Truyện ngắn Bệnh Lao Chữa Bằng Mồm Hay Là ... Thầy Lang Bất Hủ Tác giả: Vũ Trọng Phụng"Chữa khoán bệnh lao, 10 ngày khỏi hẳn" cái giòng chữ đỏ trên vải trắng này trước cửa 1 hiệu thuốc mà các ngài đã biết, chắc hẳn cho đến chết, tôi cũng không quên. Là vì nhờ đó, tôi đã được đi 1 chầu hát che tàn ba chục bạc. Tiền chi là của thầy lang bất hủ ấy, mà người có công... chơi sỏ thầy lang, là bạn tôi, anh chàng Cờ. Ở trọ trên gác nhà thầy lang ấy, Cờ đã vẫn phải chịu cái khổ hình hàng ngày nghe những lời khoác lác bịp khách bệnh của thầy lang. Một hôm Cò nói với anh em: Tức quá, nhà nước sao lại không đánh thuế bằng cách bán vé chợ hay treo môn bài vào mồm những thằng nói phét! Bọn mình không nên bỏ qua mối lợi ấy. Ít ra, nó cũng phải nộp thuế cho anh em chúng mình. Chúng tôi nhất loạt vỗ tay khen. Cờ, đắc chí, thêm: Hèn đến đâu nữa thì nó cũng phải nộp mình chầu hát mới được! Câu nói ba hoa trong 1 phủ hoá dại, ai dám ngờ Cờ làm thành bằng được ra sự thật mới nghe. Tối hôm ấy, Cờ lại tìm anh em chúng tôi, bảo: Nào, bọn mình anh nao muốn được đi hát thì cứ việc nghe theo cẩm nang của tôi. Sau, anh ta ghé tai tôi thì thào năm phút. Nửa giờ sau, khi anh Cờ về nhà rồi, hai chúng tôi từ một chiếc xe hơi (xe tắc xi đấy thôi ạ) bước xuống, mạnh bạo tiến thẳng vào hiệu thuốc. Tôi trỏ anh Quyền, giới thiệu với thầy lang: Thưa ngài, vì vẫn đi lại với ông Cờ ở trên gác nên tôi rõ cái tài chữa bệnh của ngài. Đây xin giới thiệu với Ngài, ông Tế, thư kí riêng của quan chánh sở liêm phóng. Thày lang vừa kịp cúi đầu bắt tay kêu Hân hạnh thì Quyền đã hấp tấp: Rõ phúc quá Ngài lại có nhà, xin mời ngài ra xe hơi ngay cho. Bẩm để đi đâu có việc gì? Cô đầm con gái nhà quan chánh tôi mắc bệnh lao, đôsc tờ tây cũng chịu, thật là Thập tử nhất sinh rồi, mời Ngài đến thăm ngay. Thầy lang tái hẳn mặt, ấp úng: Vâng vâng. Xin để chúng tôi dặn 1 việc với người nhà đã. Thế là thầy lang chạy vội lên gác, phòng anh Cờ. Ngồi chờ dưới, chúng tôi lắng nghe giọng anh Cờ với thầy lang thế này: Thế kia à? Thôi thì nhà lang gặp vận tấy rồi! Mề đay kim khánh tới nơi rồi! Giầu to tới nơi rồi! Còn gì bằng được ông Chánh mật thám gọi đến chữa cho con gái nữa. Nhưng mà... Đi đi thôi Nhưng mà... Đi ngay đi chứ còn chờ gì! Nhưng mà... Lại còn nhưng mà cái gì? Nhưng mà... Nói bác tha cho, chữa làm sao được mà dám đi! Ô lạ! Thế cái quảng cáo to hơn cái mẹt treo ở cửa hiệu... Thì bác cũng thừa biết, nhà buôn phải quảng cáo... phải nói quá... Đã đành. Cứ đi xem sao. Chết! Đi thế nào được! Ô! Thế thì tù rồi! Cạo đầu đến nơi rồi! Lạy bác... Hỏng rồi!! Cơm vôi, sàn lim đến nơi rồi! Bác làm ơn, lạy bác... Ít nhất ba tháng rồi! Lạy bác, bác làm ơn nghĩ có cách nào không... Một lúc im lặng khá lâu, xong lại thấy tiếng anh Cờ: Cũng không khó gì. Cái bọn ấy thì cứ tiền thì êm. Đành chịu thiệt vài chục vậy. Tiếng giầy xuống gác. Loảng soảng, thìa khoá va nhau trước cái két bạc rồi anh Cờ ra. Thưa ngài, nói ngài tha thứ,quảng cáo vẫn phải thế chứ... Anh Quyền đứng phắt lên: Ấy chết! Chính thế ạ. Ngài về thưa với quan trên cho là ông chủ chúng tôi đi chữa bệnh tỉnh xa ba hôm nữa mới về. Ôi, ngài làm như là... Thôi, phiền ngài, chúng tôi xin có chút vi thiềng gọi là trả ngài tiền xe. Quyền, còn ngần ngừ mãi mới trông trước nhìn sau, rồi bỏ túi cuốn giấy bạc. Tôi không cần thuật lại bao nhiêu cái khoản khoái lạc chúng tôi đã hưởng ở xóm ả đào. Nhưng phải thuật lại 1 chuyện xảy ra ngay hôm sau tại nhà thầy lang thì các ngài mới biết thầy là bất hủ thật. Chúng tôi muốn ngắm nghía cái bộ mặt tán tài ấy xem nó có những biến chứng ra sao hay không. Hôm sau, tấm vải quảng cáo bệnh lao đã không thấy treo ra nữa. Nhưng khi vào hiệu, tôi thấy mấy ông già với 1 người trẻ tuổi mặt xanh nhợt xem ý là bọn trọc phú nhà quê. Cặp kính tắng nghiêm trang trên sống mũi, cái hình thù thì lùn tịt, lắt choắ, thầy lang đi lại trong hiệu, nện gót giầy lộp cộp mà thuyết khách 1 cách oai hùng. Các ngài có dám đóan thầy lang ấy nói những gì? Đây: Các cụ phải biết. Số tiền ấy không to đâu. Mệnh người là trọng.Người làm ra của chứ chẳng phải của làm ra người. Kém 1 đồng cũng không được. Cứ xin các cụ đúng một trăm. Đó là giá đặc biệt cho đồng bào An Nam ta đấy thôi, chứ người Tây, dưới ba trăm tôi không nhận chữa. Không tin các cụ lại hỏi ngay quan chánh mật thám mà xem.! Hôm qua cho gọi tôi mà dưới ba trăm nên tôi không đến chữa cái bệnh lao cho con gái ngài đấy. Rõ thật khốn khổ thay cho anh Cờ. Bỗng không, được hưởng chầu hát ba chục bạc mà vẫn chưa được hả.===Tiểu thuyết Cạm Bẫy Người Tác giả: Vũ Trọng PhụngChương 1: Ông Thân Tôi Là MòngNụ cười vẫn thường lộ trên cặp môi đỏ tựa thoa son, anh Vân bỗng ủ dột, muốn như cỏ vẻ chán đời. Do lẽ gì, cái thái độ trái ngược như vậy? Vì ông thân anh, một cụ phán thượng hạng đã về hưu, hưu bổng hàng tháng rất to, với bà mẫu anh, một người mẹ đảm, đã một tay tậu nổi mấy toà nhà lộng lẫy mà không để cho anh được tự do tiêu, phá chăng? Vì ý trung nhân của anh, một cô gái tân thời óc chứa đầy những tình cảm đã phụ anh chăng? Hay vì mảnh bằng tốt nghiệp của trường cao đẳng thương mại chưa cho phép anh được chiếm một ghế ngồi trong một công sở? Lạ! Con một nhà giàu, lại sẽ, là chồng một mĩ nhân, địa vị như thế, tại sao anh Vân lại chán đời? Cái buồn của anh chàng này chắc có chứa sự bí mật gì đây... Chiều hôm ấy, anh Vân ghé vào tai tôi: Tôi đã đỡ được nỗi chán đời vì đã tìm ra được cách mở két của ông cụ. Tôi mới có được một mẻng rất đáng yêu cả tinh thần lẫn xác thịt nhưng phải cái hơi đáng giận là có cái đức lớn trong sự tiêu tiền. Tôi rất lấy làm phàn nàn về điều đó, nhưng biết làm thế nào? Phụ nữ bây giờ hầu hết thế cả! Tình thế này ép tôi phải tính... Đáng lẽ tôi cũng không dùng đến kế này, vì nó bất lịch sự quá, nhưng anh tính : ông cụ đưa tiền cho mình tiêu thì tỏ ý xót xa mà đến khi ngồi vào đám bạc, hết trăm này đến chục khác chẳng lấy làm tiếc, anh bảo thế thì còn gì ức cho mình hơn? Nói tới đó, anh ngắt câu chuyện, đưa ra cho tôi một lá thư còn ngỏ. Ngoài bì đề: Còn trong thư: Xem xong, bốn mắt gặp nhau, tôi cố nhịn cười : Anh gọi bịp về bắt ông cụ đấy à? Gớm! Có hiếu nhỉ! Anh Vân chỉ mỉm cười một cách khoái chí rồi lấy hồ dán kín phong thư. Hai hôm sau. Trên con đường chạy ra ga Bắc Ninh với hai dãy cây um tùm đứng giàn hai bên, một chiếc ô tô hàng đứng chờ, mấy cái xe cao su lượn nghênh ngang, lùng khách. Anh Vân rảo bước đi bên tôi, cầm một lá thư lẩm nhẩm: "Đúng 6 giờ chiều, ở ga xuống, người nào mặc ta, cầm máy ảnh, mặc cả xe đến phố Tiền An là đích đấy... " Đúng 6 giờ. Một hồi còi... Mười toa tàu lù lù đến sân ga, nhả ra độ mười hành khách. Có người gọi vợ, gọi con, mặc cả xe om sòm, có người bị phu xe túm bâu lấy mà chỉ biết kêu rối rít: "Không, không !... " Bỗng có một giọng dõng dạc, to hơn hết, nổi lên trong đám khách ồn ào: Chúng mày, thằng nào biết, mau kéo tao đến phố Tiền An nhà cụ... Đây rồi ! Phải, đích người này rồi. áo gấm trong, áo sa tanh ngoài, giày ban 3, tay có cầm máy ảnh. Răng vàng hé lộ mỗi khi cười lệch miệng, kính đồi mồi nằm trên sống mũi dọc dừa nghiêm trang. Mặt láu lỉnh ra phết ăn người. Ba chúng tôi bắt tay nhau. Anh Vân pha trò mà giới thiệu: Đây là chú nó... còn ngài này... "ân nhân" của tôi ! Ông ân nhân của tôi ấy là ông đến giết bố nó để cứu con, mấy phút sau, được anh Vân rước về nhà kêu rầm lên: "Thưa thầy, thưa đẻ, có bác tham 4 Ngọc vốn là bạn cũ sang chơi với con" thì được cả nhà đón chào mừng rỡ. Nhất là lại được ông cụ già đạo mạo tiếp đãi ân cần, tự đem thân ra đóng cái vai con chim mòng đậu vừa đúng tầm súng cho kẻ đi săn. Cuộc gặp gỡ của chủ với khách bắt đầu gắn bó bằng một bữa cơm bề bộn những thịnh soạn. Trong bữa tiệc kéo luôn hai tiếng đồng hồ, người ta nói đến những chuyện giời nắng, giời mưa, nạn khủng hoảng 5, cuộc chiến tranh Trung Nhật, việc nhà nước thi hành chính sách tiết kiệm rút lương, thải bớt người làm. Ông "tham Ngọc" của anh Vân ăn nói ôn tồn, đóng cái vai kịch của mình một cách thạo lắm. Ông hết bàn luận về đạo nghị định ngày 6 Octobre 1931 6 lại làm ra mặt học rộng, đả động đến cả bộ "mặt trái" của hội Quốc Liên 7. Có khi ông tự giới thiệu: chỉ ham đọc sách và gặp dịp nhàn thì chỉ du ngoạn những phong cảnh đẹp chớ ít khi để ý đến sự chơi bời. Thấy con người giỏi mà nết na như vậy, cụ phán khâm phục ông ra mặt, ngợi khen mãi ông là người hữu ích, chẳng lêu lổng như em Vân. Rồi cụ cười khà khà: Dù bác không chơi bời gì thì tổ tôm, tài bàn cũng phải biết chứ? Nụ cười vẫn giữ trên môi, ông "tham Ngọc" thong thả đáp lại: Bẩm vâng! Ngoài sự đọc sách với chơi ảnh ra, con cũng chẳng còn cách gì giải trí nữa. Đi hát ả đào hay rượu chè, hút xách thì tai hoạ, mà giai gái thì bẩm... chúng con đã quá tuổi rồi! Vả lại tổ tôm, tài bàn là cái chơi thanh nhã, khác nào như cuộc đấu trí. Con cho đó là một cách giải trí lịch sự mà người thượng lưu cần phải biết. Thiết tưởng một phạm nhân can tội giết người mà được trạng sư 8 cãi cho trắng án cũng vị tất đã có lòng kính phục, ngưỡng mộ, nhớ ơn ông thầy cãi của mình như cụ phán của tôi kính phục, ngưỡng mộ, nhớ ơn ông "trạng sư của tài bàn, tổ tôm" lúc ấy. Đánh trúng vào chỗ yếu của ông cụ rồi, tay bịp già đã thèm nhận những lời ân cần mời mọc vào cuộc tài bàn ngay cho đâu! Bẩm con định sang hầu cụ với thăm anh Vân con rồi nhân tiện đi chụp ít ảnh vì cảnh những đồi Lim đẹp đã có tiếng... chứ không nghĩ đến sự sang đây lại được cụ ép đánh tài bàn ! Cụ phán cố phân trần cho ra lẽ: Nhưng còn cả ngày mai thì bác ngại gì? Tôi chỉ sợ bác chả đem nổi vài vạn tấm ánh sáng mà chụp cho xuể thôi. Thế là thành cuộc. Bốn vai trò: ông "tham Ngọc" người đi săn, anh Vân người hướng đạo, ông thân sinh ra anh, chim mòng, với tôi, một người tò mò, đi xem. Tôi rất lấy làm lạ vì cứ thấy vai con chim mòng thắng trận, ù tràn đi mà nhà đi săn kia đã phí gần hai mươi viên đạn. Chính anh Vân cũng hơi tái mặt, chỉ sợ người mình lôi về chưa hẳn là thiện xạ, có bao nhiêu lại đến chui hết cả vào két của ông cụ thì... Làm ra bộ thua cay, nóng tiết, đang đánh một, hai, ba đồng, ông "tham Ngọc" rủ đánh gấp đôi. Thưa cụ, đánh nhỏ con lại hay thua, có đánh to mới cao được. Gặp hồi đỏ, ông cụ hăng hái như đang say rượu nhận lời liền! Thể là từ lúc đánh hai, bốn, sáu đồng, ông cụ năm thì mười hoạ mới được một ván ù suông. Ù tài bàn, sửu bàn 9 chỉ riêng về ông "tham Ngọc". Thấy số giấy bạc trước mặt, trong túi mình cứ lần lượt chui ra rồi bay đi với gió, moi ví mãi nóng tiết, ông già thỉnh thoảng lại làm ván ké một "rồng xanh" 10. Nhưng bao nhiêu cũng đều "giá vũ đằng vân" đi đâu mất cả! Cái ví lép kẹp của ông già giục cả làng tan chầu, đứng lên: Thôi, mời bác lên gác đi nghỉ với em. Bác đỏ và đánh cao quá, thật số bác hôm nay phát tài. Tôi thua dễ đến hơn sáu chục !... Ông cụ "tuy không ăn ớt mà cay" nhưng vẫn vui vẻ như thường, vẫn thản nhiên, lộ cái vẻ yêu con người đã lịch thiệp lại có biệt tài, đánh tài bàn cao. Còn tôi, tuy tò mò ngồi để ý mất cả buổi tôi, cũng không sao khám phá nổi những ngón bịp ! Vậy "mặt mũi" những ngón bịp thế nào? Trên gác riêng của anh Vân, giữa lúc chia tiền. Vốn tôi đem sang: mười lăm đồng, vốn bác: năm đồng, mà đây tám mươi ba tất cả, thế là cụ bị mất đứt 63 đồng. Đáng lẽ ta chia ba, ông ấm B... ở Hà Nội với tôi hai, còn bác một. Nghĩa là cả ba đạo binh cùng hưởng: đoàn hướng đạo, đoàn quân thắng trận với bộ tham mưu. Nhưng mòng là cụ nhà bác thì bác cứ cầm bốn mươi của. Anh em chúng tôi chỉ dùng 23 hòn đạn là đủ rồi. Trước cái thái độ nhã nhặn và biết điều này, anh Vân đáp bằng cái gật đầu, chìa tay ra nhận và nói: Để lần sau bác sang, tôi gọi cho mấy via 11 nữa đến, rồi ta lại sẽ có dịp được chia hương hoả với nhau. Nhưng tôi muốn bác cho xem qua các ngón để sau này mà tránh... Nhà đi săn cười. Một cuộc phấn đấu chốc lát trong óc anh chàng: bí mật nhà nghề, có nên? Hay không? Sau một lúc lưỡng lự, "ông tham" có ý lấy chúng tôi làm chỗ đồng chí, cũng chẳng phải ngại gì. Chúng tôi ngồi nghe như hai cậu học trò trước một giáo sư dạy khoa quỷ thuật. Có ba lối tài bàn. Thứ nhất: lối đánh kiệu hay là nhị cập nhất, hai người thông lưng nhau hại một người bằng những luật nhất định như để tay vào đùi, vào gối, ống chân, bàn chân tuỳ theo quân chờ về hàng văn, hàng sách, hàng vạn... Muốn ăn quân gì hoặc chờ quân gì, cứ việc ra hiệu để bên kia để ý đánh cho mà ăn hoặc hạ ù. Nhưng đó chỉ là phương pháp của các bịp non, dễ lộ tẩy, nếu người ta nghi hoặc, khám bài thấy rõ sự đánh tầm bậy, gian lận thì nguy. Lối ấy không xứng đáng, tôi không thèm dùng. Thứ nhì: hụt nọc. Lối chơi này cần mĩ thuật lắm, người đánh phải có cả tài lẫn gan. Bắt cái xong, mình phải cầm lấy bài nọc vờ chang đi mấy lớp. Thế là vài ba quân đã theo cái chang chui lọt, nằm gọn trong tay áo mình rồi đến lúc lên bài, phải xoay đi cho phu nào vào phu ấy, lưng nào vào lưng ấy, thừa quân thì dễ ù lắm. Nếu ù... hạ bài xong cứ để mặc làng khám cho kĩ. Xong đâu đấy, gạt cả ra một góc chiếu cho người chia bài... là mấy quân bài "trốn thẻ" trong tay áo đã thừa cơ chui tọt ra, theo cái lúc "hỗn quân hỗn quan", hợp với bọn lính thắng trận về cổng khải hoàn. Muốn đề phòng sự làng nghi ngờ, thấy mình ù nhiều mà điểm lại bài nọc, bài rìa, thì có hai cách cản. Một là thấy mình hạ xong ông "bạn đồng chí" cầm ngay lấy phần nọc vờ tìm quân ông ta đang chờ, phàn nàn rầm lên, "gọi chó" rầm lên, ồ ạt xoá đi cho người kia không kịp điểm nữa. Hai là rút ở nọc lên mà ù. Quần bài chờ ấy lẽ tất nhiên là quân mình thụt được ở nọc từ trước đã giấu sẵn trong tay. Lúc xoa tay xuống nọc vờ rút nó lên thì trong lòng bàn tay phải có sẵn cả những quân mình đã hụt, trả vào nọc, chỉ "xách cổ" lên một quân chờ ù. Đến thế thì ván nào mình ù, làng có điểm bài cũng không ngại gì nữa. Lắm khi chơi với bọn thạo, không hụt nổi ở nọc thì mình phải dùng đến chước thứ ba, nghĩa là hụt vào phần bài của ông "bạn đồng chí" với mình. Bắt cái xong, cầm phần bài mình trong tay rồi, mình lại phải vớ lấy "phần bài tòng phạm" liệng trả ông bạn. Trong cái liệng rất ý tứ mà ít ai để ý ấy, ngón tay cái với ngón tay trỏ của mình đã "họp đảng" với nhau giữ lại vài quân, trập phắt vào phần mình. Thế là ông bạn cầm phần bài thiếu phải đánh bậy bạ cho qua cuộc, cốt sao "che mắt thế gian". Ấy, chỉ có thế thôi, bịp tài bàn cũng vậy hay tổ tôm cũng vậy. Cốt nhất phải có bộ mặt tài tử đóng kịch, nghiễm nhiên, bệ vệ, cũng cốt nhất là ngồi vào một chỗ không ai ám nổi, tránh cho xa những bác chầu rìa. Trong cuộc giảng bài này, ông "tham" cho chúng tôi rõ cả phần thực hành lẫn phần lí thuyết. Nhanh như chớp, ông giở ngón có bảo trước cho biết mà chúng tôi chịu, không sao vỡ được cái "thiên biến vạn hoá" của nhà quỷ thuật đại tài. Bữa tiệc nào cũng phải có đồ nước nên nhà bạc bịp thuật thêm một câu chuyện ngắn nữa để làm món đét xe (tráng miệng). Một lần, ngồi vào cuộc với hai ông khách lạ mà tôi tưởng là quých, tôi vờ chang bài nọc, hụt xong, để xuống đĩa thì bỗng phải giật mình lo sợ vì chỉ cuỗm có bốn quân mà sao phần nọc có lẽ thiếu nhiều? Đang mải ngẫm nghĩ thì một ông khách lạ nắm chặt lấy tay tôi. Cuống quá, đã tái cả mặt nhưng nhanh trí khôn, tôi cũng vội liều nắm chặt cổ tay ông ta làm cái "trả miếng". Rồi chúng tôi cùng buông nhau ra để cười sằng sặc, gập đôi người lại mà cười. Tôi hụt bốn quân bài thì ông khách ấy cũng hụt ba quân cộng với một quân. Ông ta chia thừa cho phần bài của ông mà tôi thì hụt nọc! Chúng tôi gọi buổi ấy là ngày "anh hùng tương ngộ", cũng là "bịp lũa" cả mà bên nọ còn tưởng bên kia là mòng. Trước mặt anh chàng dắt khách lấy hồ hòng chuyện nọ kia, mặt tiu nghỉu như chó bị thiến, chúng tôi vỗ vai nhau, bắt tay nhau một cách ân cần, gọi nhau là "tri kỉ".Chương 2: Ông Quân Sư Của Bạc BịpÔng nên biết rằng: quá nửa đởi người, tôi đã sổng bằng nghề cờ bạc. Muốn sống về nghề cờ bạc, phải có cách trừ khử những cái đáng nơm nớp lo ngại là cái đỏ cái đen... Hiện nay anh em tôn tôi là... trùm đảng bạc bịp. Trước khi lên được địa vị này, tôi cũng đã lắm phen phải đóng những vai trò mòng với quých cho một lũ bạc bịp tiền bối họ móc xé ruột gan đấy, ông ạ. Những lúc thất cơ lỡ vận trước là vốn buôn cho tôi được hưởng cái lãi là cái địa vị... bây giờ. Người đang kể tiểu sử của mình ra cho tôi với anh Vân nghe chính là ông ấm B... ở ngõ Hàng Cá. Trong gian phòng gác mà cách bày biện đủ tỏ rằng chủ nhân cũng là hạng người thiệp đời, lịch sự, chúng tôi đã được ông trùm tiếp một cách nhã nhặn mà lại được cả dịp đón nhặt tài liệu cho cuộc phỏng vấn ngẫu nhiên đây. Những người chỉ nghe danh mà không biết mặt ắt phải tưởng tượng rằng đến hạng người đáo để này thì từ nét mặt, giọng nói, dáng đi cho đến tà áo, gấu quần, tất nhiên cái gì cũng phải có vẻ bịp cả! Trái lại, ông ta là người trông đẫy đà, bệ vệ như một ông hậu bổ hoặc một viên tri châu 1 nào. Hai con mắt rất sắc sảo, có đủ vẻ đối địch với đời, tiểu nhân cũng được mà quân tử cũng được. Miệng nói có duyên một cách lạ, thường hay mỉm cười để "giá trị" cho câu chuyện: nhất là những lúc gọi đến thằng nhỏ thì tiếng đồng sang sảng, thật là có giọng quan! Chúng tôi họp mặt nhau mới độ một giờ mà trong câu chuyện đã thấy ngay cái không khí nồng nàn, tri kỉ. Được dễ thân như thế là vì có anh Vân, người cùng đi với tôi để thăm ông ấm, trước nay đã làm "chim mồi" cho ông để săn các bạn già cụ phán bên tỉnh Bắc cùng những tín đồ của "đổ bác giáo" bao nhiêu lần rồi. Vì vậy, ông ấm mới chẳng ngại kể lể tâm sự và nói rõ cả những bí mật nhà nghề đáng giấu kín cho chúng tôi nghe. Nhưng trước khi cho biết những cái "vành ngoài vành trong", ông hãy làm trạng sư cho ông, cho địa vị xã hội của ông, và cho cái nghề không có môn bài của ông đã. Tại sao tôi, dòng dõi gia thế, lại làm đến cái nghề... bất nhã này? Thưa ông, nếu tôi có thật không ra gì thì cái đó cũng chẳng phải lỗi tự tôi, tôi đã bị hại về hoàn cảnh xấu của xã hội. Nhưng tôi chỉ tự trách mình và vẫn nên tự trách xã hội. Sống ở cái xã hội cờ bạc, tôi chỉ biết rằng tôi đã là kẻ rong chơi bài bạc tự lúc thiếu thời. Tôi đã thua vì đỏ đen, tôi lại còn thua vì bịp nữa! Tôi đã phải xa gia đình vì phá tan cơ nghiệp, tôi đã khốn khổ, ê trệ ê trệ nhiều phen lắm, hai ông ạ cho nên chính ngày nay là ngày tôi đang trả thù cái bọn đã làm tôi hư hỏng, đã ngăn rào mọi đường công danh tiến thủ của tôi. Đó có là công lí không? Tôi tưởng: làm việc thiện để đền ơn việc thiện, lấy việc ác để trả nghĩa việc ác, thế mới là biết sống ở đời... Nói cho cùng, tôi cũng vui vì đã làm, đang làm, sau này nữa cũng vẫn cứ làm cái nghề bất lương, cái nghề tôi cho là phải. Tôi chỉ buồn có một nỗi: không theo đuổi nổi sự nghiệp của ông cụ nhà tôi... Đến đây,ông ấm ngừng lại, có vẻ buồn rầu. Ông có ý chờ một câu phê phán. Tôi vội phải lộ sự tôi hiểu ý một cách kín đáo là đưa mắt nhìn cái ảnh lớn trong một khung vàng chói một ông cụ đi hia, mặc áo rồng, đội mũ cánh chuồn từ một chỗ trịnh trọng giữa bàn thờ nhìn một cách nghiêm khắc xuống lũ chúng tôi. Cử chỉ ấy có lẽ khiến ông ấm được một vài phút tự kiêu, nên lại vui lòng: Vậy các ông coi cờ bạc là hạng thế nào? Tâm lí họ ra sao? Họ khôn hay họ dại đấy... Hai chữ khôn với dại trong sự bài bạc không có nghĩa nhất định. Nếu ông thua để vợ con phải nheo nhóc, thiên hạ sẽ đua nhau chê ông là dại thật dấy, nhưng nếu ông được tiền nghìn bạc vạn để tậu nhà tậu ruộng, thiên hạ họ lại xô nhau vỗ tay, ca tụng ông là khôn! Những anh cờ bạc toàn là những anh xin lỗi các ông những anh... "khôn sặc máu mồm" ra cả đấy, chứ các ông bảo họ dại cái nỗi gì? Tôi đây, tôi đã là một thằng dại mãi rồi mà tôi lại cứ muốn cầu cái khôn trong cái dại, nên mới phải tìm một cách "bảo hiểm" cho sự khôn! Ông ấm cả cười. Chúng tôi cũng cười. Sau ông tiếp nốt (từ đây trở đi, tài hùng biện của ông mỗi lúc một tăng): Thế các ông coi cái nghề của tôi bằng con mắt thản nhiên hay bằng con mắt khinh bỉ? Các ông nên biết : tuy là bịp, tôi vẫn không làm một việc nhỏ mọn gì là bất nghĩa cả. Trong đám bạc, người đời đã chỉ những muốn ăn thịt lẫn nhau cả, thì dù có bất nghĩa, tôi cũng chỉ bất nghĩa với một bọn bất nghĩa, chứ những người hiền lành không tham lam, không muốn ăn thịt ai cả, có khi nào đến nỗi bị chúng tôi hại đâu? Xem ý anh Vân lại được hài lòng, vui sướng hơn cả ông ấm B... vì "bài cãi" ấy. Rồi anh nối lời thuyết mãi, thuyết mãi... về cái nghĩa chính danh của sự bất nghĩa ở thời buổi vật chất, kim tiền này. Buổi nói chuyện kéo đến lượt hò đun nước thứ ba. Chúng tôi phải đứng lên, xin cáo từ. Lởi nói cuối cùng của ông ấm B... là một câu phàn nàn về nạn kinh tế, về nỗi mòng, két mỗi ngày một hiếm, không được mùa săn. Ông ta dặn chúng tôi nên rất để ý vào sự tìm đất để làm tiền. Lời dặn ấy làm cho tôi phải nghĩ ngợi mãi? Vì sao? Vì nếu đối với ông ta, tôi không có mòng, sẽ bị coi là đồ vô tích sự, và sẽ mất dịp đi lại với ông về sau. Thành thử ở vào trường hợp ấy, tôi rất thèm thuồng ham muốn địa vị của anh Vân. Anh Vân tuy chưa có gan dắt bịp đến bắt các anh em bạn thân, song anh ta cũng còn may vì có được một ông thân sinh ham mê bài bạc. Và mấy ông tóc bạc, bạn của ông cụ ấy nữa. Chỗ để đào tiền đã có sẵn, anh ta lại sẵn cả chỗ để ném tiền đi: những mẻng! Còn tôi, tuy có nhiều bạn thân ham mê bài bạc thật, nhưng không nỡ dắt bịp đến bắt, lại không có nổi lấy một ông bố có máu mê ấy nên không biết liệu phải đối phó với ông ấm B... bằng cách nào... Tưởng chỉ còn cái kế cuối cùng là sự hẹn lần vậy. Có khi mình hẹn lần vì bất đắc dĩ mà người ta lại nhầm mình là hạng người cẩn thận, kín đáo, chắc chắn cũng không biết chừng. Vả lại, trước khi nhúng tay vào một việc có thể phạm tới danh dự của mình chút ít, dễ thường cứ bắt người ta nhắm mắt mà làm liều, không cho có ngày được rõ diện mạo, tính tình nhân cách và mọi cử chỉ của từng viên chức trong "bộ tham mưu" ư? Cái ngày mà tôi được rõ mọi việc cũng không xa. May quá, nó đến trước khi tôi phải hẹn lần. Cái lịch trên tường phô ra hai con số: 30. Gian phòng gác ở phố Hàng Cá vào những ngày cuối tháng như ngày này, có cái vẻ nhộn nhịp của một toà tham mưu giữa lúc hai bên quân đương giao chiến với nhau thật kịch liệt. Vừa phần vì lẽ "năng tới coi thường", vừa phần hai bên đã coi nhau là thân mật, ông ấm để mặc chúng tôi mỗi anh ngồi chầu một chén nước nóng còn mình thì một tay đỡ lấy trán, tay kia bấm đốt, tính lẩm bẩm như một thầy bói lấy số tử vi: "... Hai đám xì một đám bất, một đám xóc đĩa và một đám tổ tôm. Đám xì ở Hàng Kèn đã có Ba Mỹ Ký với Bập đánh giác... đám xì đường Cột Cờ đã có tay Bỉnh, tay Sính đánh đòn Vân Nam... Còn đám bất phố Hàng Bông đã cỏ lão Cường hoặc đánh lớp, hoặc đánh mẫu tử. Xong đứt ba đám... Còn đám tổ tôm không biết nên tính thế nào? Chỗ chơi là chỗ đài các phong lưu mà phái Cửu Sần đi thì sợ lộ !... Ác quá, có cụ Ngọc là người trông có mẽ một chút thì lại mắc xuống Nam. Cẩu thật!... Còn mấy anh lái nâu động mả, giữa lúc giời đất này cũng về khua xóc đĩa nữa, đã nằm chờ sẵn như lợn cả kia thì biết cắt ai đi chọc tiết bây giờ?... Chỉ có mình, mình là tay khả dĩ đối thủ được với chúng thôi, thì mình lại phải cái tội đã loã lồ quá. Mấy tiếng gót giày khẽ nện vào bậc thang gác báo trước cho một người còn trẻ tuổi, ăn mặc ra một tay trong phái bồi, bếp, rón rén bước lên. Thấy chúng tôi lạ mặt, người ấy có vẻ ngần ngại, chỉ đưa mắt hỏi ông ấm chứ không nói gì. Ông này làm ngay một câu: Thế nào?... Được, cứ tự nhiên, chỗ anh em cả. Người trẻ tuổi kia lộ ngay cái vẻ sung sướng ra như đang có một gánh nặng trên vai mà đến lúc vừa hạ được nó xuống đất. Nhưng đôi lông mày vẫn cau: Hỏng mất cụ ạ!... Thế nào mà đến nỗi hỏng? Thu xếp thế mà lại hỏng thì hỏng thế nào? Tôi đã dò lão ta rất kĩ lưỡng. Thằng cha ấy nó biết rõ lối đánh giác từ bao giờ ấy mất rồi. Tôi gợi chuyện thì nó đã nói toạc móng heo ra, những là nó biết hết tất cả các lối giác mùi hay giác bóng cũng vậy, và chỉ có những đồ mù thì mới không biết cách khám thấy dấu, chứ cứ để nghiêng quân bài dưới ánh sáng đèn một tí thì anh nào đến thong manh dở cũng phải biết ngay! Lại còn nỗi khó khăn này: muốn bắt lão ta, phải đến tận nhà thằng cháu lão ta, chứ lão nhất định không đi chơi chỗ nào lạ. Tôi phải tìm cách "bỏ nhỏ" với thằng cháu lão và việc ấy cũng ổn rồi. Vậy thì cụ xếp cho một người cản nữa để tôi đánh Vân Nam vậy. Ông ấm ngần ngại: Khốn nỗi anh mà đánh đòn Vân Nam thì tôi không lấy gì làm chắc lắm. Có được anh Ba Mỹ Ký thì lại trót hẹn mất với đám ở Hàng Kèn rồi. Hay là tối hôm nay, ta hãy đánh siệng, làng xoàng độ năm hào một cho qua buổi để mơn lão ấy đến trưa mai hoặc tối mai, tôi cho gọi Ba Mỹ Ký đi với anh đến thì thật là cứ "nhét đất thó vào lỗ mũi nó mà lấy tiền... " ! Không được ! Lão ấy nó đang cao hứng, nếu để đến tận trưa mai hoặc tối mai thì từ buổi sáng sớm nó đã có thể dậy để đi cân sâm cho con nó rồi, mình còn hòng bắt nó lấy cái gì nữa? Thế đích xác là nó có độ bao nhiêu? Độ chừng sáu công 2 tất cả. Cụ phải tính ngay cho chứ mà... Thôi được, cứ về đi rồi độ sáu giờ chiều lại đây lấy nốt người cản. Để tôi có thời giờ, nghĩ thật kỹ xem sao. Người trẻ tuổi ấy trước khi quay gót bước xuống thang còn liếc mắt nhìn trộm chúng tôi lần cuối cùng, dáng dấp vẫn lộ vẻ ngượng. Đến bây giờ, ông ấm mới giới thiệu: Đấy, một đàn em của tôi đấy.Trước làm thầy kí cho hiệu buôn lớn, chữ nghĩa kể cũng khá, sau vì kinh tế nên bị loại, nay phải tạm sinh nhai về nghề này. Vì phải giao thiệp với hạng trếch để săn mòng, két trong đám bồi, bếp nên tôi bắt anh ta ăn mặc đúng lối trếch. Nếu hắn diện Âu phục vào thì các ông phải biết... Nói tiếng Tây nhanh làu làu. Chỉ trông mặt mà bắt hình dong thì nhầm to. Anh Vân khen: Phải... gớm mưu trí của ngài kể cũng đáng sợ thật. Mà thế thì ra đàn em của ông toàn là những tay đáo để, ra phết cả, "chơi được" cả... Thì đã hẳn !... Vào nghề này mà hiền lành thì làm ăn ra sao? Hai ông nên biết rằng không kể một số khá đông người, nửa là đồng nghiệp, nửa là đàn em của tôi, tôi còn dưới quyền sai phái độ mươi tay nữa, vào hạng nào cũng có, một người ít ra cũng sở trường về một vài ngón bịp và anh nào cũng có đặc sắc riêng. Nhất là về những cách thay hình, đổi dạng của chúng tôi... tôi cam đoan rằng chúng tôi không thua những nhân viên của sở Liêm phóng 3. Thí dụ: ông là quých chẳng hạn. Ông là một nhà buôn, ông sẽ gặp một người trông thật là chủ hiệu ngồi hầu bài. Ông là một công tử nhà giàu, tôi sẽ để ông ngồi với một chàng trông thật ra lối con nhà phá của... và chưa chắc đã không có một vài cô gái mới ngồi cản đâu? Còn nếu ông là một viên chánh tổng, lí trưởng nào, tôi sẽ dắt cho một thầy ngăm ngăm da trâu, trông rõ "Đình Dù đặc". Hoặc nếu ông là một chú trếch sộp, tất nhiên phải có một bác tài răng vàng, đội cái cát két hay một ông còn nguyên búi tóc lại mặc áo cánh cổ cứng ngồi hầu ông chứ... biết làm thế nào? Ba chúng tôi vừa bật cười ầm lên, bỗng phải hãm ngay luồng điện khoái lạc ấy lập tức. Lại một hồi gót giày nện rõ mạnh vào thang. Chỉ nghe tiếng động mạnh gớm mạnh ghê như thế, ai cũng phải đoán: người sắp lên ấy sẽ là một người Pháp. Nhưng không phải, chỉ là một người Nhật, vì người đang tiến đến chúng tôi để giơ hai tay ra bắt rất ân cần ấy đã có cả cái thân thể một ông khổng lồ lẫn bộ quần áo Tây phương, lại đèo thêm bộ mặt một dân Nhật Bản. Giá ông ta thay cái mũ cát két da hổ ấy đi để chụp vào đầu một cái mũ lưỡi trai có cái vòng lon kim tuyến chẳng hạn thì, sẵn có cái áo tơi bằng da màu cánh gián đã ngắn cộc lại thêm đai nịt rõ chặt chẽ ấy, đi nghênh ngang ngoài đường, ông ta có thể bắt nhiều người nhầm mình là một phi hành gia. Nước da còn hồng hào với một ít râu để lối Hoa Kỳ 4 của ông tỏ ra rằng ông chưa quá 40 tuổi. Sau khi chủ, khách đã phân vị đâu đấy cả, ông ấm B... quay lại nói ngay: Xin giới thiệu để hai ông được biết: ông này quý danh là ông Cả Ủn, người giữ cái két lớn nhất cho làng b... chúng ta. Ông Ủn cả cười và thêm: Nhưng phải cái két thủng đáy, hai ông ạ. Lời giới thiệu sỗ sàng của ông ấm B... đã đánh tan mọi sự giữ gìn của những người mới gặp nhau lần thứ nhất. Cho nên mới có những câu hỏi, đáp tự do sau đây: Ngọc đi bao giờ mới về? Chưa biết đích xác được. Cỏ phải chính bác sai hắn đến lấy thiếc đằng tôi không? Phải... nhưng tôi chỉ mới bảo hắn đến lần này là lần đầu. Thế mà hắn đến lần này là lần thứ hai! Lần thứ hai? Phải !... Hay lần trước là hắn bịa chuyện ra chứ không do bác bảo? Thế lấy bao nhiêu? Bốn chục. Trả chưa? Rồi. Thế là hẳn lấy để đi "ăn mảnh" đấy chứ không phải do tôi bảo đâu. Thế hôm vừa rồi đưa hắn bao nhiêu, bác thử hỏi xem có đúng sổ tiền mà tôi bảo hắn đến chạy đằng bác không nào... Hình như nhà tôi đưa hắn 50 của thì phải. Lần sau trở đi, chính bác nên thân hành lại mà lấy hoặc không tiện đến, bác cho mấy chữ lại vậy... chứ tôi không tin các "ông tướng" ấy đâu. Thế có phải đúng bác bảo hắn lấy 50 của để đi Nam không? Phải rồi... Được, lần sau có chữ tôi gửi lại, bác hãy đưa tiền. Và dặn cả bác gái như thế hộ tôi một thể.Chương 3: Đố Anh Nào Bịt Mắt Được TôiTrên tường bên kia, cái bàn thờ Thổ công có một chiếc cốc pha lê đã rạn thay bằng bát nhang với hai cái đài mà nước sơn đã lở làm bưng mảnh ván choèn choèn kê lên hai cái xích đông gỗ tạp. Dưới bàn thờ là một bức tranh về xứ Pháp, phô hình một viên tướng cười ngựa bạch trên một chỏm núi, cầm viễn kính chiếu xuống đồng bằng, một cảnh đồng bằng có hàng bao nhiêu binh mã, như một đàn kiến lửa chen chúc nhau trong những lúc tranh nhau đi tha mồi. Bức tranh lồng trong một cái khung sơn kim nhũ trông đã hơi cổ và đã có chỗ bị sứt, để lộ cả thớ gỗ. Giáp ngay với bàn thờ, có một bó chừng sáu xóc tôm khô treo ngay bên cạnh một bộ quần áo bi da ma kiểu cuối cùng của hãng Lafayette 1. Lại cách bức tranh và bàn thờ, có thể lấy tay với ngay được, lù lù một tấm ghế ngựa mà dưới gầm có một đôi giày da láng mũi liền, kiểu Richelieu 2, rộng như hai chiếc thuyền thúng bỏ quăng bên cạnh một chiếc chổi xể cùn ! Gian phòng tuy chật hẹp mà ních đầy đồ đạc, cái sang cái hèn lẫn lộn một cách chướng mắt vô cùng này là gian phòng của một người trong làng trếch. Xin mời ông xơi tạm chén nước. Vâng, xin phép ông. Người trân trọng lấy hai tay bưng chén nước mời tôi uống, bác bồi An, chủ nhân gian phòng có cái bài trí kì lạ kể trên, thân thể tuy trông đẫy đà nhưng không đến nỗi thô cho lắm vì được ẩn trong bộ quần áo bảnh bao. Đôi lông mày rậm rạp nằm trên cặp mắt như hai chiếc đòn khiêng. Hai hàm răng trắng nõn như ngà. Bác đã cung kính trao cho tôi cái chén Nhật Bản to bằng cái bát ăn cơm, đầy nước chè Tàu mà tôi chỉ cầm lên, đặt xuống. Cái chén ấy hầu như chưa được ông chủ tắm cho lần nào, dễ đến mấy tháng nay... Kìa, mời ông xơi nước kẻo nguội. Câu mời thứ hai này chẳng