có cả những vụ việc cũ chưa giải quyết xong. Giải thích: Hoa Kỳ – Tôm Việt Nam II là vụ giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, tiếp nối vụ việc Hoa Kỳ – Tôm Việt Nam, vụ kiện này bên cạnh cáo buộc Zeroing của vụ kiện cũ thì còn có thêm những yếu tố mới.