đủ phá nổi cái im lặng rất khó chịu, vì ngoài sự chào hỏi ra, chúng tôi chẳng còn biết nói với nhau chuyện gì. Rõ ngộ! Tôi sở dĩ gặp chuyện này là vì đã nể lời ông ấm B... khi ông nhờ tôi đi hộ vệ đòn Vân Nam cho đàn em của ông, tại phố Hàng Giò. Độc giả chắc còn nhớ đến người trẻ tuổi ăn mặc ra phái bồi bếp đến toà nhà ở phố Hàng Cá xin "quân sư" phái cho một người cản, mới trưa hôm nay người ấy định bắt mòng trong một canh xì bằng lối đánh giác, nhưng vì mòng của anh ta chưa đến nỗi quých lắm, đã biết cả lối giác mùi lẫn giác bóng nên anh ta mới phải cầu cứu đến cái đòn Vân Nam là kế cuối cùng. Dưới quyền ông ấm B... không còn một tay sai nào nghỉ việc vào ngày 30 tháng ấy. Anh Ba Mỹ Ký đã được phái đi đánh ở phố Hàng kèn, ông quân sư mới phải cho phép đàn em hãy còn "non tay" của ông giở đến ngón đòn hiểm độc hơn cả. Thiếu người ngồi cản nhưng may lại vớ được chúng tôi sẵn đấy, sau khi ông Cả Ủn đi rồi, ông ấm bèn tiện việc, ngỏ ý tức khắc muốn nhờ một người, hoặc tôi hoặc anh Vân. Anh Vân vì có buổi hẹn với mẻng của anh đúng 6 giờ chiều hôm ẩy, đã từ chối, tôi mới phải nhận lởi. Vì một sự tình cờ, bắt đầu từ ngày hôm nay, tôi đã thành một tay thợ tập sự trong một xưởng máy của nền "kĩ nghệ bạc bịp" ! Xin thuật lại những câu hỏi, đáp, dặn bảo nó đã ngẫu nhiên khiến ông ấm B... vô tình giảng ngay cho tôi bài học thứ nhất, quên hẳn nền nếp của pho "Bịp Kinh", chưa kịp: Dạy rằng con lạy mẹ đây mà đã vội Này con thuộc lấy làm lòng... Thế có thật là ông biết đánh xì không? Nếu không thì đời nào nhận lời giúp cụ. Thế thì may lắm, ông đi hộ vệ hắn giúp tôi là tôi được vững tâm rồi. Trông ông có vẻ thực thà và sang trọng thế này, không còn ai dám ngờ vực gì nữa. Ông sẽ đi với nhà cậu đến xin người cản lúc nãy, tên hắn là Vũ, để hắn đánh đòn Vân Nam. Nguyên con mòng kia đã biết cái lối giác mất rồi thì ta phải đánh đến cái "miếng ngoại quốc" cho nó mất đỡ... Đánh giác có nghĩa là đánh tráo bài có dấu. Còn đánh đòn Vân Nam là đánh tráo bài. Nói thế ông đừng tưởng là lại tráo một cỗ bài có dấu sẵn khác vào bàn đâu. Vũ hắn sẽ có một vài cỗ bài đã xếp sẵn cho thành nước để trong túi, không có một tí ti dấu vết gì cả. Ngồi vào cuộc, ông nên nghe hắn đưa mắt bảo nên ngồi đâu để cản trở cho dễ, cái đó còn tuỳ... Mới vào đầu hãy cử đánh siệng, nghĩa là đánh thật thà đã. Ông rất nên để ý vào lúc hắn khịt mũi hoặc uống ngụm nước súc miệng là lúc sắp đánh tráo bài. Hắn tuy vẫn ngồi xếp bằng tròn, nhưng bàn chân gấp vào dưới đầu gối vẫn có mấy ngón cặp lấy cỗ bài đã chuồn ở trong túi ra từ lúc nào không biết, phục sẵn... chờ khi khịt mũi xong, tay cầm cỗ bài ở đĩa lên chang đi chang lại thật kĩ rồi, hắn uốn mình chống cái tay có cỗ bài ra đằng sau đùi để khạc, nhổ một cái rồi ngồi quay ngay lại để chia cho làng, là ông phải tìm cách vơ ngay cỗ bài dưới đầu gối hắn cho nhanh để giấu vào địa phận của ông vì... hắn đã đánh tráo rồi đấy! Nhưng khi hắn chưa kịp tráo, nghĩa là giữa lúc hắn quay lại đằng sau định nhổ, khạc thì muốn cho cả làng không ai để ý, không ai trông thấy, ông phải bò nhoài ra trước mặt hắn để với lấy hoặc bao diêm, hoặc cái điếu ở bên kia đi, phía trước mặt ông. Thế là hắn đã đánh xong cái đòn Vân Nam mà ông cũng trọn bổn phận tên lính cản. Đây này, tôi ra hiệu cho ông thấy rõ... thế này đã hiểu chưa? Vâng, hiểu lắm rồi. Phải, có gì mà chả hiểu !... Đây, ông cầm lấy thiếc, ấy chết, khỉ quá! Tôi cử nhầm ông là "bịp lũa" rồi. Thế "thiếc", là cái gì? Ông ấm móc ví đưa cho tôi ba cái giấy bạc năm đồng, cười mà rằng: Thiếc là cái này! Sao gọi là thiếc? Vì nó là cái "mô tách ních" 3 của làng b... Thế tôi thử hỏi ông: người thợ có sẵn lò, sẵn mỏ hàn, sẵn axit đấy nhưng không có nổi mẩu thiếc thì còn hàn nổi đồ đạc gì cho ai? "Thiếc", chữ ấy ngoài những nghĩa đã có của nó, còn là tiền lưng vốn của bọn cờ bạc bịp, tôi xin các nhà học giả nước ta để ý đến chữ ấy để chua thêm nghĩa cho nó, trong bộ Việt Nam tự điển sẽ xuất bản đủ bộ sau này. Xin mời ngài xơi thuốc. Tôi đã ngồi cùng xe với bác kí Vũ hay là bác bồi Vũ đến toà nhà Tây ở phố Hàng Giò, rón rén bước qua cái sân rộng rồi lẻn vào ngồi trong căn phòng của người bồi ông chủ toà nhà ấy. Bác kí Vũ đã giới thiệu tôi là quan tham với bác bồi An, chủ cái phòng này, trước mặt một ông đã đứng tuổi, nửa tỉnh nửa quê, chú họ bác bồi An, rồi bác lôi ngay con mòng ấy đi xe lên tận Hàng Ngang mua một cỗ xì mới. Lúc tôi để chân vào căn phòng này, cái đồng hồ trên bàn phô ra đôi kim kéo một vạch thẳng từ trên trời xuống đất. Đến lúc bác bồi An mời tôi xơi thuốc, trước sau đã được nửa giờ. Trong nửa giờ, ngoài sự mời nước, mời thuốc, chúng tôi chỉ mong vào tiếng tí tách của cái đồng hồ phá hộ cái không khí im lặng, khó chịu, nặng nề mà không thấy ăn thua. Vả lại ích gì mà chuyện Đã "biết rõ" nhau như chúng tôi rồi, tưởng chẳng cần nói gì là hơn. Tôi đến đây, ngoài việc đánh bạc còn có việc gì, bác bồi An đã thừa biết. Mà sao tính của bác đối với ông chú họ bác nó ra sao, nhờ kí Vũ, tôi cũng đã rõ cả rồi. "Tri kỉ" gặp nhau, không cần nói, cũng đủ hiểu nhau... Kim đồng hồ cứ việc chạy với thời gian. Sau cùng, đó là bác An phải tự phá cái vẻ ngượng kín đáo, im lặng giữa hai chủng tôi: Gớm! Từ đây lên phổ Hàng Ngang mà các ông ấy đi lâu thế! Thưa ông, thế chốc nữa ngồi vào cuộc, hai ông sẽ làm ăn như thế nào? Thế ông Vũ chưa dặn ông ư? Mới dặn qua loa thôi! Dặn rằng tôi cử việc ngồi đánh như thường, đừng có tò mò để ý đến bác ta quá mà ông cụ biết thì lộ. Với lại, xem ý lúc nào bác Vũ khai chiến nặng dùi với ông cụ thì tôi nên bỏ dở, mặc cho hai người họ tố với nhau. Thế là đủ rồi Tôi không cần... thi thố gì nữa? Cái thi thố, ông cứ để mặc về phần chúng tôi. Nhưng ông cụ ấy đã là tay thạo trong làng chơi chưa thì ông cho tôi biết rõ. Cái thạo thì chắc cũng có thạo vì ông cụ ấy đã... bán mất ngót chục mẫu ruộng vì đánh bạc rồi. Ông cụ ấy là một ông chú họ tôi, trước kia được nhờ vả thầy tôi nhiều lắm, từ khi khá giả lại vô ơn, đã không cưu mang lại còn rỉa cả đến cháu thì... ông ấy đã muốn chết cho ông ấy chết chứ... tôi cần gì. Thế ông cụ có sộp không? Trong lưng giắt đến ba, bốn chục bạc từ Phủ Lý ra đây định cân sâm cho con giai đang ốm thập tử nhất sinh đấy... Đi cân thuốc cho con mà thế đấy! Nằm chờ ăn chực đã ba hôm ở đây để đợi đánh xì ! Ông bảo thế không thịt thì có dại không? Mình không xơi thì cũng đến lượt chán vạn những thằng khác chúng nỏ cũng xơi !... Chỉ nghe cái giọng ấy, tôi đủ lượng nổi lòng bác An căm tức ông chú họ đến thế nào rồi. Nếu những lởi bác An vừa nói mà đúng sự thực thì lòng căm hờn kia cũng chính đáng lắm. Chúng tôi gặp được bác An ở gian phòng này cũng như là những đạo binh của Nhật hoàng sang Mãn Châu mà gặp được phế đế Phổ Nghi 4. Có "nội công", hẳn là chúng tôi dễ thành việc. Đây là cỗ bài mới do chúng tôi vừa mới đi mua ở phố Hàng Ngang về. Bài mới nguyên, các ngài không sợ dấu vết gì nữa! Người nói câu ấy không là con chim mồi Vũ, nhưng lại chính là con mòng, ông chú họ bác An. Ông ta nói xong liền xé lần giấy bóng bọc cỗ bài, để cỗ bài vào đĩa. Ông cầm đĩa giơ vào giữa mặt mọi người phân bua một lần nữa, rồi, chẳng nén nổi những sự thâu lượm được trong khi lăn lóc ở trường đổ bác, ông lại còn dạy chúng tôi, "làm phúc" cho chúng tôi biết được những lối đánh xì gian lận giác bóng và giác mùi. Đây này, các ông trông những đường hoa xanh thẫm in trên lưng quân bài màu xanh nhợt. Những tay cờ bạc bịp, muốn đánh dấu bài, họ sẽ dùng một cái bút chì xanh tô cho nhữg đường hoa đạm nét thêm một ít, tuỳ theo những quân: tây, đầm, trếch, hoặc sập, cẩu, bạt, thất, xì... Mỗi hàng có dấu riêng, hoặc vào góc quân bài, hoặc vào giữa, hoặc xế xế vào một bên, hoặc một vết dài dọc, hoặc một vết ngắn ngang, hoặc đám rêu vuông, hoặc đám rêu hình mặt trăng lưỡi liềm! Tô chì xong, họ lại lấy phấn trắng mà xoa lên trên quân bài cho dấu nhạt đi để khỏi có người nhận thấy. Họ làm như thế có nghĩa là giác mùi. Còn lối giác bóng nữa, lối này mới thật nguy hiểm hơn. Đáng lẽ dùng bút chì, họ lại dùng lòng trắng trứng gà pha với phèn chua kia! Họ lấy bút ta mới, chấm vào thứ nước hoá học ấy rồi tô vào lưng quân bài. Dưới ánh sáng đèn, lưng quân bài sẽ để ta hơi thấy những chấm sáng bóng. Ác nhất là khi tay bịp rút thì chỉ tay bịp mới thấy bóng, chứ xoay đĩa đi thì làng đố người nào mà nhận được ra! Muốn khám phá cho ra, thì phải để nghiêng quân bài, chứ để thẳng vào mắt mình thì vạn kiếp mình cũng không biết được. Nhưng đối với tôi thì đừng ông nào giở ngón này nọ... Tôi đã thạo quá đi mất rồi ! Đố anh nào bịt mắt được tôi! Ôngnửa quê nửa tỉnh nói đến đấy, vênh vênh cái mặt, ra vẻ khinh đời. Kí Vũ, bồi An và tôi, cả ba đã phải đóng những vai kịch dớ dẩn. Rồi chúng tôi ngồi vào cuộc, nào láng, nào tố, nào cắn tố, đánh với cái vẻ "ngậm miệng ăn tiền" của bồi An, đánh với cái "thực thà ngạt mũi" của kí Vũ, đánh với cái "thực thà sang trọng" của tôi, đánh với cái "thạo ra phết" của con mòng. Trong một giờ đồng hồ thua thua được được bất phân thắng bại. Tôi mong mãi đến lúc kí Vũ uống nước, chống tay quay ra sau lưng súc miệng, nhổ xuống thềm. Tôi thong thả bò nhoài ra: Bác An, đưa giùm tôi cái... điếu. Rồi tôi vơ lấy cỗ bài đã thấy ở sau đùi kí Vũ, tay cầm sẵn gói thuốc, làm như bỏ nó vào túi, khoan thai quệt diêm kéo điếu thuốc lào. Cỗ bài đã chang thật kĩ trước khi mình nhổ nước rồi, quay lại, kí Vũ chỉ việc chia tự nhiên. Lớp đầu, tôi được quân trếch, bồi An quân đầm, kí Vũ quân tây với ông "thạo" quân xì Dện quân sau lớp tây, tôi với bác An bỏ dở, mặc cho hai bên cắn tố với nhau. Trống ngực tôi thấy rung lên thình thình. Mòng có bao nhiêu tiền đã quăng ra tố hết! Lát đến quân tây, ông kia được ba xì, nhưng kí Vũ được những bốn tây! Kí Vũ ung dung vơ đống bạc giấy tới ngót bốn mươi đồng. Lần này thì đến lượt bác bồi An ngẫu nhiên bò nhoài ra: "Ông tham", ném giùm tôi cái điếu. Buổi sáng hôm sau, qua phố Hàng Lọng, tôi gặp bác An tiễn chân ông chú của bác ra tàu. Ông chú bác An rũ rượi người ra như con chim bị đạn. Tôi đi bên này đường nên không ai trông thấy, chờ đến khi bác ta từ ga trở xuống, tôi mới lại gần... Kìa, ông tham ! Vâng, tôi đang tìm ông, đưa ông chỗ này cho phải đạo. Tôi đưa ra chục bạc. Bác An mừng cuống quít, vồ lẩy tập giấy bạc mà rằng: Rõ khổ! Sáng hôm nay tôi chạy long cả tóc gáy mới vay nổi đồng bạc cho ông lão về tàu. Xin cảm ơn ông. Ông lão sau có nói gì không? Chả nói gì cả. Ông ấy gặp cảnh cay như thế là sự rất thường ! Thế còn con giai ông ta? "Ốm no thì bò dậy" vậy... Thôi, chẳng qua là số nó chết, nó có vô phúc thì mới sinh vào làm con lão ta !... Một hồi còi tàu rúc lên vang giời, xen lẫn với nhừng tiếng ánh xe nghiến trên đường sắt tưởng như lay chuyển cả phố Hàng Cỏ. Tôi bắt tay bác An rồi gọi xe quay đi. Nhân dịp này, tôi tình cờ được chục bạc "bổng". Nhưng khi nghĩ đến người con giai ốm kia phải có con sâm mới mong qua khỏi, khi nghĩ đến ông bố vô lương tâm đang ngồi ở một toa trong chuyến tàu vừa mở máy ấy, tôi không khỏi thấy trong mình khó chịu, hình như cũng bốc hoả lên vậy, dù chẳng giống với tao xe phun khói lúc rời sân ga...Chương 4: Ba Nhân VậtTôi đang nằm nghĩ vớ vẩn về sự dùng mười đồng bạc vừa hưởng được trong khi làm cái phận sự ngồi cản ở phố Hàng Giò. Chưa biết rằng nên để số tiền ấy tiêu vào việc gì! Để thù tạc mấy anh em trong làng b... cho sự giao thiệp được rộng thêm hay là nhờ một người bạn thân của mình lấy số tiền này làm vốn để đóng thêm một vài mòng cho mình khỏi mang tiếng với ông ấm B... là đồ vô tích sự? Giữa lúc ấy, bác Vũ đẩy cửa bước vào. Tối hôm nay, bác đã cất kĩ cái áo tây vàng và đóng một bộ quần áo chú rể: khăn nhiễu, áo đoạn 1, giày ban. Cách trang sức ấy đã chuộc được cho bác ta cái vẻ một dân thầy và gây cho tôi cái cảm tưởng như không phải mình gặp gỡ một tay bịp nữa. Ngồi chửa được hai phút, bác đã ân cần mời tôi đến chơi nhà bác ta. Tôi nhận lời, cùng bác ra đi, lên xe. Lần này, tôi đã khỏi bận tâm trong khi lại ngồi chung xe với bác Vũ, không còn lo đến sự bất thình lình gặp phải một vài người quen, họ sẽ gật đầu đáp cái chào của mình rồi nhìn theo mình bằng con mắt soi mói như lần thứ nhất đến phố Hàng Giò. Lần ấy, tôi không hiểu rằng mấy người kia đã làm lạ là vì tại họ thấy tôi, một người không hề tạp giao mà lại đi ngồi chung với một cánh trếch, hay là tại bác Vũ một tay bịp lũa đến nỗi đã nhiều người rõ mặt, thuộc tên. Anh ngồi lùi về đằng sau cho họ kéo được dễ. Mới hôm qua, lúc ông ấm B... ghép chúng tôi làm "đồng chí", thoạt đầu nói với tôi, kí Vũ còn ra vẻ kính cẩn, thỉnh thoảng lại "thưa ông... " với "bẩm ngài... " Sau lúc đã xúm vào cùng nhau "làm gỏi" ông lão chú họ bồi An trở đi, kí Vũ đã gọi tôi: "Này bác !... " Đến hôm nay bác ta hạ ngay tôi xuống bực nữa là anh rồi! Tôi đã ngoạm phải chục bạc rồi, còn ai cần giữ gìn với tôi? Kể ra, gọi thế cũng tiện, sự xưng hô đó chẳng những không làm tôi phật ý mà còn cho tôi được dịp biết thêm rằng : những người đã cùng nhau tham mưu chung một việc gì thì dễ thân nhau lắm. Nhất là khi nào mưu tính những việc có tính cách... phi pháp như chúng tôi đây, bọn đồng nghiệp lại càng được thể dễ suồng sã với nhau. Ông nào đến chơi thế con? Sau lời chào kỉnh cẩn của tôi, bà cụ đầu tóc rũ rượi nằm cạnh một bát thuốc ở trong màn với tay vén màn ra, gượng cười mà chào lại tôi rồi quay sang hỏi anh Vũ thế. Anh ta vội ra hiệu cho tôi đừng nói gì cả, rồi đáp lại mẹ rằng: Thưa đẻ, đây là ông kí làm cùng buồng giấy với con. Chính ông đã cho con vay tiền để mua cao cho đẻ đấy. Trước sự bất ngờ đến bậc này, tôi chỉ biết đứng im như tượng gỗ, không còn biết nói năng sao. Bà cụ giở một cái gối để ngay đầu giường, lẩy bánh cao ra ngắm nghía, rồi vừa thở vừa nói rằng: Xin cảm ơn ông lắm! Rõ quý hoá bụng ông quá, em nó thật tốt số lắm mới gặp được ông. Thôi thì ông nên hết sức trông nom che chở cho em nó hộ tôi để chúng tôi chịu ơn ông một thể... Tôi đành phải lựa lời nói dối bà cụ: Được ạ, bác ấy đã vào làm với con thì cụ cứ yên lòng. Mời bác ra ngồi chơi với em... Đặt ấm nước đi con ! Chúng tôi kéo nhau ra ngồi tận đầu phòng đằng kia để bà cụ được tĩnh. Anh Vũ đăm đăm đôi mắt nhìn tôi một cách cảm động rồi kể lể cái đoạn đời "chẳng ra gì" của anh. Đó là một người trong số nghìn vạn người bị kinh tế làm thành ra thất nghiệp. Có một khối óc minh mẫn, có hai cánh tay ưa hoạt động, anh ta nay lâm phải cảnh mà ở trong đó, anh mới tỉnh ngộ ra rằng những câu luân lí: "Sinh ra làm người, ai cũng cỏ bổn phận làm việc", đối với cuộc đời đã thành ra rất vô nghĩa lí, đến nỗi không có lấy một chút giá trị tương đương. Giữa lúc "ưu nhàn bất đắc dĩ", giữa lúc phải lo tiền thuốc cho mẹ ngoài các việc phải chạy gạo từng bữa nữa, anh ta may gặp được ông ấm B... truyền ngón cho để mưu sự sống tạm. Nay, gần thuộc nghề, đã có thể chạy được cả tiền mua cao cho mẹ, anh ta chỉ còn phải lo sao cho mẹ được vững dạ rằng con "đã có việc làm". Cái lòng hiếu của anh ta đã làm cho anh ta hoá ra mạo hiểm? Đây, anh nói: Tôi còn mẹ già mà anh thấy đó. Mẹ tôi chỉ có một mình tôi, goá chồng từ khi tôi còn bú, mà ở vậy được nuôi tôi, không phải là ít công ít của! Nhưng tôi chưa làm nổi một việc gì để báo đáp... Tôi đã nghĩ thiên phương bách kế mà không tính được nước gì nên cùng đồ, phải muối mặt theo nghề này... Tuy vậy, tôi cũng còn may chỉ phải cờ gian bạc lận thôi, chứ giá phải trộm, cướp, giết người mới có cách nuôi sống mẹ tôi, có lẽ tôi cũng đến phải làm cả! Anh tưởng hễ là con bạc bịp thì không ai có mẹ nữa à? Đến đây anh Vũ mới chuyển cái giọng căm khổ sang một giọng khác: Hôm nay tôi đã khoan khoái một chút. Sự ứng đối có ý thức của anh lúc nãy đã có thể... cứu sống được mẹ tôi. Còn việc tôi đã làm cho anh phải ép lòng đóng kịch trong giây lát, xin anh tha lỗi vậy... Rồi anh cười vui. Nghĩ cái đởi anh rõ đáng phàn nàn và cũng đáng thương! Những phương tiện của anh Vũ trong nghề cờ gian bạc lận tôi đã nói rõ, tôi chỉ còn muốn biết quan niệm của anh ta về Cả Ủn với ấm B... Tôi phiền anh ta cho biết tường tận cuộc đời kì lạ với những thủ đoạn của hai người này... Nghĩ một lúc, anh Vũ nói: Ta hãy tưởng tượng đến cái thời mà bọn Ba Sống, Hai Tôm... Vào thời ấy Ba Sống, Hai Tôm là hai nhân vật quan trọng của xã hội. Ngoài việc làm cho "đồng tiền được lưu thông trong xứ", họ còn làm cho bọn tổng lí "đánh mất" tiền thuế bị cách, đám viên chức thụt két bị tù... Ấy là chưa kể rằng những việc của những người trên này còn đẻ sinh đôi, sinh ba ra bao nhiêu công việc cho nhiều người khác nữa. Một ông trùm trong hai ông trên này cũng đã có dưới quyền sai phái đến non trăm tên tạ với hai bác tài. Bác tài nghĩa là... bác tài. Còn tạ là những anh đầu trâu, mặt ngựa, chuyên môn đi đón khách cho sòng, hạng người hai, ba lá mặt, đang mời chào ân cần đấy mà có thể giở giọng thô bỉ ngay đấy, vừa đóng những vai đầy tớ dễ bảo lại vừa là du côn. Chúng vẫn cúi đầu mở cửa xe hơi cho bọn khách cờ bạc mà chủ chúng đã đi lôi kéo ở các tỉnh xa về Hà Thành hoặc vẫn vây quanh lấy những xe tay đón mọi người vào trong "lưới nhện" của chúng. Có đứa chỉ dắt khách để cho khách gỡ lấy cái chết rồi bằng vào số tiền của khách thua mà ăn phần; cũng có đứa ăn lương ngày, lương tháng nữa. Chúng đã giúp hai ông trùm để làm cho xã hội "có việc" nghĩa là giúp trùm ngày ngày phá đổ một toà nhà này để xây dựng toà nhà kia. Trong bọn tạ của Ba Sống, Hai Tôm có một chú Tàu lai trông người rất phúc hậu. Vì lấy vợ An Nam và không bao giờ nói nửa câu tiếng Tàu, đồng bào ta tưởng chú cũng là đồng bào. Có một mụ hàng cơm ở xế cửa nhà cũ vẫn gọi tâng chú là ông phán. "Ông phán" này cả ngày chỉ ngồi đếm ô mai cho vợ trong một cửa hiệu bán đồ vặt rộng không hơn cái lỗ mũi ở phố Cầu Gỗ chứ không từng sớm vác ô đi, tối vác về bao giờ. Nếu mụ hàng cơm thấy trong đám khách nhà mình có kẻ nào có máu mặt một tí là mụ đem ngay mồi đỏ đen ra dử, bảo khách: "Các ông tiêu khiển một lúc cho qua thì giờ" và bảo thằng nhỏ: " Mày sang trước cửa mời "ông phán" sang chơi". Từ cuộc cò con đến cuộc đi gỡ sòng, đối với hạng khéo mơn, không có gì là khó Hai người chỉ có việc thế mà tháng tháng nhận được hàng cọc tiền lớn của Ba Sống và Hai Tôm. Hai năm sau, chú Tàu lai có một nóc nhà. Năm sau nữa, chú có hai nóc nhà. Bây giờ, con trai chú vẫn cưỡi xe đạp luých sơn màu cánh gián đi học "lít xê". Vợ chú thì đậm đà ra, trông như một bà lớn mà chú cũng thành một ông phú hộ Việt Nam. Chú tên là Cả Ủn. Lúc "người giữ cái két lớn nhất của làng b... " còn là một anh tạ, có một cậu ấm sống sót bằng sự đã tìm nổi cách trừ khử những "cái đáng nơm nớp lo ngại là cái đỏ, cái đen trong sự bạc bài". Cậu ấm vẫn tìm một con đường tự lập mà mãi không xong vì chẳng mấy khi có thiếc. Vì thế, cậu phải chạy đến nhà Cả Ủn vay lãi hoặc đem mòng đến đó bắt cho tiện. Nhưng cậu tuy mất công xông pha trên trận tiền mà thường chỉ được nhận có một phần tư số tiền của bọn quých thua. Vì Cả Ủn ngồi vào cản đỡ mất một phần, rồi lại con hắn đứng hầu quanh đám bạc, rót nước, chia lại bài cũng hưởng một phần thứ ba nữa. Công lao của cậu ấm kia thực là công cốc! Cậu ấm tuy có cái tật tiêu tiền như phá nhưng cũng có đức khác: thấy trong bọn anh em có ai túng bấn là lôi ngay vào bàn làm tạ để có một cớ giúp anh em. Trong sự đánh bạc, vì mải để người khác hưởng, cậu chẳng ăn thua gì, dù vẫn nổi danh là tay "thanh". Nổi danh là gì thì đáng mừng chứ nổi danh là cờ bạc bịp thì chỉ có chết, cậu ấm đến lúc lê cái địa vị có người gọi là ông hoặc là cụ, thành thử phải ngồi bó tay một chỗ, đành giữ cái chức cố vấn nhường cho bọn đồ đệ chiến trường. Sau nửa đời người hết cách xoay, đến nay, vẫn chỉ xơ như nhộng. Cậu ấm đó bây giờ là ông ấm B... Cả Ủn với ấm B... hai người "cầm cân nảy mực" cho đảng bạc bịp ở Hà Thành, đối với người ngoại cuộc tuy được coi như hai cánh tay cùng một thân thể thật nhưng một kẻ trở nên giàu, một anh vẫn kiết xác, thì chỉ một lẽ xưa kia hai bên đã cùng nhau chia bùi sẻ ngọt, lăn lóc trong một nghề, chẳng đủ lấp nổi cái hố giữa hai bên. Chung quy, hai ngọn núi cao vẫn cách bức nhau bằng một vực thẳm. Con ơi, con cắt thêm cho đẻ mấy miếng cao ! Lời bà cụ truyền ra, anh Vũ cũng vừa xong câu chuyện. Anh đã thuật chuyện người khác, thế đối với tôi đã là đủ, anh chẳng cần phải nói thêm về chuyện anh. Hôm nay, tôi được biết ba người. Ba người có thể tiêu biểu cho cái tinh thần của làng bịp. Tôi rất vui lòng khi thấy anh Vũ cầm một đĩa cao đầy dâng mẹ, nhưng cũng không khỏi ngẫm nghĩ đến nỗi không có thuốc của người con giai lão già thua bạc ở nhà bồi An. Muốn dò hỏi đến tận đáy lòng một người tri kỉ mai sau của tôi, tôi đánh bạo hỏi Vũ câu này: Anh có hối hận vì chúng mình đã cướp tiền thuốc của con giai người, đem về tiêu xa xỉ và săn sóc cho người nhà mình không? Thì ra anh Vũ đã hiểu được tôi rồi. Vì anh không tỏ ý giận chút nào, chỉ thản nhiên vặn lại tôi: Thế ngộ chúng mình đã thua nó?Chương 5: Bốn Đồng Ngửa SấpÔng Nguyễn Đình Mầu là một tay cự phách trong nghề buôn gỗ. Cái két lù lù như cái tủ áo của ông, lúc thu tiền bán gỗ, ních chặt những giấy bạc, thường khi vì đem tiền gỉn nhà băng mà vơi hẳn. Không những là tay buôn lớn ông lại còn là người nổi danh trong làng chơi. Xuống xóm chị em, chỉ một chầu xoàng, ông thường quăng ra được trăm bạc 1. Đánh bạc, thua năm, bảy trăm, một nghìn, ông nói: "Thế có thấm gì! Cờ bạc cò con!" Hôm nay, uể oải nằm trên chiếc ghế chao, ông có vẻ nghĩ ngợi. Đêm hôm qua, trong lúc cao hứng, ông đã thua một canh xóc đĩa tới đúng một nghìn. Một nghìn tiền mặt với ba trăm tiền "nước bọt" nữa. Tiền "nước bọt", ông tạm vay của một ông nghị ông mới được hân hạnh quen biết, để đặt một cái chẵn cuối cùng rồi rũ áo đứng lên. Ông được quen ông nghị vì anh em giới thiệu: người ấy là một người vừa xin được một cái "péc mi đờ cúp" 2. Kết giao với người như thế, ông cầm chắc sẽ có lợi cho sự buôn bán sau này... Một nghìn với ba trăm, một số tiền ông vẫn cho là "cò con", lẽ nào khiến ông đến phải... nghĩ ngợi? Không ! Ông chẳng nghĩ ngợi gì vì số tiền ấy ông nghĩ là nghĩ đến lời quả quyết của một người bạn thân nói với ông, sau khi hỏi thăm đến chuyện thua bạc: Thôi chết! Bọn bịp nó thịt bác rồi. Người bạn ấy lại cam đoan rằng bịp chính là cái anh chàng tự xưng là "ông nghị". Chỉ một câu này cũng đủ khiến ông dựng đứng tóc gáy lên, như đang lần bước trong khoảng tối tăm mà giẫm ngay phải một con chuột chết vậy. Ông nghị ấy là bịp ! Có lẽ nào ? Thế là ông đâm ra nửa ngờ nửa tin. Người ông mới được quen có thật là viên hàng tỉnh trên thượng du hay không chẳng biết, nhưng cứ cái dáng người bệ vệ, đứng đắn phong lưu ấy cứ sự cùng thua với ông hơn bốn trăm bạc, mà lại bảo là bịp thì có lẽ nào! Thời buổi này, người ta có hàng trăm, hàng nghìn chiếc mặt nạ để đeo vào rồi tha hồ mà "kinh tế", sự cùng thua bạc với mình kia chỉ là một khoé rất khôn ngoan phụ thuộc vào việc xếp cảnh, biết đâu!... Chưa biết quyết nên ngờ hay tin, ông còn hoài nghi, nghĩ ngợi... Đến đây, người vú ẵm cậu con út của ông bước vào. Cậu bé, hai má bánh đúc lại lúm đồng tiền, tuổi chưa đầy lên hai, cứ nhoài người ra, tay mũm mĩm giơ đến phía ông, miệng ấp úng gọi: "Âu! Ậu!... " Chẳng như mọi lần khác, thấy con theo mình thì ông xốc ngay vào lòng để hôn con cho đến phát khóc, phát thét, lần này ông quắc mắt quát người vú: "Ẵm nó ra ngoài kia!" Rồi ông lại tự gặt với mình: thì nghĩ ngợi làm cóc gì? Chốc nữa người ta đến đây đòi tiền, mình sẽ lựa lời đưa đẩy dò xét ý tứ xem sao rồi... nếu quả như lời... thì... cho một vố" Phải, nghìn ba trăm bạc tuy không là bao nhưng là của bị mất, không vì đỏ đen mà lại vì bịp, còn chi đáng tức cho bằng? Cho một vố, tuy định như thế rồi nhưng nói cho cùng, chính ông, ông cũng chưa hiểu rõ rằng "vố" là cái sự gì ông định thi thố đây !... Thôi đi, ông Mầu ơi, ông không phải doạ! Đúng như lời hẹn, cái người ông đang nóng lòng chờ đợi để mong lột hẳn chiếc mặt nạ ra cho rõ đen, rõ trắng, đã đứng ngoài phòng giấy ông đây kia. Bẩm lạy quan lớn... Không dám ạ... Lạy quan lớn, rước quan lớn ngồi. Ông Mầu vội vàng đứng dậy, bỏ chiếc ghế chao, quay vào phía trong: Anh Ba đâu?. Đặt nước chè ! Ấy đấy trước mặt người khách trông rất bệ vệ, sự hấp tấp giữ nghi lễ của ông tỏ răng chưa chi ông đã sắp bại trận. Phân ngôi chu khách đâu đấy rồi, ông Mầu nhìn chòng chọc khách một cách có ý tứ, như muốn nói: "Ông rõ mày rồi. Ông sắp giật cái mặt nạ ở mặt mày xuồng đây.". Còn khách thì vẫn thản nhiên như không để ỷ đến cử chi của ông chút nào. Lúc này, giũa hai người có luồng không khí im lặng rất khó chịu... Vì cả hai bên có lẽ cùng đoán được rằng sẽ có sự không hay xảy ra. Quan lởn đến lấy số tiền hôm qua tôi vay? Bẩm vâng ạ. Ông nghị đáp thế rồi đưa mắt nhìn khắp gian phòng. Thế là cả hai lại ngồi im một lúc lâu, người tìm câu nhập đề, kẻ tìm câu ưng đối. Cuộc "chiến tranh tĩnh toạ" nảy nếu không được đứa đầy tớ bưng ra khay nước chè thì chưa biết bao giờ mới có hồi trống thu quân. Sau cùng ông Mầu đánh bạo : Canh bạc hôm qua, có người đã nói rõ cái lẽ tại sao tôi thua rồi; ngài dạy hộ: bây giờ tôi nên xừ trí với ngài ra sao? Cái vẽ ngạc nhiên ngây thơ của ông nghị nó hiện ra sau câu nói đường đột lạ tai kia, hầu như muốn gọi quỷ thần hai vai soi xét. Thưa ngài, ngài nói gì, tôi không hiểu, ngài nói lại cho nghe? Trước cái thái độ rất bình tĩnh ấy, ông Mầu cũng hơi chột dạ, đã tưởng mình lầm. Nhưng ông cũng liều một phen mà quả quyết: Thôi đi, ngài đừng giả ngây, giả dại nữa. Chính tôi đã bị ngài bịp, tôi rõ mọi khoé của ngài rồi. Tôi... bịp ngài à??? Lấy gì lảm bằng cớ? Tiếc rằng lúc ngài hành động tôi lại không có sẵn cái máy quay phim! Lời doạ của ông Mầu thế mà có công hiệu. Ông nghị chẳng còn đóng nổi cái vai kịch ngạc nhiên nữa, mà vẻ bẽn lẽn hiện ngay trên mặt. Thấy thế công của mình có phần thắng, ông Mầu phóng thêm một mũi thương nữa: Chỗ người lớn với nhau, ông cứ nhận đi là phải. Ông làm nghề bạc bịp thì cũng như tôi làm nghề buôn gỗ chứ có khác gì. Ông có gan nhận, tôi xin phục là người quân tử, nếu ông chối thì chối cũng chẳng được nào mà lại tỏ mình là tiểu nhân. Biết rằng việc mình !ám đã bị người tố giác, lại muốn làm "quân tử" nữa, ông nghị trơ trẽn mả rằng : Vâng. quả có thế... Nghe câu này. ông Mâu sung sướng như một vị quan toà đã khám phá nổi một cái nghi án, cười mà hỏi đùa ông"nghị bịp" : Việc đã vỡ rồi, thế thì bây giờ ông đến đòi tiền tôi hay để tôi đòi tiền ông? Tôi đã coi ngài là người quân tử mà nhận việc tôi làm một cách quân tử như thế, tưởng ngài chăng nỡ nào dùng cách... tiểu nhân đối phó với tôi. Nêu tôi cứ nhất mực chối cãi, không có bằng cớ, thì ngài làm gì? Ngài vừa bảo rằng cái bịp cua tôi cũng là một nghề cũng như đi buôn, được ăn, thua chịu chứ. Thôi. ngài có gan nhận, thế là quân tử, đã đành. Mà tôi van giữ thái độ quân tử, nghĩa là không đòi lại số tiền đã thua. Thôi, xí xoá !... Người đời ai đã làm việc bậy, sau khi bị lột mặt nạ, thường có thói lại làm già cho được đỡ trơ bằng cách thuyết đến nhưng lí luận cao xa, viển vông hay là bỏ đạo đức bằng cách nguỵ biện. Ông nghị này cũng có thói ấy. Bị người đánh mình trúng phải chỗ yếu, ông nghị cũng tìm cách trả miếng vào giữa chỗ yếu kẻ đã quật đổ mình. Tôi vẫn chưa chịu... Được rồi. ngài trả nữa tôi cũng ơn mà không tôi cũng phải chịu thật nhưng đó là đối với người khác tôi mới thế, chứ đối với ngài quyệt không! Làm sao? Tôi đã có cách... Nhược điểm kia, tôi đã nắm được rồi. Ngài tuy là người có máu chơi bời nhưng là người con chí hiếu. Ngài nên biết: tôi sẽ mách cụ bá nhà... ??? Thật đấy! Thì ngài được lợi gì? Chẳng lợi gì cả. Nhưng để cụ biết rằng ngài là người con hư. thế thôi. Ôi cái tâm lí người đời sao mà nó kì lạ! Ông Mầu đem mồi quân tử ra khiến ông nghị phải nhận mình là bịp thì ông nghị lại lấy mồi chí hiếu bắt ông Mầu đã quých lại quých thêm. Hai con cáo già xoay nhau cùng băng luân thường, đạo lí cả. Thì ra dù là bịp hay là lương thiện, ta vẫn bị cái luân thường. cái đạo lí nó thuốc ta. hoặc ta bịp ta! Ta giống mọi người, mọi người cũng giống ông Mầu, lại đến lượt ông Mầu giống ta, chung quy nhất loạt đều để cho cái luân lí, cái đạo đức nó vẫn bịp mình mà không biết! Cho nên sau khi nghĩ ngợi hồi lâu, ông Mầu đứng lên ra... mở két ! Sự không ngờ là ông Mầu lạI trao thêm tiền cho người đã bịp mình một cách cảm động nữa, và thêm: Ba trăm bạc là qụý nhưng gặp một người... tri kỉ cỏn quý hơn. Tôi chẳng chịu mang tiếng tiểu nhân với ngài. Ông nghị cầm lấy tiền: Dù sao tôi cũng biết phân biệt những ai tiểu nhân, những ai quân tử ở đời. Chúng ta còn nhiều phen gặp gỡ. Rồi ông đẩy ghế, đứng lên. Nhưng ông Mầu giữ lấy vạt áo ông nghị, cười mà rằng: Khoan đã!.. Đệ đã được rõ cái tài của huynh đâu! Ông nghị cũng bật cười, lại ngồi xuống. Hôm nay, ông Mầu mới được dịp đặc biệt rõ rằng bốn đồng tiên giấy tuy là những vật vô tri vô giác thật, nhưng ai để công luyện tập công có thể sai khiến nó cứ lộn tung trong cái bát cái đĩa, rồi úp sấp hay lật ngửa theo như ý muốn của mình... Khối óc của người ta còn có nhiều phen nghĩ cách chống lại được cả tạo vật biến đổi được cả cơ giới, lẽ tất nhiên chẳng khi nào người ta chịu để yên cho bốn đồng tiền giấy kia được tự do úp sấp, lật ngửa. Cái công dụng cua sự sấp, ngửa kia lại còn to tát đến nỗi tuỳ nó, người ta phải bán nhà, cầm ruộng, hoặc là được tậu ruộng, cầm nhà thì tìm cách sai khiến được đồng tiền cho tuỳ theo ý muốn, khó đến thế nào nghĩ cũng phải ra. Vào khoảng trước năm 1900, có một tên tạ của trùm Ba Sống sáng kiến được lối đánh xóc đĩa đòn kim. Anh này dùng một cái đĩa lồi lòng với một cái bát trông tưởng là sâu nhưng chính ra lại rất nông, vì nó dày gấp đôi thứ bát khác. Cuốn "Sự đổ bác" nếu chép đến đây tất phải dùng đến bốn tiếng "thời đại bát thửa" vì các lò bát hồi ấy thỉnh thoảng lại được tiếp một người đi giày Tàu, vận quần áo lụa, đến thửa một chục bát đong chè lòng rất đầy bằng một giá khá cao. Đòn kim là thứ đòn rất dễ ăn vì nó bắt canh bạc cứ rền tràn. Đợi lúc mọi người đã nóng mặt, canh bạc đã có vẻ xô xát, lúc ấy bọn tạ mới dàn quân cản trở, một anh sà vào đắt một tiếng chẵn hay lẻ bằng một cuộn giấy bạc tướng, hung hăng mở bát, ném hẳn cái bát ra tận cuối... thế giới đằng kia! Người ta không ai còn thì giờ để ỷ nữa, vì tôi thua thì tôi cỏn ngẩn người ra tiếc của. Ông được thì ông cũng chỉ biết chúi mũi xuống chiếu, hò hét giam tiền. Lúc hổn loạn ấy là lúc họ tráo cái bát thửa vào và đã giấu biến hẳn cái bát cũ kia đi. Địa vị cái bát thửa chỉ được người ta coi trọng trong một vài năm, sau vì thấy lợi, thiên hạ ùa nhau vào trọng dụng nó quá, làm nó dậy tiếng quá nên nó phải chịu cái số phận chết yểu. Một anh tạ khác, dưới quyền Hai Tôm lại sáng kiến được ngay lối đánh xóc đĩa đòn ve, thay vào đòn kim. Người ta lấy năm, sáu viên bi ở trong bánh xe ô tô bỏ vào trong cái túi khâu kĩ lưỡng, buộc giậu ở cổ tay. Lúc xóc, người cái nghiêng đĩa cho bốn đồng tiền giấy bị cặp chịt vào miệng bát cho không "cựa cậy" được nữa. Ai cũng tưởng tiền vẫn dậy đó những tiếng kêu tanh tách mà mọi người tưởng tiếng bốn đồng tiền trong bát đĩa, chính lại là tiếng kêu của những hòn bi trong cổ tay người xóc. Cho nên ta phải ngạc nhiên khi thấy rằng ông này đánh xóc đĩa cao quá, bán hàng chục bát không thua bát nào cả, hoặc canh bạc ấy rất quái lạ, đúng 20 tiếng chẵn rền! Có cái thuật này rồi, bọn bịp cứ tự nhiên vơ tiền bỏ túi sau khi phán: lẻ về, bán chẵn, bán lẻ, thừa chẵn, thừa lẻ. Tinh ma hơn nữa, còn có người có "hoa tay" đến nỗi vừa xóc vừa dòm trộm vào trong bát, đánh mười tiếng cũng trúng cả mười: dủ đã nghi mà rình mò, mà tuần thật kĩ, cũng đố ai khám phá được ra. Ông nghị đã thịt ông Mầu bằng ngón đòn thứ ba này vậy. Nhưng ông nghị đã bày trò cho một tay sai của ông giở đến đòn trinh thám kia, còn mình trong lúc ấy, lại vào hùa với ông Mầu, củng đánh với ông. Cho nên đánh bạc đã già đời đến như ông Mầu mà còn bị cho vào xiếc. Ông nghị kể trên nào phải ai xa lạ. chính là ông ấm B.. Còn người cho tôi được rõ thủ đoạn "tàng hình" với "chính khách" của ông ấm... là kí Vũ. Vào hồi Tự Đức, tỉnh Hải Dương với Bắc Ninh có giặc Cai Vàng. Đồng thời với giặc Cai Vàng, nước ta còn bị bọn giặc Tam Đường là bọn giặc Tàu tràn sang quấy nhiễu. Bọn Tam Đường lại có thể là lính được, nếu triều đình nước nhà biết cách dùng họ. Dân gian đều có ý ấy và dần dần ý ấy thấu đến tai vua. Tại Hưng Yên có mọt vi quan huyện muốn hấng lấy cái trọng trách mộ bọn khách Tam Đường. Tiền trong công khố chẳng đủ, quan huyện tìm cách... kinh doanh. Quan nghĩ ngợi trong ba hôm, đến hôm thứ tư, sai lính trải chiếu la liệt khắp sân huyện đường cho dân tự do mớ bát. Canh bạc ấy có thể bảo là không tiền tuyệt hậu ở đất Nam. Hồ lì là một thầy đề, xóc cái chính là quan huyện. Con bạc gồm đủ ta lẫn khách, đánh phần nhiều bằng bạc nén. Thoạt đầu, quan chỉ bán chứ không mở. Canh bạc đã thấy xô xát, quan mới đứng dậy, để cái chức xóc cho một người dân. Quan lảng vảng ở ngoài, có ỷ dò thế trận. Hốt nhiên quan vào mở một tiếng, thua to! Mặt quan tái như gà cắt tiết. Rồi quan bảo thằng người nhà trông hộ bát, đi phóng uế một lát rồi vào. Lúc vào quan hò cả làng đặt tiền ra xong, cầm ngay bát chực mở.. Cả làng xúm vào kêu quan chưa xóc nhưng quan nhất định là đã xóc rồi. Lần mở trước, quan kêu là chẵn đã phải giam. Thấy quan lẫn, cả làng lại xô nhau vào đánh chẵn. Mấy chú khách thương hại quan đã quá thua nên lẫn, quả quyết là quan chưa xóc. Nhưng quan vẫn nhất mực là đã xóc, họ bực mình, ra điều "đã muốn chết thì cho chết", ồ ạt cá nhau đặt tiền và chiếu chẵn. Quan cầm bát vừa mở vừa kêu: lẻ về! Rồi quan vơ hết cả những đồng nén bạc vì... lẻ thật, thế có lạ không? Cả làng ai cũng lấy làm kinh ngạc. Không ai đoán được rằng lần mở trước, chính là lẻ nhưng quan đã xướng lên là chẵn rồi úp bát ngay, giam tiền. Quan đã đánh vào chỗ yếu mọi người là cái lòng tham. Đòn này ta nên gọi là đòn hiệp sĩ mới phải. Hôm sau, quan có đủ số bạc nén để mộ bọn giặc khách vào làm lính, phái đi đánh giặc Cai Vàng! Đòn hiệp sĩ này, nhiều người ngày nay còn chép cũ. Những người ấy tuy không dùng đòn để xoay tiền dùng vào những việc hiệp, nhưng hầu hết là bọn người gọi là thượng lưu.Chương 6: Ruột Quân Xúc XắcNếu có ông thánh số học tính được từ độ số ngôi sao mà khi trả tiền xe lúng túng mãi không xong cái tính cộng, nếu có nhà sử học đại tài mà tường thuật đám ẩu đả sai, thì cũng có ông thạo làu làu ngón bịp mà chung thân vẫn mắc đủ ngón đòn. ông ấy là một ông chú họ. Đã giới thiệu cùng độc giả ông chúa nghề bịp, tôi lại muốn độc giả làm quen với một ông chung thân là "con bò vắt sữa" cho tụi ông ấm B... Cái máu đánh bạc của ông chú tôi không hiểu nó pha chất đỏ, đen thế nào mà mỗi khi đá động đến ông, ai cũng phải lắc đầu mà phê một câu... "bút khôn xiết tả!". Làm cho nhà nước lương tháng đã tới hơn hai trăm đồng ông thường bắt vợ, mới vào ngày mồng 10 đầu tháng trở đi đã phải chép miệng: "Túng quá! Nhà không còn lấy một xu" ; Bình phẩm ông, những người quen thuộc đã ban cho ông cái đức lớn: lột áo người sống, bán áo người chết. Vì đã có lần vào lúc ông mải "gỡ" một ông bạn thân (thân lắm!) đến chơi với ông đã bị ông mượn cái áo mồi đem lên Vân Bảo 1, để bạn cứ phải nằm dài đến nửa tháng chờ áo ở nhà mình, lại có lần nữa, bên láng giềng có người chết, tang gia giữa lúc bối rối đem tiền sang nhờ ông đi hộ cỗ ván, ông cũng có gan đem ngay sô tiền "cắt cổ" ấy đi nướng đến tong hết! Ông chỉ biết hễ hôm nay có tiền là phải đi đánh bạc cho thua nhẵn nhụi ngay, chớ ngày mai có còn gạo hay không là ông không cần biết. Ngày nào vợ ông cũng nói ông như xẻo từng miếng thịt một mà ông cũng vẫn sống được bình tĩnh như mọi người. Hôm nay, tôi tìm đến ông, có ý muốn làm một điều hữu ích cho ông muốn nói rõ cho ông ráng bây giờ, người ta đánh bạc không đỏ đen nữa, muốn... Tôi bị một chuyến tẽn! Ông chú tôi, nửa đời người lăn lóc trong trường đời đổ bác, đã thạo lắm, không để cho một ai thịt nữa rồi! Nghe giọng ông, tôi phải tin rằng ít ra ông cũng có sự đụng chạm thân mật với ông ấm B... Ông cắt nghĩa cho tôi hiểu những sự tôi đã thừa hiếu rằng: "Ấm B... tên tục là Tư Quân, trong khi giao tiếp với bọn bồi bếp còn có tên là ông Cửu và trong khi giao tiếp với hạng thượng lưu lại là ông nghị. Ngồi với các ông thâu, ông huyện, ấm B... thừa tư cách nói chuyện: tên này chạy chánh tổng như thế, tên kia chạy li trưởng như thế... Ngôi trong đám trếch, ấm B... cũng đủ cái thạo đời nói những câu: món nui 2 này phải làm thế này mới khéo, hầm một con ngỗng phải có ngần ấy típ 3 mới thật ngon... "Ấm B... còn một bọn đồ đệ thuộc đủ hạng người: Cá Sinh, chủ ả đào; Đại Thiềng, chủ hiệu giày; Khương Sinh Từ, trùm du côn; Mỹ Bối, chủ hiệu vàng bạc, vân vân... Ngần này hạng người đủ trong các giới chỉ quanh năm ngày tháng làm cái việc bắt móng cho ông. Có thể nói rằng những cuộc rối loạn xảy ra trên khắp mặt địa cầu phần nhiều do cái bàn tay bí mật của Mạc Tư Khoa gây nên thì những cuộc liểng xiểng của bọn thờ "chủ nghĩa đổ bác" ở khắp Bắc Kỳ ta cũng đều do cái bàn tay bí mật của ông ấm B... dính vào vậy. Hơn hẳn Staline về một phương diện, ấm B... đã đặt cho toà nhà mình ở phố Hàng Cá là "kinh đô của đảng bạc bịp" trong khi Staline chưa được lúc gọi: Moscou, capital du monde 4. Ấm B... ngã vào đâu cũng có thể "giựt" nổi trăm bạc 5. Những người giữ việc tài chính cho ông ta, vì nghề như Cả Ủn cũng có, vì lòng nghĩa hiệp cũng chẳng phải là không. Thí dụ: ông Nguyễn Dình Mầu!Ngoài ra, lại còn bao nhiêu: me tây, cô đầu hàng xáo nữa... Ô hay! Thì ra ông chú tôi cũng đã rõ gần khắp mặt! Thế mà còn có người bảo ông vẫn quých, vẫn bị cho vào xiếc thì có lạ tai không? Tôi hỏi trong sự cờ bạc, cái ngón sở thích của ông vào bậc nhất là chơi gì. Ông kể lể rằng: Trạc xếch! Tài bàn, tổ tôm, xóc đĩa, bất, lì xì, cái gì họ cũng bịp được tuốt ! Chỉ có món trạc xếch là không anh nào giở nổi lối bịp mà thôi. Tôi gạn xem ông có dám quả quyết như thế không, ông đáp rằng rất có thể quả quyết được. Nghe ông kể cũng co lí. Trạc xếch là món chơi mà người ta xâu xé nhau bằng ba quân xúc xắc cầm trên tay rơi xuống một cái bàn để cho nó dậy bằng tứ, ngũ, lục hay là nhất, nhị, tam. Sự được, thua của lối chơi này cũng như sự may: sấp, ngửa, chẵn, lẻ của xóc đĩa vậy. Có điều lối chơi này nhiều người đã phải nhận rằng nó "chính đại quang minh" hơn cả vì khác hẳn với xóc đĩa còn có bát úp, lối chơi này, ba quân bài cầm trong lòng bàn tay gieo xuống bát, cả làng nhìn chòng chọc, thì có hoạ thánh hay thần mới bịp được mặt người ta. Tôi lại hỏi xem người vẫn cùng ông húc với nhau là ai thì ông kêu: một ông tham làm ở sở Canh nông tên là Ngọc. Tôi đứng dậy cáo thoái, bụng nghĩ: "Thôi chết rồi... " Đoạn tôi ra đường, gọi xe, lên bảo phu kéo đến phố Hàng Cá. Trong khi ngồi trên xe, tôi lẩn thẩn nghĩ ngợi mãi: Quái! Chú tôi đã rõ hết nhân vật quan trọng cửa làng bịp như thế mà lại còn thua là tại làm sao! Có lẽ vì tại nghe nhiều hơn mắt thấy nên vẫn bị cái nạn ông tham Ngọc cho vào tròng. Có người biết đến rõ mười mươi rồi cỏn bị bịp, huống hồ chỉ mới nghe hơi! Vừa bước chân lên sân gác toà nhà ông ấm, tôi bị ngay ông ấm... vồ! Chưa lần nào ông lại tiếp tôi một cách vồ vập đến thế. Ông kêu cuống quít: Rõ may một cách lạ! Đang mong ông đang muốn đi tìm ông! Lần này có một trận "cho" chơi nhau hàng trăm viên đạn một. Mà lại chính tôi ra trận, ông có thích được mục kích cái tài cầm quân của tôi không? Tôi hói: Đi đâu? Đánh gì? Ông ta: Trạc xếch. Trạc xếch! Cái món mà tôi đang ước ao rõ nhưng ngón bịp! Rõ khéo gãi vào chỗ tôi đang ngứa! Hồi tháng giêng, hai năm nay, cái đoàn thể làm đồ trang sức ở phô Hàng Bạc được cái nạn kinh tế cho phép sống một cách ưu nhàn. Đồng tiền xứ này không hiểu có cánh và đã bay mất đi đâu chẳng rõ, làm các cô thiếu nữ tân thời phải vì cảnh bó buộc chán những đồ tư trang bằng vàng thật và ưa chuộng nhưng đồ của Pháp tải sang. Một đoá hoa tai "kim cương", một vài đôi vòng "ngọc" hay vòng huyền giá tổng cộng đáng non 10 đồng đã có thể thay những xuyến, hoa, chuổi hạt vàng đắt hàng trăm bạc. Muốn làm gái mới không phải trá đắt. Thành thử giữa lúc hầu hết mọi người trong xã hội nguyền rủa cái nạn kinh tế thì riêng các cô gái mới lại dường như muốn thắp hương lên chúc tụng nó, mong cho nó cứ ở xứ này mãi để cho chị em chẳng cần phải đeo vàng như đắp mới là sang! Cả bộ mẽ trưởng giả hoặc trưởng giả giả nó cũng phải uốn theo luật đời kinh tế mà trợt bớt những nước sơn vô ích... Nhưng những kẻ sống vì nước sơn trưởng giả ấy, các ông thợ bạc chẳng được hài lỏng. Không có việc, mấy ông trong đoàn thể phái chịu bó tay, sống nhàn. Nhưng cái dạ dày của con người ta, khốn nỗi, nó lại không chịu ưu nhàn như hai bàn tay nên mấy ông phải kiếm cách cho nó "có việc". Nhàn cư vi bất thiện, cái nhàn của bản tay, khôi óc đã có thể làm cho người ta bất thiện thì cái nhàn của cái dạ dày còn nguy hiểm hơn. Mấy ông bèn đem môi đỏ đen ra lảm sinh kế. Giữa lúc này, có hai vợ chồng chú khách bán lê, táo ở phố Hàng Buồm, sau vụ tết Nguyên Đán rất phát tài có lẽ thấy trong hòm nhiều bạc quá mà phát ngột cũng ngứa ngáy tìm cách chơi xuân. Vì thuộc hạng trung lưu, không đủ tư cách vào những sòng phán thần sát phạt với những đồng bang của mình, vợ chồng chú đành phải chơi "cò con" với bọn dân Ố Nàm 6 ta vậy. Không tiện rút bất, đánh tổ tôm, tài bàn, cũng không tiện mở bát, Việt Nam với Trung Quốc dùng trạc xếch giao chiến với nhau. Người Tàu rất có tài buôn bán cả thế giới đã phải nhận như vậy. Nêu đánh bạc cũng được gọi là buôn bán thì về sự "buôn bán" người Tàu cũng dễ phát hiện hơn ta. Lẽ này, vào lúc mấy ông thợ bạc đánh trạc xếch với vợ chồng chú khách buôn lê, lại càng rõ rệt lắm. Những tay rích 7 mới có dăm canh đã bị lột trần. Mọi người rất căm giận Thần đò đen không sao được cho nên vào hồi ấy, nếu ta đi qua phố Hàng Bạc vào lúc tôi, ta thường thấy mấy ông thợ bơ phờ, lảng vảng, lượn quanh với nhau. Người này hỏi: Thế nào Người kia: Hiện quyên hình rồi! Chó quá, lại trần như nhộng! Lại một người khác: Cái thằng Cắm ấy nó có Thần phù hộ à? Khi nào mình chịu thua mãi như thế? Tất cả... xoay! Đánh bạc chỉ cốt thịt người ta mà càng húc bao nhiêu lại càng tổ cho người ta thịt lại, cái lẽ phải xoay là lẽ tất nhiên. Lúc đâu, mấy ông thợ bạc cũng xoay đấy, nhưng trong cái ngón xoay còn thấy sặc lên những mùi mê tín về quỷ thần, thiên địa nên chỉ không công hiệu mấy là phải. Thấy vợ chồng chú khách canh nào cũng được, lại sẵn cái quan niệm rằng dân Tàu có thờ thần tài quyền linh thiêng vô hạn, mấy ông thợ bạc không cho lẽ thua được là do đỏ đen nữa, quyết đoán là vợ chồng chú được Thần phù hộ cho. Họ cho rằng cần phải làm Thần mất thiêng thì mới mong "mở mặt" lên được. Vợ chồng chú Cắm lại ở chung nhà với một người thợ cũng là tín đồ thành kính của "đạo Đỏ Đen". Trước khi hai vợ chồng lôi nhau đi dậy hoá thường vẫn thắp hương lên khấn vái trước bàn thờ thần tài một cách giấu giếm. Không biết ai truyền cho ngón tinh ma, một hôm người thợ ở chung nhà với chú thừa lúc nhà vắng, đem cắm ngay một cái đỉnh to vào bát hương cho mất thiêng thần. Ngẫu nhiên buổi tối hôm ấy, vợ chồng chú nọ thua to. Sự bại trận ngẫu nhiên kia chỉ có chốc lát thôi nên chi phái thợ bạc mới được có một tối cười thì tối hôm sau lại khóc. Anh nào cũng nhẵn nhụi, cả bọn họp nhau lại ở hiệu phở Trưởng Ca, bàn... Tao cắm đinh vào bát nhang nhà nó là vì có một lão thầy bói bảo như thế đấy, tối hôm ấy nó chả thua hai chục bạc là gì? Vẫn thế rồi nhưng chính sách ấy có bền đâu? Hay là mấy hôm nay mày đã quên cắm đinh vào bát? Mày hay quên sao không cứ việc để cái đinh ở đấy? Ngu lắm! Thế ngộ vợ chồng nó biết, nó đề phòng thì dùng cách gì về sau? Nhưng quả thật tao không quên mà! Dễ thần nhà nó thiêng lắm thật... Thôi đi, các anh là đồ ăn hại! Cả bọn im phăng phắc quay lại nhìn một người. Người này chính là lão Mỹ Bối, thân thể to lớn khổng lồ, một tay nhiều thủ đoạn nhất, vì khối óc là một pho sách lớn chứa những ý nghĩ tinh ma... Lão nhồm nhoàm nhai ngấu nghiến bốn, năm miếng thịt bò tái, sụp soạt húp ba, bốn thìa nước phở, nuốt chửng đánh ực một cái, chờ cho cử toạ thật chú ý vào lão hết sức, đoạn mới ban rằng: Chỉ có cắm một chiếc đinh vào bát nhang thì làm thế nào cho thần tài nhà nó mất thiêng được mà cũng tin một cách ngu ngốc như thế? Đây này, tao có một lối đạc biệt do một thầy phù thuỷ tiểu chú 8, hễ làm đến là thằng Cắm bỏ mẹ thăng Cắm ngay... Cả bọn nhao nhao: Thế nào? Thế nào? Lão Mỹ Bối điềm nhiên: Phải pha mùi ô uế vào mới được... Chẳng việc gì phải gây sự với thần tài nhà nó, anh em cứ việc chờ lúc vợ chồng nó đang đỏ, ta... vặt một cái, bó lên đầu nó thì... ôi thôi... ôi thôi !!! Cả bọn cười ầm lên, thích chí: Ừ, phải đấy! Ha ha ha ha! Nhưng thế thì... chó thật! Một "quan hàn" 10 hàn nhẫn, hàn vòng, hàn hoa tai lúc bấy giờ gập đôi người lại, áp cả bụng lẫn ngực xuống bàn phở, không dậy được nữa, trán, má với mũi nổi lên đặc những vết nhăn... Phải gió chăng? Ngộ độc chăng? Không! Đó là "quan hàn" cười! Hôm sau, quả nhiên ngón đòn vặt nó có tính cách về siêu hình học, thần linh học, tinh thần học hay cai gì học không biết, đã cho phái thợ bạc được một bữa bở: vợ chồng chú Cắm lại thua! Lão Mỹ Bối cũng được một phen cười ha ha. Nhưng cuộc đắc thắng ấy cũng không bền, vài hôm sau nữa, các ngài thợ bạc lại thua. Kẽ nhiều tiền nhất đã hàng trăm, người ít tiền cũng đã thua hàng chục. Trong một cuộc họp bàn để kiếm một cách chắc chắn hòng gỡ, lão Mỹ Bối đã nghĩ đến ông ấm B... Lão ta tuyên ngôn: Các anh em cứ yên tâm mà. Ta dùng cách mê tín không xong thì ta đã có cách cầu cứu đến... khoa học ! Không! Sây ửng lục pa toòng!. Tỉu nà ma nị Tỉu nà ma nị ấy có được không. Cả bọn cười ồ vì thím khách đã trộn thành một món "hẩu lốn" cả tiếng Tàu lẫn tiếng Việt Nam. Ở nhà lão Mỹ Bối, trên hai chiếc chiếu, một chục con Tiên cháu Rồng quây tròn nhau thịt vợ chồng chú Cắm. Ông ấm B... mái tóc hoa râm, cặp kính trắng đạo mạo, mỗi lần gieo ba quân xúc xắc xong lại hói: Tứ ngũ lục hay nhất nhị nam đây? Rồi ông ngồi thừ người ra, nhìn vợ chồng chú khách. Ông ấm đen một cách lạ! ông đã vào bè với vợ chồng chú Cắm, đánh chung lưng với vợ chồng chú, lúc đặt ba đồng, lúc năm đồng, lần nào cũng thua! Trong lòng một cái bát "chân tượng" để vào một cái nắp tráp đầy những gạo, ba quân xúc xắc cứ việc mặc sức nhảy múa cho phái thợ bạc vơ tiền. Ông ấm lắc ba quân trong lòng bàn tay bảo vợ chồng chú Cắm: Tôi góp hai đồng, chú đặt thêm bao nhiêu? Chú: Pa toáng. Thím: Hai đồng thôi! Ông ấm "phẩy nhẹ" một câu: Ấy đấy! Cờ bạc mà cứ gàn nhau thế thì thua chết đấy! Im cái mồm ni đi nhé... Tỉu nà ma. Pảo khôông nghe cho chết! Ông ấm lại giục: Nảo thế nhất nhị nam hay tứ ngũ lục. Sây ửng lục! Chú Cắm quát xong gườm gườm nhìn vợ, không cho vợ nói nữa. Ông ấm gieo. Quân bài nhảy múa trong bát, chú Cắm miệng khấn lẩm nhẩm như gọi hồn người chết: "Sây ửng lục, sây ửng lục... lục, lục, lục! Đã hai quân phô mặt nhất ở bát rồi. Còn một quân vẫn cứ quay tít như con thò lò vậy. Tiếng hô lục, lục của chú Cắm vùa dứt thì quân xúc xắc phô lên mặt: tam! Chú ngồi thừ người ra, có lẽ nghĩ ngợi rằng: "Thần tài của mình đi đâu mất rồi nhỉ? Đánh hơn hai chục tiếng chẳng được một tiếng nào!" Thím Cắm rít lên: Thôi đi về ! Thua sáu chục rồi... Quên cả mình là dân con trời 11, thím nói vanh vách tiếng Việt Nam. Cả phái "quan hàn" rầm rộ lên: Đánh lúc nữa đã! Ông ấm đứng lên: Thôi, đến mai vậy, hôm nay đen lắm. Tôi cũng thua ngót ba chục bạc. Thế là tan. Hai chú thím Cắm với ông ấm ra về, bọn thợ bạc ngồi lại. Ông Mỹ Bối đã được lúc hỏi anh em một cách rất đắc chí: Các anh đã biết cái lợi của "khoa học" chưa? Mọi người xô nhau vào, tranh nhau cầm lấy cỗ xúc xắc đế ngắm nghía. Có hai quân lạ nhất, gieo thế nào nó cũng chỉ dậy nhị với tam thôi. Thật chẳng khác một con "bất đảo nhi" (poussa) nhựa có đổ chì ở chân mà bọn trẻ con mua đế ném chơi khắp nhà cho nó đảo đồng đảo địa lên một hồi lâu rồi lại ngồi nhỏm dậy vậy. Ông ấm ra đi chưa được mười phút đã lại quay vào. Cả bọn kính cẩn đứng lên như đối vơi một vị anh hùng cứu quốc. Ông nói đùa: Ta thắng trận này là lần thứ nhất trong cái chiên kỉ "Hoa Việt chiến tranh". Rồi cá bọn xúm nhau lại chia tiền. Ông Mỹ Bối phàn nàn hỏi ông ấm: Sao nó đang muôn húc ông lại đứng lên? Thôi đừng làm già tay quá mà dễ lộ. Cứ để nó đấy, lúc nào mình muốn nhét đất thó vào lỗ mũi nó mà lấy tiền thì cứ việc... chứ có gì khó đâu ! Một người khác thêm: Hôm nay có lẽ vợ chồng nó sẽ đập vỡ bát hương cúng thần tài ! Khác hẳn lối đánh đòn cắm đinh là cái ngón huyền hoặc với cái đòn vặt lông nó có tính cách đểu cáng vô cùng. Ông ấm đã dùng phương pháp khoa học Thái Tây. Sách vật lí học dạy ta rằng: bất cứ vật gì, cái trọng lực trung tâm đem kéo nó xuống dưới thì không bao giờ đổ được. Thuỷ ngân là vật vừa nặng vừa lỏng, dùng được vào việc này. Quân xúc xắc kia, nếu ta để no quay cuồng tự ý, có thể nó làm ta mất nghiệp được. Ta phải bắt nó lật tuỳ theo ý muốn của ta. Thì ta đổ thuỷ ngân vào ruột nó chứ có khó gì? Ông ấm B... đã nghĩ thế và đã làm thế. Cái chỗ khoa học ấy không có gì là lạ cho lắm, chỉ có cách ra, cách vào của ông ấm mới đáng phục về phương diện "mĩ thuật" thôi. Gặp cỗ bài to nhỏ thế nào, ông có thể bắt nó dậy nhất nhị nam hay tứ ngũ lụcđúng như ý muốn của mình. Ngoài cách dùng bài ruột thuỷ ngân, ông còn có quân lưỡng diện nữa. Nghĩa là thứ xúc xắc sáu mặt chỉ có toàn là tứ ngũ lục hoặc nhất nhị nam thôi. Thỉnh thỏang mới ra một "phát" rồi lại vào ngay, ông không cho ai kịp để ý nghi ngờ. Cái bàn tay của ông thật là cái máy rất tài tình khéo léo. Hôm qua, tôi đã được mục kích chính ông quân sư của đảng bạc bịp trổ tài. Tự nghĩ thầm: đồ đệ của ông cũng đã nguy hiểm, huống hồ lại chính tay ông... Muốn làm thoả mãn cái tò mò của tôi, ông đã giở ngón cho tôi xem và lại hứa thêm rằng: Ngày mai, tôi sẽ dắt ông đi thăm "xưởng chế tạo khỉ giới".giở ngón cho tôi xem và lại hứa thêm rằng: Ngày mai, tôi sẽ dắt ông đi thăm "xưởng chế tạo khỉ giới".Chương 7: Xưởng Chế Tạo Khí GiớiÔng ấm khẽ gõ ba cái vào cửa, dõng dạc hỏi: Ba Mỹ Ký 1 có nhà đấy không? Tôi đứng sau ông ấm, chờ. Nhà này là một căn nhà tồi tàn, nhỏ hẹp ở trong ngõ Trung Yên, Hà Nội. Mấy tiếng guốc lộp cộp trong đêm khuya vang lên, cánh cửa hé mở, một cái mặt người ốm ló ra... Á ông Nghị ! Rước ông vào nhà... Người ấy nói đoạn, mở rộng cánh cửa. Bấy giờ tôi mới nhận ra là bác Ba Mỹ Ký, một người trong vòng ba mươi tuổi, thân thể gầy rạc như xác ve, hai vai so lên gần đến mang tai, vừa đứng vừa run trong một tấm chăn bông vải nâu màu đã xám xịt như cái khăn lau trường. Chúng tôi bước vào, bác ta đứng lại đóng cửa kĩ lưỡng, rồi quay vào trải một cái chiếu mới lên bộ giường mộc. Người Tây Phương, khi đang vận robe de chambre 2 mà phải tiếp khách lạ là vội lấy quần áo tử tế để thay ngay. Có khách lạ, cũng biết giữ lễ, bác Ba Mỹ Ký cũng thay cái chăn bông nâu đó là robe chambre của bác, xong lấy một chiếc pardessus 3 kiểu tối... cổ thay vào. Đoạn bác hỏi ông ấm: Có việc gì mà... rồng lại đến nhà tôm thế này? Đem ấm nước với cái điếu ra đây, em ! Em đây là một cậu ngồi cắm cổ xuống một cái bàn kê tận phía trong kia, đang lúi húi làm gì, tôi cũng không để ý. Thấy anh gọi, cậu này đứng lên, cầm bộ đồ nước, cái điếu đem ra hỏi anh rằng: Thế anh đã tô xong chưa mà để vung vãi ra thế này? Bác Ba Mỹ Ký đáp: Chưa, cứ để nguyên cả cỗ đấy, chốc nữa tao làm. Từ lúc vào chưa nói câu nào, bây giờ ông ấm mới hỏi: Thế nào? Đám xì ở Hàng Kèn vừa rồi có ăn thua gì không? Bác Ba Mỹ Ký cười: Kể cũng ăn thua khá đấy, nhưng vì một nỗi là tạ đông quá, chia năm xẻ bảy đi mất, tôi còn được có bảy đồng. Thôi, kinh tế này, thế đã là may... Chỉ đủ tiền trả ngót hai chục thang thuốc. Thế vẫn chưa khỏi à? Đến đây, bác Ba nhăn mặt, lắc đầu: Chưa! ông lang bảo là ho kinh niên! Rồi bác sù sụ như một ông lão tám mươi sặc thuốc lào vậy. Ba Mỹ Ký, cái tên này tôi nghe thấy như là hơi quen, dễ là vì ông ấm đã có nhắc đến, lần đầu mà tôi lại cái nhà ở ngõ hàng Cá với anh Vân, khi ông ta lẩm bẩm nói tới việc phái binh đi phố Hàng Kèn. Bác Ba ta có bộ tóc để dễ đến mấy tháng nay chưa xén, dù ai quých đến đây tất cũng phải biết ngay là một tay bạc bịp đã lũa. Nếu cứ phô cái hình thù ấy mà bịt được mắt mọi người thì thật bác phải là có "thánh cho ăn lộc" mới được, vì người không còn một vẻ gì là sang. Tôi đã lấy làm ngạc nhiên, lại sốt ruột nữa. Vì ông ấm đã nói: "Nào, ta đi thăm xưởng chế tạo khí giới" mà đến đây, tôi vẫn chưa hiểu câu nói ấy có ngụ ý gì... Bác Ba Mỹ Ký lại hỏi: Có phải tiên sinh đến lấy đồ đấy không? Ông ấm: Chính thế, với lại đến thăm bác nhân thể. Xin đa tạ... Bác Ba Mỹ Ký nói đến đấy, thấy lộ vẻ bứt rứt ngẫm nghĩ trù trừ mãi, rồi hỏi ông ấm: Thế quan anh cho đệ được biết: ông này là... thế nào? Cái ông ấm vô ý tứ này bây giờ mới vội: Quên đi mất... Rõ nỡm!... ông này là một ông rất có cảm tình với làng b... ta. Đất rất nhiều, rất sộp ! Tôi nghe mà ngượng. Không phải ngượng vì được liệt ngang hàng với hạng người như Ba Mỹ Ký nhưng vì, nói cho cùng, chính mình đã được nhiều dịp chia tiền với ông ấm, mà chưa từng có đất nào để mách ông hoặc đồ đệ ông đi "chinh phục" cả! Ông ấm nói thế vội đứng dậy, ra hiệu cho tôi đi theo ông đến phía cái bàn. Ba Mỹ Ký cũng vội xốc lại cổ áo, theo chúng tôi. Cậu bé lúc nãy mang ấm, điếu ra để anh tiếp khách, lúc này đang ngồi cần cù cầm ngọn bút lông mèo mới, chấm vào một cái đĩa đựng ít sơn đỏ rồi tô lên mặt một quân xúc xắc. Ông ấm hỏi: Bài siêng đấy chứ? Ba Mỹ Ký đón lời: Không, lưỡng diện đấy chứ có phải siêng đâu! à, cụ ạ, tôi mới có một cỗ thuỷ ngân đẹp một cách lạ !... Để tôi lấy cụ xem nhé... Rồi bác lôi cái ô kéo, lấy ra một cái hộp sắt tây to tướng và bảo: Có lẽ ta ra giường tiện hơn. Thế là chúng tôi lại quay ra chỗ cũ. Cúi xuống gầm giường lấy một cái nắp thạp đầy những gạo bên trên có một cái bát "chân tượng" lên, dọn dẹp điếu, ấm vào một góc, bác Ba mở hộp. Mới đầu tôi tưởng đó là hộp thuốc của một ông lang chữa bệnh lậu nào thì phải, vì trong đó có một số không đếm được những gói giấy nhỏ, trắng, đỏ với xanh. Bác Ba lấy một gói đỏ, mở ra. Ba quân xúc xắc màu xương còn trắng nõn, vết mực đỏ, đen ở sáu mặt rất tươi đẹp, ló ra một cách choáng lộn, kiêu hãnh nữa, khiến cho nhìn đến, ta có cái cảm giác là tưởng tượng đến những mĩ nhân còn tuyết trong giá sạch phô cái "thân ngọc" cho những ông phu tướng giữa lúc hoa chúc động phòng. Bác Ba nhìn đến cái công trình mĩ thuật của mình bằng cặp mắt say sưa như một nhà tài tử, rồi hỏi: Thế nào? Các ông trông có đẹp không? Ông ấm lấy kính đeo, cầm từng quân lên tay, chỉ ngắm nghía những góc. Ông khoe: Được lắm, tay chân đã khá lắm đấy. Rồi ông gieo vào bát, thử. Một sự lạ: ba quân này quay lộn thế nào cũng không thành được nhất nhị tam vì có hai quân nếu không dậy mặt tứ ngũ thì cũng lại chỉ lên ngũ lục. Bác Ba nói câu này để tự khen thêm một lần nữa: Có khí giới này thì gặp anh nào hắc búa đến đâu, mình cũng cứ việc nhét đất thó vào lỗ mũi nó mà lấy tiền! Ông ấm khích một câu: Thôi đi đừng nói giỏi nữa! Nào thử ra, vào xem trông có đẹp hơn độ trước không? Ba Mỹ Ký mỉm cười: Thưa thầy, ngón của thầy truyền cho mười phần thì con cũng đã nhập tâm được bảy, tám. Rồi bác lấy ở hộp ra một gói giấy đỏ khác, mở gói lôi ra một cỗ trạc xếch khác, gieo xuống bát, phân vua rằng: Đấy nhé đã đích là bài siệng chưa? Xong bác đứng lên, bỏ pardessus ra, lấy một cái áo the kép mặc vào. Tôi tự hỏi rằng: "Làm gì mà phải khăn áo chỉnh tề thế kia?" Ông ấm cũng gieo và kêu: "Ư, bài siệng thật". Bài siệng đây là bài mà người ta chưa đục ruột nó. Người ta chưa đục ruột nó với đổ thuỷ ngân vào trong thì nó dậy nhất nhị tam hoặc tứ ngũ lục phải do ở sự tình cờ. Bây giờ thì bác Ba ngồi xuống, xếp nếp áo the ở lòng cho nó "ý tứ" riêng của bác rồi chọn hai quân xúc xắc không siệng cầm vào tay. Bác gieo quân xuống bát và mỗi khi gieo xong, lại để bàn tay vào lòng, một tay chống nẹ, một tay gieo xong lại rút để vào lòng mình, trông cái cử chỉ ấy thật tự nhiên. Tôi nhận ra rằng kiểu ngồi này thật chép đúng của ông ấm B... khi ông đốc thúc quân binh trong cái "Việt Hoa chiến kỉ" vậy. "Ngón của thầy truyền cho mười phần thì con cũng đã nhập tâm được bảy, tám" lời này của bác Ba kể cũng đúng sự thật đấy, vì trước khi gieo, nếu bác ta đã kêu trước là nhất, nhị, tam thì không bao giờ cỗ bài lại dậy: tứ, ngũ, lục hoặc đã bảo tứ, ngũ, lục thì không khi nào cỗ bài lại dậy: nhất, nhị, tam. Còn hai phần mười kia, không bao giờ bác học nốt được. Chẳng có cái dáng điệu phong lưu bệ vệ của ông ấm, hình thù bác trông cỏ như vậy và theo bộ từ điển của làng bạc bịp trông lộ tẩy như vậy thì không khi nào bác phát tài được vì ông ấm xưa nay chỉ phái bác đi với những đám trếch chứ chẳng bao giờ dám cho bác đụng chạm vào đám sang trọng, thượng lưu. Cái "nước sơn" của con người mà can hệ đến thế đó. Sau cuộc thử tài đệ tử, ấm B... tôn sư có vẻ hài lòng lắm và nói đùa: Được tôi cũng đã có cơ vững dạ mỗi khi phái bác... hạ sơn! Chúng tôi cùng cười. Bác Ba Mỹ Ký hỏi: Nhưng cụ bảo đánh đòn thuỷ ngân hơn hay đòn lưỡng diện hơn? Ông ấm mắng như mắng một học trò: Hỏi dốt thế? Phải tuỳ cơ ứng biến chứ lại... Anh hỏi thế có khác gì một người biết võ mà mỗi khi có cuộc chiến đấu, hỏi thầy rằng: "Con nên đánh môn Thiếu Lâm hay môn Mai Hoa?" Không! Nếu cứ như câu hỏi của anh thì người đời ai cũng là b... được cả!... Đây này, còn có cả trường hợp nguy hiểm này nữa: thí dụ đang gieo mà vỡ xúc xắc, thuỷ ngân đổ ra bát... thì anh định giở ngón thế nào? Ba Mỹ Ký ngẩn ra không biết nói câu gì, chỉ giương đôi con ngươi trắng dã hỏi lại. Ông ấm trừng trừng nhìn học trò của ông hồi lâu rồi cầm lấy cỗ xúc xắc bảo: Trông đây này ! Ông gieo và tiếp: Thí dụ quân đã vỡ nhé... Rồi ông làm bộ ngơ ngác nhìn chung quanh gian phòng, chỉ vào một góc tường mà hỏi: "Ông kia tinh nghịch chơi lối gì thế? Có phải ông ném gì vào bát đấy không?" Trong lúc này, ông đã cầm ba quân xúc xắc lên, quờ lòng bát khoắng một cái. Rồi ông nói tiếp: "Nếu không là ông thì tất là một người khác !" Rồi ông ném một quân ra xa, bỏ cái bát ra ngoài tráp gạo, cúi xuống bới lấy một quân khác lên, tiếp: "Thôi không ai nhận cũng được! Xin mời các ngài... còn quân nữa đây!" Ông lại gieo một hồi rồi nhìn chúng tôi ra ý hỏi: hiểu rồi hay chưa hiểu? Tôi với bác Ba Mỹ Ký thú thật là chưa hiểu kĩ, lúc ấy ông ấm mới cắt nghĩa rằng : Lúc quân nhỡ mà vỡ, điều cốt yếu là mình phải làm cho làng không kịp biết là có thuỷ ngân. Muốn thế, ta phải đổ vấy có một người trong đám, bất cứ người nào. Khi ta chỉ tay lên và nói: "Ông kia, ông tinh nghịch gì thế?" là cả làng phải nhìn một cách căm tức đến mặt người vô phúc bị ta vu oan cho vậy. Thừa lúc không ai để ý, cái tay ta khoăng vào lòng bát đã hắt hết thuỷ ngân đi. Giọt thuỷ ngân hắt ra sẽ tan thành bụi! Phải biết, lúc ấy đang hỗn độn; người này buộc tội, người kia cãi lại, không ai để ý đến mình. Mình ra một quân ở tay, vờ là bới nó dưới bát gạo lên. Quân vỡ kia ném đi rồi, giữa lúc người đang đỏ muốn được thêm, người đang đen chỉ muốn gỡ, vừa phần sợ sẽ làm rầm rầm lên thì sẽ có chuyện với những tay sai của cụ Arnaud 4 có lẽ đang tuần bằng xe đạp ngoài phố, ai nấy sau cùng mới nghĩ ra rằng yên lặng là hơn. Đã có quân thay, cả làng lại nối cuộc. Nghe ông cắt nghĩa, tôi phải phục là ông biết tâm lí người đời lắm mới có thể ứng biến một cách táo bạo như thế được; ông thật đáng là vị quân sư của làng b... Ông ấm kết bằng câu này: Nhưng ít khi vỡ quân lắm. Ba Mỹ Ký vẫn ngồi ngẫm nghĩ đến chuyện đó, sau cùng mới nói: Xin bái lĩnh cái ngón ấy của thầy ! Ông ấm lấy ba cái giấy bạc một đồng ra: Cho tôi một cỗ trạc xếch lưỡng diện với một cỗ bất mẫu tử. Ba Mỹ Ký cầm tiền rồi trao lại ông ấm hai gói giấy xanh. Chúng tôi ra về. Ba Mỹ Ký vốn là một người thợ mạ đồ vàng giả cho một cửa hiệu. Có lẽ không muốn lục đến tên tục, người ta lấy ngay tên cửa hiệu do bác làm công, gán cho bác. Lúc cửa hiệu được kì thịnh vượng, bác làm ăn rất phát tài. Sẵn tiền trong tay, bác phải tìm cách giải trí. Giải mãi trí vào cái khoé kiếm tiền một cách rất dễ, trí bác dần dần chán nản mọi việc nặng nhọc của tay chân. Đâm ra biếng lười, bác ta bị ông chủ mời về vườn để tha hồ mà giải trí. Sau khi tìm được vài ngón bịp tài bàn, tổ tôm, bác vẫn sống ung dung bằng cách thịt những dân lao động, sau cùng bác phải xin vào làm môn đồ của ông ấm B... Xem ý ra, trong đám "học trò", chỉ có bác này là được ông ấm có lòng thương hơn cả. Bệnh ho sù sụ của bác mà bác tưởng là sẽ thành kinh niên ấy, bác phải giữ nó trong phổi, trong cuống họng là vì một trận đòn gây nên. Hồi ấy, nạn khủng hoảng chưa đến tác hoạ tại xứ này. Ngày đầu tháng, toà nhà gác ở ngõ Hàng Cá với cái vẻ rộn rịp của một bộ tham mưu giữa lúc chiến tranh, đã khiến cho quân sư ấm B... vì nhiều việc quá phải nhận ngay "đồ đệ trông lộ tẩy" của mình vào một nơi hang hùm nọc rắn. Kể đòn của bác Ba Mỹ Ký trông cũng khá đẹp nhưng bác sa hố là vì người bác không có lấy một "nước sơn". Bọn quyền quý kia chỉ quých ở sự đánh bài và không quých ở sự "thượng cẳng tay, hạ cẳng chân" nên đã cho bác một bài học khá cay nghiệt. Bác vì thế, mắc chứng ho. Nghĩ thương hại một kẻ lâm nạn vì cái vô ý của mình, ông ấm phải đem bao nhiêu lối "chế tạo khí giới" của ông ra truyền cho bác Ba để bác làm sinh kế. Cũng đôi khi, bác được phái đi đánh chác, nhưng vẫn không kiếm đủ tiền chữa bệnh ho. Ông ấm đã phải thu xếp cho bác cái việc nhàn hạ là ngồi một chỗ làm hàng. Ông lại bảo anh em làng b... nên đến mua cho bác. Bài mẫu tử, bài giác mùi, giác bóng, xúc xắc thuỷ ngân, xúc xắc lưỡng diện, tiền nhựa, những thứ ấy bác bán đắt gấp đôi, ba những bài thường. Thành hử búa, giũa, ve của bác xưa kia dùng để chế tạo mọi đồ nữ trang nay bác chỉ dùng vào việc đúc xúc xắc. Thằng em họ bác mà người nhà bác gửi bác cho nó học nghề mạ, bác chỉ cho "chế tạo khí giới" rồi nói dối với cả họ là vẫn cho em học làm thợ ngà! Ông ấm thuật chuyện rồi bùi ngùi nói một cách cảm động: Rõ thương hại nó quá. Dễ thường nó ho lao !... Sống về nghề thì chết về nghề, sự này không lạ. Có điều lạ là ông ấm, một con mọt của xã hội, hạng người nguy hiểm đáng cho đời đổ lỗi tất cả các tính xấu của Trái đất, té ra lại là một người có đủ thuỷ chung... Một sự chẳng ngờ.Chương 8: Những Thủ Đoạn Ngoài Chương Trình B..."Mặc áo này mà đánh ống thì nhạy hơn cả! Này, thế ông thử xem xét kĩ lưỡng cái áo này xem có gì là lạ không. Thử xem ông có tinh ý không nào?" Tôi đỡ lấy cái áo trắng dài do ông ấm trao cho để "xem xét kĩ lưỡng". Nó có gì là lạ, một cái áo năm thân đủ tà, đủ gấu, đủ giải, đủ khuy, một cái áo mới may còn cứng nước hồ. Tôi lần từng sợi một, mãi không thấy cái "lạ" mà ông ấm bảo cố tìm cho ra; sau tưởng ông nói đùa phải trao lại trả. Ông ấm mặc áo vào, ngồi xuống ghế, để chống hai tay vào giường lại hỏi: Thế bay giờ ông nhận ra chưa? Ngắm qua, tôi vội đáp: Thấy rồi! Nó chỉ hơi lạ là khí dài hai tay... Ông ấm gật đầu một cách rất hài lòng y như người ta đã bắt một cậu bé rất bướng bỉnh dạ được một cái vậy. Ông tiếp: Ông thử nắn hai cổ tay xem. Tôi theo ý, nắn hai tay xong rồi đáp: Hai cổ tay, vải cũng... dày. Ông ấm: Thì đã hẳn! Vì những ba lần vải kia. Phải thửa mới được đấy. Cổ tay dày thì mới hụt bài để giấu vào trong được, chứ nếu áo tôi mặc cũng như áo ông mặc thì hụt bài vào cẩn thận rồi, có khi nó lại cứ cố chui ra! Hai cổ tay này cũng thuộc về việc làm của "xưởng chế tạo khí giới" nhưng nó không phải là việc của Ba Mỹ Ký mà chỉ là việc của một bác thợ may xoàng. Ông cứ nghiệm mà xem, phàm đã là dân b... ai cũng mặc cái áo có hai cánh tay dài như áo lễ sinh, bịp hay không, mình chỉ thoáng liếc mắt nhìn qua hai cánh tay là đủ rồi. Chơi lối đánh ống thì mặc thứ áo này... Nhưng không phải ai cũng áo ấy. Vũ ấy, hắn còn có tài đến nỗi hắn có thể ra, vào nhanh như chớp được mà chỉ vận áo sơ mi! Thế thì anh nào thạo đến đâu cũng bị mất... Phải. Có lần, tôi bắt một con mòng đã vào tay chơi thạo, trong cuộc đó có Vũ. Anh kia cứ "lên râu" mãi, cứ cắt nghĩa mãi rằng mình chỉ nhìn qua tay áo các ông là biết ngay bịp hay không bịp, thế rồi ngồi vào húc tài bàn với tôi, với Vũ, mà bị lột trần! Cứ như ý tôi thì mặc thứ áo riêng này như của ông, ra, vào được cũng đủ đã khó. Lại còn mặc áo sơ mi mà cũng ra, vào được thì không biết Vũ hắn làm ăn ra thế nào... Đó là tài riêng của anh ta. Mà nói đến cái tài thì thôi, không ai cắt nghĩa được! Chúng tôi đang nhỏ to câu chuyện kín đến đây, bỗng thấy một hồi gót giày nện mạnh vào thang, làm chuyển cả sàn, rồi anh Vân tơi tả bước lên với cái bộ mặt một người bị nạn cháy mà đang định kêu: "Ai cứu tôi với... " vậy. Anh Vân giơ hai tay ra bắt tay chúng tôi một cách thõng thẹo, ném vật cái mũ xuống giường, ngồi xuống ghế đá thở hồng hộc, gãi đầu một cái, cào cổ một cái, rối rút lỏng cái ca vát ra. Những cử chỉ lạ thường ấy, anh chưa kịp cắt nghĩa mà chúng tôi cũng gan, cứ ngồi lặng im ngắm nghía chớ không ai hỏi anh một câu nào. Sau cùng, anh vừa thở vừa doạ một câu chẳng ăn thua đâu vào đâu: Thôi... ! Phen này tôi đến nhảy xuống sông Cái mất! Rồi anh lắc đầu, lắc đầu. Tôi nhìn ông ấm, ông ấm nhìn tôi, rồi không thể nào nhịn được trước cái dáng điệu khôi hài của anh, chúng tôi bật ra cười rũ rượi. Anh Vân ngước mắt nhìn tôi ra ý kêu nài rằng "không nên thế... " đoạn nói tiếp: Tôi vừa mới thua ba chục! Chúng tôi lại cười già hơn trước, vì rằng anh thua ba chục rồi sẽ nhảy xuống sông Cái hay không nhảy xuống sông Cái thì đó là việc riêng của anh chứ có can thiệp chi đến chúng tôi mà anh doạ... ? Anh Vân lại buông sõng một câu nữa: Đánh xì. Đã hết cơn muốn đem sự im lặng ra trêu mãi một con "chim mồi" có giá trị của mình, ông ấm nghiêm bộ mặt lại rồi hỏi: Thế thua xì ở đâu? Ở một nhà tại phố Khâm Thiên. Nhà ai thế? Nhà một người không biết có phải tên là Sinh không. Sinh à? Người ngợm thế nào? Răng vàng... mặt trông chơi bời lắm. Nghe đến đây, ông ấm ngẩn người ra một phút và lẩm bẩm: "Thôi không khéo thì... " Anh Vân lấy làm ngạc nhiên, giương tròn hai con mắt... Ông ấm lại hỏi nữa: Chính thị tên là Sinh mà có răng vàng à? Phải. Thế ai dắt mà lại đến chơi nhà ấy? Một người quen của tôi... Thì ai chứ? Một... mẻng của tôi. Một mẻng à? Thị nào thế? Có phải... Dung không? Đến lượt anh Vân ngẩn ra: Sao cụ biết rõ thế? Chứ gì! Vì tôi biết độn Gia Cát! Anh Vân hỏi theo một cách ngớ ngẩn và có vẻ thán phục: Thế kia à?! Ông ấm cười rộ một hồi dài nữa, vỗ vai anh ta rồi nói: Khỉ ơi là khỉ!!! Bị xiếc rồi. Anh Vân tái mặt: Thế nào? Vào xiếc... nghĩa là bị bịp ấy à? Bẩm vâng ạ... Có ai trông thấy anh Vân lúc này thì mới thấy cái sự khôi hài của anh ta, vì anh ta so vai một cái, gân ngay cổ lên cãi: Tôi bị bịp?... Thôi đi!... Ông ấm lườm anh Vân xong, quay mặt nhìn ra chỗ khác làm bộ dỗi. Anh Vân kể lể: Đến tôi mà còn bị bịp thì cụ bảo tôi tin ngay thế nào được?... Bao nhiêu ngón cụ đã chỉ cho rõ như thế, tôi còn lạ gì. Giác mùi, giác bóng, bài mẫu tử, đòn Vân Nam tôi còn nhớ rõ mồn một. Tôi chắc là tôi đen đấy chứ chẳng phải là bị bịp đâu. Ừ, thế ông kể rành mạch lúc đánh chác cho tôi nghe xem thế nào nào. Lúc ngồi vào, bắt đầu tôi chọn từng cây bài ngắm nghía xem có giác mùi, giác bóng hoặc có quân nào bị gọt sườn như nghĩa mẹ con, mẫu tử gì không đã. Quả thật là một cỗ bài mới, tôi mới đánh và chỉ những được là được. Tuy được nhưng chưa đến nỗi ngốt, tôi vẫn để ý xem có ai định cản, bò nhoài ra xin cái điếu hay gói thuốc gì đấy để một người khác giở đòn Vân Nam không. Cũng không nốt! Thế rồi tôi thua!... Có hai lẽ rằng tôi không bị bịp. Lẽ thứ nhất là tôi cũng chẳng phải là một thằng hớ, với lẽ thứ hai: nhân tình của tôi dắt tôi đến nhà một người quen để dậy hoá, chỉ những muốn cho tôi được để hòng tôi sắm cho cái này, cái khác mà lại bảo là để dắt tôi đến một chỗ cho người ta bắt tôi vào xiếc thì có lí nào? Này ông phải biết: Sinh là một ông chủ cô đầu và là... đồng chí của tôi. Còn con Dung là một con mấy lần lại vào ở cô đầu sau mấy lần đã bước ra ngoài vòng cô đầu, là một tay săn mòng của Sinh. Nghe câu này, anh Vân tái mặt đi. Ông ấm lại hỏi: Thế ông thử nhớ kĩ lại xem, trước khi ông thua bọn kia có những cử chỉ gì lạ không đã. Anh Vân cau mày nghĩ ngợi một lúc rồi đáp: Chỉ có trước khi tôi thua thì Sinh ra một cái bàn, mở ngăn lấy thêm tiền bỏ túi rồi lại vào bàn, cầm bài chia ngay. Lúc cầm bài thì hắn đứng, mà lúc chia cho ông thì hắn đã vén áo ngồi lên giường một cách chễm chệ rồi chứ? ... Có lẽ thế thì phải. Ông ấm nói một cách sung sướng: Thôi thế thì đích rồi! Đích rồi à? Có ai... bò nhoài ra đâu? Cứ gì phải có người bò nhoài ra mới đánh đòn Vân Nam được! Đây, tôi diễn lại kịch ấy là ông hiểu ngay. Nói thế, ông ấm lấy ra hai cỗ xì, cho chúng tôi nhận rõ là mới nguyên cả. đoạn ông để một cỗ vào đĩa, quay ra một góc phòng rồi quay lại, vừa cười vừa hỏi: "Chang kĩ chưa? Đến lượt tôi chứ?" Rồi ông đến đứng cạnh giường, cầm cỗ bài ở đĩa vào tay, vén tà áo cho gọn, bước lên ngồi giường. Ông lại chang một thôi một hồi rồi chia ngay. Đoạn ông nâng vạt áo ở trước mặt lên: một cỗ bài đã nằm gọn trong lòng ông từ bao giờ ấy! Xem chừng anh Vân vẫn chưa hiểu, ông ấm lại phải cắt nghĩa rằng: Đó cũng là cách tráo bài lối Vân Nam nhưng táo bạo hơn nhiều lối có người bò nhoài ra cản. Khi người ta cầm cỗ bài xong mới vén áo bước lên ngồi giường thì người ta đã tráo giữa cái lúc vén áo vậy. Mình thấy người ta, trước khi chia còn chang lại thật kĩ mà tưởng thế là thật là nhầm. Đó chỉ là lối chang bài "che mắt thế gian" vì cỗ ấy, người ta xếp lớp sẵn rồi, thì chang nghĩa là chỉ vỗ đồm độp phần bài trên vào phần bài dưới chứ có chang thực sự đâu! Rồi người ta chia, nhốt mình... vào xiếc là thế! Anh Vân gật gù: Tôi hiểu rồi... có lẽ đã vào xiếc thật. Ông ấm cười: Thôi, chiều ta lại xuống chơi dưới ấy rồi tôi bảo Sinh hắn trả lại. Không phải nhảy xuống sông Cái đâu! Anh Vân cười nhưng cái cười giấu vẻ căm giận. Việc ông ấm sẽ đòi hộ lại tiền chẳng đủ "chiêu hồn" cho anh. Ngồi trầm ngâm với bộ mặt một người đi đưa đám ma, anh chỉ gượng nói, gượng cười. Có lẽ anh đang nghĩ đến mẻng của anh chẳng ngờ lại là một "chim mồi" của một người bạn của ông ấm B... là Sinh. Thấy vậy, tôi tìm lời khuyên giải: Đó cũng là do cái luật thừa trừ của tạo vật. Anh còn nỡ thịt cả ông cụ để lấy tiền nuôi gái thì gái nó rất có thể thịt anh là nhân tình để lấy tiền nuôi thân... Sự xảy ra này đã khiến ông ấm B... chốc chốc lại nhìn trộm anh Vân để mỉm cười. Muốn đánh tan cái đau đớn của một anh chàng bị gái lừa, ông lại thuật hai chuyện thú vị hơn. Cái đòn của Sinh đấy cũng là một cách quyền biến khôn ngoan lắm. Kể ra, những thủ đoạn trong những lúc "chấp kinh tòng quyền" không có nói sẵn trong chương trình b... còn nhiều lắm. Xin kể hai trường hợp đặc biệt để các ông nghe. Một bữa kia, không ai nhớ được rõ ngày tháng: Tham Ngọc với hai đồng chí nữa, rủ nhau săn một con mòng. Con mòng này không quých một tí nào cả. Thua, nó cũng không cay, được nó chẳng ngốt: hai mắt nó lúc nào cũng như mắt rắn ráo khiến cho cả ba anh không ai giở được ngón gì. Thói thường, những ông bịp mà không giở được ngón cứ phải ngồi đánh siệng là chỉ có một thua thôi. Theo bộ từ điển của làng b... định bịp mà không giở được ngón để đến nỗi thua, thế gọi là sa hố. Vậy thì, Ngọc và hai đồng chí, trong những cuộc săn con mòng hắc búa kia, tối đầu sa hố. Ba người đã bàn nhau định giở đến một ngón đặc biệt, khốn thay! Lại sa hố nốt cả tối thứ nhì. Đến tối thứ ba... Ta nên biết rằng đến ba người đi chinh phục đất để thịt có một người, nếu không thành công thì cả ba còn mặt mũi nào về tạ lỗi với... quân sư nữa? Vả chăng, lẽ thứ hai lại càng khó xử: quân sư đã phải vay "binh khí" tận bên... Trung Quốc (ông Cả Ủn) thì những số thiếc mà mình đánh mất, chẳng lẽ lại để riêng quân sư è cổ ra đền! Cho nên trước khi ngồi vào bàn, cả ba sắp sẵn mưu một cách quỷ quyệt... Con mòng được nước cứ việc vơ giấy bạc bứa bừa. Hốt nhiên đến ván ấy, một ông kêu thiếu bài. Hai ông kia hưởng ứng ngay: xin khám. Phải rồi, thiếu bài là khám, lẽ ấy rất cố nhiên. Nào thế các ông đứng dậy hộ một tị. Ba người đứng phắt dậy, còn mòng, vô tình, cũng vững tâm đứng ngay lên. Cái gì thế kia? Hở? Chơi lối thế à??? Có thật muốn giở ngón cờ gian bạc lận ra với chúng ông không? Mòng bị cả ba anh sừng sộ, tái mặt lại, run đây đẩy, nhìn xuống chỗ chiếu mình ngồi. Giời hỡi! Đất hỡi! Có ông thánh nào thiêng, có ông thần nào linh, xin chứng giám cho nỗi oan này!... Mê ngủ hay vẫn thức? Mòng bàng hoàng giụi mắt nhìn, vẫn chưa tin, lại giụi mắt lần nữa. Lạ thật! Quái thật! Kì thật! Vô phúc thật! Nào mình có giở ngón cờ gian bạc lận ra bao giờ, cớ sao bài lại thiếu, mà cớ sao ở chiếu chỗ mình ngồi lại có một, hai quân bài nằm lù lù thế kia? Có thật anh chơi lối thế không??? Anh phải biết, hả!... Đã hai người xắn tay áo, sừng sộ, chực choang rồi. Còn một người, nhân từ hơn (Cái nhân từ của người này, mòng sẽ chịu ơn đến chết!) gạt hai người quá nóng ra: Thôi các ông, tôi xin. Việc này xảy ra thật đáng tiếc, nhưng nếu vì thế mà phải đánh đạp người ta, ầm ĩ hàng phố lên, kể cũng phiền. Để tôi thu xếp... Rồi người ấy quay lại bảo mòng: Đấy nhé, tôi đã can các ông ấy rồi. Vậy ông xử thế nào cho phải thì xử đi... Ô hay, nào tôi... Mòng chưa kịp mở mồm, một người kia đã vội: Này, đừng chực già họng nhé! Ông lại giã cho lìa phụ mẫu bây giờ... Chứng cớ lù lù ra kia, còn chực cãi cái thá gì nữa??? Người khác: Biết điều thì được bao nhiêu tiền phải trả cả cho chúng ông đi! Vâng, vâng, rõ thật chẳng may cho tôi. Đây tôi xin trả lại các ngài vậy. Rồi mòng lôi cả đống giấy bạc trong túi ra: Thưa đây ạ: tối hôm thứ nhất, tôi được của các ông tất cả 50 đồng; tối thứ hai tất cả 42 đồng... còn tối hôm nay, để tôi xin trừ cái vốn của tôi là đúng tám chục thì các ông thua bao nhiêu sẽ rõ... Anh nói cái gì thế? Tôi cứ biết là tôi, tôi đã mất tám chục... Tôi cũng hơn bảy chục... Còn tôi hơn bốn chục nhưng cứ cho là bốn chục. Mòng cãi bằng giọng ngọt: Có đâu quá thế?... Cái gì mà quá? Thì tôi được bao, vẫn còn nguyên đây tất cả... Thôi đi, anh nói khó nghe lắm. Anh được thì ít ra anh cũng phải chén, phải đưa về cho vợ, phải trang trải mọi công nợ chứ có đời thuở nào có một thằng được bạ lại vẫn đem nguyên cả số tiền được ấy đi đánh, để nhỡ rồi thua mẹ nó cả đi! Cả chỗ ấy cũng chưa đủ số tiền chúng tôi thua, anh nghe ra chưa?... Tôi xin thề là nếu tôi đã tiêu hơn hai đồng vào đây thì tôi cứ làm giống chó! Ấy đấy, rõ tiền hậu bất nhất chưa... Trước bảo chưa tiêu, sau lại thú đã tiêu hai đồng! Biết điều thì để cả lại trả các bố! Đứng trước cái sừng sộ của ba người chực đánh một, kém thế, mòng đành lui. Thế là mòng bỏ vào túi cái ví dạ lép kẹp rồi đỏ mặt bước ra, mất cả tiền lưng lẫn tiền được. Mòng không bao giờ nghĩ được ra rằng trong canh bạc, chính giữa lúc nhoài ra với lấy bao diêm, một ông trong ba ông kia đã thừa cơ nhét hai quân bài dưới đũng quần mình. Lại một lần khác. Ông ấm đang ngồi tính việc phái tay này đi phố này, tay kia đi phố khác, thì một bà cô ruột, một bà cụ đã ngót 70 tuổi, đến mếu máo: Anh làm thế nào chớ con tôi nó giết tôi rồi, hỡi giời cao đất dày ôi!... Ông ấm cuống: Cái gì thế bà? Cái gì thế bà? Bà cụ: Ông em anh đã đem số tiền ba trăm bạc tôi sắp chồng họ cho người ta đi nướng hết ở sòng Hai Ve rồi... Ới giời đất cha mẹ ơi!!... Ông ấm sa sầm nét mặt: Cái thằng mặt chó! Thế bây giờ nó ở đâu? Nó đang nằm ăn vạ ở nhà ấy. Bà về bảo nó lại ngay đây, tôi dắt đi gỡ... Gỡ gì??? Gỡ lấy cái chết nữa ấy à? Hu! Hu!!... Khổ lắm, thì bà biết gì nào? Bà có về bảo nó lại ngay đây cho tôi hay không thì bảo... Bà cụ lại mếu máo rồi, như một cái máy, lại quay về. Ông ấm vứt ra hào bạc, sai con giai: Đi mua cho tao một cái "toe toe"! Rồi ông bảo con sen: Bắt lên đây cho tao con vịt... Con giai ông mua bong bóng về. Con đòi cũng đã bắt vịt lên. Ông vắt nửa quả chanh vào bát, chọc tiết vịt. Vừa xong thì một cậu trẻ tuổi, mặt xanh nhợt cũng vừa bước vào, ông ấm liền bảo: Rõ ràng mặt mẹt chửa! Lại gần đây!!! Cậu kia để tay lên má sẵn, rón rén lại gần. Nhanh lên! Ai đánh mà mày sợ. Rồi ông nói thầm hồi lâu với cậu. Cậu mỉm cười. Ông dặn một câu to: Phải khéo lắm đấy! Đoạn ông cởi trần ra, lấy miếng sắt tây để vào ngực. Ông đưa dây gai để cậu kia buộc rõ chặt nó lại, đoạn đổ bát tiết vào cái bong bóng "toe toe". Ông buộc bong bóng ngoài miếng sắt tây, xong lại vận vào áo. Rồi ông mở tủ, đưa cho cậu kia một tập giấy bạc, móc túi đưa ra cả một con dao dài gần một tấc và bảo: "Đi trước đi!" Sau cùng, ông xỏ chân vào đôi giày Tàu và với lấy một cái cát két, rồi cũng đi nốt. Người nhà, đầy tớ chẳng ai đoán nổi ông đi đâu thế và việc mổ vịt kia, ông định để tiếp khách nào. Đến cảnh bài trí khác: sòng bạc xóc đĩa. Nửa trăm người rì rào một cách khó chịu vì người này cũng chẳng nói khẽ mà lại cứ mắng người nọ là nói to. Bác hồ lì thỉnh thoảng lại kêu: Tôi lạy các ngài, các ngài khe khẽ một tí... Một tên tạ dắt một cậu bé trẻ tuổi vào. Mười lăm phút sau, tên tạ khác lại dắt một người đi giày Tàu, đột cát két, đã có tuổi, vào... Người xóc cái hô: Bán chẵn bốn chục! Cậu trẻ tuổi với người già cùng giơ tay: Tôi... ! Tôi... ! Không, tôi kia! Thôi, hãy để tôi lần này... Mở bát, người xóc cái reo: chẵn! Cậu trẻ xô lại thì bị người già đẩy ra một cái. Cậu trẻ tuổi sừng sộ: "Có thật mày ăn chặn không?" Tức thì một mũi dao tuột ra, phóng ngay vào ngực người già. Người già loạng choạng, ôm ngực ngã vật xuống chiếu. Cả làng cướp tiền nhau tán loạn; cậu trẻ thừa lúc hỗn độn đã chuồn được ngay. Người ta nhao nhao lên: "Bắt lấy nó! Nó đấy!" mà chỉ người này vồ nhầm người khác. Rồi cãi nhau, chửi nhau, xô nhau. Rồi ông chủ sòng, mặt tái mét, chạy lên, đỡ người già dậy. Trên chiếu bạc, một vũng máu. Người già ôm chịt lấy ngực, hổn hển nói: Tôi không chết đâu nhưng bị chúng nó cướp cả bốn trăm bạc rồi. Ông chủ hấp tấp lấy ra năm cái đỉnh 1: Thôi đây, xin đền ngài và biếu ngài một trăm. Lạy ngài, ngài chữa ở nhà, đừng vào nhà thương mà chúng tôi khốn mất! Rồi hai tên tạ vội xốc nách người già ấy ra cửa sau, thuê xe bảo phu kéo về nhà. Ông chủ bảo một người tạ khác: Mau đem cái chiếu này xuống cọ sạch, tức khắc đi!...Chương 9: Một Cuộc Vận Động Tự TrịĐược lắm! Nếu anh đã muốn có sự chia rẽ trong anh em, nếu anh có thể đi ăn mảnh được thì cứ việc... nhưng những khi đến đằng Cả Ủn lấy tiền đừng có mượn tên tôi ra mà xoay... ! Không, cụ nóng quá, để tôi trần tình đầu đuôi cụ hiểu... Ông ấm B... mặt đỏ bừng như quả gấc chín ngồi giữa giường, xếp chân bằng tròn như một tượng Phật, bình tĩnh nói ray rứt bác "Tham Ngọc" đương ngượng nghịu trên một chiếc ghế, mặt tái hẳn đi như con gà bị cắt tiết. Còn tôi, giữ địa vị bàng quan để xét đoán một cách trung lập cuộc đấu khẩu ấy, không có việc gì, ngồi cắm mặt xuống bàn, buồn tình, bẻ nát mấy đóm... chơi! "Tham Ngọc" đấu dịu, xin trần tình. Ông ấm làm ra vẻ không buồn nghe nữa. Vẫn ngồi xếp bằng tròn như tượng Phật giữa một người rất thâm. Chẳng lẽ có tôi mà ông lại vùng đứng lên để hoa tay, múa chân, sừng sộ với kẻ địch buộc chia rẽ ông, hoặc bóp cổ nó hay cho nó... một nhát dao vào bụng! Làm thế nào có thể lộ mình là kẻ tiểu nhân, ông không làm. Dù tức đến chết, ông vẫn phải ngồi yên. Độc giả chắc còn nhớ rõ tới cái buổi hội diễn của người giữ cái két lớn nhất của làng b... với mặt ấy, Cả Ủn đã nói rằng: "Tham Ngọc" có đến lấy bốn chục và đã trả đủ rồi. Ông ấm dặn rằng: "Lần sau có chữ của tôi thì hãy nên bỏ thiếc vì rằng hắn lấy tiền không do tôi sai đi là chỉ để đi ăn mảnh". Lẽ tự nhiên: ông ấm không thể nào bảo đảm những số tiền do Cả Ủn trao cho "Tham Ngọc" đi ăn mảnh. Lại một lẽ tự nhiên nữa: đã là đồng đạo mà một đệ tử mình lại nỡ tính cuộc chia rẽ anh em bằng cách đi ăn mảnh, ông ấm phải bất bình! Ai phải? Ai trái? Cái cuộc chia rẽ trong làng b... mà tôi ngẫu nhiên được mục kích đây thực là một vấn đề... xã hội rất quan trọng vậy. Tình đồng đạo của "Tham Ngọc" với ấm B... không bởi lẽ "Tham Ngọc" đi ăn mảnh mà bị thương tổn được, vì nếu ông ấm tự coi là thầy "Tham Ngọc" thì bổn phận của một ông thầy đối với học trò là phải tìm cách cho học trò được tự lập nếu học trò mình đến lúc đủ tư cách dọn hàng riêng. Vậy "Tham Ngọc" đã đủ tư cách "dọn hàng riêng" chưa? Những cuộc săn mòng bên Bắc Ninh đã đủ đáp lời cho câu hỏi đó. Không cho học trò tự lập, ông ấm đã lỗi đạo làm thầy. Những lí luận cãi cho "Tham Ngọc" này, khốn thay, lại bị một lí mạnh hơn, cứng hơn, là nghề b... không phải là nghề đạo lí, mà làng bịp xử lí với nhau cũng chẳng có tình nghĩa gì. Dám hoặc có khi họ cũng thuỷ chung với nhau, trong mọi cuộc săn mòng, nhưng đó chỉ là cái nhân nghĩa quân đạo tặc mà thôi! Cho nên trái lại, chính "Tham Ngọc" là lỗi đạo. Đã thế thì: nếu đi ăn mảnh, anh không có quyền lấy tên thầy đến xoay tiền người ta. Nhưng ta hãy yên, nghe "Tham Ngọc" trần tình: Cái lần tôi vay đằng Cả Ủn bốn chục, tôi xin nhận lỗi là đã mạn phép cụ, nhưng không phải vay tiền để đi ăn mảnh như cụ tưởng mà để tiêu vào một việc quan hệ tới... gia đình, để tiêu riêng. Tuy mạn phép cụ, tôi cũng trả hết người ta chứ không hề để liên luỵ cho cụ... Ông bảo ông đã tiêu vào việc gia đình? Phải. Thôi đi, tôi không phải là thằng ngốc. Nếu chính mắt tôi không trông thấy việc ông tiêu thì đã có nhiều người khác trông hộ tôi. Nếu chính tai tôi không nghe thấy thì cũng có vô số người nghe hộ... Nói dối tôi không được, ông nghe ra chưa? Nếu thế thì thôi, tôi không biết nói thế nào nữa... Ông nói thế nào? Ông nói thế nào? Số bốn chục ấy, nếu không để làm vốn đi ăn mảnh thì cũng để trả tiền môn bài cho cái sòng ở chợ Chu, ông nghe ra chưa? Tưởng người ta không biết đấy! Ông ấm không biết hay có biết? Tôi cũng chẳng hiểu, chỉ biết rằng nghe đến câu này, "Tham Ngọc" dường tắc cổ, hoặc bị một cái bàn tay vô hình, ác nghiệp bịt lấy miệng không cho nói nữa, không cho chối cãi nữa mà thôi. Im đây là thú tội. "Tham Ngọc" cứ việc ngồi lặng im, ngây người ra, "thú tội" trong năm phút, mười phút, mười lăm phút. Cái không khí im lặng này chẳng hiểu có khó chịu cho ông ấm hay "Tham Ngọc" không, nhưng chính ra, đã rất khó chịu cho tôi. Giữa cái cuộc tai biến của hai người đối với mình đều là... tri kỉ cả, một bên thì căm tức bên kia đã phản mình, một bên cũng căm tức vì đã bị nhiếc lác, mình tuy là người ngoài cuộc nhưng lại ngồi ở chỗ đó, dẫu không căm tức nốt nữa thì cũng phải buồn. Nhất là mình không biết tìm cách gì có công hiệu hòng hoà giải được hai bên. Sầu thật! Sau cùng, ông ấm nói một cách dịu dàng lắm: Thôi, ông... "Tham Ngọc", chúng ta gặp mặt nhau thế là đủ!... "Tham Ngọc" đứng dậy, hiểu ý câu nói lắm, bắt tay riêng tôi rồi xuống gác, bao nhiêu ý nghĩ căm giận hoặc khinh bỉ, không có cách nào khác, phải phát lộ ra cả gót giày, nện thình thình thật mạnh vào từng bậc thang... "Tham Ngọc" đi rồi, tôi cũng đứng lên muốn về cho ông ấm ngồi một mình được thật tĩnh tâm mà "triết lí" đến cái tình bè bạn. Thấy tôi đứng lên, ông ngơ ngác nhìn ra vẻ buồn nản, rồi bảo: Ông hãy ở chơi... Ở chơi đây không có nghĩa là ở chơi thật đâu, tôi đã biết trước sự ấy. Ở chơi đây là ngồi lại để nghe ông ấm kể lể... để nge ông cãi cho mình là phải và buộc tội kẻ đã xúc phạm đến mình. Một dịp tôi biết thêm ít nhiề ái chân tướng của mọi nhân vật trong làng b... Càng hay! Tôi lại ngồi xuống ghế. Tiểu sử của "Tham Ngọc" do ông ấm thuật lại cho tôi nghe một cách tỉ mỉ, tôi chép vắn tắt lại dưới đây. Hà Nội, 1910. Ngày mồng 2 Tết Nguyên Đán. Tại một phố kia, một nhà ông phán. Ngày mồng 2 Tết, vợ con về quê vắng cả, khách khứa cũng ít đến, ông phán đâm buồn, ngứa ngáy, phải nghĩ đến cách chơi xuân. Tết là những ngày mà người đời biết yêu nhau, hoặc thật, hoặc vờ, nhưng dù sao cũng sống với nhau bớt đểu cáng. Suốt năm, dù ghét nhau đến có thể giết nhau được, ngày Tết đến, người ta cũng lại nhà nhau mừng tuổi rối rít hay thì thụp quỳ lạy trước bàn thờ ông vải mà những ngày trước ấy, dễ thường người ta đã từng có lần réo đến tên tuổi để "đào ngoáy xoáy xoả" lẫn nhau. Ngày Tết, ngày của đạo Trung thứ 1. Vậy thì, vào cái ngày mà mọi người dù thù hằn nhau cũng tha thứ cho nhau, dù không yêu nhau thành ra cao hứng chốc lát mà yêu nhau, không ai phân cao thấp sang hèn chia rẽ nhau, một thằng nhỏ của nhà ông phán kể trên được chủ gọi lên tiêu khiển xuân nhật với thầy. Tên nó là Xuân, mặt mũi nó kk0 ai nỡ bảo là mặt mũi một thằng nhỏ. Mặc cái quần giặt là, cái áo giặt là, thắt cái thắt lưng lụa mộc, lại phủ ngoài một cái áo ma ga 2 – tóc mới, đội khăn lượt chỉnh tề, ngồi cùng giường rút bất với chủ, nó có thể khiến những khách lạ bước vào phải nhầm mà "Năm mới! Mừng tuổi hai... ông!" Cái cảnh khan xu, đương giữa Tết mà hai thầy trò ngồi một xó rút bất với nhau kể cũng buồn mà cũng có thú vị. Chỉ bực một nỗi cho ông phán là cứ thua hoài. Buổi sáng thua, buổi chiều thua, đến buổi tối lại cũng thua, chủ phải để ý xem đầy tớ có những ngón gì. Thì ra thằng Xuân đánh lớp! Nó cứ xếp những quân: cửu sừng, ông cụ, tam văn, thất vạn cách những quân... tam đại rồi trang cả chỗ bài theo lối "che mắt thế gian". Dễ thường có khối óc triết lí khác người, ông thầy ít có này, sau cùng, cho cả đầy tớ những quần áo cũ, cấp cho nó một cái vốn lớn là hai chục bạc rồi mở rộng cả hai cánh cửa, giải phóng cho nó đi "chu du thiên hạ". Có bộ mã kể cũng sang trọng, thoạt đầu thằng Xuân độ ấy mới 15 tuổi khi đội lốt học trò, khi đội lốt cậu Ngẩu nhà quê, đã lăn lộn trong những đám vã, đám trếch 3 trước khi được đụng chạm với phái thợ, phái thầy. Trước người ta gọi nó là thằng, sau người ta lên chức nó là bác. Sau nữa đến thầy, sau cùng đến ông. Vốn là kẻ tinh khôn, anh chàng Xuân coi đời là một lớp học. Sự lịch thiệp tìm ở cái giao tiếp, sự kiến thức góp nhặt được trong báo chí, anh chàng Xuân càng sống càng biết đóng đủ mọi vai kịch trên sân khấu cuộc đời. Ta chẳng nên lấy gì làm lạ khi thấy con người ấy đội lốt một ông tham Ngọc nào đó, đến những chỗ sang trọng, trí thức, có thể đả động được cả đến cái bộ mặt trái của Hội Quốc Liên! Ấy kìa bác! Phải, tôi vẫn chờ bác từ nãy đến giờ. Ngồi làm gì mà lâu thế? Hẳn ấm B... đã làm bản cáo trạng buộc tội tôi cho bác nghe chán chê mê mỏi ra rồi... Tôi gạt cái ý nghĩ nghi hoặc của "Tham Ngọc". Không, có quái gì đâu!... Giời mưa phùn, chúng tôi cũng cứ dấn bước đi luôn mấy phố. Anh Xuân gọi xe, mời tôi cùng lên rồi bảo phu kéo: Đến Hàng Buồm... Tôi nghĩ đến tôi mà buồn cười. Tự nhiên vào làng b... , chẳng có đất nào cả mà hưởng đã vô số! Rồi lại được nghe ông này kể lể tâm sự vì bực mình với ông kia. Chúng tôi vào một cửa hiệu. Cầm đến đũa bát, câu hỏi thứ nhất của tôi với "Tham Ngọc" là muốn biết anh ta đã thịt ông chú họ của tôi mấy chục chuyến rồi: Bác biết Mr. Đ. 4 làm ở phủ toàn quyền chứ? A! Có! Thằng cha thích húc trạc xếch! Thịt lão ấy mấy chuyến rồi? Không nhớ nữa, nhiều lắm! Người ấy là một ông chú họ tôi! Chú họ bác? Phải. Anh Xuân cười: Mặc! Chú Giời cũng không tha. Ông ta chơi lõi lắm mà cũng vẫn vào xiếc nhỉ? Có lõi bằng trăm lão, tôi cũng nhét đất thó lỗ mũi lấy tiền. Này, nếu không bắt lão làm mòng nữa, mình có thể "đổi ngôi, thay bực" cho lão, rồi lão lại là người giữ két của làng b... Thế à? Thế thì rất hay! Chiều mai, tôi với bác sẽ lại ông ta nói chuyện nhé? Anh Xuân ngồi cầm đũa mà nhìn, có vẻ ngẫm nghĩ. Rồi anh ta nói, tầm mắt vẫn buông đi đâu... Ông ấm không hiểu tôi. Rồi một ngày kia ông sẽ hiểu. Việc gì ở đời, nếu đã là chân lí tất rồi có người biết đến. Tôi phó mặc cho thời giờ. Hiện nay tôi đang góp vốn làm cái sòng chợ Chu. Mỗi tháng phải góp ngót nghìn bạc cho con trai chú Lương Tam Kỳ, một người xưa kia vẫn được chính phủ ngơ cho mà xưng hùng ở vùng Bắc Cạn. Nay Lương chết, thanh thế giảm, con giai chỉ còn được hưởng quyền thế một sòng bạc ở Chợ Chu... Khả ố thay cái nạn kinh tế! Chúng tôi kiếm không bằng một thằng khách bán phá xa. Bác thử tưởng tượng xem... Một tên khách ở Chợ Chu, quay một chục con vịt, một con đáng độ một hào. Nó bày lên một cái bàn quay, có 18 số. Mỗi số ta phải đặt hai xu. Trúng vào đâu, ta sẽ được một con vịt. Mất một con vịt một hào, hắn lấy về ba hào sáu, lãi những hai hào sáu xu. Dân làm mỏ Chợ Chu, thích ăn thịt vịt, đã bỏ lửng sòng... !Chương 10: Canh Tài Bàn... Tay TưChúng tôi đã từ cửa hiệu bước ra, đi. Anh Xuân đưa khuỷu tay khẽ hích tôi một cái: Kìa trông kìa!... Có khác gì một con cò bợ không? Tôi nhìn thẳng ra trước mặt... Thì ra anh Xuân nói anh Vũ. Phải, một anh Vũ vận Âu phục bảnh bao lắm: cái mũ dạ hội chịt xuống lông mày, cổ áo khoác ngoài kéo lên kín gáy, như một con cò bợ, giữa đám đông người, anh vẫn có vẻ mơ màng, cứ lừ đừ, đếm từng bước một mà đi. Ngắm anh ta, tôi không thể nhịn được cười. Anh Xuân: Cái mặt lầm lầm như... chó ăn vụng bột kia là mặt anh b... sa hố hay đã bử, bác đoán xem nào. Tôi đoán phỏng ngay: Dễ thường... sa hố! Cuộc đánh đố chưa ngả đứt về mặt nào, anh Vũ đã nom thấy chúng tôi. Anh ta cuống người lên y như bắt được của: Ô hay nhỉ ! Té ra lại anh em mình ! (Anh ta hỏi riêng Xuân) : Thế nào? Chợ Chu có gì bổ ích không? (rồi quay hỏi tôi) Gớm, sao lâu bác không đến chơi thế? Nhân lúc cao hứng, tôi nghiêm sắc mặt, nói đùa: Vừa tối hôm qua đến tìm bác nhưng không gặp ! Khỉ quá, vừa lỡ mất một canh tài bàn ! Có hai con mòng sộp ghê !... May chưa! Tôi bịa thế mà ra tối hôm trước, anh Vũ vắng nhà thật! Anh ta giương tròn đôi con mắt, vừa lấy làm lạ và lấy làm tiếc nuối: Thế? Phải, hôm qua tôi có việc phải đi thật. Chết chết!... Bác mà cũng có đất, mà lại gọi tôi đi chinh phục đấy à? Hoài của! Thế thì số tôi là số một... nàng... cung nga... ! Xuân không hiểu, hỏi: Thế nào mà lại có số cung nga? Anh Vũ cười: Đích số cung nga rồi. Vì rằng... một năm mới được một ngày vua mời thì gặp ngày... có kinh nguyệt! Anh Xuân cả cười và: Thôi đi ! Làm hề mãi ! Chợ Chu đối với tôi không có gì là lạ cả, nhưng về phần anh thì độ này có gì mới không? Úi chà ! Có ! Có cái mới nhất thế giới !... Nhưng không ! Tôi chưa nói vội. Anh hãy cho nghe việc Chợ Chu đã. "Tham Ngọc" thở dài: Chán lắm. Chúng tôi chỉ nai lưng ra làm cho ông con giờ bố Lương ăn thôi. Dân thợ mỏ Chợ Chu bây giờ họ không thích mở bát nữa. Họ đã nghiện thịt vịt cả rồi. Anh Vũ ngơ ngác: Anh nói cái gì?... Trên ấy bây giờ có một thằng chiệc, trước bán phá xa, nay không biết có phải được mả ông tổ tam, ngũ đại hay không, hốt nhiên đổi nghề và phất lắm. Nó làm cái món đánh số lấy vịt quay! Thế à?... Gớm, dân con trời nguy hiểm nhỉ. Nguy hiểm lắm ! Mà phát tài ghê ! Anh tính, chỉ quăng ra hai xu có thể được hi vọng chén thịt vịt, ai không muốn? Nhưng đồng bào mình ngày nay róc mấu lắm! Dân mỏ ấy à? Phải. Trước kia, khi mới có cái "kỉ nguyên đánh số thịt vịt" dân liên minh mỏ rất ham đánh và ít người mất số tiền thua gần bằng số tiền vịt. Vì bàn có những 18 số kia. Bây giờ thì khác hẳn. Các "ông tướng" ấy không chơi lối đánh lẻ tẻ từng người một như trước nữa; các ông mỗi người bỏ ra bốn xu chung nhau, hợp nhau lại vây kín cả cái bàn. Rồi một ông đặt vào một số. Ông nào thua "hội" xí xoá, nhưng ông nào được, phải cùng chia! Ta cứ tưởng tượng ra một cánh: năm bảy ông thợ mỏ từ bàn số quay ra về, cầm vài ba con vịt, bộ mặt ông nào cũng hí hửng theo cái lối "mục hạ vô nhân", đến nhà thì gọi vợ lấy dao thớt một cách oai hùng như một vị tướng truyền lệnh cho ba quân vậy... rồi rượu, rồi chuyện, rồi vén quần đến háng, rồi vỗ đùi đôm đốp !... Ai bảo trình độ dân lao động mình không tiến bộ ?... Họ họp nhau lại thế, chú chiệc tất mất nhờ. Không mất nhờ hẳn, nhưng còn gì là bử lắm nữa... Thế còn việc anh? Việc tôi?.. Không nói thì bực mình mà nói ra thì làng b... đến tiêu danh dự. ? Chuyện tôi định cho hai thằng cha kia vào xiếc, té ra lại chính tôi hoá mòng! Một canh tài bàn tay tư! o O o Giời rét thế này mà máu trong người tôi có lẽ lên tới 40 độ. Sở dĩ máu nóng lên một cách kì lạ thế là bởi tối hôm ấy, tôi có cả cái gan góc, cái đau đớn lẫn cái tài tình. Theo mọi nền nếp của pho tượng Bịp Kinh, mình cần ngồi một chỗ nào không cho ai chầu rìa nổi. Tôi đã theo đúng thế: hai thằng cha kia vừa thắp đèn măng sông lên sáng quắc là mình nhảy tót ngay lên giường ngồi dựa vào tường một cách bệ vệ ngay! Chết vì thế. Hai thằng cha kia, một đứa ngồi ghế, một đứa ngồi giường. Vì trông cái mặt chúng cũng có vẻ cậu... Cả ngậm thế nào... mình vội yên trí đó là bọn quỷnh ngay. Lối đánh ống của tôi lần ấy trổ bằng hai tay áo sơ mi, thôi, còn phải nói! Nhưng ba ván đầu, tôi vẫn để mặc họ tha hồ ù trước tôi. Mà họ lên bài cũng nhanh thật! Mới gọi vài ba tiếng đã thấy họ hạ ù, mình cho họ tuy là bọn chơi thạo nhưng chắc cũng chưa đủ biết cách đề phòng nạn b... Đến ván thứ tư tôi hụt bốn quân, xoay đi xoay lại, chỉ còn việc đánh đi một cây là chờ... Một thằng kia lại ù trước mình lần nữa. Rồi ván thứ năm cũng thế rồi ván thứ sáu cũng thế, rồi ván thứ bảy cũng thế, rồi ván... rồi ván... ối chao ôi! Tôi sức đâu nói nữa!... Tôi lại phải sốt lên rồi đây! Thật là một việc quá sức mình tưởng tượng !... Hay là chúng nó quỷ thuật? Nào tôi có biết!... Tôi để ý mãi, hòng bắt chúng nhưng chính mình cũng chẳng lấy gì làm "vững dạ" thì còn hòng chộp ai? Nhục chưa? Bịp đã lũa đến như mình, đánh tài bàn hụt đến bốn cây mà đến nỗi sa hố! Không thằng ngồi bên tay phải thì lại thằng ngồi bên tay trái, không thằng ngồi bên tay trái thì lại thằng ngồi bên tay phải, chỉ hai chúng nó chuyên nhau phỗng tay trên, ù tay trên mình!... Cái sự bí mật lạ lùng này, tôi biết hỏi chúa Jésus, hỏi Phật Thích Ca hay hỏi Ma Quỷ?... Đứng lên, tôi thua 18 đồng. Cái mặt một thằng mất trí khôn là mặt tôi lúc ấy vậy Không nói, các anh đủ biết là tôi đã tức đến cực điểm. Cái tâm lí bọn cờ bạc, nói ra thì lẩn thẩn, nhưng chính nó lẩn thẩn thế đấy. Có khi mình ngồi vào chơi cao thấp mà thua cũng còn có thể hộc máu ra được, huống hồ đã cho người ta là mòng mà đến nỗi chính mình lại bị đạn, đủ hiểu uất đến đâu Đã tức vì thua, tôi lại còn thêm vì chúng nó đãi tôi lịch sự một cách quá đáng nữa. Có đời thuở nào lại có chuyện rằng mình là bạn cờ bạc với nó, khi mình từ giường tụt xuống đất thì đã có một thằng cúi xuống tự bao giờ ấy hai tay đưa giày cho chân mình đặt lên cẩn thận bằng cái dáng điệu ả đào nuông chiều quan viên không? Rồi chúng xúm xít lại mời tôi uống nước, đánh diêm cho tôi hút thuốc lào. Lúc cáo thoái ra về, tôi lại được chúng tiễn ra tận cửa. Tôi quay đầu lại bắt tay từ biệt chúng, tình cờ thấy thoáng qua mắt, nhanh như một cái chớp, hình như có một đứa bé mặc quần áo trắng từ gầm giường bò ra, rồi, như một con cuốc vừa nhoáng một cái, đã lủi mất vào nhà trong. Tiếc rằng lúc ấy mình đã "ăn ớt ; nhiều mắt bốc hoả dữ, không được rõ lắm, phải ngậm miệng cóc ra về. Một thằng tiễn tôi đến tận hè rồi ân cần: Thôi kính ông về, tối mai có rỗi xin mời ông xuống chơi, lạy ông ạ. Mình cung chắp tay cung kính: "Không dám, lạy ông ạ". Nhưng trong óc có câu này: "Thôi đi tiên nhân các anh". Các ông cờ bạc bịp bên Tàu, bên Nhật, bên Anh, bên Pháp, những ông bạn "đồng nghiệp" Đông phương với Tây phương của tôi đâu? Các ông xin nhớ rằng nếu có sự "Đông Tây gặp nhau", có sự hỗn hợp của hai cái "văn minh" Đông Tây thì sự ấy cũng đến thua kém cái tinh tuý của cờ bạc Việt Nam chúng tôi, cái đất có một canh tài bàn tay tư không tiền tuyệt hậu, ba tay ngồi trên ghế ngựa tử tế, còn một tay nữa, đánh ở dưới gầm. Sau một hồi cười rũ rượi của tôi với anh Xuân, nó khiến anh Vũ cũng phải cười nốt, tôi hỏi anh Vũ đến sự anh định rửa thù. Anh ta nói rằng không khó gì, rồi anh sẽ quay lại cái "hang hùm nọc rắn" ấy một lần nữa. Anh sẽ không ngồi dựa lưng vào tường như trước nữa, sẽ dồn hai thằng cha ấy vào ngồi vào chỗ anh ngồi trước... rồi mà xem! Câu chuyện Bịp già gặp bịp non này dắt tác giả phải thuyết đến vấn đề sự làm quen nhau trong làng cờ bạc. Đây lời Vũ triết lí: Tôi đã nghiệm ra rằng nhờ ông Thần Đen Đỏ. Ôi, đám bạc ! Đám bạc! Còn cảnh tượng nào đáng cho người ta chúc tụng hơn đám bạc! Trong cái đám người "tứ xứ" ấy, ta thường thấy có cả ông tai to mặt nhớn "bỏ quên" ở nhà cái giọng phong lưu, phệnh phạo, quát thét, để húc nhau với bọn vẫn mang tiếng hạ lưu một cách loã lồ; ta thường thấy những cô, những bà đài các ra phết, ngồi kề đùi, len vế lẫn lộn với bọn người mà... , nếu ở ngoài đám bạc, dễ thường các bà chỉ liệt vào hàng đầy tớ hoặc cu li. Những nhà xã hội học đâu? Những ông tha thiết thường đời đâu? Sao không cầu đến Thần Đỏ Đen? Tôi có cái tư tưởng ít ai nghĩ tới là bỏ luật cấm sự cờ bạc, cái sự giải trí của loài người rất có thú say sưa ấy, tôi muốn khuyến khích nó, cổ động cho nó mạnh lan rộng, than ôi! Tiếc thay! Sốt ruột vì cái luận điệu rồ của Vũ, Xuân gạt lời: Thôi, xin ông, van ông ! Sao mà ông... phẫn thế? Bây giờ anh Vũ mới nói giọng thường: Chứ không ư? Vì lẽ gì, bác có muốn biết? Trước hết, bác hãy nên biết cái lẽ mẹ ấy đã; hai thằng cha kia mời được tôi đến tận nhà đánh bạc là bởi lão Đại Thiềng giới thiệu cho chúng tôi biết là hai ông phán nhà băng trong khi đồng thời, lão rước tôi lên nhà ông phán Thống sứ 1 ! Tôi tưởng... chắc hai thằng cha kia cũng tưởng... thế là ba thằng quen nhau, ấy cái bọn cờ bạc dông dài chúng ta kết bạn nhau một cách dễ thế đó!... Nhưng hôm nay tôi đã tỉnh ngộ. Hai thằng cha kia mà tôi vẫn tưởng là bử, té ra chỉ là hai ông thợ giày... mà lại thợ giày bịp non! Đang vui câu chuyện, hốt nhiên anh Xuân bắt tay tôi rồi ra nhảy lên một chiếc xe, bảo xe kéo một mạch. Tôi còn ngơ ngác... ông ấm đã tiến đến trước mặt tôi rồi. Ông ta nói: Đó biết mà! Nó lẩn mặt tôi. Chúng tôi vẫn mang cái bộ đãng tử đi nghênh ngang giữa phố từ nãy đến giờ. Ông ấm tiếp : Tôi sở dĩ trọng Xuân là vì hắn có mẽ người, trông không lộ tẩy. Phái hắn đi đến những chỗ sang trọng phong lưu, tôi rất vững dạ, còn những anh khác tôi vẫn sợ vì nó có vẻ... bịp thế nào... ! Ôi ! Cái vẻ mặt bịp của một con bạc bịp sao mà nó khó tả! Nếu dịch địa vào những người khác thì đủ mặt nhân vật của cái làng b... này, không một anh nào là tôi không nghi. Lắm khi tôi nghi cả tôi nữa. Đại khái lúc ngồi vào một đám bạc, mỗi cử chỉ của mình đều giữ gìn cẩn thận đấy nhưng mình vẫn cứ vơ vẩn nghĩ đến câu không biết hình như có anh nào nó khẽ nói : "Thôi đi, bịp ! Bịp ! ông đã thừa biết, mày đừng có vờ đóng kịch vai ông hậu, ông quan!" Nói xong, ông ấm cả cười. Rồi ông thêm: Thế mà thiên hạ họ không nghi ngờ gì ! Đủ biết họ cũng mù thật ! Đến lúc ông đã vui, tôi mới lựa lời hỏi ông về một câu nói khiến tôi băn khoăn mãi: Thế cụ có giận Xuân không? Cũng giận mà không giận. Không giận vì người ta có quyền tìm một con đường tự lập. Mà giận là vì những cử chỉ của Xuân có tính chất đê hèn. Chúng tôi ấy à? Đã làm nghề này thì ít ra chúng tôi phải có nghĩa khí trong sự ăn ở với nhau cũng như bọn Lương Sơn Bạc! Dù là bịp là cũng phải có một phương diện cho thiên hạ phải phục. Còn như Xuân... thì thôi! ! Đến đây, ông ấm thất vọng, giơ tay lên giời, ông lại nói: Hiện nay, hắn đang chung lưng với một người nữa làm cái sòng ở Chợ Chu. Thôi, dù hắn có những chứng ăn mảnh với bồng tiền, tôi cũng sẵn lòng tha thứ cho, tôi cũng chỉ mong cho hắn khá! Bồng tiền, thế là cái gì ạ? Bồng tiền là được nhiều nhưng về khai man. Thí dụ tôi phái hắn đi bắt mòng, hắn lại được độ năm chục. Hắn kêu là được có ba chục rồi lại cưa nứa, thành thử tôi được chia có mười lăm đồng. Nhưng tôi có đâu tẹp nhẹp mà phải nói này nọ. Tôi biết vậy mà thôi. Cái tính ăn gian, ăn cắp là cái tính loài người, tôi làm gì được! Như lần hắn sang Bắc về, chắc ông thừa biết. Hắn kêu chỉ lấy có hai chục mà để cả bốn chục cho xừ Vân. Thật vậy hay không, nào tôi có biết! Tôi vội phải làm trạng sư ngay cho người vắng mặt: Có thế thật chứ không phải hắn hụt tiền đâu. Tôi xin cam đoan với cụ... Ông ấm ra vẻ nghĩ ngợi, gật gù... Nhưng ông lại kể lể: Nhưng việc đó chưa đủ đảm bảo cho cái lương thiện của Xuân. Vì rằng đã có lần hắn bồng không thoát. Tối ấy, đi đánh xì về hắn lại đằng tôi ngủ và kêu là được năm chục đúng. Tôi đem lòng ngờ, chờ cho hắn ngủ say rồi mới dậy khám. Tôi sờ khăn sờ áo lục cả giày. Không thấy có gì, tôi tháo bít tất hắn ra. Tôi thấy bốn giấy con công nằm trong hai bít tất! Tôi giữ lấy tiền, lại đi tất vào y nguyên cho hắn, không nói năng gì. Hôm sau đấy, sau khi cưa nứa đâu đấy rồi, hắn sờ xuống tất, có vẻ ngạc nhiên. Ngạc nhiên mà không dám nói ra mới ức ! Tôi cứ mặc cho hắn đem cái ngạc nhiên ấy về nhà. Anh Vũ thêm câu này: Xuân còn là người nguy hiểm, có thể giở mặt cả với bạn hữu.Chương 11: Tấm Lòng Đi Bịp, Từ Nay Xin ChừaTôi đã về Bắc Ninh được ngót nửa tháng. Trong nửa tháng ấy, tôi không được chút tin tức gì về mọi sự hoạt động của làng b... nữa, ngoài một lá thư của anh Vũ gửi sang hỏi thăm mấy câu làm quà. Nghĩ mà giật mình đến cái thời gian trong hơn ba tháng trời lăn lộn với đủ mọi nhân vật của làng bạc bịp, đến cách tổ chức của họ, đến những bi kịch do những tay săn mòng gây cho những gia đình của bọn tín đồ "tôn giáo đỏ, đen". Không phải tôi có ý kết án bọn bạc bịp. Nếu ở đời này, trong tình bằng hữu còn thấy có dây những vết nhơ bẩn của sự tài lợi, trong nhiều cuộc hôn nhân còn thấy có cái tính cách buôn bán và trong mọi sự buôn bán vẫn có nhiều mặt trái thì trong sự có bạc, có lẽ có mọi ngón bịp, chỉ là sự tất nhiên, rất thường. Chỉ có cái máu cờ bạc của loài người là khiến tôi không thể hiểu được, phải băn khoăn. Sáng hôm sau, cụ phán phàn nàn với tôi: Không hiểu thằng Vân nó làm gì ở Hà Nội mà mãi nó chưa về. Đây này, nó lại viết giấy nã tiền tôi lần nữa đây. Chuyến trước đi, đã lấy hai chục. Bây giờ lại xin chục nữa!... Lần nào nó cũng kêu là để chạy việc, tôi biết có nên tin nó hay không. Tôi đỡ lá thư, nhìn đến đoạn có ngón tay của cụ phán chỉ... "Con phải chờ có lẽ đến năm hôm nữa mới biết tin tức đích xác được. Nhận được thư này, thầy gửi ngay cho con chục nữa để cho con tiêu pha, xe pháo, và thù tạc với mấy người đang lo việc cho con... " Cụ phán cúi đầu, nhìn tôi một cách trông buồn cười là phóng nhỡn tuyến lên bên trên đôi mắt kính. Thấy tôi không phán đoán thế nào, cụ chỉ lắc đầu bỏ thư vào túi rồi quay đi. Cụ ra ngồi bàn kéo một hơi thuốc lào rồi trầm ngâm nghĩ ngợi. Tôi quay mặt đi chỗ khác để mỉm cười. Một lát sau, cụ hấp tấp mở ngăn kéo, lại chìa cho tôi một phong thư nữa. Đây này, quên mất, còn lá thư này nó viết cho anh đây. Thư của anh Vân, mà lại vào trường hợp này thì tôi phải đọc một cách giấu giếm theo lối "gái ngoan" đọc thư của nhân tình mới được ! Tôi lên gác, khép cửa cẩn thận, đoạn mới xé phong bì... Hanoi, le 20 juin 1933 1 Chú Ph... Đêm hôm nay, tôi nằm trằn trọc, không thể nào ngủ được, chuông đồng hồ vừa đánh hai tiếng mà phải ngồi dậy, vặn đèn để viết thư cho chú đây. Gớm, sao mà may hôm nay tôi thấy xảy ra nhiều chuyện quá! Thôi, chuyến này thì tha hồ chú được nghe cái mới, cái lạ, kẻo không lại bảo thư tôi viết cho chú ít khi được "có vị ". Chỉ tiếc rằng nó toàn có một vị cay, chua. Nhưng chỉ cay, chua riêng cho tôi thôi, còn chú là người đọc thư thi chắc rằng sẽ thấy thư thú vị hết chỗ nói! Chẳng lẽ tôi lại dùng cái giọng "em chết mất anh ạ" của trai gái trong những tiểu thuyết bi tình; dù sao tôi cũng cố gượng cười, chỉ mong thư không đến nỗi khôi hài đã là may. Tôi đau lòng quá, chán đời quá, khổ quá, dễ thường đến hoá ra... thi sĩ mất! Đã cay bởi thua bạc, chán nản bởi khan xu, lại đau đớn trong tình trường. Không hiểu những bậc thánh hiền thuở trước chán thế sự, phải lên núi tu tiên, thì lúc ấy, những cảm giác của các bậc ấy nó lâm li thế nào, nó thống thiết thế nào, chứ cái đau lòng của tôi lúc này thật cũng có thể khiến cho tôi đủ chán đời rồi lên núi tu tiên. Chỉ sợ nước Nam ta vào bây giờ, trên ngọn núi nào cũng có tổ tôm, tài bàn, xóc đã, ích xì thì thôi!... Thôi... Lên đến núi rồi, tôi cũng khó lòng mà thu được vì rằng chú phải biết bọn Mường, bọn Mán ở các núi bây giờ cũng đã biết tổ tôm, tài bàn đủ ngón rồi, văn minh ghê. Cho nên trước khi lên núi tu tiên, tôi cứ băn khoăn mãi không biết là mình sẽ thành tiên hay không khéo lại ra một ông "ấm B... con" thì thật vô phúc cho cả núi. À này, quên đi mất, tôi có một việc tối quan trọng, cần phải chú giúp sức cho, việc may ra mới có hi vọng thành. Cùng chuyến xe lửa với lá thư này, tôi có gửi cho ông via "phịa" chuyện xoáy ông ấy chục bạc nữa đấy. Tôi lấy cớ chạy việc, chú phải đứng ngoài làm hậu thuẫn cho tôi, tôi đến phải gói cơm nắm, muối vừng, kéo bộ bò về mất. Mà ức nhất là cuộc "cổ động thể thao" ấy, nếu sẽ có thật, mình tất rồi chẳng có người đón rước, dâng hoa với chụp ảnh kỷ niệm như các tiểu thư đi bộ Hà Nội Hải Phòng thì cực đến đâu. Thôi, đừng lo, tôi sẽ có cách nói dối ông via lần thứ nhì về công cuộc "chạy việc". Ngoài chuyện này tôi lại còn nói với chú nhiều chuyện khác: Theo lời hứa của ông ấm sẽ đi cùng tôi xuống nhà lão Sinh điều đình việc lấy lại số tiền ba chục mà tôi đã thua xì (chuyện này chắc chú còn nhớ rõ lắm), thì đúng 6 giờ chiều hôm ấy, tôi quay lại toà nhà phố Hàng Cá, trong lòng chứa chan hi vọng ở ông... quân sư. Đến nơi, người nhà ông kêu ông đi vắng. Rõ cái ông ấm ranh mãnh ấy, buổi trưa vừa nói thế, chập tối đã quên khuấy ngay mất, lại đi săn mòng! Thành thử mình phải một đêm trằn trọc, chờ mãi mới thấy sáng. Bảnh mắt hôm sau, tôi lại đến tìm ông ấm. Ông ta nể lời, đêm trước cũng thức suốt đến sáng mà không dám ngủ nữa, chiều ý mình, dậy đi ngay. Xuống đến nơi... sau khi nói rõ mọi ngón của nhau, giới thiệu nhau là "đồng nghiệp" đâu đấy rồi, lão Sinh nhe răng ra cười trừ rồi đưa ra được sáu của... Thế thì hỏng. Tôi đã tiêu pha cả rồi, chỉ còn chỗ này đây thôi. Ông cứ cầm, bao giờ có con mòng nào, tôi sẽ đền ông sau vậy... Đau chưa? Nhưng còn sáu đồng thì cũng còn hơn không, tôi cầm. Rồi tôi đi lùng con Dung. Nó lẩn mặt hoài, tôi phải cuốc khắp mọi nơi, lùng như linh mật thám lùng kẻ cắp mãi mới tóm được nó. Đứng trước mặt nó, vì nghĩ rằng to tiếng bao nhiêu chỉ tỏ dại mặt, vừa phần tức quá cũng không nói gì được nữa, tôi trợn hai con mắt nhìn nó trừng trừng. Con khốn nạn! Nó dám mở miệng viện những lẽ thế này này: Sự đã xảy ra rồi tuỳ lượng của cậu đấy... Em là kẻ còn ở với người ngày nào, người ta bảo gì mà em không nghe. Vì bần cùng nên em phải lừa dối cậu. Nếu cậu muốn không bao giờ sẽ xảy ra những chuyện mà em phải dúng tay vào một cách đau đớn như chuyện này nữa thì tìm cách tháo cũi, sổ lồng cho em đi... Rồi nó cúi mặt xuống, cố rặn mãi ra cái vẻ đau đớn ! Ái chài Nhưng thôi, tôi chẳng dại như xưa mà cảm động xằng mãi... Chỉ đứng nhìn cái bộ mặt đóng kịch của nó mà thôi. Đáng buồn chưa? Cái mặt nó đáng hôn thế mà cái tâm địa nó giả dối thế, đểu cáng thế! Sau cùng, vi nghĩ rằng mình dan díu với nó bởi lẽ dục nhiều, tình ít, tội gì mà phẫn, liều, cũng phải vờ làm ra vẻ sẵn lòng tha thứ nó, tôi không nói gì cả, lẳng lặng quay gót đi. Dù trận bão nổi lên trong cốc nước thì trong cốc cũng phải có sóng, lẽ tự nhiên, tôi cũng có chút đau lòng cái đau đớn của một "thi sĩ" đến một bàn kem ở Bờ Hồ. Tình cờ, tôi gặp tham Ngọc. Lần thần không biết tôi nghĩ thế nào mà lại kể lể tâm sự cho Ngọc nghe!... Rồi lại đưa cái ảnh Dung đứng quàng cổ tôi cho Ngọc xem nữa. Rõ khốn nạn! Lại thêm một cuộc tai biến nữa: Ngọc tái mặt, kêu Dung với hắn đang cùng nhau "chỉ non thề bể, nguyện một chữ đống" ! Rồi Ngọc thề là quyết sẽ cho nó một trận cho mà xem... Nghĩ thật khôi hài: cái anh chàng đã đi bịp thiên hạ, tưởng còn lép nước gì, té ra trong tình trường cũng yếu, linh hồn cũng hoá ra mòng, cũng quých. Ghen với ả đào, anh chàng này đã ngu hơn tôi. Khi chia tay nhau, Ngọc nói một câu nửa thật nửa đùa rằng: "Bác đã phá hoại mất... hạnh phúc của tôi, rồi phải đền tội mới được ". Thằng khốn nạn, câu tôi tưởng đùa, té ra nó thực hành bằng được. Một buổi tối, cách vài ngày sau cuộc vỡ lở ấy, tôi được một canh xóc đĩa ngót 40 đồng. Sáng hôm sau, tôi còn nằm uể oải trong chăn, nó đã đến lôi tôi dựng đứng dậy. Rồi nó xưng xưng, nó nói: Bác vừa phát tài mà tôi túng quá, giúp tôi một ít cho tôi tiêu. Tôi cũng nể, hỏi: Bác lấy mấy đồng? Nó: Độ chừng bốn chục. Bốn chục? Bốn chục??? Thế thì ra nó định bóc lột tôi ư?... Tức quá, không chịu được, tôi gắt rằng: Tôi được có bốn chục mà bác đòi lấy cả bốn! Bác vô lí quá!... Nó điềm nhiên, dịu dàng: Bốn chục cũng không có nghĩa gì cả! Tôi dồn một hồi: Thế nào mới có nghĩa? Thế nào? Bao nhiêu??? Nó vẫn điềm nhiên: Danh giá bác còn to hơn. Tôi nghĩ mãi, không hiểu ý nó thế nào. Sau nó giơ ra cái thư tôi đã gửi cho ấm B... khi trước: Cái này gửi về hầu cụ còn to chuyện hơn. Thì ra (lạ chưa?) lúc tôi viết thư ấy thì không thấy gì mà bây giờ chỉ đọc tôi cũng đủ xấu hổ. Rành rành bút tích mình đó, lại cả đến câu: chính ông thân tôi là mòng. Nguy chưa? Chuyện này sở dĩ mà có, nó sở dĩ giở mặt được với mình cũng chỉ tại cái ảnh con Dung quàng cổ mình đây! Nó bắt chẹt tôi ý như ông ấm B... bắt chẹt Nguyễn Đinh Mầu khi xưa vậy! Sau khi tôi trao cho nó bốn chục rồi, nó nhăn răng ra cười, trả tôi cái thư mà rằng: Có dịp khác, tôi sẽ trả lại bác! Cảm ơn!... Thôi tử tế vuốt đuôi kể gì. Thành thử bấy giờ mình thành ra trần, trong túi chỉ còn một hào hai! Chú cố trợ lực tôi, thuyết ông cụ mau gửi tiền cho tôi để tôi về chứ quần áo, mũ giày, sang trọng thế này, nhỡ đi ra đường, chạm phải hàng bánh đa thi khốn. Thôi, tôi xin kệch đến già. Làng B... có nhiều nhân vật khó chơi quá! Vậy chú giúp tôi đi, tôi lạy chú. Bái thư Vân TB. Hôm nay tôi bói Kiều, nhìn đến dòng: Tấm lòng trinh bạch, từ nay xin chừa. Tôi thấy ứng vào cái lòng "cải tà quy chinh" của tôi. Vậy xin đổi rằng: Tấm lòng... đi bịp, từ nay xin chừa vậy. Tôi chưa hết cơn buồn cười, bà cụ, đẻ anh Vân, đã đẩy cửa phòng bước vào hỏi: Vân nó viết thư nói những gì với anh? Tôi phải làm một bộ mặt rất nghiêm: Anh con bảo còn chờ dăm ngày, có hi vọng thành việc ! Bà cụ quay ra, xuống gác. Tôi thấy giọng lanh lảnh của bà cụ cự ông cụ: Ô hay! Việc nó là việc cần, sao ông không ra nhà Dây thép đi mà còn ngồi mãi thế? Rồi thấy ông cụ gắt lại: Tôi biết rồi, làm gì mà bà phải rối lên? Khốn nhưng tính ông cứ đận đà... Chứ không đận đà à? Việc gì mà vội? Giọng bà cụ thấy mỉa mai, gay gắt thêm mấy độ nữa: Phải rồi! Thằng Vân nó không là con ông! Dễ thường nó là... con riêng tôi đấy ! Tiếc thay, anh Vân lại không ở đây, lúc này...Chương 12: Nạn Kinh Tế, Sở Liêm Phóng Với Ông Ấm B...Hai ống quần của tôi, lúc này nếu đem gột tạm thì mấy gáo nước dội vào nó tất thành một thứ nước có phù sa; đôi giày tôi dận có đến mấy lớp bùn bao bọc quánh lại, trông không thấy giày đâu nữa, thật là hai cái chân một bác thợ cày. Cái áo tơi của tôi hầu như đã ngấm lâu vào nước và cái mũi thì thật là hai cái ống máng lúc giời mưa to. Ấy tôi ăn mặc như thế, đang đi tìm một người. Nếu tôi đã có thêm được cái đèn và cái thùng thì tôi đã thành ông Diogène 1"cả xương lẫn thịt". Mời ông ngồi chờ cho một lát, ba con cũng sắp về rồi, chỉ độ 15 phút nữa thôi... Đó là lời cậu con trai ông ấm B... , một đứa trẻ kể vào hạng thường ra thì chưa biết gì nhưng sinh vào cửa con một người như ông này, đã thành ra rất tinh khôn, ăn nói lễ phép, xem ra ý có thể được giáo dục cho một cách chu đáo lắm. Tôi kéo ghế ngồi, vẫn nóng ruột lắm, nhưng cũng dễ chịu: sống lưng được dịp đỡ mỏi, hai ống chân đỡ nhức. Ngoài giời, như một đứa trẻ tinh nghịch, sau mỗi lúc ngót được dăm phút lại tuôn nước xuống ào ào. Đã sang hè rồi, không ngờ còn có trận mưa ít có ấy: suốt từ sáng đến trưa! Suốt từ sáng đến trưa, tôi đã đội giời mưa đi lùng gần khắp Hà Thành, thoạt đầu đến gõ cửa nhà ông ấm này, vì chủ nhân vắng nhà, tôi lại chạy lại đằng kí Vũ, kí Vũ bảo xuống tận ô tìm nhà lão Sinh, lão Sinh lại mách tôi nhà của tham Ngọc ở tận gần ô Yên Phụ để cho sau cùng tham Ngọc lại tống cổ tôi bò về đằng ông ấm B... Mang trong lòng cái bực tức, trong hai chân ngót mười cây số đã đến lúc không sao được nữa, tôi vẫn chưa xong cái phận sự: tìm một người. Một vị quốc sĩ nào mà quốc dân giao cho tôi cái phận sự đi cầu chăng? Hay đó là con ông Hoàng, bà Chúa nào lạc mà tôi, một kẻ gia nhân, tôi có bổn phận đi tìm? Hay là... hay là... ông cụ nhà tôi sống lại đấy? Thưa không ạ ! Người tôi phải đi tìm chỉ là một người thường như chúng ta cả, hoặc khác chúng ta là hiện lúc ấy không biết là bịp hay là mòng đang đóng cái vai "Càn Long du Giang Nam", ông anh tham quý hoá của tôi ông Vân đấy. Sau khi ra dây thép mua ngân phiếu gửi sang cho ông con chục bạc rồi, ông bố với bà mẹ ở nhà đêm ngày chờ tin. Một tờ lịch bóc, hai tờ lịch bóc, ba... mười, mười hai, mười sáu tờ lịch bóc, không thấy tăm hơi gì, ông cụ phán, bà cụ phán đến phải hoảng cả lên như có đứa con lên năm vừa lạc đâu mất vậy. Nhà giàu, con một, sau khi cho cả ông thân sinh ra mình vào xiếc rồi, anh Vân đã về Hà Nội, rồi gây cho cha mẹ cái cảnh "bụi hồng khuất nẻo dứt đường cá chim" kia. Do đó, việc tôi phải về tìm... Tìm một người đã bước xuống âm cung để dỗ dành cho quay về Dương thế vậy. Thầy không có nhà à? Hở em? Tôi quay lại xem ai cất giọng thì thào to nhỏ ra vẻ bí mật ấy. Thì ông Mỹ Bối!... Ông ta nhìn tôi, khẽ gật đầu một cái rồi mỉm cười. Tôi phải cố nhịn cười vì trước mắt mình thật là một vai com mích 2 đặc biệt, đại đặc biệt. Ông ngồi chờ ông ấm thế chắc ông ta cũng sắp về thì phải. Vâng... Rước ông cứ lên. Ông khệ nệ lên rồi kéo ghế, ngồi đánh sình một cái. Nghĩ bụng: mời ông ta bằng câu "rước ông" cũng phải. Thế nào, Hà Thành độ này có gì lạ không, ông? Chẳng có gì lạ... Vẫn săn mòng, két như thường. Ông phát tài? Phát tài phải gió ! Sao ông bảo vẫn săn mòng, két như thường? Đã đành thế rồi mòng, két vẫn có đấy nhưng ít con có lườn lắm, mà tạ mỗi ngày một đông tấy lên, chia năm xẻ bảy đi, còn ăn thua gì nữa! Số tạ đông lắm à? Hiện ông biết thì độ bao nhiêu? Ông Mỹ Bối lắc đầu: Không đếm được !... Bằng cát tó duy dê 3 ... Gớm, đông đến thế kia? Thế thì nguy cho bọn mòng lắm nhỉ? Nào nó có nguy chi cho mòng! Nó lại nguy cho b... mới cực chứ!... Ông nghĩ kĩ sẽ hiểu: bọn "sộp" xưa nay là mòng nhưng nay đã thành b... cả thì nguy cho b... hay cho mòng? Tôi tìm câu kết cho lời nói chí lí ấy: Nói cho cùng, chỉ tại kinh tế thôi. Ông Mỹ Bối thở dài: Tại nhiều ông ạ. Tại nạn kinh tế khủng hoảng tại ông ấm, tại ông, tại tôi ! Chính chúng ta đã quá tay, đã quên mất công cuộc gây mòng. Không nuôi mà cứ nhổ tất phải diệt. Rồi Thần Đỏ Đen sẽ phải bông xua xứ này mà đi. Bảo đó sẽ là một việc đáng đốt pháo mừng cũng được hoặc phải ngẩn ngơ tiếc, tuỳ ý... nhưng tôi hãy hỏi ông đã nhé: Nếu hết nạn cờ bạc, chiến công bội tinh hạng nhất đáng về phần ai? Đáng về cả ba thì mới phải. Không được, ông nói thế, ông nhầm. Người ta dù xo rụi về kinh tế thế nào mặc lòng vẫn có thằng đánh bạc. Sở Liêm phóng 4 vẫn hết sức tầm nã nhưng thế nào cũng không thể bắt giam hết được những quân cờ bạc. Ông có biết những quân gá chứa bây giờ có những thủ đoạn gì không? Việc đóng cửa cài then cho kĩ lưỡng đã đành họ phải cẩn thận rồi, nhưng bây giờ họ thường làm vài mâm cỗ nữa. Bàn thờ có đèn hương cẩn thận, bọn "con công đệ tử cứ" việc tha hồ ngồi chầu Tổ, nhỡ ra có cớm thì... bài họ vứt vào hoả lò trong khi một thằng nhỏ ra mở cửa, con sen ở trong đã bưng cỗ xuống chiếu bạc rồi. Sở Liêm phóng vào?... Thì người ta ăn uống về việc hiếu, hỉ! Nếu đầu chạy đuôi lọt thì, canh bạc tan rồi, người ta cũng... chén! Cái lối vừa gá bạc vừa bán cao lâu ấy lại càng lợi thêm cho chủ gá vì nó có tính cách rình người. Sở Liêm phóng chẳng thể độc lực trừ nổi nạn cờ bạc, dù có nhiều người chỉ vì đánh chắn cũng bị toà phạt mười sáu quan tiền Tây 5. Nhưng ông cũng là b... tôi cũng là b... ai cũng là đồ đệ hoặc chim mồi của ông ấm B... thì... hỡi ơi thương thay !... Làm sao cho cứ có mòng mãi được ! Ông nói cũng có lí lắm. Thật đấy, chính tôi đã biết những anh xưa kia vẫn bán giời không văn tự cả, nay cũng tu chí, cũng hoá ra bụt cả rồi. Đã cờ bạc thì phải ngồi với người lạ thì mới húc được chứ trong anh em thân nhau, còn thịt nhau lấy cái gì? Mà ngồi với người lạ thì tất là bị bịp !... Có anh sợ bịp quá, sợ quá đi mất, đến nỗi đánh với anh em rất thân, đen rồi thua mà ngờ cả cho anh em có ngón! Thôi, chẳng qua là ông ấm đến lúc xấu số vì ông pô pu le 6 quá rồi... Danh vọng tôn sư đến lúc về chiều, chúng mình cũng liệu mà... hưu đi thôi! Ông Mỹ Bối nói câu này rồi rung rinh hai vai, trông khôi hài một cách lạ Tôi gợi ý: Ông nghĩ thế nào chứ tôi thì tôi đã bắt đầu chán nghề b... Không nước gì, suông lắm. Ông ta: Vẫn hay rằng suông nhưng tôi thấy nó có lắm cái hay hay thì tôi chưa thể... li dị nó được. Ở đời này, bao nhiêu sự ám muội tôi cũng muốn dúng tay vào hết, chỉ cốt để được từng trải mà thôi. Ông tưởng tôi sống được về nghề này à? Tôi chỉ lợi được về sự: biết cuộc đời đối với tôi mới thật là cuốn sách có giá trị. Nghề gì mà ám muội ông cũng muốn dúng tay vào? Chính thế. Mà dúng được vào thì khoái lắm. Những việc ấy tuy có hại cho người nhưng không có hại cho tôi. Anh em phố Hàng Bạc đã cột tôi là "người mà khối óc là một tủ sách chứa những ý nghĩ tinh ma" thật cũng không oan gì. Cái lối xử thế của tôi bây giờ? Tôi mang trong đời cái "nhân nghĩa" của một anh thầy cò và những lời "cam đoan" của một thầy lang chữa thuốc lậu! Những ý nghĩ này, phát lộ ra bằng một giọng ngạo mạn chứa chan những vẻ căm hờn, khiến tôi phải tưởng tượng đến những cảnh ba đào dồn dập về cuộc đời của con người nói nó ra. Tôi đánh bạo một câu: Muốn chừng ông cũng đã... cũng đã... từng trải lắm. Ông Mỹ Bối nhìn xuống chiếu: Đã nhiều phen lắm!... Xuống chó nhiều quá mà lên voi chỉ được một hồi. Hiền lành tử tế vào thời buổi này không sống được, ông ạ. Thời buổi này là thời buổi... bá đạo, ông có nhận ra không? Tôi đứng lên, bắt tay ông Mỹ Bối một cách chặt chẽ, nồng nàn. Ông đã mục tôi vào hàng tri kỉ nên mới... tâm sự đến bậc ấy, dù chúng tôi hãy còn trong thời kì sơ giao. Từ đấy, ông Mỹ Bối chỉ đăm đăm nhìn xuống chiếu, không nói thêm gì. Tôi để ông ta mặc thích ngồi trầm ngâm, giữa chúng tôi là một không khí im lặng. Tôi nghĩ đến cái lòng căm hờn của người ta có hai bậc. Tôi nghĩ đến những kẻ "đắc vị" rửa hờn: Tần Thuỷ Hoàng lúc đốt sách, Robespierre trước ngày Thermidor, Mussolini, Hitler 7... Rồi tôi nghĩ đến ông Mỹ Bối, hạng người "không đắc vị" nhưng khối óc cứ đi đôi với thời gian, cố nghĩ đủ mọi phương tiện để trả thù... Nhưng cái số đúng là bao nhiêu ở xã hội mình, những người cùng tâm thuật với ông Mỹ Bối? Kìa, ông sang bao giờ thế? Hai chúng tôi đứng cả dậy, ông ấm đã về. Tôi đáp: Tôi sang tối hôm qua. Sang chơi hay có việc gì? Sang tìm anh Vân... anh ấy đi lâu quá! Tôi tìm khắp cả mà không thấy không biết ông ấy có còn ở Hà Thành này không hay đã đem thiếc sang Tân Thế Giới rồi! Ông ấm cười : Ông nói đúng đấy ! Tân Thế Giới thực ! Mà Tân Thế giới ở phố Đường Thành kia! Ông ấm cởi áo ra, bỏ kính, lên ngồi giường, rồi tiếp: Ông Vân hiện giờ đang đóng một vai trò mòng giúp tôi. Chúng tôi ngẩn người ra, không hiểu. Làng b... xưa nay chỉ thấy nói đến vai thiện xạ, vai hướng đạo (chim mồi) chứ có thấy nói đến việc đóng vai mòng bao giờ đâu! Mà ông ấm, chơi ác, cứ bắt chúng tôi đấu trí mãi, cứ ngồi yên ngắm chúng tôi chớ nhất định không nói năng gì. Sau cùng, thấy chúng tôi chịu cả, ông mới xé "cẩm nang": Các ông chịu là phải lắm. Xưa nay không ai lại đóng vai mòng. Nhưng bây giờ tôi mới nghĩ ra được ngón đòn trá hàng thì việc kia phải có. Tôi có một Thị Mẹt ở phố Đường Thành, vốn là người "quen thuộc" tôi. Thị có một nhân tình làm thầu khoán đánh bạc thạo, dễ thường về xì cũng biết được lối đánh giác, nhờ Thị tìm hộ con mòng. Hôm qua, Thị lại tâu thế với tôi. Nghĩ bụng, mới nho nhoe ra đời đã đòi ăn thịt người thì cho chết; tôi mới rỉ tai cho thị biết cái ngón trá hàng. Tôi bày thế trận này: Vân vờ là mòng mà Thị tìm cho anh kia. Ngồi vào đánh, anh kia chắc yên trí là người yêu sẽ cản trở cho mình, nhưng té ra Thị lại cản trở cho Vân để vào Vân Nam, giấu biến đi cỗ bài giác của nó. Sa hố, nó tất thua to. Đến lần vào Vân Nam, thứ hai của Vân thì nó... phải chết. Các ông nên biết, người cản đã là một Thị Mẹt lúc bò nhoài ra với lấy bao diêm lại đè ngực lên đùi ông thầu khoán cho đùi ông thầu khoán "làm quen" với hai "quả dừa" thì... ối thôi!... Ông Mỹ Bối sướng quá, cười sằng sặc, vội hỏi: Thế cụ đã "xếp cảnh" đâu đấy chưa? Kịch đang diễn rồi. Bây giờ thì dễ thường đã hạ màn ấy! Tôi tháo giày, ông ấm vứt mấy cái gối ra giữa giường; ba chúng tôi nằm dài ra một lượt. Ông Mỹ Bối tán: Giời mưa thế này mà nằm tán dóc thế này thì còn gì khoái hơn! Ông ấm lại kể với ông Mỹ Bối: À này, thằng Năm Kèn, em lão chủ báo Tam Dân ấy mà... có đến van lạy tôi để lại cho hắn cỗ trạc xếch lưỡng diện. Thế à? Nhưng nó định bắt ai kia chứ? Thì Hàng Bạc có mấy tay sộp nhất là nó muốn thịt cả đấy. Nguyên sau khi thấy mấy anh chàng kia phải nhờ đến mình trong cái "Việt Hoa chiến kỉ" để thịt vợ chồng thằng Cắm, Năm Kèn tưởng mấy tay kia bây giờ bử lắm... Nhưng họ đã gỡ đủ số tiền thua thằng Cắm đâu? Thì đã đành, đòn Vân Nam của mình địch thế nào lại với đòn... đòn... ăn non của thằng Cắm được ! Đã đành phải nhờ đến b... là mình, mấy "quan hàn" chỉ tổ mang tiếng mà chung quy, thua vẫn hoàn thua. Nhưng nào thằng Năm Kèn nó có nghĩ thế ! Nó tưởng bọn kia phát tài lắm, cũng có thể sắp đi đấu xảo ngoại quốc rồi. Cho nên nó mới muốn tậu khí giới của mình, ý ông nghĩ sao? Nhưng nó trả bao nhiêu chứ? Nó trả tới hai chục rồi, nhưng tôi còn muốn bóp nữa. Thôi, cứ để quách cho nó đi. Hai chục bạc vào lúc kinh tế này, cũng là một số tiền đấy. Nhưng cỗ trạc xếch lưỡng diện đối với nó lúc này cũng là... ken cờ sôi 8. Có đồ nó ngu! Bắt thế nào được họ? Có hoạ nó về cất mả lại. Thấy người ta ăn cũng gắp... bỏ bị... cụ cứ để quách cho nó đi ! Để cho nó là làm ơn cho nó và cũng là giết nó. Chắc rồi nó cũng đến sa hố mất. Cái thằng anh nó cũng đã có lần bị vào xiếc đấy. Trăm sáu mươi ba đồng bạc một canh tài bàn. Ông chủ báo mê gái, ông chủ báo híp mắt lại, ông chủ báo vào cạm. Mà bịp là thằng nhãi con, thằng Vũ chứ đâu cần phải thánh thần như ai ! Ông Mỹ Bối kết luận: Trò đời thế thì lắm cái tuyệt thật! Giời xem chừng đã tạnh mưa. Phố xá đã có chỗ thấy rọi sáng những tia lửa rơi qua cái "sàng" mây dưới mặt giời... Tôi đứng đây chờ chứ vào làm gì? Nhỡ ra "thằng nhân tình" còn đấy, mà nhỡ ra xưa kia đã có lần mình cho nó vào cạm, nay nó nhận ra mặt mình thì khốn. Hai ông đi vào, lượn qua nhà không thấy người nào lạ mặt thì ra hiệu cho tôi... Nghe lời dặn, tôi với ông Mỹ Bối tránh những vũng nước, tìm lối vào một cái ngõ trong Đường Thành. Khi nhận thấy số nhà rồi, tôi liếc mắt nhìn vào trong. Một người đàn bà đang ngồi chống nẹ ở giường nói nói, cười cười với một người nữa, vận Âu phục, ngồi quay mặt vào phía trong. Giữa bàn là một tập giấy bạc. Thấy chúng tôi, người đàn bà ngẩng lên nhìn khiến người đàn ông cũng quay đầu ra nốt. Tôi quay lại vẫy ông ấm. Người đàn ông là anh Vân ! Rồi ba chúng tôi kéo ùa vào nhà. Ông ấm trách: Mãi không báo tin cho người ta biết! Làm người ta cứ sợ không khéo sa hố mất rồi. Anh Vân nhe răng ra cười: Người cản là... bà đầm này thì sa hố thế nào được? Mỹ nhân đỏ mặt, nhìn trộm tôi vì lúc nãy vừa bị đôi mắt thóc mách tôi bắt được quả tang cái vẻ lả lơi trước mặt anh Vân một cách thái quá. Tôi bấm anh Vân ra ngoài: Thế nào? Ông cụ, bà cụ bắt tôi đi tìm ông đây. Thế ông có định về cho hay không thì bảo? Anh Vân thản nhiên: Dăm hôm nữa, chúng ta sẽ cùng về. Tôi lộn cả ruột: Không thể thế được đâu ! Làm gì mà không được? Hay là chú cứ về trước đi vậy. Tôi tìm một câu thật đau đớn : Tôi lấy làm tiếc cho cái công trình ăn học của anh. Tôi tiếc thay, thương thay cho cả cái bằng Cao đẳng Thương mại... Anh Vân cau mặt, có can đảm nói xưng xưng: Chú nói dốt lắm ! Thế nghề b... không phải là Thương mại thì là gì?Chương 13: Cái "Lưới Nhện"Từ gian nhà ở ngõ trong Đường Thành ra đi, bốn chúng tôi cùng mỗi người có một vẻ mặt khác nhau như bốn thế giới. Ông ấm vẫn thản nhiên như người vô công rồi nghề đi dạo chơi phố xá, thản nhiên theo cái lối viên tướng võ lão thành, đã từng được bách chiến, bách thắng, đến nỗi một cuộc khải hoàn cũng chẳng đủ làm cho say sưa. Ông Mỹ Bối thì bao nhiêu cái vui cái sướng của loài người hình như lúc này đổ dồn cả trên mặt ông vậy. Ông là cậu bé đương được mặc cái áo đẹp, ông là bác nghiện đương lúc không có thuốc mà có kẻ vừa đến cho một hào. Ông nói nói, cười cười, theo lối mụ Tú Bà trông thấy Thúc Sinh. Anh Vân thì vẻ mặt vừa vui, vừa buồn. Vui vì được bạc, sắp được chia tiền, mà buồn thì lẽ thứ nhất là vừa phải chia tay với mĩ nhân và lẽ thứ nhì là cứ phải đi bên cạnh tôi, cái "trát hiện thành người" của cụ phán ông, cụ phán bà bên Bắc. Còn tôi, cũng không giấu nổi mọi sự tức bực, khó chịu... dù tôi vẫn phải gượng làm vui. Ông Mỹ Bối bảo ông ấm B... : Này, ta làm cuốc xe đi thôi chứ? Ông ấm lừ mắt: Ờ ờ!.. Rõ voi có khác, đã mỏi chân rồi à? Không mỏi nhưng mà muốn về cho nó nhanh. Thì việc gì mà vội nào? Cứ đi cho ung dung !... Trông thẳng trước mặt có hàng nước chanh, ông ấm bảo anh em: Ta vào nghỉ chân đây kia một lát đã! Chúng tôi không ai nói gì nhưng sáu cái chân bước đều hàng đã đủ đáp lời ông. Ngay lúc này, một chiếc xe nhà sơn đồi mồi do một tên phu quần áo hồ lơ xanh biếc chạy ngang mặt chúng tôi, bên trên có một người đã có tuổi y phục sang nhưng có vẻ người không sang, lông mày sâu róm, mắt lim dim như lúc nào cũng chói mặt giời, cúi đầu với ông ấm B... một cái. Ông ấm cũng vội đáp lễ. Thế là ông kia bảo ngay phu hãm đà chân lại, xuống xe. Lời ông ấm: Độ này, người anh em hẳn phát tài? Có gì ! Xuềnh xoàng đủ ăn... Quan anh hôm nay quá bộ lại tôi, tôi nhờ một việc cần nhé? Vâng. Nhưng ở phố nào? Ở phố Nguyễn Trải, số nhà... Tối hôm nay, quan anh đến chơi có được không? Được tối tôi xin đến. Đoạn hai người lại chào nhau. Ông kia lên xe, chúng tôi cũng vừa đến chỗ hàng nước chanh, nước đá. Kéo ghế ngồi, ông ấm phì cười: Rõ khỉ ! Cái thằng... nó lại gọi mình là quan !... Cái xã hội tinh những quan như mình thì thôi, "có phúc" chán! Ông Mỹ Bối hỏi: Ông ấy là ông nào? Ông ấm có ý ngạc nhiên về câu hỏi ấy lắm. Ông đùa nhả: Ô hay ! Thế cũng không biết à? Lão Thượng Ký đấy chứ ai ! Rõ bị thịt có khác, chả được bộ gì cả. Vào làng đỏ đen từ bao lâu nay, lại vào cả làng b... nữa, mà đến nỗi thấy lão Thượng Ký còn hỏi là "ông nào"!... Thì nào ai biết! Ông ấm quay nhìn tôi với anh Vân: Đồng nghiệp của tôi và địch thủ của tôi đấy. Tôi dùng chữ địch thủ cũng chưa được đúng, phải dùng chữ... kẻ thù mới đúng. Vì rằng, trò đời nó thế đồng nghiệp với nhau chính là kẻ thù của nhau. Không gì ghét nhau bằng bọn người cùng một nghề nghiệp. Nghĩa là chúng tôi không có... cơ quan để công nhiên chửi nhau như những ông nhà báo nên thiên hạ mới không biết cái tình đồng nghiệp của chúng tôi nó thế nào chứ, nói thực ra, nó cũng chặt chẽ khăng khít lắm. Chặt chẽ khăng khít đến nỗi có khi vì một con mòng, cũng đủ đâm lòi ruột nhau ! Chúng tôi đang trố mắt nghe, ông ấm lại ngừng. Ông vỗ túi đoạn lấy ví ra rồi : Chuyện ấy cũng lắm cái thú nhưng "nghe chuyện" này đã, còn lắm cái thú hơn. Anh em chưa ai rõ "số mệnh" của mình thế nào thì, xin lỗi anh em, tai dù nghe nhưng ruột vẫn nóng lắm. Ấy bản tính tôi thực thà, ăn nói có điều lỗ mãng, anh em cũng xá đi cho... Thì ra "nghe chuyện này đã" nghĩa là: hãy chia tiền cho dứt khoát đi đã. Ông ấm thật cũng hiểu cái tâm lí con người ta lắm nên mới có cái cử chỉ này. Ông lấy ra cái giấy hai chục, để trên bàn, về phía anh Vân, rồi xoa tay: Bẩm gọi là có chút... vi thiềng, ngài làm ơn nhận cho. Anh Vân cười, cầm lấy giấy bạc. Ông ấm quay lại nhìn ông Mỹ Bối đoạn đưa ra cái giấy năm đồng: Có cần tiêu không? Hay là voi, thì không biết... Ông Mỹ Bối: Voi thì cũng phải thích tiền. Cụ hỏi thế thì nhầm lắm. Tưởng loài người đã đến lúc chê tiền đấy ư? Ông ấm: Thế thì đúng đấy. Nếu chê, sao có là người. À, nhưng mà này! Ông Vân có lẽ hôm nay nếu ông là thằng thầu khoán, dễ thường ông khoái hơn là được chia tiền ấy nhỉ? Anh Vân ngơ ngẩn: Thế nào? Lại còn thế nào? Nếu ông là thằng thầu khoán thì dù thua, ông cũng được một chút sung sướng... Chúng mình tuy chia tiền thế này cũng thú thật nhưng nào có biết... những quả dừa to nhỏ thế nào đâu ! Anh Vân hiểu ra: Gớm, cụ già rồi mà còn đa tình thế !... Ấy nói cho nó sướng... nói để dối già một tí... Con ấy nó trơ tráo quá! Nó bò nhoài ra, vờ với bao diêm mãi, làm mặt thằng cha kia đỏ ửng lên như quả hồng. Đánh đòn Vân Nam mà lấy dừa ra cản thì tuyệt ! Những lúc ấy mình cũng muốn làm mòng hơn làm b... Cả bọn cười ồ lên khiến cô hàng nước chanh không hiểu lại sao lại tưởng khách trêu mình, cứ ngồi cắm mặt xuống. Ông ấm đến đây nghiêm nét mặt, lấy khăn tay lau cái cười: Nào, ta quay về ông Thượng Ký!... Người ấy mới thật là người đáng được nhận chiến công bội tinh hạng nhất nếu giặc đen đỏ sẽ phải bỏ xứ này mà đi. Hiện nay, người ấy chỉ mới đếm qua một cuộc đời vừa đủ vẻ trưởng giả thôi nhưng đến mai sau, đến cái ngày mà Thánh cho ăn lộc, theo sách tiền định thì nhằm vận "Đại chu nhập hải" mà theo số Tử vi thì hạn đáo "Sát, Phá, Liêm, Tham" hoặc lại thêm được "Khốc, Hư, Tý, Ngọ" chẳng hạn thì, thôi còn phải kể những kẻ đến ôm chân con người ấy, đến xu phụng con người ấy để hòng chút "ơn mưa móc" tất sẽ làm cho thiên hạ mục 1 con người ấy như ông Thánh sống của đời. Biết đâu sẽ chẳng có nhà văn sĩ viết tiểu sử con người ấy bằng ngọn bút lãng mạn chứa chan thi vị mơ màng, đại để như sau này: "Lúc thiếu thời, ngài thật là một người biết thờ đạo Trung dung của Đức Khổng. Ngài thấy dân gian phải lầm than trăm đường nghìn nỗi về Thần Đổ Bác, cái giống ma quỷ rất ác hại ấy nó luôn luôn cám dỗ những kẻ yếu linh hồn, xem chừng không còn sách luân lí nào cứu rỗi nổi nữa, ngài mới dùng đến phương sách... cực đoan ! Mà sự tìm nổi phương sách cực đoan ấy đối với những kẻ thản nhiên thế sự, linh hồn chưa từng được rung động bởi những tiếng gọi thiêng liêng bí mật, cố nhiên chẳng phải việc dễ nào. Sau khi tắm gội và ngồi tĩnh toạ trong bốn mươi chín ngày, ngài thấy rằng cũng như những bác sĩ Thái Tây phải lấy vi trùng, muốn trừ nạn đen đỏ phải cần cái Tham Lam. Thành ra, ngài đã dùng cái lòng tham để trừ nạn đổ bác vậy. Cái phương sách cao kiến vô cùng, thiêng liêng vô cùng, màu nhiệm vô cùng của ngài, khốn nạn thay, bị cái ngu dại của nhân dân đặt tên cho là Bịp! Mà cũng theo cái bộ từ điển ngu dại của bọn chúng sinh ấy, phương sách ấy có cái tên tắt chẳng đẹp gì cho lắm nữa là b... "Muốn khảo cứu đến cái triết học của nghề b... ? Ôi ! Phiếm thay ! Những kết quả đây kia đã đủ cắt nghĩa rồi. Bọn bịp được tiền đã có lợi là đã thực hành bá đạo để chống với cái luật thiên nhiên bất dịch là cái đạo luật đào thải luân hồi. Bọn mòng dù có thua, dù để cha, mẹ, vợ, con phải nheo nhóc thì cũng có sự lợi là được dịp "mở mắt ra", mà ngăn ngừa bớt cái lòng tham vô lí đi, và sau cùng, sẽ li dị cờ bạc! Mà nếu bọn bịp, những kẻ thừa hành trung thành cái chủ nghĩa của ngài, mà nhỡ ra có sa hố thì lại càng một sự may mắn cho chúng sinh lắm, vì nhờ đó, phương sách của ngài được dịp chúng sinh biết đến rồi quảng cáo hộ, mà rồi thực hành luôn thể nữa, biết đâu! Một người là bịp, trong thiên hạ có mòng. Hai người là bịp, trong thiên hạ vẫn còn có mòng. Nhưng ai ai cũng là bịp cả, hoặc ít ra ai ai cũng một đôi khi là mòng hoặc một đôi khi sa hố thì bấy giờ sẽ là một cuộc văn minh tiến hoá lớn của nhân loại, vì lúc ấy ai cũng được cứu rỗi linh hồn rồi, không còn ai cờ bạc nữa, lúc ấy là Thần Đổ Bác sẽ nhăn mặt, phải trông đến những tinh cầu khác phải bỏ trái đất của chúng ta! "Bên trên là khái luận về cái chủ nghĩa của ngài. Công đức sự nghiệp chưa hiểu thế nào nhưng có được cái lòng thương đời như ngài. Có được cái trí sáng kiến như ngài thì, một người thế, họ chẳng đáng ghi chép để lại nghìn thu lắm ru? "Chủ nghĩa là cực đoan, là lấy bịp để trừ nạn đen, đỏ, điều đó đã nói rồi, nhưng còn cách thức? Ấy đó mới lại là một điều đáng cho ta chú ý lắm nữa vì cách thức lại tỏ thêm rằng: Ngài là người có đại tài về khoa học. "Ngài một mình sáng kiến ra đến ba lối bịp (thôi, đành đau lòng phải dùng cái chữ ấy cho nó phổ thông vậy) riêng về món xóc đĩa. Nào là đòn bàn nhé, nào là đòn bát lò xo, nào là đòn nam châm, nào là đòn thuỳ châu, thôi thì đủ thiên hình vạn trạng, thôi thì rõ thiên biến vạn hoá, sức người không thể nào tưởng tượng đến được, không tài nào nghĩ nổi, những sự ấy là việc của những bậc Thần Thánh bất khả xâm phạm chớ không phải việc của người trần. "Đòn bàn nhé? Đó là những danh từ chuyên môn. Bàn đây là đĩa, cái đĩa bằng gỗ vậy. Nhé nghĩa là có lưỡi dao của bác thợ tiện đưa vào cho thành một đường vòng lõm, rộng hơn miệng bát có một li thôi, chỉ đủ để kẻ xóc cái nhòm bài... Thật là một công trình của toán học vì bọn mòng, dù quých hay không, mặc ! Có những con mắt yêu tinh quỷ quái đến thế nào cũng đố có thể nhận ra. Đánh xóc đĩa mà người xóc cái lại nhìn rõ được cả bốn đồng tiền giấy hoặc đỏ hoặc xanh thì việc: bán chẵn, bán lẻ, chẵn về, lẻ về, không còn cần ai phải dạy nữa. "Đòn bát lò xo? Ấy đó mới lại là một công trình về khoa học! Bát lò xo chỉ là thứ bát thường nhưng cái chỗ không thường là người ta biết dùng ve, dùng đục, dùng dùa, sau khi cạo nó, đục nó, khoét nó, người ta lại biết lắp vào cái lòng bát một miếng sứ tròn nhẵn nhụi lên trên một cái lò xo nhỏ, mà thần tình hơn nữa, có bấm nó mới "làm việc" chớ không thì miếng sứ tròn cứ cắn chặt vào lòng bát, trông không thấy tí chút vết rạn, sờ không thấy tí chút gợn tay, cứ nhẵn lì lì. Nhẵn như cằm một người vừa cạo râu lúc nãy vậy! Trong cuộc đỏ đen, người ta có ai ngờ rằng tiền trong đĩa vẫn kêu đấy nhưng chính là bị lò xo chặn cho không dậy được nữa, chỉ một mặt rền là rền. Các ngài, trong đám bạc, có khát nước bao giờ không? "Đòn nam châm? Cái này mới nghe không có gì là đặc sắc vì nó chỉ ngụ ý là đã có bắt điện nam châm vào, còn đồng tiền thì trong có vài cái dây phanh xe đạp. Việc tuy thường nhưng chỗ phi thường là người ta có thể nghe ra được nó. Ông Kha Luân Bố đập trứng cho trứng đứng lừng lững trên mặt bàn, khách cùng trong bàn tiệc không ai phục đấy, nhưng nào có ai đã nghĩ đến sự đập tròn quả trứng cho bằng phẳng đâu 2 ! Lợi dụng khoa học này là đáng khen nhưng lợi dụng được cả những sự rất thường, lại càng đáng khen hơn nữa vậy. "Bây giờ thì đến đòn thuỳ châu. Nghe hát ả đào có tiếng trống thuỳ châu thì đánh xóc đã cũng có ngón thuỳ châu. Tiếng trống thuỳ châu bắt người hình dung đến cái bàn tay ngà từ từ để rơi những hạt ngọc nhưng ngón thuỳ châu trong sự mở bát chỉ là việc cầm một quân bài tổ tôm mà dưới là đồng tiền hai mặt một màu, không sấp ngửa gì cả. Mở bát lên, trong đĩa chính ra chỉ có ba quân bài. Nhưng người ta làm như là vẫn có cả bốn quân mà tiền chập lại với nhau vậy. Do lẽ đó, người ta mới cầm quân tổ tôm vờ xỉa cho nó rời nhau ra để có cớ vào cái đồng tiền một mặt kẹp sẵn ở dưới quân bài. Kéo tay ra, cả làng tưởng thế là xỉa bài, đố ai dám ngờ đó là đòn thuỳ châu. Có cách vào bài mầu nhiệm dường này, muốn cho nó chẵn hay muốn cho nó lẻ là quyền ở cái ông cầm quân tổ tôm xỉa bài chứ còn đâu là quyền của Thần Đỏ Đen nữa! "Ấy đó những cách thức ngài dùng để triệt Thần Đỏ Đen. Đã biết thế rồi, ta chỉ còn cần khảo cứu đến cái số người thừa hành những cách thức đó là bao nhiêu là ta trọn cái phận sự ghi công ngài. "Con số là bao nhiêu? Mà người thì thuộc về những hạng nào? Ôi, kẻ viết bài này, cầm bút đến đây không khỏi run tay vì cảm động. Thôi thì đủ, vào giai cấp nào cũng thấy có vô số đại biểu. Ngài có một ông chủ sòng giúp việc cần mẫn nhất, quý hiệu Hai Ve. Ngài không bắt mòng ngay ở sòng nhưng tìm những nơi kín đáo, đánh chác chỉ dăm ba người, những tay chơi bạc nghìn bạc vạn cả! Những con mòng quý hoá ấy, đã có hai ba cái limudin 3 thượng hạng đi rước ở tận vùng Đông, vùng Nam, vùng Tây, vùng Bắc, nói tóm lại là đủ tứ phương, rước lên xe hơi như rước các ông quan lớn phóng về Hà Nội cho ngài. "Vào lúc Sở Liêm phóng chưa để ý mấy, ngài được mặc lòng làm tròn cái thiên chức của mình là việc cứu vớt chúng sinh. Nhưng tiếc rằng Sở Liêm phóng lại cứ hiểu nhầm, không biết rằng đó là ngài cũng đang trừ nạn đổ bác đấy nhưng dùng phương sách "lấy vi trùng trừ vi trùng" nên công cuộc kia phải mất nhiều thời kì gián đoạn. "Nhưng không vì thế mà thoái chí, bọn thừa hành mà cái ngu dại của chúng sinh đặt tên là tạ, vẫn được ngài truyền lệnh cho cứ việc... như thường". "Đó là những người mà ai cũng cứ nhầm, cứ ngoa ngôn kêu là "đầu trâu mặt ngựa", vẫn đứng ở đầu khắp các phố của Hà Nội, thấy ai qua lại cũng ghé đến gần để tiểu chú: "Này, có đi gỡ không?" Nếu người kia gật đầu thế là được dắt vào một cái nhà, thường là một nhà bên ngoài dọn hàng cơm để... gỡ! Rồi đòn lò xo hay đòn thuỳ châu, cái đó tuỳ... Bọn tạ săn đón khắp các cửa ô của Hà Thành, bao bọc Hà Thành vào trong một cái "lưới nhện" ghê gớm. "Có nói rõ đến cách tổ chức của ngài mới biết ngài là người xuất chúng. Vì rằng Sở Liêm phóng tuy làm việc một cách giỏi không ai địch nổi là có thể khám phá nổi cả những hội kín, thế mà bọn tạ kia hành động công nhiên cũng không thấy mật thám nào biết đến, cái đó mới thật đáng chép trong cuốn sách "Những sự chẳng ngờ" vậy. "Kết luận bài này, chúng ta nên biết rằng chúng ta đã khảo cứu xong đời một người mà tài, một người mà công đức, một người mà, đối với người."Chương 14: Kẻ Ở Người VềGian phòng gác của ông Mỹ Bối tại một toà nhà ở phố Hàng Bạc, tuy rộng hơn cái lỗ mũi đấy, nhưng hôm nay đã nghiễm nhiên bày rõ một cái quang cảnh của nơi nghị trường nhằm ngày các ông Dân biểu họp. Sáu giờ sáng, sau khi theo đúng lời dặn ân cần của ông ấm rằng lại chờ tại nhà này có một việc tối quan hệ, lúc tôi cùng anh Vân vừa để chân lên sàn gác, đã thấy đủ một nửa tá các ông tuổi từ hai mươi đến bốn mươi, Âu phục có, quốc phục có, "lai phục" nữa cũng có, ông nào cũng chải chuốt, tề chỉnh lắm, đang kẻ nước, kẻ thuốc lào, kẻ thuốc lá; nói chuyện bô bô như bọn dân quê gào thét, mổ bò. Tôi đưa mắt hỏi thì ông Mỹ Bối ghé vào tai tôi: Đủ mặt nhân vật của làng b... đấy nhé ! Trông đã... sung sướng chưa? Cái ông đã già, ăn mặc nhũn nhặn đây kia là ông Cửu Sần, dáng người trông có vẻ dân Đình Dù ấy. Còn hai người ngồi cạnh, cũng áo sa, giày ban thì người có tuổi là Tư Cường mà người trẻ hơn, trông hao hao giống kép Phẩm của Cải lương Hí viện là Hai Yêm. Ngồi đối diện anh chàng giày ta, mũ tây là Quế con và anh chàng khăn lượt, giày đơ cu lơ 1 là Thương Sinh Từ. Cậu trẻ người mặt trông bịp nhất, cầm can bịt bạc kia là Bình... ! Ông trông có phải họ người nào cũng ra vẻ... thật thà cả không ! Thật thà cả đấy chứ? Vừa lúc này có tiếng giày nện trên bậc thang. Ông ấm bước lên, bắt tay một lượt rồi quay lại hỏi anh Vũ: Thế nào? Thằng cha Sinh đâu? Lão ấy không có nhà. Tối hôm qua tôi đến thì vợ lão mặt sưng mày sỉa lên kêu rằng chồng mình hôm qua phát tài, có lẽ lại đâm sang hát bên Gia Quất... Ông ấm thở dài: Thế thì ra nó vẫn cứ điên mãi thế ư? Rõ bụt chùa nhà không thiêng có khác ! Làm chủ một nhà ả đào mà chỉ cờ gian bạc lận để rồi lại đem đi phụng dưỡng các "mẹ nuôi" ả đào khác! Vũ thêm: Nhưng tôi cũng đã dặn vợ lão rằng lão về thì bảo đến sáng hôm nay lại đây để ông ấm bảo có việc can hệ. Ông ấm: Được lắm... Mà tôi sở dĩ mờ/i anh em lại đây họp đông thế này, không phải có việc tối can hệ gì, chỉ là việc đi đưa ma... Ba Mỹ Ký chết! Bao nhiêu người sửng sốt hỏi một lúc: Ba Mỹ Ký chết rồi à? Chết bao giờ? Chết vào lúc 10 giờ đêm hôm kia. Vì anh em xưa nay vẫn khinh nó, vẫn ghét nó vì chứng hay hụt, hay bồng nên sợ bảo thật thì ít ai đã chịu đi đưa, tôi mới phải nói dối là có việc can hệ. Thôi, dù sao hắn đối với chúng mình cũng có chút tình đồng nghiệp, mà xưa nay anh em đi chinh phục thiên hạ vẫn phải dùng đến khí giới của hắn, nghĩa tử là nghĩa tận, anh em cũng nên chịu khó đi đưa một buổi cho phải đạo và cho... thiên hạ trông vào. Mình nên ăn ở với nhau cho có nghĩa. Tưởng gì? Thế mà cụ làm tôi bỏ mất một con mòng rất sộp hôm nay! Nó ở với tôi như thế còn tình nghĩa gì mà bảo tôi đưa nó? Tôi với bác ấy chỉ quen nhau loàng xoàng. Đối lại những lời bất mãn này, ông ấm chỉ lấy câu: Thôi, nghĩa tử là nghĩa tận... Tôi đến gần ông ấm: Tôi chỉ đến thăm "xưởng chế tạo khí giới" có một lần mà bây giờ cụ cũng bắt đền bằng một buổi đưa đám ư? Nghĩ kĩ ra, sự tôi đi đưa không có nghĩa gì cả. Ông ấm lôi tôi ra một xó gác : Kể thì ông nói rất phải. Thôi, ông chịu vậy vì tôi có ý muốn đám ma long trọng để chữa cho cái cảnh khổ của Ba Mỹ Ký là cái nghèo. Không nên để một linh hồn phải chịu tủi nhục. Vả lại, đối với người chết thì thế nào cũng được nhưng còn đối với người sống? Tôi muốn gia đình và họ hàng anh Ba Mỹ Ký biết đến cái nghĩa của làng b... Tôi thật bất bình về thái độ của mấy thằng cha kia. Chúng nó có gan, trong đám bạc dám đánh đòn ống, đòn kìm, đòn Vân Nam, sao chúng lại đến nỗi đê hèn là không có gan đi đưa một người anh em trong làng bịp? Chúng nó mà còn sợ xấu hổ nữa à?... Ông ấm im một lúc cho qua cơn giận rồi lại tiếp: Mà tôi, hôm nay cũng có một ông Châu ở Hoà Bình về gọi đi có việc. Trên ấy mở hội, ông định mở bát, nhân tiện về Hà Thành, có tạt vào gọi tôi. Đáng lẽ bây giờ tôi đang phải sửa soạn hành trang và mọi đồ... khí giới thì mới kịp. Nhưng còn cái đám ma đấy, biết làm thế nào? Tôi lại không biết chỉ nghĩa đến cái lợi cho tôi thôi ư? Còn ông, ông cất công đi đưa, tôi xin thay vong hồn người chết mà tạ ông, mà tôi cũng xin chịu ơn cái lòng quý hoá của ông như ông... như ông đưa đám tôi vậy ! Lúc này thấy anh Vũ reo lớn: Đây rồi! Bố Sinh đã đến kìa! Một người mà hai mí mắt còn nặng trĩu cái buồn ngủ, mũ dạ xám, áo trắng quần lụa, giày băng túp với bít tất vảy tê tê, lò dò bước vào rồi hỏi: Làm gì mà đông thế này? Việc gì tối can hệ thế? Tham Ngọc đón lời: Ba Mỹ Ký chết rồi. Anh em rủ bác đi đưa ma... Lão Sinh quay sang hỏi ông ấm: Ba Mỹ Ký chết mất rồi à? Gọi tôi đi đưa à? Phải. Thế thì bố giết con thật!... Bố đi bố nói là việc tối can hệ, làm con bốn giờ đêm về thấy nó nói, không dám cởi quần áo nữa, cứ thế này ngả lưng chợp mắt một lúc thấy đánh 5 giờ đã choàng dậy, thuê hai hào xe đi ngay đây!... Rõ bố giết con thật! Ông ấm cười : Thì anh cũng giết tôi nốt! Anh đi đưa ma mà ăn mặc thế này có khác gì anh chửi xỏ cả người chết lẫn người sống không? Đến lượt Sinh ngắm lại bộ mã lộ tẩy của mình xong, nhe răng vàng ra cười trừ. Vẳng thấy tiếng kèn, tiếng trống nổi lên ở phía ngõ Trung Yên, chúng tôi vội vàng kéo nhau xuống gác. Một cành phán, một cái kèn, một cái nhà tầng sơ sài bé nhỏ, sáu người vận tang phục, mười hai người áo quần cũng khá sang trọng, chỉ có thế, đám ma qua phố Bờ Hồ. Xếp hàng ba một, bọn người đưa đám, theo đà chân của bốn bác phu đòn, đủng đỉnh giẫm bẹp những thoi vàng mà đi. Hàng đầu có ông ấm B... Hàng sau cùng là tôi với ông Mỹ Bối. Ít tình cảm với người chết, chúng tôi không đi gần những người có tang phục và dùng những cái phút này để nói chuyện về nghề b... Ông Mỹ Bối cho tôi rõ một thủ đoạn của ông Cửu Sần: Lão ta nhờ được cái vẻ mặt trông rất Đình Dù nên dễ phát nhất. Tuy cũng đánh ống, đánh lớp, đánh mẫu tử, đánh giác đủ ngón đấy nhưng lão còn một ngón rất đặc biệt nữa, ngón mà sử sách đã từng biên chép là ngón đòn Ba Giai. Trước khi ngồi vào đám tổ tôm hay tài bàn nào, nếu người đánh toàn là anh em thì lão ta đã tiểu chú với cả hai hay bốn người kia rằng nếu mình hạ ù, dù có thiếu lưng hay thiếu phu thì cứ ngơ đi cho rồi lão sẽ chia tiền cho, sau khi tan cuộc. Thành thử lúc đánh, thấy lão hạ ù, ông nào cũng có nhìn bài đấy nhưng ai cũng làm ra lối quân tử, chỉ qua loa theo lối che mắt thế gian. Bốn người cùng nhìn nhưng không ai nói gì, ông nọ sung sướng ngang với ông kia, ông nọ cho ông kia là mù và quých. Đứng lên, sau cùng thì lão không chia cho ông nào cả; mà sự ức ấy tuy nó có cái ức chung của cả bốn nhưng không ai dám thổ lộ với ai thành thử nó chỉ là cái ức của một người thôi. Lối bịp này chép của Ba Giai, con người ngang tàng đời vua Tự Đức ! Còn lối bịp khôn khéo nữa, có thể đặt tên là đòn nội phản thì của Tư Cường. Thí dụ mòng là người không biết đánh, chỉ biết ké thôi. Thì mòng thò ké cửa người nào là người ấy thua, hoặc quên ăn, quên phỗng, bỏ ù cho người khác được. Ké đến ba cửa mà không một ván nào được cả, khôn ra thì còn khá chứ lại nóng húc, chỉ có mà trần! Rồi ông Mỹ Bối lại kể một cách làm tiền riêng của ông. La cà vào chơi nhà nào có đám bạc, mà trong đám bạc lại có một ngài bịp, ông chỉ chờ tan cuộc là làm một câu: "Hôm nay phát tài thế, trả cho chỗ ba của giựt tạm hôm nọ đi thôi" là bịp kia đủ hiểu ý rồi. Rồi ngài bịp kia sẽ ra một chỗ rút tiền cho ông, vì câu nói trên chính là một câu hăm doạ vậy. Tôi đang ngẫm nghĩ về những điều kì lạ một cách ra ngoài sự tưởng tượng ấy chợt thấy Vũ với Vân đi trước mặt tôi rũ rượi người ra vì cố nhịn cười. Trong tay Vân có một mảnh giấy. Tôi giật lấy giấy, cùng ông Mỹ Bối đọc xem. Thì ra một bài văn tế khôi hài viếng anh Ba Mỹ Ký! Cái ông Mỹ Bối sao mà vô ý tứ! Ông quên bẵng ngay mất rằng mình đang đi đưa đám ma mà sằng sặc lên cười. Ông tự do như đang ngồi trong rạp hát vậy. Tuy đi tận trên hàng đầu, ông ấm B... cũng nghe thấy. Ông ấm quay lại nhìn, sa sầm nét mặt dừng chân lại, chờ cho hàng cuối cùng lên tới chỗ ông đứng rồi nghiêm nghị: Lúc này là lúc các ông đùa đấy ư? Ông Mỹ Bối đưa ra mảnh giấy, trỏ Vũ mà rằng: Chỉ tại cái thằng ông mãnh kia! Ông ấm cầm bài văn tế, liếc mắt nhìn qua rồi thụi ngầm kí Vũ một cái: Anh muốn để thiên hạ người ta chửi cho cả lũ đấy à? Vũ cũng khôn, cứ vừa đi nghiêm trang vừa ngẩn mặt ra, làm như không hiểu chuyện gì cả. Còn thái độ anh Vân thì thật khó hiểu, vì anh cứ thờ thẫn người ra như kẻ bị ma bắt mất hồn. Tôi khích cánh tay, bỏ nhỏ với ông Mỹ Bối: Kìa, trông "người anh em" hay không? Lập tức ông ta cắt nghĩa ngay cho tôi cái thái độ ấy. Đó là người anh em thất vọng đấy. Mà để người anh em bơ phờ ra thế kia là lỗi tại tôi. Hôm qua, Vân lại chơi tôi, có đả động đến mĩ nhân ở Đường Thành. Buột mồm, tôi lại đi nói phắt ngay ra rằng mĩ nhân đã có lần lại lấy của tôi thuốc tim la với thuốc lậu... Gớm nhỉ!... Mĩ nhân lại mắc lậu và ông lại còn là thầy lang chữa thuốc lậu nữa đấy à? Lúc này tình cờ có hai thầy lính cảnh sát đi qua làm chờ ông Mỹ Bối được dịp pha trò bằng câu thì thào : Ấy chết, khẽ chứ. Tôi không có môn bài mà ông cứ nói bô bô lên thế thì thật bằng ông giết tôi !... Tôi cười và bắt tay ông ta: Xin đa tạ ông lắm. Cái vô ý của ông tuy có lỗi là làm cho Vân thất vọng nhưng đối với tôi, nó lại quý hoá vô cùng. Nếu không, dễ không bao giờ tôi cầu được khúc hát "Quy khứ lai từ" 3 của Vân... Thế nhưng tôi đã vô tình phá mất cái kế mĩ nhân của ông ấm!... Ông không hiểu ư? Vân là chim mồi có giá trị, lắm đất, mà Vân lại hiếu sắc... thì ông ấm cho Vân lên cản ở Đường Thành! Đám ma đến quá cửa Ô Bạch Mai phải đứng dừng. Trước mặt là một xe gạch đổ tung toé ra giữa đường, bên phải lù lù mấy toa xe điện đỗ ở chỗ tàu tránh nhau, mà đằng xa thì tiếng còi ô tô rúc lên như mấy trăm con lợn bị chọc tiết trong một lúc. Người dừng bước, kèn cũng im hơi. Một, hai cái, bốn, sáu cái xe hơi xình xịch dẫn qua đã làm cho người ta phải tưởng là không bao giờ hết... thì cái thứ bảy lại sừng sững hãm máy, đỗ ngay bên cạnh sườn chúng tôi. Trên ô tô bước xuống một ông có tuổi, đẫy đà. Do y phục mà suy, phi một ông quan tất một ông trọc phú. Người ấy lật đật chạy lại vỗ vai ông ấm B... Hai người lôi nhau ra một chỗ, nói với nhau những gì gì khiến cho anh em làng b... phải trô trố nhìn không chớp mắt. Rồi thấy ông ấm ra hiệu gọi tôi, ông Mỹ Bối, và anh Vân... Trong ba ông, ông mô đi được Hoà Bình với tôi nào? Đã đành là tôi không đáp lời, mà đến anh Vân cũng không đáp nốt. Anh đưa mắt cho ông Mỹ Bối mà rằng: Ông đi đi hơn. Trông ông được cái... bệ vệ. Ông Mỹ Bối nhất mực từ chối. Trong mười phút cứ người nọ đùn cho người kia, mà ông ấm thì nèo cả ba, sau cùng đến anh Vân phải nhận !Ông ấm nói với chúng tôi: Xin giới thiệu: quan Châu... thuộc Hoà Bình. Chúng tôi khẽ nghiêng đầu, con mắt tinh quái liếc nhìn ông Châu. ông ta vẫn thản nhiên lắm! Ông ấm có ý phàn nàn: Tôi đã hẹn với quan anh đến 11 giờ trưa vì tôi đang bận đưa đám thì quan anh lại cứ ép đi ngay ! Ông kia rút cái bót thuốc lá dài hơn một gang tay ở miệng ra: Thôi, quan anh bằng lòng vậy. Tôi còn nhiều việc lắm mà thời giờ thì kíp quá rồi. Quan anh lên xe, rồi ta về nhà lấy hành lí. Thế là ông mở phanh cửa xe có ý thúc giục. Ông ấm quay lại: Ông nào có việc cần lắm hãy về, còn nếu có thời gian thì cứ đi đến huyệt cho chu tất hộ tôi nhé, anh em nhé! Thôi, xin tạm biệt các anh em... Ba người bước lên xe, xe chạy đi, để lại ít khói xanh và ít bụi. Lúc này là lúc anh em làng b... kháo nhau ồn ào. Ông Mỹ Bối, một cách chán nản: Mình cũng đi về thôi. Ông gọi xe, chúng tôi bước lên. Tôi hỏi: Sao ông lại cứ nhường cho anh Vân! Để tôi lại không lôi nổi anh ta về Bắc ! Đang khi ông bị lúc kinh tế quẫn bách mà lại bỏ mất một dịp phát tài Ông ta lạnh lùng: Thôi, lăn lộn trong làng b... thế là đủ rồi, cần gì phải loã lồ quá nữa? Đám ma anh Ba Mỹ Ký đã khiến tôi có những cảm tưởng lạ lùng và lấy làm chán chường về cuộc đời "theo bịp" của tôi. Câu ấy khiến tôi quay cổ nhìn lại. Anh em làng bịp, vắng ông ấm, như quân vô tướng, hổ vô đầu, bỏ mặc kệ đám, lên xe điện tìm đường chuồn cả. Sau cái nhà tang, chỉ thấy còn sáu người vận quần áo tang. Phố xá vẫn giữ cái nhộn nhịp, hoạt động của ban ngày. Người phu cắm cổ kéo, chúng tôi trở về, lại theo con đường rải rác có những thỏi vàng hồ, con đường đi về chỗ ở cuối cùng của một người mà cái ban ngày của cuộc đời không xoá nhoà vết tích...===Tiểu thuyết Cơm Thầy Cơm Cô Tác giả: Vũ Trọng PhụngChương 1 Đêm Ấy, Tại Hàng CơmTôi không cần nói rõ hàng cơm nào, ở phố nào làm gì. Các ngài chỉ cần biết rằng một hàng cơm như nghìn vạn hàng cơm khác, nghĩa là khi ta mới bước chân vào thì bổn phận ta là lập tức thấy buồn nôn buồn ọe. Nó là mùi cá mè, mùi thịt trâu, thịt lợn thiu, mùi lòng lợn, lòng bò, mùi me chua, mùi dưa khú... Thôi thì đủ một trăm nghìn thứ mùi khó chịu mà lạ nhất là nó không hề bận đến hai lỗ mũi của bà chủ luôn luôn nắm trong tay cái quạt nan, cởi trần trùng trục và thỉnh thoảng lại cao hứng vén quần lên đến bẹn mà gãi sồn sột, tự nhiên như đàn ông. Lúc ấy đã khuya lắm rồi. Một mụ già làm nghề đưa người đưa tôi đến chỗ này mà bảo bà chủ:" Bà cho anh ấy ngủ đây vài tối, bao giờ anh ấy có việc làm, tôi xin đưa tiền trọ", thì bà chủ chẳng buồn nhìn tôi nữa, đập một con muỗi ở cổ đến bốp một cái, gãi vung lên một hồi nữa rồi mới chọc chọc cái giá quạt về phía sau lưng, ra ý bảo tôi cứ việc vào trong kia mà nằm. Trước khi ra đi, mụ già lại dặn tôi: Ngày mai nhớ ra ngã ba cho sớm đấy! Vâng ạ! Tôi đáp xong, rón rén lần vào phía trong. Thật vậy chân tôi chưa bao giờ phải dẫm lên một lớp bùn quánh và nhớp nháp đến như thế. Đến chỗ mấy cái giường cách nhau mỗi giường một manh cót thì tôi không biết nên đặt lưng vào giường nào, vì giường nào cũng đã thấy đầy những người là người, nằm ngổn nằm ngang... Tôi đương bỡ ngỡ thì thấy bà chủ hàng cơm quát: Thằng Hai đâu! Bảo nó lên sân gác, chỗ những đứa ở ấy mà nằm! Rồi thì một anh chàng chạy ra dắt tôi qua một cái sân, đến một cái thang tre mà bảo: Lên đây. Tôi theo lời, leo thang. Lên đến nơi thì đó là một gian gác cũng khá rộng. Trên mặt sàn chỉ có mấy cái chiếu, mà tường thì vàng ệch những khói ám, từ cái bếp gần ngay đó đưa ra. Bọn cơm thầy cơm cô nằm ngổn ngang như lợn cả, bọn đực nằm phía bên kia, bọn cái nằm phía bên này. Bốn thằng nhỏ bằng trạc tuổi tôi với ba con sen, một con độ lên mười, một con 15, còn một con nữa trông đã đứng tuổi. Trong khi hai đứa trẻ tuổi nằm hớ hênh vô ý thì con đứng tuổi khép nép vào một xó tường, khẽ nâng cái quạt nhìn tôi. Tôi bèn lần đến phía tụi con trai, ngồi xuống một góc chiếu. Tôi nom trước nom sau không thấy người của hàng cơm mới mạn phép khêu to ngọn đèn hoa kỳ. Rồi tôi lấy cái ống diêm ra dắt thuốc lào vào cái lỗ thủng, để lên miệng... Chợt có đứa nói: Tội gì mà hút thế cho nóng! Với lấy cái điếu cầy ở kia kìa. Tôi quay cổ lại nhìn thì thằng vừa nói đã ngồi nhỏm lên chạy ra tìm điếu. Sau điếu thuốc lào tôi cho nó hút che tàn thì chúng tôi đã là quen thuộc nhau hẳn hoi. Nó hỏi tôi: Trông đằng ấy có vẻ thạo lắm. Chắc đã ở tỉnh lâu rồi. Tôi ngửa cổ ra sau lưng lấy oai mà nạt rằng: A, cái đó thì đã hẳn! Chỉ một câu nói đó khiến nó đủ sợ tôi. Vì rằng từ đó trở đi nó luôn luôn gọi tôi là anh để cho tôi cứ tự nhiên gọi nó là mày. Còn mày thì bỡ ngỡ lắm. Mày mới ở nhà quê ra có phải không? Vâng! Mày đã đi làm lần nào chưa? Đã ngót một tháng ở một nhà phố B... rồi không ở được phải xin ra. Làm sao? Nó chửi suốt ngày. Mày thì chưa đủ tư cách nếm cơm đâu! Đừng đứng núi này trông núi nọ mà ông cho có phen chết rã họng! Mãi đến lúc ấy vẫn còn thấy tiếng người làm chạy ra chạy vào rộn rịp cả hàng cơm. Bên ngoài người ta đã kỳ cạch lên cửa, vậy mà bên trong hình như lúc ấy người ta mới bắt đầu xào xáo... Tiếng bát đũa chạm nhau lạch cạch, tiếng nước giội xuống sân ào ào, tiếng mỡ nhảy trong xanh ran cả tai. Có lẽ những gia nhân của hàng cơm không biết phân biệt đêm ngày. Một thằng hát vang lên cho cả bọn nói bông nói đùa nhau khỏi buồn ngủ. Tôi lại bảo cái thằng ấy: Cứ việc bịt tai lại, chủ nó chửi thì chủ nó nghe, biết không? Cốt sao giữ lấy việc làm khỏi chết đói là phúc! Nó chớp mắt sợ hãi rồi sẽ cãi: Bốn hào một tháng mà cấm bữa nào được ăn no, anh bảo một tháng như thế thì "nước mẹ" gì? Nhưng mà tôi, tôi cần gì lời cãi của nó. Tôi hãy nói khoác cho nó sợ tôi đã. Bao giờ như anh mày đây này, lúc đó hãy đứng núi này trông núi kia biết chưa? Nó họa theo: Phải, như anh thì tất nhiên đã thạo lắm. Chứ lại còn bàn, ra máy chỉ hét một cái là lấy được hai thùng nước. Mà món ăn nào nấu cũng thạo, cả món ăn ta món ăn tây... Thế sao anh cũng mất việc? Tôi trừng mắt lườm nó mà rằng: Mất việc à? Hai đồng rưỡi lương tháng rồi, ông đòi thêm năm hào nữa mà không thêm thì ông bỏ đấy! Nó lè lưỡi tỏ ý kính phục tôi lắm. Mà ngần ấy điều chỉ cốt để con bé nằm nhìn trộm tôi phải cho tôi là một kiện tướng trong bọn cơm thầy cơm cô. Tôi đã có cơ thành công trong cuộc "giương vây", vì từ lúc này trở đi, con bé cứ mải nhìn tôi, ngắm nghía tôi, "đánh giá" tôi chứ không ngủ. Nói khoác mãi cũng thất sách, tôi bèn hỏi: Thế đằng ấy thích làm cho những nhà thế nào? Nó đáp: Khốn nạn, nào tôi có tài giỏi gì mà còn dám nếm cơm ai! Tôi chỉ cầu vào một cửa đãi mình cho vừa phải, đừng bắt mình làm quá sức, đừng đánh mình, chửi mình. Mà cái nhà tôi vừa bỏ thì, khốn nạn, nó năm cha ba mẹ quá, ai cũng đánh chửi được mình! Người này sai chưa làm xong việc này, người khác đã lại ới. Thành ra mình là cái thân ba vạ. Nó kêu chưa bao giờ nó thấy một nhà nào lại tồi tệ như thế cả. Thật vậy, đến nó là kẻ phải mang thân đi ở mà nghĩ đến nhà chủ là thấy phải khinh. Nó chỉ là con nhà bố cu mẹ đĩ thôi cũng không đến nỗi khốn nạn bao giờ. Thật vậy, nếu những lời nó nói là thật Sau khi nghe chuyện, tôi phải xếp đặt lại một cảnh gia đình không ai tưởng tượng là có được, ở giữa đất văn vật ngàn năm... Nhà có sáu người, ông bố với bà mẹ già, người con giai cả đi làm tùy phái cho một công sở, cộng thêm hai cô con gái... Sáu người cùng chung máu mủ hoặc là vợ chồng mà mỗi bữa mỗi người đều vào bếp thổi một niêu cơm. Lúc ăn người ta tuy ngồi cùng với nhau, song ai cũng có thức ăn riêng của người ấy. Đại khái ông bố đã có đĩa chả, bà mẹ đĩa đậu rán, con trai với con dâu: một đĩa xào, các con gái: bát dưa, bát canh... Người ta tuy cùng ngồi ăn một mâm chung, nếu ai bị sự cám dỗ mà đưa đũa xâm phạm đến món ăn của người khác thì tức khắc sẽ có cái lườm đến nổ trời. Ấy là cái cảnh của nhà ấy bằng vài nét vẽ phác. Vậy thì một bữa, khi nàng dâu để phần chồng một đĩa chả rươi, chẳng may ông bố chồng ăn cơm trước đã đụng đũa vào. Đi làm về, ông con trai mở lồng bàn thấy món mỹ vị đã bị thất tiết, bèn quát rầm lên: Đứa nào ăn của ông đây? Ông đi làm khó nhọc mà ông chưa ăn, đứa nào dám ăn trước ông, mau mau khai ra! Ông bố chạy lại dịu giọng đáp: Thưa cậu, tôi đấy ạ. Tôi tưởng chị ấy có rươi mới thì làm cho tôi nên tôi nhầm, chót nhỡ ăn phải mấy miếng... Thế thì các ngài có đoán được là ông con trai nói lại như thế nào không? Muốn để các ngài đoán dễ hơn, tôi xin thưa, thằng nhỏ kia đã nói với tôi: ông bố thuê gác trong, ông con thuê gác ngoài. Thôi, các ngài đoán chẳng ra đâu, vì Victor Hugo cũng chưa hề tưởng tượng được ra một kẻ khốn nạn đến như thế. Ông con đã nói cho ông bố nghe một câu thâm thúy như thế này: Nhầm,... thằng thuê gác trong, thằng thuê gác ngoài, mà vợ người ta để phần cơm người ta, mà lại nhầm! Nhầm kể cũng lạ! Rồi thằng nhỏ khí khái kết luận rằng: Tớ nghĩ đi ở mà được chủ hay cũng đẹp mặt, còn đi ở phải những chủ như thế nhục lắm! Tôi gật gù đồng ý với nó rồi lại mất thêm cho nó một điếu thuốc, một que diêm, nhưng lãi ở chỗ được cái cười giòn của con bé nằm ở góc tường. Cái cười kia xui tôi có gan cầm đèn soi vào tận mặt nó.Chương 2 Muốn Bán Mười Sáu NgườiNếu có những chữ này kẻ thật đẹp vào một cái bảng để trước chỗ chúng tôi ngồi có lẽ những người đi đường mới thèm để ý và chúng tôi mới thoát khỏi nạn ngồi giơ mặt cho ruồi bâu. Theo lời mụ làm nghề đưa người ở, tôi đã ra góc phố Amiral Courbet từ 7 giờ. Thoạt đầu chỉ có bọn bẩy đứa chúng tôi ở hàng cơm ra. Về sau, cứ mỗi lúc lại thấy một vài đứa nữa, không biết từ đâu mà chui ra, dễ ở trên cao rơi xuống cũng chưa biết chừng, cũng đến họp ở ngã tư này, như ruồi thấy mùi mật vậy. Vì chưng tôi không cần có việc nên tôi thản nhiên được mà nhìn bọn người đến tranh cơm cướp áo nhau trong bọn họ. Còn cái thằng quít đã thức suốt đêm với tôi hôm qua ở hàng cơm thì mỗi lúc thấy một ai, bất cứ đực hay cái, đến giữ chỗ, là lại càu nhàu: Giời ơi! Lại cứ thêm thêm mãi thì bao giờ cho tôi mới có việc đây! Thật vậy, bất cứ ở bực thang nào trong xã hội, một kẻ đồng nghiệp cũng là một kẻ đáng ghét. Mụ vú già cũng cấm cảu chửi một câu bâng quơ: Tiên nhân nhà nó ra! Cứ ùn mãi người lên thế này! Cả đám người ấy ngồi tản mạn thành từng tốp nho nhỏ. Trẻ với trẻ, già với già, đàn bà với đàn bà, con trai với con trai. Mà mụ đưa người thì không ngồi, chỉ đi đi lại lại, nhìn người này, nhìn người nọ như một viên võ quan lúc điểm binh và mấp máy cái mồm, không hiểu là đếm hay là đánh giá những kẻ chịu lụy mụ. Người ta nói chuyện rì rầm huyên thuyên lên, cái đó đã cố nhiên. Người ta lại chửi nhau cho vui, và bắt chấy cho nhau cắn đỡ đói. Tôi thấy mụ trùm ế hàng mà tôi lo cho bọn khốn nạn kia. Còn chính mụ, mụ lại ra ý sung sướng, tôi chưa hiểu vì lẽ gì. Rồi tôi nghĩ đến bọn thất nghiệp ở Cảng, hẹn nhau một chỗ nhất định, họp đông hơn đám biểu tình. Đằng này, Hà thành không có sự tổ chức, đám dân hạ lưu chia nhau ra khắp các phố, thành thử những người lịch sự tưởng Hà thành lịch sự, mà các nhà xã hội học cũng tưởng là Hà thành không có chuyện gì bi thương... Chính ra, nó rất là thương tâm... Nó đã cất tiếng gọi dân quê bỏ những nơi đồng khô cỏ héo để đến đây chết đói một lần thứ hai sau khi bỏ cửa bỏ nhà. Nó đã làm cho giá con người phải ngang hàng với giá loài vật; nó đã làm cho một bọn trẻ đực vào nhà Hỏa lò và một bọn trẻ cái làm nghề mãi dâm! Muốn bán mười sáu người! Cả buổi sáng hôm nay không có một khách hàng nào muốn mua. Vậy 16 kẻ kia đáng giá như thế nào? Đó là tại bán đắt nên ế hàng hay là bán rẻ mà cũng vẫn ế?Chương 3 Cái Giá Trị Làm Người... Nghĩa là có khi không bằng giá súc vật. Thật vậy, tôi thấy vài con chó còn được chủ mua thịt bò cho ăn. Có khi con chó mỗi tháng khiến chủ tốn kém hơn một đứa tôi tớ trong nhà. Mười sáu người đủ hàng lớn bé, trẻ già này, mỗi người chỉ cầu như một con chó, nhiều khi kém một con chó, mà lại còn đem chân tay ra làm nhiều việc có ích, rất nặng nhọc, mà vẫn không kiếm được việc. Tôi chỉ bọn trẻ, trai và gái chưa qua 12 tuổi và hỏi mụ già: Cái bọn này thì bà định kiếm cho chúng mỗi tháng độ bao nhiêu công? Mụ già khinh khỉnh nhìn tôi từ đầu đến chân rồi quay đi chỗ khác. Mãi mới đáp: Thời buổi này, bọn nhãi nhép ấy cứ được người ta mượn cơm không thôi là đã phúc! Thế thì tiền quà của bà chắc chả mấy... Cái đó đã hẳn! Nhưng mà được năm xu một hào thì cũng đủ. Rẻ còn hơn ngồi không... Tôi chỉ cái bọn thằng nhỏ bằng loạt tuổi tôi mà hỏi: Thế bọn này? Đứa năm hào, đứa ba hào... Thế mấy bà lão định ở vú già, đang ngồi ăn ngô gốc cây kia kìa? Cũng quanh quẩn đâu vào cái giá ấy. Tôi chỉ vào một người đàn bà đi ở vú mà hỏi: Thế cô vú em kia? Mụ ấy đổi giọng đáp: A, cái con mẹ ấy thì phải tìm cho nó chỗ ít nhất cũng hai đồng bạc công mới được! Mà tiền quà thì ít nhất cũng phải đòi một đồng! Nó sạch sẽ lắm! Sữa tốt hạng nhất đấy. Lúc này, mụ ngó ra phía xa rồi về hè ngồi. Một lát sau thấy một bà già đã đứng tuổi, áo the trắng, hoa tai to đến vẫy mụ: Này u! Con vú tháng trước xin phép ra rồi! Mụ già đưa người như bị cái lò xo nào đẩy lên kêu: Chết chửa! Làm sao thế ạ? Chồng nó chết, nó xin về 15 hôm. Tôi phải cho nó thôi hẳn. May quá, con tưởng hay lại có điều tiếng gì. Thế là, trước cái tin buồn một người chết, mụ đã thở dài một cái, ra ý được nhẹ mình nên sung sướng lắm. Bà kia hỏi tiếp: Mợ ký nó nhà tôi còn mệt lắm, u có người nào ngay bây giờ không? Mụ già làm ra vẻ nghĩ ngợi mãi mới đáp: Thưa cụ, đây, có u này đây... Nhưng mà con đã chót hẹn với cụ Lý con ở dưới kia. Không biết có nên để cho nó về ngay với cụ không hay là để nó chờ... Bà kia hớ hênh đáp ngay: Thôi, xem có mướn được thì để ngay nó cho tôi. Mợ ký nó nhà tôi mệt chưa khỏi. Bẩm, con nể cụ quá. Ôi chà! Bây giờ khối người ra, chả khó như ngày xưa. Rồi u tìm cho cụ Lý nhà u một người khác cũng được. Đứng lên, ra đây mau lên chứ ngồi ngẩn mặt ra thế à? Bà kia nhìn người vú từ đầu đến chân, đoạn gật gù cái đầu mà rằng: Ừ, trông cũng sạch sẽ đấy. Cho xem sữa nào! Mụ già vội nói ngay: Bẩm cụ, ấy ở nhà quê, chị ta là vợ một ông phó lý kia đấy. Xưa nay chẳng phải chân lấm tay bùn bao giờ! Vú em vạch yếm để hở cái ngực trắng nõn, vắt sữa vào lòng một bên bàn tay. Bà kia xem qua loa, kêu: Tạm được. Tức thì mụ già giẫy nẩy người lên mà rằng: Cha mẹ ơi! Sữa như thế mà mẹ lại còn bảo là " tạm được". Tốt vào hạng nhất rồi đấy mẹ ạ. Bà kia bĩu môi: Phải, hạng nhất đấy! Chứ gì, chị ấy mới đẻ con so, xưa nay lại không phải chân lấm tay bùn bao giờ, lại là vợ ông Phó Lý, chả phải khổ sở như người khác thì làm gì sữa chả tốt. Thế là bao nhiêu? Người vú em chưa kịp đáp, mụ già đã nói trước: Xin cụ cũng cho như cụ Lý con dặn nó... Thế là bao nhiêu? Ấy cụ Lý con bảo tìm hộ một chị sữa tốt, sạch sẽ, mỗi tháng độ chừng ba đồng. Ấy con còn bận một tý nên chưa đưa chị ấy lại cụ Lý con đấy. Bà đi mướn vú bĩu mồm mà rằng: Thôi, tôi cũng trả công cho như con vú trước, nghĩa là hai đồng. Tức thì mụ già chắp hai tay vái lấy vái để như đứng trước một cửa điện nào vậy, rồi quay mặt ra chỗ khác, không đáp. Thế nào? Lạy mẹ, mẹ cứ trả nó hai đồng chín hào chín xu xem nó bằng lòng được không? Phát khùng lên rồi, bà kia phải gắt: Thì việc gì đến u đấy nào? U cứ biết cái phận u, cứ nhận tiền quà thôi có được không, sao lại cứ chõ vào công xá của người ta thế? Người vú em lấm lét nhìn mụ già, đoạn khẽ thưa rằng: Lạy cụ, cụ có mượn thì xin cụ cũng cho công như cụ Lý con dưới kia. thì con sai hẹn mới bõ. Bà kia đứng thừ người ra hồi lâu rồi quay gót. Tôi hỏi mụ già: Này u, lúc nãy tôi thấy u nói chỉ cần hai đồng một tháng... Ấy thế nhưng mà cái món này bóp được hơn. Rồi anh xem, thế nào chốc nữa lại chả ra ngay đây bây giờ. Độ nửa giờ sau, quả nhiên lại thấy bà kia ra, nói: Thôi thì tôi cũng bằng lòng trả cho chị ấy ba đồng một tháng vậy. Còn về phần u, lúc nào rỗi thì lại mà lấy tiền quà. Một cách rất khả ố, mụ già gãi gãi đầu một hồi, rồi cau có nét mặt mà phàn nàn rằng: Lạy mẹ, thật nể mẹ quá đi mất! Bây giờ con lại phải tìm ngay một con vú khác cho cụ Lý con dưới kia đây... Mẹ cứ cho con xin một nửa trước vậy. Vì nhận được của bà kia năm hào rồi, mụ già bảo người vú em kia: Thôi cứ theo cụ về nhà, rồi chiều hôm nay tôi lại lấy nốt tiền quà thì tôi tạt về nhà đem cho cái thúng quần áo... Này, cụ là người phúc đức, cậu ký, mợ ký cũng là người biết thương người thì u cũng ăn ở cho có lễ phép, cho nó nên ơn nên nghĩa, phải ngoan ngoãn mà trông nom em, biết chưa? Họ chia tay nhau... Mụ đưa người đã thành công trong cái việc "bóp cổ" người. Cái giá trị làm người, đối với bọn cơm thầy cơm cô, không phải ở cái sức làm việc của con người, nhưng mà treo trên đầu lưỡi của con mẹ nặc nô mềm nắn rắn buông và suốt đời không bao giờ biết nói thật. Một buổi sáng qua như thế cho mãi đến chiều. Mụ già chỉ "tiêu thụ" được có một chị vú em thôi, nhưng mụ đã được đồng bạc. Còn 15 người nữa đói thì mụ cần gì, vì chính mụ, mụ có phải đói hộ người khác đâu. Bọn kia cứ việc bày hàng đầy dẫy ở đầu hè, duỗi dài chân ra, hoặc là xoạc cẳng ra, quần vén lên đến đùi để mà "khảo cứu" về lông chân loài người, hoặc để ngủ gật. Vậy thì tôi phải hỏi đến cái con sen mà tôi đã hỏi chuyện đêm qua tại hàng cơm. Đứng lên tìm quanh, tôi thấy nó chúi vào một xó hè, ngốn một mẹt bún chả tướng. Tôi hỏi: Gớm, phong lưu lắm nhỉ? Nó cười một cách ngây thơ và đáp: Phép quà anh! Anh tính mới thôi việc có dăm ngày, làm gì đến nỗi mà lại chả có thể ăn được 3 xu quà! Này, cái nhà tớ vừa bỏ ấy mà, nó cần người mà chưa mướn được ai cả đấy. Đằng ấy có muốn làm thì tớ mách cho. Nó nhạt nhẽo đáp suông một câu: Giã ơn cái bụng tốt của anh lắm. Có bằng lòng không thì nói ngay đi, tớ không nói đùa mà. Nó vẫn lãnh đạm: Chủ nhà có tử tế không? Sao lại không? Nó cười nhạt: Tử tế đến nỗi anh phải bỏ việc, tử tế lắm nhỉ? Tôi cãi rằng: Không, tôi bỏ việc vì một lẽ riêng, chứ không phải tại chủ đểu. Thế à? Nó hỏi một câu cho mình đỡ ngượng rồi lại điềm nhiên gục đầu xuống ăn. Thì ra con bé, dầu đương lúc thất nghiệp, cũng không cần có việc làm! Nó cứ thờ ơ thế thôi! Tôi quay ra tán với mụ trùm nó: Này u, cái chỗ tôi bỏ đi ấy mà, họ đang cần một con sen đấy. U dắt con bé kia lại nhé? Bằng lòng không thì tôi chỉ chỗ cho. Chắc nó thì sẽ được người ta bằng lòng. Mụ già này cũng thờ ơ: Thật hay bỡn? Thật, chứ sao lại bỡn? Người ta cần thì người ta ra đây. Nhưng mà dắt nó đến cho nó có việc sớm ngày nào lợi ngày ấy có hơn không? Chả hơn để nó chết đói mà chờ việc à? Mụ bĩu ngay cái mồm cho rõ dài: Nó đương chết đói ngay đấy! Thế nó có cần đi làm không? Anh hỏi nó xem! Nếu nó cần thì chỗ ấy là tốt nhất! Mụ gắt lên mà rằng: Khỉ lắm, đừng nói nữa, anh thử hỏi nó xem nó có cần làm không? Ồ! Lạ! Một đứa đi ở, khi mất việc, lại không muốn có việc làm! Thế là nghĩa lý gì? Tôi phải biết tường tận mới được.Chương 4 Cuốn Tiểu Thuyết Của Con Sen ĐũiTrong khi ngồi trước đèn để thuật lại câu chuyện này, tôi cũng muốn cho mơ màng để cái cuộc giãi bày tâm sự của con sen có được một chút thi vị. Khốn nạn thay, tên nó lại xấu xí như thế, mà những lời tâm sự ấy lại được giãi bày trong một phong cảnh chẳng được đẹp mắt, đại để như bãi bể Đồ Sơn hay con đường Cổ Ngư. Than ôi, chúng tôi chẳng may lại không được là Đạm Thủy và Tố Tâm, Mộng Hà với Lệ Anh. Thưa các ngài, cái cuộc ve nhau của chúng tôi lại xảy ra ở một vỉa hè, gần một đống rác, trước sự tấp nập của Hà Thành về một buổi chiều, nghĩa là trước sự áo xe như nước, áo quần như nêm... Cái xã hội thượng lưu chẳng bao giờ thèm nhìn đến bọn hạ lưu, nên những việc mà cái xã hội thượng lưu làm trong sự tối tăm thì bọn cơm thầy cơm cô chúng tôi dám phơi ngay ra dưới ánh sáng. Và cặp uyên ương chúng tôi không biết kiểu cách, vì trong khi nói chuyện, chúng tôi quên khuấy đi mất, không biết là cả hai đã cứ để ống quần vén lên đến đùi! Bởi thế cho nên lời thú tội của cái Đũi, tôi có thể tin được là thành thực, mặc dầu sự thú tội ấy không được nói ra trong một gian nhà thờ uy nghi và thần bí, trước cái vẻ mặt của một ông cố đạo cay nghiệt mà mỗi cử chỉ đều như biểu hiện một vẻ thiêng liêng... Người "rửa tội"... tôi, chỉ có cái mặt một thằng nhỏ thất nghiệp. Cái Đũi đem thân đi ở là vì những sự hủ bại ở chốn hương thôn. Năm nó lên mười tuổi, bố nó là một bác Nhiêu gai ngạnh trong làng. Năm lên 12, cái Đũi là con một bác Lý trưởng cứng cổ ra phết. Thế rồi từ khi ông Lý là ông Lý, thì cũng như từ khi loài người là loài người, của cải của ông Lý cứ việc từ trong nhà "đội nón ra đi". Ruộng cả, ao liền của ông Lý bán hết... sạch sành sanh, cái Đũi phải ra tỉnh đi ở! U tôi vẫn đi cày cấy thuê ở làng, còn thầy tôi hiện giờ thì kéo xe! Thật là thân làm tội đời, được cái tiếng hão thì mất nghiệp, làm khổ con, làm khổ vợ. Ngày nay đi kéo xe, có khi thiếu thuế bị cai nó đá cho đến lệch mạng mỡ, nhưng mà tôi chả thương, vì có thế mới biết thân, mới đáng đời. Cái Đũi nói như thế một cách mát ruột lắm. Tôi hỏi: Thế người làng còn ai gọi là ông Lý nữa không? Nó chép miệng mà rằng: Ấy, mấy người làng không biết là lên đây kéo xe, nên mỗi khi thầy tôi về làng, bọn người làng vẫn gọi thầy tôi là ông Lý cựu kia đấy! Đằng ấy nói cho tớ biết, lần đầu tiên đằng ấy đi ở thì gặp một nhà chủ như thế nào, và đằng ấy đã nghĩ ngợi ra làm sao? Ui chao! Khổ tuyệt trần đời anh ạ! Tôi tưởng lúc ấy tôi chết ngay được! Bước thứ nhất, cái Đũi vớ ngay phải mẹ chủ là một me Tây hết duyên về già. Cái Đũi phải ăn đói, làm no và mỗi ngày giặt độ ba chậu quần áo, trong thơm nức những mùi ô uế. Mỗi ngày độ ba trăm lần, mụ chủ cái Đũi khi gọi đến đầy tớ là phải gọi cả "tiên sư cha" đầy tớ ra, lấy oai. Mấy hôm đầu cái Đũi nghĩ đến mẹ, oán giận bố, rồi muốn tự tử... Nói đến đây, cái Đũi chợt bật cười mà rằng: Thế mà chiều nào tôi cũng được đi chơi mát ở vườn hoa ông Bôn be! Con mẹ chủ tôi thì ăn mặc trông đến nực cười. Chân thì đi giày đầm, đầu thì để tóc đuôi gà mà quần áo thì là áo khách! Trông thấy anh Tây đen là con mẹ chủ tôi liếc mắt đưa tình, giở trò gạ gẫm ngay thôi. Nó cứ bắt tôi lẽo đẽo theo sau, y như là muốn bắt tôi học nghề làm đĩ ấy. Mà cái má nó đã răn reo, nó lại trát bự phấn khắp cả, thành thử trông như mặt ngoáo ộp, thế mà cũng có anh bắt nhân ngãi với nó, thì còn ai hiểu lính Tây là hạng người thế nào? Ấy thế rồi, cha tiên nhân năm đời mười đời nhà nó! Chính nó làm cho tôi mất tân! Anh ơi, tôi lúc ấy mới 13 tuổi đầu, mà nó nhét giẻ vào mồm tôi, giữ hai chân tôi cho thằng oẳn cứ việc hiếp lấy hiếp để! Tôi nhìn kỹ cái Đũi thì mới biết là trông nó cũng đẹp, cũng có mẽ con người. Trước sự thuật lại một việc bất bình đã xa lắc xa lơ, tôi cũng thấy nóng cả mặt mày lên như đương trông thấy sự bất bình ấy vậy. Tôi vội hỏi: Thế mà không đi kiện à? Nhưng mà về sau nó hết sức dỗ dành tôi, hết sức dọa nạt tôi, rồi cho tôi hai đồng bạc... Đồ khốn nạn chưa! Vì hai đồng bạc mà đến nỗi... Cái Đũi xua tay ngăn tôi mà rằng: Không, không, không! Anh đừng vội chửi tôi như thế... Sau khi bị thì tôi nằm liệt như sắp chết mất đến nửa ngày, mà giữa lúc tôi bị, anh tính cả cái khăn bông tắm nó tọng vào mồm mình thì mình còn kêu vào đâu? Thành thử sau khi không chịu nhận tiền đền, tôi ra phố kể lể, khóc mếu với một ông đội xếp... Chưa kịp nói rõ đầu đuôi, nó đã chạy ra đứng án ngữ trước mặt mình, rồi nó nói tiếng tây với ông đội xếp không biết những gì mà thấy ông ấy đổi giọng mắng tôi, những là đừng có vu oan giá họa, chứng cớ không có mà đi kiện láo thì rồi tù mọt gông! Thế là tôi đâm ra sợ, không dám nghĩ đến chuyện lên bót nữa, đành phải nhận hai đồng bạc tiền đền. Ba hôm sau tôi ra, vì nó quen mùi, lại bắt tôi tiếp khách nữa. Tiên sư bố nó, thật là giời quả báo, xui nên nó bị ô tô đâm phải, gãy mẹ nó ngay một cẳng... Anh ạ, tôi cho có giời có ta lắm. Cái Đũi còn nói mãi về con mẹ chủ khốn nạn ấy để khen giời là có mắt đấy chứ không mù... Nó kể xấu chủ cũ nó nhiều đến nỗi khiến tôi mất cả thương hại nó và rồi thấy chối cả tai. Tôi phải yêu cầu nó ngắt chuyện ấy đi và thuật nốt cho tôi nghe những chuyện công ăn việc làm với bọn chủ về sau của nó. Thì ra, sau khi bị cái tai họa của chú oẳn, con bé lại được lợi trông thấy vì hiểu biết sự đời, đến nỗi một cô gái quê hiền lành mà trở nên một ả thiện nghệ trong việc khiêu dâm và mãi dâm. Than ôi! Ta đi hiếp dâm người ta là một tội ác đấy ư? Thưa không ạ! Ta hiếp dâm người... ấy thế mà có khi đã dạy được cho người một bài học về "thực nghiệp" rất hữu ích và rất chóng có kết quả nữa! Về sau, anh ạ, tôi được vào làm con sen ở một nhà giàu, tôi đã mừng thầm, tưởng rằng vào được cửa một nhà giàu thì hẳn được người ta đãi mình tử tế. Úi chao ơi, càng những quân giàu có thì lại càng keo bẩn, chó đểu không ra loài người. Thoạt đầu, khi đứng thập thò sau lưng một mụ đưa người, cái Đũi cứ nhìn những tủ chè khảm, câu đối sơn son thếp vàng, lộ bộ, đôn sứ với chậu sứ, tủ gương với đỉnh đồng mà có lẽ cũng ù cả tai! Bà chủ dõng dạc kêu cho công mỗi tháng năm hào. Cái Đũi vào làm, lòng mừng khấp khởi... Một ngày đầu, may không có chuyện gì. Tối hôm sau, vì ăn cơm khuya, thức ăn lại không đủ dùng nên cái Đũi liền khoắng vào cái liễn trong gác măng giê, lấy ra ba miếng thịt vịt. Không ngờ bảnh mắt sáng hôm sau nữa, bà chủ lôi xềnh xệch cái Đũi ra nơi" xảy ra án mạng" ấy, cốc cho cái Đũi đến ba cái bươu đầu và nói lịch sự thế này: Tiên nhân cha con ranh con, chưa chi đã giở ngay những thói trộm cắp! Liễn thịt của bà mười hai miếng mà dám thọc ngay đũa vào ăn vụng mất ba miếng! Bà đã đếm rồi bà mới cất đi, dễ mày tưởng bà không biết đấy à! Từ giờ trở đi thì bà chủ cứ được thể lục tiên nhân cha con sen ra, bất cứ vì tội gì... Một hôm kia, sau khi cái Đũi đi mua một hào thịt quay về để lên mâm cơm cho ông chủ thì... Ấy thế là giữa ông chủ và bà chủ đã xảy ra một cuộc khẩu chiến đại kịch liệt. Ông gọi bà bằng tên những giống vật, và bà lấy những chổ hiểm trong thân thể người đàn bà ra đặt danh từ (nom) và trạng từ (adjectif) lại cho cái mặt phúc hậu của ông. Ông cự bà sao lại không dặn con sen đi mua một hào thịt quay thì phải mua hai lần, mỗi lần một gói năm xu, để cho nhà hàng phải thêm thì mua được rẻ. Bữa ấy giận cá chém thớt, ông chủ cũng gọi con sen ra tặng cho mười hai cái bạt tai, mặc dầu nó chẳng đáng tội tình gì. Tôi ngắt chuyện nó mà rằng: Thế mà đằng ấy không xin ra ngay? Nó nhìn tôi hồi lâu, ra ý chế nhạo rồi đáp: Thoạt đầu, tôi cũng muốn xin ra ngay. Thế nhưng mà về sau, nghĩ rằng mình cần báo thù. Có báo thù được thì mới hả dạ, nên tôi cứ nhẫn nhục ở lại làm, anh ạ. Rồi thì là... Rồi thì là nó trả được thù một cách độc ác... Bà chủ có cô con gái dậy thì, mới 18 tuổi... lửa tình sớm bốc, lúc nào cũng lồng lộn... đĩ rạc. Hay ngồi lê để kể chuyện nhảm... tiểu thư cứ bị những chuyện tiếu lâm của... thích cho đến phải đi lùng lấy giai... tiểu thư đã có dăm bảy cậu tình nhân... mối lại. Thư đi từ lại, cứ mỗi lá thư, cái Đũi lại được một hào, ăn quà mỏi cả răng mà vẫn không tiêu hết xu. Chưa phải chỉ có thế thôi... Bà chủ còn cậu con trai tuổi mới 12 mà trong cặp sách đi nhà trường lúc nào cũng đầy những ảnh dâm dục. Biết thế, cái Đũi cứ rình những lúc đêm khuya, cậu mà cầm đèn vào nhà sau, thì trên tấm chõng tre, hai cái đùi non trắng hếu của con sen lại phô ra như đấu xảo! Từ đêm ấy trở đi, có đêm cậu đi tiểu đến tám mươi nhăm lần. Đến lần thứ tám mươi sáu, cậu vừa nhịn thở, rón rén để tay vào một cái đùi non, thì con sen ngồi nhỏm ngay dậy, tỉnh ngủ một cách bất ngờ. Cậu bịt miệng nó bằng một đồng bạc. Sau khi trả tiền rồi, mặt cậu như điên, rồi nằm xuống chõng, ôm ghì lấy con sen. Cứ thế mãi! Thế mãi! Đến đây, cái Đũi hôn tôi một cách rất tình mà cười, và: Đằng ấy ạ, chả nước mẹ gì cả đâu nhé! Tớ cứ việc khoét xu, mới nửa tháng đã lấy được đến chín đồng. Vậy mà tớ chỉ có cu cậu cái bề ngoài mà thôi! Thế thì sao lại không ở mãn kiếp ở cái nhà ấy? À, vì tôi chả giấu gì anh nữa, tôi muốn làm cô đầu. Cô đầu? Phải, chứ cứ đi ở thì rồi suốt đời tôi chỉ làm một con sen. Ôi! Cái sức ám thị của một cuộc hiếp dâm! Sau này, nếu cái Đũi sẽ nên bà, dễ thường rồi tôi phải đi cảm ơn cái thằng oẳn đã hiếp nó!Chương 5 Sự Cám Dỗ Với Mảnh Hồn Ngây ThơĐến bữa cơm chiều, cái Đũi và tôi cùng đứng lên từ giã cái vỉa hè đường Amiral Courbet rồi chia tay nhau. Vì chưng một con sen thất nghiệp không nhà muốn làm ả đào là tức khắc thành ngay ả đào, tôi đồ chừng là nó còn đủ thì giờ để nóng lòng sốt ruột chờ đợi cái ngay mà mụ già làm nghề đưa người tìm thấy một bạn đồng nghiệp của mụ ở phố Mới để mụ này sẽ giao cái Đũi cho một chủ hát ở Khâm Thiên, hoặc Ngã tư Sở, hoặc Gia Quất, hoặc phủ Từ Sơn. Thế thì trong những ngày nó ăn chực nằm chờ, thà nó để thời giờ mà tâm sự hoặc "tri kỷ" với tôi còn vui hơn là ra ngồi lê ngã ba ngã bảy... Tôi đã nói như thế. Cái Đũi đã mỉm cười gật đầu. Tôi đã hẹn nó ở vườn hoa con Cóc, vắng vẻ, mát mẻ và tối tăm... Cho nên tối hôm nay, tôi chưa phải ngồi chờ đến năm phút thì cái Đũi đã đến. Tôi đương ngồi bó gối trên thành bể cạn nhìn vào đám tối đen sì nước róc rách chảy xuôi chảy ngược, mà, nhờ ánh sáng một cây đèn điện ở mãi góc phố lách qua đám lá cây rậm rạp chiếu mờ tỏ, mấy con cóc đồng với mấy con rồng rêu bám xù xì đầy mình mẩy hiện thành hình những con quái vật không tên... Chợt bốp một cái vào vai, tôi quay lại thì... cái Đũi. Thấy "người yêu" đã đến, tôi nắm chặt lấy tay mà véo một cái rõ đau vào người yêu. Nó chỉ xuýt xoa thôi chứ không phàn nàn gì, rồi ngồi ngay vào lòng tôi. Đám cơm thầy cơm cô chúng tôi có những cái "tay bắt mặt mừng" nhã nhặn với nhau là như thế, ấy là kể vào những khi yêu nhau. Thật vậy, kể đàn bà mà như thế là hư thân, song sự hư thân của cái Đũi không khiến tôi mếch lòng. Trái lại, và vì lẽ không thấy tội lỗi nào khác, cái Đũi cứ việc giữ chỗ cho chặt, gần bằng một vị quan lớn giữ chỗ lúche tin người này, người khác về hưu. Không nói gì cả, tôi chỉ khẽ hát một cách rất phong tình: Lấy ai thì cũng một chồng Lấy ta, ta bế ta bồng trên tay Cái Đũi ngửa cổ ra cười một hồi. Về sau, vòng hai cánh tay níu lấy cổ tôi, nó khẽ hát đáp: Cần câu bằng trúc, lưỡi câu bằng vàng Anh giắt mồi ngọc ném sang câu rồng Người ta câu bể câu sông Tôi nay câu lấy con ông cháu bà. Thôi đi, cút đi! Tôi không phải là con ông cháu bà thì ngồi vào lòng tôi làm gì! Cái Đũi cứ ngồi yên, lại hát: Ai ơi chơi lấy kẻo già Măng mọc có lứa, người ta có thì Chơi xuân kẻo nữa xuân đi Cái già xồng xộc nó thì theo sau. Rồi nó cười "cục, cục" một hồi như một con gà mái ghẹ. Cười xong, nó giãy dụa đánh lúc la lúc lắc hai ông chân và cắn một cái rõ mạnh vào bên vai tôi. Thật là một đứa con gái mà tạo hóa sinh ra để cho làm ả đào. Chưa làm ả đào, nó đã thạo nghề lẳng lơ đến bậc ấy. Cái lúc ấy bắt tôi phải chợt nhớ tới những lúc nó khiêu dâm cậu bé con ông chủ nhà. Nói cho đúng ra, hình như tôi thấy hiện rõ rệt trước mắt tôi cái cảnh tượng thảm hại, một cậu bé 12 tuổi mà đã hứng tình trước hai cái đùi trắng nõn của một con sen vờ nằm ngủ say. Tôi nghĩ ra rằng cậu học trò kia mai sau tất rồi hư thân, mà nếu có hư, chính là chỉ vì bố mẹ cậu ta đã ở ác với một con sen tinh ma quỷ quái. Một thiếu niên đang tuổi học hành, sau đây biết đâu chả là nhân tài của xã hội, vậy mà cái Đũi đã đẩy cho đến nỗi chúi mũi chúi tai vào cái vực dâm bôn! Thật vậy, dạy con cho con không hư là bổn phận của cha mẹ, song biết trông nom con cái thế nào cho cùng? Người ta biết đâu mà đề phòng nếu con ở trong nhà nguời ta lại là cái Đũi? Vả lại tôi cũng như ông, ông cũng như bao nhiêu người khác, có lẽ chúng ta cũng đã thay đổi hàng trăm đứa đầy tớ, những đứa đã sống cạnh nách chúng ta, được ta chửi mắng thì nhiều và được ta thương thì rất ít, mỗi đứa là một thế giới riêng, bởi lẽ, ta không để ý ngắm nghía kỹ bọn ấy bao giờ! Cho nên chúng ta muốn làm gì thì làm... Ngay trong nhà mình... Ấy tôi đã nói thế với các ông! Nhưng mà còn xa tôi mới làm thầy kiện cãi không công cho hạng người giàu có mà bắt đứa ở đi mua một hào chỉ thịt quay phải mua làm hai bận. Còn xa tôi mới "làm án" cho một con sen bị đánh gần bỏ mạng vì không mua bằng hai lần một hào thịt quay cho chủ nhà khi chủ nhà không dặn kỹ nó, và, do thế báo thù chủ nhà bằng cách dạy đứa con chủ nhà vào cái vực dâm bôn. Tôi chỉ ghi một việc xảy ra. Nhân thể thì tôi muốn người ta đề phòng, đừng để cho việc như thế xảy ra lần nữa. Điều cần nhất của tôi là muốn cho cái Đũi trở lại với những tính tình trong sạch của cô gái quê ngây thơ. Công toi! Cô gái quê đã phải làm con sen thì cô gái quê sẽ cứ làm cô đào. Cô gái quê đã bị một chú oẳn làm cho nhị rữa hoa tàn thì rồi cái hôi tanh nó là một cái thang để cô gái quê trèo lên cao. Vì rằng cái Đũi rên rỉ nói: Anh phải biết cho tôi mới được chứ! Cái thân tôi đến nỗi thế này có phải là tại tôi đâu? Bố tôi không làm lý trưởng thì đời nào tôi phải đi ăn ở với người ta! Tôi không phải đem thân ra làm tôi đòi thì đời nào đến nỗi tôi bị một thằng oẳn nó hiếp! Mà cái thân tôi đã đến nước này thì tôi còn giữ gìn làm gì mà chả đâm vào cái nghề hoa nguyệt cho nó bõ dây oan một phen! Lúc ấy là lúc đứng đắn, và cảm động. Dùng đến cái giọng cảm động rồi thì cái Đũi từ giã hai đầu gối của tôi. Trong khoảng tối tăm, tôi không biết có phải cái Đũi khóc hay không nhưng thấy nó xỉ mũi vào tay áo nhiều bận lắm. Cố nhiên lúc ấy, không muốn làm ngắt đoạn sự xúc cảm buồn rầu nhưng rất nên có của cái Đũi, tôi cũng phải thêu dệt ra cái tiểu thuyết bi đát của tôi... Bố tôi xưa kia cũng là một ông có của trong làng. Một đám cướp xảy ra, quan trên muốn ăn tiền, đã bắt một tên đầu đảng khai man cho bố tôi. Rồi bố tôi bị đẩy đi tù để cho tôi đương ăn học mà phải bơ vơ. Cuối cùng tôi phải vào làng cơm thầy cơm cô, mặc dầu về Hán tự tôi biết cũng khá nhiều. Rồi tôi cầm lấy hai tay cái Đũi: Mình à, chúng ta cũng là con nhà tử tế cả, sa cơ lỡ bước mới nên nông nỗi này. Thế thì đã biết nhau, đã biết nhau, đã xem chừng cũng có cơ hợp nhau, sao ta lại không tính cuộc vuông tròn với nhau? Bây giờ chúng ta hứa với nhau đi, rồi mình đi làm đường mình, tôi cứ việc tôi, bao giờ để dành được một số tiền thì ta đem góp lại làm một, về làng tậu vài sào đất giồng rau, ta cùng sống với nhau no đủ, chẳng phải mãn kiếp đi ở thế này. Tôi chưa nói hết, nó đã lấp liếm: Thôi anh ạ, ta đừng nói nữa mà tôi đau lòng lắm! Làm sao? Vì tôi không còn là người con gái nguyên vẹn nữa, chả đáng làm vợ anh. Không, tôi không cho cái ấy vào đâu cả. Miễn có bụng dạ với nhau thì thôi. Mình không còn nguyên vẹn là vì bị hiếp chứ có phải vì hư thân mất nết gì. Cái Đũi thở dài mà rằng: Trước khi biết anh, tôi cũng có biết một người giàu sang ở hiệu cao lâu... Tôi tin người ta, ngủ với người ta, rồi thì không tài nào làm cho người ta lại tin như trước rằng tôi bị hiếp nữa. Cái việc vợ chồng ở đời, khó lắm anh ạ. Tôi không nói nữa, biết là nó bịa đặt cho có một cái cớ để từ chối mà thôi. Tôi làm ra ý ngu ngốc nói: Thế không lấy tớ thì bắt nhân ngãi với tớ làm gì? Nó cười, nhìn tôi một cách ái ngại mà rằng: Thế mới biết anh thật thà! Anh tưởng hễ cứ bắt nhân ngãi với nhau là phải lấy nhau hay sao? Quých thế! Tôi lặng yên năm phút để nếm cái "quých" của mình. Sau tôi hỏi nó: Sao đằng ấy thích đi làm nhà trò như thế? Nó đáp bằng một hồi rõ dài: Giời đất cha mẹ ơi, sao lại không thích! Đang phải hầu hạ người ta mà nhảy tót lên ngang hàng với người ta! Làm nhà trò thời mới có phen lên làm bà phán, bà ký, chỉ là con sen thì tôi khổ lắm anh ạ! Tôi muốn cho chúng nó phải mê tôi, yêu tôi, bắt nhân tình với tôi, chiều chuộng tôi kia. Rồi anh xem, con này mà lên làm nhà tơ thì rồi nhiều thằng khổ. Tại sao đằng ấy biết được làm ả đào thì oai như thế? Tôi lại còn lạ. Cái lần ấy lão chủ cũ tôi ăn khao, có mời cô đầu về nhà, tôi thấy những đứa kia cũng chả đẹp gì mấy mà cũng được những ông nọ, ông kia đánh giá ra phết, ẵm vào lòng, bá cổ, quàng vai. Mặt mũi tôi như thế này tưởng cùng là sạch nước cản lắm. Mấy câu đáp ấy tưởng cũng đủ cắt nghĩa rõ cho những ông đạo đức vẫn kêu " ôi phong hóa suy đồi" hiểu được rằng vì lẽ gì con gái bây giờ đua nhau hư. Tôi muốn tìm trong cái Đũi những dấu vết cũ của một cô gái nhà quê, ngoan ngoãn, hay làm, có những cái mơ màng bình dị (mặc dầu là sát mặt đất), nhưng mà là trong sạch, suốt đời không dám nghĩ đến cái bả vật chất, những vẻ phồn hoa của đời, nhẫn nhục mà sống với một người chồng cục mịch, và chỉ biết có việc chịu khó làm ăn. Tôi đã thất bại. Hoàn toàn thất bại. Từ một cô gái sa cơ mà bị hãm hiếp, tôi chỉ thấy một đứa hư hỏng giả dối, rất nguy hiểm cho đời. Ấy thế mà, nếu cái Đũi sau này thành một chị em, chắc rồi bao nhiêu khách mày râu sẽ đến trước mặt nó mà quỳ, mà dâng trái tim cho nó. Rồi thì nó sẽ khóc sì sụt qua cái khăn mặt hoa đào, thảm thiết kêu cứu mọi người cho thoát khỏi trầm luân khổ ải... cho mà xem! Sương bắt đầu sa, vườn hoa Con Cóc như có một tấm màn "tuyn" mỏng bao phủ... Tôi hỏi cái Đũi: Về chứ? Nó đáp: Ừ, tôi về! Bây giờ mà quay về cái gác hàng cơm ấy thì chán chết! Nếu thế thì đi thuê một cái buồng mà trò chuyện với nhau. Cái Đũi đã đi nhanh hơn tôi. Tôi nói ý: Nhưng mà tôi không đủ tiền. Thì nó đáp ngay: Thế thì tôi có đủ đây anh ạ. Thôi ta đi thôi. Từ đây trở đi, việc chúng tôi làm không thuộc về bổn phận của một thằng nhỏ hay một con sen. Tôi không cần phải tường thuật. Nhưng do đó, tôi phải nói rằng tôi đã hiểu cái tâm lý của những chị nhà thổ bòn xu của khách làng chơi để có tiền dúi cho nhân tình!Chương 6 Ánh Sáng Kinh ThànhĐêm hôm sau tôi lại đến hàng cơm. Lần này đáng lẽ bảo lên cái gác mà tôi đã nằm một đêm, thì họ quát tháo ầm lên rằng tôi đã mở đường cho điếm, rằng mụ già đưa người đã quên không lại đưa trả hai xu tiền trọ hộ tôi, rằng hôm nay họ thí cho tôi cái phúc là vào ngủ ở "đằng sau" để rồi phải bảo cái mụ già kia lại cho bằng được. Tôi không cãi lấy nửa lời, mà cứ việc như không nghe thấy gì cả, cắm đầu rảo bước qua cái bếp rồi đến cái sân rộng rãi mà họ gọi là "đằng sau". May sao tôi không phải chỉ có một mình. Hơn một chục người đã có mặt tại đó. Dưới ánh sáng trăng vằng vặc, họ nằm hoặc ngồi trên những manh chiếu nát rải trên đống gỗ lim vuông. Thì ra cái sân nhà hàng cơm này lại ăn thông với một xưởng gỗ nào nữa. Phong cảnh chốn này không có gì là đẹp. Chung quanh chỉ có những bức tường cao ngất ngưởng, bẩn thỉu vào bậc nhất với những mái nhà đen sì sì. Bên tay phải chỗ chúng tôi nằm là một cái chuồng gà, trước mặt là một cái cống nước đen, đọng hầu như kinh niên, và bên tay trái là chỗ cho những người tứ xứ trút ra ngoài những cái thừa trong bụng. Tôi lấy làm tiếc cả những ánh sáng mặt trăng. Lẫn lộn trong đám hơn chục người này, tôi thấy ba đứa trẻ đã ngủ cùng với tôi trên gác đêm kia. Trên những cái mặt ngây thơ không lộ vẻ lo buồn gì cả. Còn những kẻ khác thì thật là những kẻ mà người ngợm và quần áo đã đủ tiêu biểu cho bao nhiêu nỗi thống khổ của lòai người, từ khi cuộc đời là cuộc đời. Một anh chàng đầu trọc lốc, mặt xanh nhớt nhưng mà béo tốt hẳn hoi, áng chừng vừa ở nhà thương hoặc nhà hỏa lò ra, đương ngồi lia lưỡi trên một mảnh giấy còn có cái gì đen sì sì, thoạt đầu tôi không hiểu, nhưng sau tôi đoán ra ngay là sái thuốc phiện. Một anh chàng khác, cái cổ cao ngỏng dán đến ba bốn lá thuốc cao, đương ngồi ngửa cổ xem thiên văn trên trời. Một thằng bé thứ ba nữa, thì cứ gãi sồn sột, nằm xuống lại ngồi lên để ho, khạc và nhổ tung tóe đờm dãi ra xung quanh. Rồi một mụ già ăn mặc sạch sẽ gọn gàng, nét mặt bần thần, trông vô nghĩa lý, cứ cầm quạt nan phẩy cho người này vài cái, người kia vài cái, hình như hơn chục người này đều là con cái của mụ vậy. Còn sáu đứa nữa, con trai cả, cũng quần nâu, áo nâu thì đều ngủ li bì. Khi tôi nhảy lên đống chiếu thì cả bọn không ai thèm nhìn đến tôi. Tôi dám chắc không một người nào có trong túi lấy một xu nên họ mới dám nằm đây, và chắc dạ dày của họ cũng rỗng không như túi họ. Vậy mà họ cũng được người ta chứa chấp ở đây. Không phải bọn chủ hàng cơm là phúc đức gì, song chứa chấp thì bọn khố rách áo ôm này có đi xoay xở hoặc hành khất được xu nào ắt là về cũng phải mua cơm của họ. Nếu lại đi trộm cắp được đồ vật gì, ắt là bọn chủ hàng sẵn lòng tiêu thụ cho ngay. Chả phải bỗng đâu bọn chủ hàng cơm cho để trong nhà mình có một nơi giống như viện tế bần. Mười ba người này, căn cứ vào thần thái họ và quần áo họ thì không phải bọn người vốn đẻ tại chốn đế đô. Họ đến là vì tại những nơi thôn quê họ không làm gì cho có đủ mỗi ngày hai bữa. Kinh thành đã cất tiếng gọi họ, cám dỗ họ. Khi ra đi, chắc họ cũng không ngờ đến nông nỗi này. Họ chắc mẩm trong bụng họ là sẽ có việc làm vẻ vang... Có lẽ họ đã phơi nắng, phơi mưa xin từng đồng chinh, từng bát cơm, cùng đường rồi mới đến được Hà Nội. Các ngài cứ tưởng tượng hộ Hà Thành. Những phố và những phố, cái nọ tiếp cái kia. Rồi các ngài tưởng tượng ra một người nhà quê một trăm phần trăm, rất bỡ ngỡ, bị bỏ lạc giữa một phố. Phố nào cũng có nhà cửa, vỉa hè, lề đường, nghĩa là phố nào cũng giống phố nào, cho nên đường hình như cứ mỗi lúc một dài mãi ra. Người nhà quê đã đi, đã đi và đã đi... Rồi người nhà quê thấy nhọc. Nhưng vì lẽ gì người nhà quê lại dừng bước? Nếu nghỉ chân tất phải ăn uống cái gì. Không đủ tiền. Thành ra người nhà quê có muốn nằm nghỉ cũng không được, vì người ta phải trả tiền cả sự nghỉ ngơi nữa. Đi đã mỏi, vẫn phải đi. Người nhà quê lâu dần không thể đi được nữa. Khốn nỗi trong một kinh thành, người ta không được phép "không thể", cho nên người ta cứ đi... Lang thang hết phố nọ đến phố kia... có khi đi vòng trở lại mà không biết. Đến ngã ba kia thấy một đám đông người. Trong đám đông người ấy, người nhà quê thấy phần nhiều đó cũng vốn là những người nhà quê. Cho nên người nhà quê đứng lại. Một bà già mặt trông sắc sảo, hai tai lại nặng trĩu một đôi khuyên vàng, trông ra vẻ có "thế lực" lắm, thõng thẹo cái tay vẫy người nhà quê lại mà nói oang oang như thế này: Này, đi đâu mà ngơ ngác thế? Có muốn kiếm công ăn việc làm không? Lại đây mau lên tôi bảo! Người nhà quê sung sướng lắm, vì đó là lần đầu mà người nhà quê thấy một người tỉnh thèm nói với mình. Mà nói gì? Nói những lời nhân đức, những là kiếm công ăn việc làm cho... ! Thế rồi ngày mốt, ngày hai ăn chực nằm chờ, hoặc sân hàng cơm hoặc hè nhà hát. Cái tiểu thuyết của họ là như vậy hoặc đại khái như vậy cả. Hà thành có bao nhiêu ngã ba và ngã tư? Có bao nhiêu chỗ cho bọn cùng dân đăng vào nghề cơm thầy cơm cô? Hàng ngày Hà thành đã đếm được bao nhiêu tấn kịch như thế? Mười ba người tại đây, sở dĩ trôi dạt đến đây, là bởi cũng đã như con thiêu thân bay vào đống lửa, cho nên mới bị quáng mắt về những ánh sáng của kinh thành. Mụ chủ hàng cơm đã chứa chấp họ trong những xó sân. Ban ngày họ ra ngồi bày hàng ở ngã ba, ngã bảy. Trong khi chờ cho có việc, họ có mấy đồng xu cứ ăn hết dần. Đến cái ngày mà túi cạn mà việc chưa có, mà không ai thí cho đồng chinh hay bát cháo, tất là họ phải sinh ra liều mạng, có những lá gan to. Đàn bà sẽ đi đến Dục tình. Đàn ông sẽ đi đến Hình phạt. Trước khi đi đến cái ấy, hiện giờ thì họ bình tĩnh nằm chờ cái sóng gió là ngày mai. Và nếu họ mãi mãi không có việc làm thì đó không phải là lỗi tại trời, không phải tại ông hay tại tôi, mà không phải lỗi tại ai tất cả! Không lẽ ai ai cũng bắt buộc phải có một đứa tôi tớ trong nhà? Ánh sáng của kinh thành... Có lẽ những đêm không trăng không sao, người nhà quê vùng Nam Định, Hải Dương, Bắc Ninh, Sơn Tây, Hòa Bình mỗi khi ra sân, quay về một phía trời, đã thấy có một vùng hào quang sáng rực. Đó là Hà Nội, nơi nghìn năm văn vật, dân giàu, tiền nhiều của lắm, dễ kiếm sinh nhai... Người nhà quê cứ việc bỏ làng mà đi!Một ngày kia rồi sẽ được nằm trong một xó sân, ngửi mùi nước cống, mùi cứt gà và cứt người, nhịn đói nằm co mà nhìn trời, như đêm nay, có cả ánh sáng trăng vằng vặc.Chương 7 Bi Hài KịchTrong khi tôi đương liên miên nghĩ ngợi về những người dân quê dại dột như thế, bỗng lại thấy hai con sen nữa cũng tiến đến. Một đứa mặc váy, cắp một cái thúng nhỏ, tóc còn ngắn, tỏa một cách hỗn loạn xuống trán và gáy, dáng đi lạch bạch như một con vịt bầu. Còn đứa kia, mặt mũi tuy sạch sẽ hơn, lại mặc quần hẳn hoi, song tinh thần ngây ngô dại dột vô cùng, trông cũng không có một chút nào là vẻ đã ở tỉnh thành cả. Cả hai đứa loay hoay không biết kiếm một chỗ nào ngồi chứ đừng nói đến nằm. Tôi bảo bà lão già: Bà ngồi dẹp vào cho người ta nằm với. Bà lão vâng lời, dẹp chỗ rồi lại phe phẩy quạt cho hai đứa mới đến bằng cái tinh thần một người mẹ già nuông con. Tôi đứng, hai tay gãi sườn, ngắm nghía cái đống vô nghĩa lý ấy rồi tự hỏi: Ta sẽ làm gì cái bọn này? Tôi không phải đến chỗ này để nhìn cái cảnh ấy mà thôi. Phải làm thế nào cho bọn ấy nói chuyện với mình, tin mình, phục mình, mến mình, đừng buồn ngủ nữa, đừng đau khổ nữa, đừng đói khát nữa... Tự nhiên tôi thọc tay mân mê mấy hào chỉ trong túi. Một rá xôi bán ở nhà ngoài, ấy đó, một cách chiếm lòng yêu của kẻ khác trong thế gian! Khốn thay, nếu như thế, sợ thiên hạ đồn rầm lên, mà rồi tôi sẽ bị mụ chủ hàng cơm nghi hoặc, thì rồi đến mất đi lại. May sao tôi chợt nghĩ đến nhà trinh thám đại tài trong truyện Mephisto. Khi vào đến hang hùm tổ rắn của bọn gian phi là một hàng cơm, muốn khỏi bị nghi ngờ, muốn được yêu mến nữa, nhà trinh thám chỉ việc ép lòng làm một nhà tài tử bê tha và lãng mạn. Một bài Nam Ai hay một bài Văn Thiên Tường thí phí của quá mà không hợp, tôi dùng đến mấy điệu hát chèo là lối thịnh hành vùng quê. Tôi vừa làm điệu bộ vừa hát: Mừng bề trên trường trị, xã tắc muôn năm trường thọ! Mừng làng ta đất gồm văn võ Đức anh linh ủng hộ muôn nhà Nhớ Tống triều niên hiệu Kiến Quang Đâu đâu đấy đấy giàu sang Trăm họ nơi nơi no đủ. Xem trong tích cũ: Có một chàng tên gọi Trương Viên Cha mất rồi còn mẹ cao niên Chàng dốc chí chuyên nghề kinh sử! Nhà hàn sĩ nghèo nàn cơ khổ Mà được quan thừa tướng gả con cho! Chỉ có thế, cả bọn "khán giả" ấy cũng đủ bị tôi thôi miên. Anh chàng đầu trọc và mặt bủng da chì ngửa cổ hề hề cười như một chú khách lồi rốn. Thằng cha có cái cổ đầy những lá thuốc cao hết trầm tư mặc tưởng với trăng sao trên trời, quay lại đăm đăm nhìn tôi. Thằng bé con ho lao hết ho sù sụ như một ông cụ. Bà lão già cũng ngây người ra như một pho tượng sống, hết cả phe phẩy quạt cho những kẻ chung quanh. Tôi nhìn cả bọn ấy một cách đắc chí, rồi đổi sang giọng nồi niêu: Trách bởi vì đâu ta học dốt như bò Bút lông mèo tình chung mà ta ngậm í i Để cho ho một đời! Bỏ bút lông, ta thử ngậm bút sắt ta chơi! Ta thử ngậm bút sắt ta chơi Bút sắt ta chơi! Lỗ kia tình chung dù đứt í i mấy ta thời... Ta thời đóng đanh Chớ cái cuộc văn chương hồ dễ đã tan tành! Hồ dễ đã tan tành!! Đến đây xong thì năm sáu đứa trẻ lần lượt ngồi nhỏm dậy. Đứa đã dậy rồi lấy chân đạp vào mạng mỡ để đánh thức đứa khác còn ngủ say, như là khi còn ở nhà với mẹ cha, chúng rủ nhau đi xem chèo vậy. Hai con sen kia cũng đứng phắt lên, cái con mặc quần đứng sau lưng ôm cổ con bé mặc váy, y như ở đình làng. Tôi không thấy ngượng nữa, không biết tự mình là dơ dáng dạng hình nữa. Tôi chỉ thấy tôi oai vệ, sung sướng, đang kiêu ngạo như một thằng cơm thầy cơm cô một trăm phần trăm. Tôi bèn cúi khom lưng xuống y như một ông già mà lại gù, mà đi vòng tròn cái sân, lại hát: Lão tuy già lụ khụ, nhờ giời cho vẫn khỏe khòe khoe Vẫn khỏe khòe khoe!!! Kia như cái gậy gục, cái gậy gạc Nó có chà, nó có ngạc Lão bê vác, hục hà hục hạc Quệch quà quệch quạc Hạt mưa sa lác đa lác đác Lão vẫn khoác kè kè cái áo bông! Đầu tóc lão dù trắng xoá như bông Kìa thấy các cô con gái má hồng Lão vẫn, lão vẫn! vẫn còn ư say! Say, say, say, ngã chổng cò quay!!! Tôi ngã phệt xuống đất rồi ngồi xếp bằng tròn gọn một cái. "Cử tọa" rồ lên cười. Hai con sen cười to hơn cả, cười như những đồ đĩ dại, cười như đĩa kèm Fou Rire. Rồi một con, cái con mặt mũi sạch sẽ mà mặc quần ồ lạ cái con sen ngây ngô ấy ồ lạ buông hai cánh tay ôm cổ con bạn nó ra, ngã ngửa người xuống bằng bị giời đánh. Thưa các ngài, ấy là nó "cảm" tôi. Nếu tôi nói một cách có khoa học, một cách có văn chương, thì trong ái tình, cơn xúc động mạnh ấy, sự phải lòng giai ghê gớm ấy, người ta gọi là " cái tiếng sét", " le coup de foudre" vậy. Một người mê ông đến nỗi ngã lăn đùng ra lại không đủ khiến ông sung sướng, và, nếu ông có vợ, thì khiến ông về nhà thấy vợ ông là xấu xí lắm hay sao? Tôi đứng lên, khoan khoái... Tôi chờ cho con sen ấy gượng ngồi dậy, để rồi đỏ mặt mà xâú hổ. Những người khác cũng thế. Nhưng con sen ấy ngã xong là nằm cứng đờ... Như chết! Một vài người chạy đến xem sao... Tôi cũng chạy đến. Than ôi, thì ra nó bị động kinh! Hai mắt nó trợn ngược lên, chỉ còn trông thấy lòng trắng. Chân tay nó run lật bật lên. Rớt dãi của nó ứa ra trắng xóa cả mồm. Sự cười rộ đã thương tổn đến bộ thần kinh của nó. Lúc ấy, tôi cũng thấy hoảng hốt, lo sợ. Chung quanh tôi người ta nói đến những câu: phải gió, ngộ độc, chết, tim đau. Bà lão già sắp sửa khóc nữa. Tôi cố cắt nghĩa cho họ hiểu, bảo họ yên tâm. Tôi đuổi mấy thằng nhỏ ít tuổi xuống khỏi đống ván để lấy chỗ cho con sen động kinh nằm. Không việc gì, rồi chốc nữa nó khỏi! Rồi tôi cũng ngồi xuống cạnh nó, nghĩ ngợi phân vân. Cái con sen mặc váy cắt nghĩa: Chị ấy từ hôm bị điện giật tới giờ thỉnh thoảng lại thế. Bị điện giật từ bao giờ? Độ bốn năm tháng nay. Sao mày biết? Tôi có họ với chị ấy. Thế nó bị điện giật như thế nào? Chị ấy phơi quần áo trên bao lan. Thế nào? Phơi ngay áo ướt vào cái dây điện trước cửa. Nghe đến đây, tóc gáy tôi dựng đứng lên. Tôi lại vội hỏi: Sao nó lại dại dột thế? Chị ấy ở nhà quê mới ra thì biết gì! Sao những đứa chủ nó không dặn nó cẩn thận? Nào ai biết? Thế lúc bị điện giật như thế nào? Con sen ấy lè lưỡi ra rõ dài một hồi lâu rồi mới đáp: Dây điện hút hai tay chị ấy vào, một nửa người bị lôi ra ngoài bao lan, còn một nửa thì lủng lẳng ở bên trong. Mãi người ta mới gỡ được chị ấy ra. Trong lòng tôi bỗng thấy một mối thương tâm vô hạn. Tôi quay xuống nhìn mặt con bé khốn nạn ấy rồi thở dài, rồi tôi hỏi: Bị bệnh động kinh rồi lại bị chủ thải ra có phải không? Tất nhiên. Thế là nó nghỉ việc từ độ ấy đến giờ? Không, về sau đến làm cho một nhà khác rồi mới thôi việc có hai hôm nay. Sao lại thôi? Chị ấy bưng một cái lọ quý rồi bị động kinh, ngã đánh vỡ lọ, chủ bắt đền, chị ấy sợ mà bỏ trốn. Đồ ngu dại, nếu chủ nó bắt đền thì rồi nó trừ tiền công chứ gì. Bỏ trốn thế, nó lại đi thưa thì lại rũ tù. Cái lọ đáng giá hơn trăm bạc, có làm mọt xương cũng chả bù nổi. Vả lại nếu làm không công thì không có tiền gửi về quê. Tôi ngán ngẩm rồi nói bâng quơ: Tiên sư cái kiếp đi ở! Thân phận tôi đòi khổ thật! Anh chàng đầu trọc nói: À, cái ấy thì đã đành! Cái nhà bác này! Có phải trong làng cơm thầy cơm cô chúng ta với nhau không? Chính thị! Ở tù ra, hay ở mạn ngược ốm về mà trọc lốc thế? Ở "hàng xứ " ra. Sao mà phải tù? Chủ nó sai mang thuốc phiện lậu, rồi bị ông Tây bắt, rồi chủ nó không nhận. Ai bảo đi ở?! Vỡ đê, trôi cả nhà cửa, trâu bò. Vợ nó đi ra ở vú em rồi không về. Ra tìm mãi không thấy, phải đi xin kéo xe. Gặp vợ rồi thì chẳng may phải tù. Đến anh chàng cổ dán thuốc cao: À tôi đi ở là vì nhà nghèo. Thằng bé ho lao đáp: Tôi cũng đi ở đã bốn năm nay rồi. Bố chết, mẹ đi lấy chồng, ở với cô ruột bị chửi nhiều quá, thà đi kiếm lấy mà ăn. Cô tôi giàu có hẳn hoi, có ba bốn cái nhà gạch. Nhưng mà đây không cần. Tử tế thì nhờ, không thì thôi. Thế bà lão này có đứa nào là cháu ở đây không? Bà lão trỏ ba đứa trẻ ngồi cạnh mình mà rằng: Ba đứa cháu nội tôi đấy. Dắt cháu ra tìm bố nó, cũng đi kéo xe nhà. Thấy nói bố nó ở Hà Nội, ra tìm mãi không thấy. Lên Quan Thánh lại bảo xuống Hàng Bồ, lại Hàng Bồ hỏi lại bảo xuống Bạch Mai... Thế bà có bao nhiêu tiền trong mình? Còn được sáu xu. Bà lão thản nhiên nói thế, một cách không lo sợ gì cả. Mà có lẽ họ thế mới sống. Chỉ người khác là mới biết lo sợ cho họ, thấy họ là khổ sở đáng thương mà thôi. Tôi hỏi một thằng bé khác: Thằng này, sao mày cũng đi ở? Dạ, u tôi bắt thế. Còn thằng nhãi ranh này, ai mướn mà cũng đi ở? Úi chao! Tôi mới đi ở có ba tháng thôi mà nếm cơm có đến tám chín nhà chủ rồi! Còn thằng này nữa, mày cũng nghèo à? Tôi không biết. Bố mày đâu? Tôi không biết. Mẹ mày đâu? Tôi không biết. Làng mày ở đâu? Tôi có làng bao giờ! Nó chẳng biết gì cả. Nó chỉ mới độ lên 8 tuổi là cùng mà thôi. Thế mày đã đi ở lần nào chưa? Một lần rồi, chủ nhà chê là nhãi con, mướn năm hôm rồi lại cho ra. Thế bao giờ mày đi làm? Nào biết, trông ở cụ. Cụ nào? Cụ đưa người, vẫn ngồi ngã tư. Đến đây, con sen động kinh đã tỉnh. Nó gượng ngồi lên khạc nhổ nốt những chỗ nước dãi đọng trong mồm. Rồi nó lại nằm xuống vẻ mệt nhọc lắm... Một hồi gót giầy khua lên... mỗi lúc một to. Một người lính mật thám, áo the, mũ dạ giày tây, ống quần có cặp xe đạp thoăn thoắt bước vào. Một cô tân thời, cổ tay đầy những vàng, đi theo sau. Người lính kia vào đến chỗ chúng tôi thì bật đèn to lên, soi rõ vào mặt từng người một. Rồi thấy cô tân thời rú lên: Chính nó đây rồi. Người lính kia hỏi: Đứa nào? Con bé mặc quần ấy. Con sen cũng khóc: Lạy cô, con trót dại, cô tha cho con. Người lính quát: Đứng lên đi theo tao lập tức! Cô ả tân thời càu nhàu: Hai ba trăm bạc của người ta chứ ít à? Người lính hỏi: Sao cô khai có vài ba đồng? Đấy là nó ăn cắp, ngoài ra nó còn đánh vỡ cái lọ cổ nữa. Con sen ấy kêu khóc: Lạy cô, quả con không ăn cắp một xu nào ạ! Im! Câm ngay! Không ăn cắp sao lại đi trốn! Thế là người lính kia xích tay nó lại. Cô ả tân thời nói: Ông khám cái thúng này xem! Không, đây là của tôi. Cứ khám. Lúc ấy tôi đứng dậy, nét mặt chắc đầy những vẻ bất bình. Người lính kín hỏi tôi: Đưa tao xem thẻ. Tôi ngần ngừ, rồi phải đưa. Người lính xem thẻ xong (cũng may Sở phát thẻ Hà Nội có cái thuật chụp ảnh cho người nào cũng như mặt tù) ngẩn người ra, đứng cúi đầu như muốn nhớ lại một điều gì, rồi mới trả thẻ, sau khi nhìn tôi hai ba lượt. Không bao giờ tôi quên được cái lúc con sen động kinh bị xích và một cái tát vào gáy nó của cô ả tân thời. Khi con sen bị lôi ra thì bọn người nhà hàng cơm chạy vào xem rồi chạy ra theo. Tôi ngoảnh lại nhìn bọn cơm thầy cơm cô đằng sau tôi thì mặt ai cũng tái đi, sợ đến phát khiếp.Chương 8 Đầy Tớ Nói Xấu Chủ NhàViệc một con sen ngu đần bị điện giật, rồi bị động kinh, rồi đánh vỡ lọ, rồi bị vu cho là ăn cắp, rồi bị bắt nữa, đã đánh mạnh vào bộ óc suy nghĩ của chúng tôi. Lúc ấy có lẽ là những phút độc nhất vô nhị mà cái hạng con ong cái kiến không thấy nản chí trong sự đi kêu oan, nếu thấy bị oan, mà một kẻ đi hưởng cơm thừa, canh cặn thấy rằng mình cũng là một người, mà một thằng nhỏ vừa bị chủ đáng bỏ mẹ thì thôi, lúc ra máy nước không còn ước mơ, không còn tưởng bở mà tự nhiên đập đôi thùng đánh xoảng một cái xuống đường rồi giơ tay ra mà nói " nghĩa là.." một cách kệch cỡm nữa. Và lúc ấy là những lúc đầy tớ nói xấu chủ nhà. Đấng sinh ra muôn loài cũng không bảo nổi những ông lang băm đừng nói khoác, những kẻ mắc bệnh hoa liễu đừng kêu rên, những anh bồi săm đừng khinh người như rác, ông sư chớ mơ màng thịt chó, và đầy tớ nhịn nói xấu chủ nhà. Thằng bé ho lao tả cảnh: Lần đầu tôi đi ở đã gặp bước không may. Lúc mặc cả công, con mẹ chủ đã bằng lòng trả cho tôi mỗi tháng năm hào. Tôi phải gánh đầy ba bể nước, bổ hết hai mươi tạ củi. Nước gánh đầy bể rồi, củi chất chật bếp rồi là bà chủ kiếm chuyện chửi mắng suốt ngày cho mình không ở được nữa mà phải xin thôi. Lúc xin thôi nó kêu rằng "tự nhiên không có chuyện gì " mà giở quẻ xin thôi thế là quân đi nếm cơm vạn kiếp cũng không khá được! Cố nhiên nó không trả tiền công. Các bác ạ, các hạng chủ nhà đều như thế đấy. Lúc cần thì nó tìm người, lúc hết việc nó kiếm chuyện đuổi ra. Mà nó quỵt tiền công hết thẩy! Tôi hỏi nó xem trong cái đời đi ở của nó, nó có những ngày sung sướng nào không. Chỉ có một lần. Năm ngoái tôi ở với một nhà vợ chồng trẻ tuổi. Chồng làm ông tham, không hôm nào là chịu về nhà ngủ trước 3 giờ đêm. Mỗi lần đi chơi khuya về, cậu ấy dặn tôi mở cửa xong là thế nào cũng phải đánh vỡ một cái chén hoặc một cái đĩa. Cậu ấy sai tôi phải làm để tôi có cớ đánh vỡ. Hễ thấy tôi làm đánh xoảng một cái là cậu ấy quát tháo ầm nhà lên. Ra oai thế để chặn họng vợ. Bà vợ cuối tháng mà trừ lương thì ông chồng dúi cho mà bù vào. Về sau bà vợ cũng đâm ra cờ bạc, cũng đi suốt ngày, gần đến lúc chồng đi làm về, dúi tiền cho tôi đi mua cơm, mua canh và các món xào ở hiệu cao lâu. Gặp những hôm có giỗ cũng thế, sai đi mua các món ăn hiệu, mua cả xôi, mua cả chè. Thành thử mình chỉ ngủ suốt ngày, chả phải làm gì cả. Thật làm với hạng chủ thế mới sướng. Anh chàng trọc đầu vội cướp lời: Thế kể cũng đã sướng nhưng chưa bằng tôi. Khi ra tỉnh lần đầu, tôi đã được vào làm nhà một lão thầu khoán. Lúc đầu mặc cả thì là kéo xe, nhưng mà về sau xe cũng chả phải kéo mấy nữa. Chỉ có việc dắt chó đi rong chơi ngoài đường. Lão mua ba con chó Nhật Bản, mỗi con đáng giá trăm bạc cả, cho ăn toàn là những thịt bò với súp. Tôi chỉ suốt ngày tắm rửa cho chó mà thôi. Chỉ khổ một nỗi là thằng chủ có tính gàn, bắt mình lấy giấy bản chùi đít cho chó. Thằng nhỏ ho lao hỏi vặn: Như thế thì đã nước gì mà sướng? Anh ta để chúng tôi lấy làm lạ một lúc rồi nói tiếp: Vì ông chủ nuôi chó thì tử tế mà nuôi bố thì lại không tử tế. Ông cụ già thì ăn mặc quần áo nâu cũng như tôi, mà phải còm cõm làm thợ vườn suốt ngày. Một lần ông già tai ác ấy chửi tớ, đánh tớ. Tức quá, tớ nghĩ được một cách: đem cứt chó để lên đầu cái phản dưới bếp là chỗ của ông cụ ngủ. Thế là lão già trúng kế, tìm ngay xe điếu vụt cả ba con chó. Tớ lên mách chủ thì lão chủ tớ chửi tiên sư ông cụ, tức là chửi bố. Từ độ ấy trở đi thì chính tớ cũng chả cần đếm xỉa đến bố ông chủ là gì nữa. Các bác bảo như thế lại không sung sướng à? Tôi hỏi: Thế sao không ở cái nhà ấy cho đến mãn kiếp? Kìa, tôi đã nói là lão chủ sai tôi mang thuốc phiện lậu rồi không may bị bắt... Rồi thì chủ nó không nhận nên phải tù chứ gì? Phải, nếu nó nhận thì nó cũng chết. Chẳng may cũng là cái số tôi không ra gì, chứ lão chủ ấy thật tử tế với mình quá. Thằng có cái cổ đầy những thuốc cao góp chuyện: Ừ, bác như thế cũng đã sướng thật, nhưng chưa bằng tôi. Bây giờ tôi bị bệnh tật nên trông mới xấu xí thế này, chứ hồi mới đi ở, còn đẹp giai thì tôi còn sướng bằng vạn các bác. Thầy bói nào cũng bảo tôi có số đào hoa, thực đúng quá. Tôi sướng hơn các bác ở chỗ thỉnh thoảng lại được bà chủ yêu, hoặc con gái bà chủ... Rồi nó kể những cái... may mắn của nó một cách rất tỉ mỉ, bằng một giọng thành thực vô cùng. ... Trước lúc đó vài giờ đồng hồ, tôi đã phải đứng tần ngần mà tự hỏi:" Ta sẽ làm gì cái bọn này? " Bây giờ tôi lại phải tần ngần tự hỏi: " Ta sẽ làm gì những câu chuyện ấy?". Thật vậy, những câu chuyện ấy thật là lạ lùng, thật là không ai có thể tưởng là có thật được, thật là nhơ bẩn, thật là chướng tai. Một thằng nhỏ không biết thêu dệt như một nhà văn thì chuyện của một thằng nhỏ kể có thể tin là đúng chín mươi phần trăm sự thực. Mà đứng trước những sự thực không đáng viết lên mặt giấy, ta phải hãi hùng kinh ngạc về loài người. Tiểu thuyết kể những điều mà loài người bảo là không có thật. Sự đời, trái lại, lại có những điều mà tiểu thuyết không dám tin. Ấy thế rồi tôi đâm ra khinh hết cả loài người, vì tôi tin rằng không một ai trong bọn chúng ta lại trông rõ được thực trạng cuộc đời. Thật vậy, bao nhiêu sách vở của loài người, cốt để dạy cho nhau biết mà thôi, vậy mà vẫn công toi cả. Những điều người ta dạy bảo nhau bằng sách? Đó là những điều mơ hồ, những điều lầm lẫn, những sự văn chương. Văn chương là một sự, sự đời là một sự khác. Rồi tôi cảm thấy rằng muốn làm một nhà xã hội học, một nhà tâm lý học, một nhà triết học thì trước hết hãy đăng vào nghề cơm thầy cơm cô. Người phu xe biết hết mọi sự độc ác của loài người hơn là một nhà học giả, người bồi săm biết hết mọi sự dâm đãng của loài người hơn là một nhà giải phẫu học. Và một kẻ đi ở thì cũng biết rõ những tính tình của loài người hơn là một nhà văn sĩ tả chân. Nếu ai muốn chửi tôi về những ý nghĩ nói trên, thì tôi xin thưa rằng Jean Jacques Rousseau, trước khi thành ra một nhà đại gia tư tưởng, một bậc đại văn hào, một bậc vĩ nhân, thì đã sống cái đời "cơm thầy cơm cô". Biết đâu chẳng phải vì thế?Chương 9 Tôi Là TôiThưa các ngài, bây giờ thì tôi lại là tôi. Bỏ cái áo cánh màu hoa đào và cụt tay, bỏ cái quần lĩnh thâm, cái kính đen, đôi mái tóc gài tai, tôi đã dùng đến những quần áo của tôi và nay tôi có thể nói chuyện với các ngài bằng một người... tử tế. Bây giờ tôi đã có thể đứng về địa vị chủ nhà xét bọn cơm thầy cơm cô. Tôi đã có thể bịa những chuyện mà các ngài có thể tin là thật hoặc tôi nói những chuyện thật mà các ngài cứ tưởng là bịa. Tôi có thể nói chuyện về vú già nhà tôi, một người hay mách tôi, hay đánh tôi, lại hay dọa ma, nhưng mà may sao, đã chết từ... tám đời kia rồi. Tôi có thể nói chuyện về một thằng nhỏ mà tôi đã nuôi trong một phút thích khôi hài, và để mỗi khi bạn hữu đến chơi nhà thì lại gọi nó ra hỏi chỉ vì nó có cái tính nói gọn thon lỏn... Mày không có anh chị em à? Mỗi! Mày còn thầy u chú bác mày không? Tiệt! Trước khi chết sao thầy u mày không lấy vợ cho mày? Nào có lấy! Rồi các bạn hữu tôi. anh nào cũng gập đôi người lại mà cười như xem phim Charlot. Tôi có thể công kích nó ở chỗ mới ra tỉnh thì ngẩn ngẩn ngơ ngơ mà ở được vài tháng thì ăn cắp như ranh, ăn bớt như quỷ, lại đi thông lưng với người gánh nước vo để bữa nào cũng thổi thừa cơm rồi đổ cơm nguội vào nồi nước gạo. Tôi có thể đưa cho các ngài đủ những mẫu hạng về giới cơm thầy cơm cô. Có những đứa đầy tớ bị chủ nhà đánh chết. Có những con sen được ông chủ quý hơn vợ. Có những thằng nhỏ bỏ thuốc độc định giết cả nhà chủ nhà. Có những anh bếp nhổ đờm vào nồi cá kho. Có những vú già quyền hành như mẹ "cậu mợ". Có những thằng nhỏ được kỳ lưng cho các tiểu thư. Có những anh xe được ngủ giường Hồng kông với bà chủ. Có những đứa ở lúc chủ chết khóc như khóc bố mẹ. Có những đứa liều mạng cứu chủ. Có những quân đốt nhà của chủ. Hoặc dắt cướp vào nhà. Hoặc thư đi thư lại, làm nghề ma cô. Có những thằng nhỏ hiếp con gái ông phán. Có những con sen bị ông tham hiếp dâm. Có nhiều! Anh Lê Tràng Kiều, sau khi xem nốt tập giấy dày, đã nhăn mặt lại. Anh ấy bảo tôi: Nếu cứ đi mãi như anh thì sẽ lạc đường. Tôi hỏi: Lạc đường? Anh ta: Phải, đây là một thứ "mặt trái đời" của thời Hoàng Tích Chu. ... Chỉ khác ở chỗ bằng một hình thể mới. Mà những điều anh tố cáo trong này thì là những sự thực nên kiêng. Lời hứa ấy cũng đã đem thực hành rồi. Đăng tiếp sẽ làm quá lời hứa. Vả lại, khi người ta tự nhận là một nhà văn tả chân thì nghĩa là người ta đã hứa, nhiều nhiều lắm. Nhưng mà không cứ chỉ trong một thiên phóng sự mới giữ được lời hứa. Thế rồi chúng tôi cứ trù trừ mãi về những đoạn có sự thực mà không biết là có nên kể hay không. May sao, chúng tôi đã gặp ông Nguyễn Công Hoan. Ông ta nói chuyện về văn chương. Ông ta đã động đến thiên phóng sự "Cơm thầy cơm cô" này. Ông ta nói đến những quân chủ nhà đểu cáng, những đứa đày tớ mất dạy. Trong lúc trò chuyện, tôi nói: Kể ra làm một thiên phóng sự về chủ nhà với đày tớ thì dễ có nhiều tài liệu lắm. Nhất là về chỗ chủ nhà độc ác với đày tớ. Tôi chưa nói hết, ông Nguyễn Công Hoan đã cười một cách tinh quái mà nói: Mình cứ việc điều tra ngay ở chính mình! Lúc ấy tôi không biết nói gì nữa với ông Hoan. Nhưng bây giờ tôi có thể nói với hết thảy (các ngài nhớ cho là hết thảy ) các độc giả yêu quý của tôi rằng xin các ngài cứ điều tra ngay các ngài. Nếu tôi còn bỏ quên thì xin các ngài làm lấy phóng sự mà đọc...===Truyện ngắn Đời Là Một Cuộc Chiến Đấu Tác giả: Vũ Trọng PhụngTrong thiên hạ này, ai dám bảo Pierre Quyền là một người khổ sở? Ai! ừ, đứa nào dám hỗn láo đến thế? Há đó lại chẳng là một tội nặng cũng như tội phạm thượng? Phải biết: Pierre Quyền là con bố của một tay trọc phú lừng danh. Phải biết: P. Quyền đã sang tận Pháp để làm du học sinh, rồi, về nhà, lấy được một cô vợ đẹp nõn, cho dầu chẳng giật được mảnh văn bằng nào, cái đó cũng lại là rất hợp thời trang nữa, vì ở xã hội này may mà đã có một số trí thức chân chính kia không coi văn bằng là chứng cớ về chân giá trị của con người. Lại phải biết nữa: P. Quyền, mới ba mươi tuổi đầu, cũng đã được hân hạnh là một dân bẹp tai chính thức, mỗi ngày hút xoàng mất ba đồng bạc thuốc phiện, cái điều lý tưởng của một số đông thanh niên Nam Việt... Đứa nào nói ngoa thì không đáng gọi là giống người! Xưa kia, lý tưởng thanh niên là khôn lớn thì làm quan. Bây giờ cái lý tưởng ấy đã đổi: khôn lớn thì giầu, thì trúng số độc đắc, để có thể an tâm nằm một chỗ mà hút, và không làm một việc gì cả, bất kể là hay hoặc dở, nhưng hễ thấy ai làm việc gì cũng chửi chơi! Nói tóm lại một câu thì Pierre Quyền là một người hoàn toàn sung sướng, vì đã là một cái gương hưởng thụ đáng cho bạn trẻ soi chung. Vậy bảo anh ta khổ sở là thằng nào? Đồ láo! Tôi đương lấy làm ngạc nhiên vô cùng ở chỗ thấy trong đời là có sự quái gở ấy, thì, một hôm, tôi lại ngạc nhiên hơn nữa, mà khám phá ra rằng cái con người dám bảo Pierre Quyền là một kẻ khổ sở, lại chính là Pierre Quyền. Thì có lạ không? Vậy thì... ta không nên nóng vội. Mặc dầu những điều kiện hưởng thụ của ta là "thư bất tận ngôn" đi nữa, nhưng khi óc ta đã có một cái lý tưởng, bất cứ về loại nào chỉ có một cái thôi ta cũng có thể rất khổ sở được, như những kẻ khổ sở nhất trần đời. Và cũng như số đông những nhà trí thức ở nước Nam này, than ôi! Pierre Quyền của chúng ta cũng có trong óc một thứ lý tưởng. Tôi xin kể "mặt ngang mũi dọc" cái lý tưởng ấy nó ra sao. Cái lý tưởng ấy, anh Quyền chơi khoảnh, cứ giữ lấy một mình như một mối tâm sự đau thương riêng, chứ không nói rõ cho tôi biết. Cho nên tôi phải đoán phỏng, nếu có võ đoán cũng mặc kệ, vì nếu Quyền lại biết rằng tôi ngờ anh là kẻ khổ sở thì có phen anh tuyệt giao với tôi! Vốn tròn, tôi không muốn mất lòng ai cả. Lần đầu mà anh mời tôi đến nhà, lên cái gác riêng tại đó anh đóng bản doanh cho cái bàn đèn phù dung, thì đó là anh tỏ cho tôi biết rằng tôi được hưởng một cái thân mật ít có, bạn hữu anh ít kẻ được thế. Anh đã, trong khi phô phang những cái gì là đắc thắng trong đời, thì cũng đồng thời thổ lộ cho tôi biết cái gì là đau khổ của anh. Thổ lộ bằng việc, chứ tất nhiên không bằng ngôn ngữ. Quyền có là một nhà triết học chăng? Cái triết lý của con người ta ở đời này có phải là hễ sống thì phải biết mùi tân toan chăng? Mà phải chăng một bậc triết nhân là một người biết sáng tạo cho mình một cái khổ, nếu đời mình sống chưa đủ thấy khổ? Tôi cứ băn khoăn mãi về mấy câu hỏi ấy, quên cả rằng ngay trước mặt mình, đó là một cảnh Bồng Lai hẳn hoi. Phòng hút của Quyền bài trí lịch sự đặc biệt, toàn những đồ dùng lọc lõi, thật đã đúng như câu anh vẫn kiêu ngạo nói: "Cái gì tôi đã chơi thì không ai có; cái gì ai đã có thì tôi không thèm chơi". Nhất là bộ khay đèn. Thật là một kỳ công mà người sành sỏi nhất đời có thể thực hiện nổi. Thật là một lý tưởng mà một bậc anh hùng hiệp sĩ nhất đời có thể thành tựu được. Bao nhiêu cái tài hoa, bao nhiêu cái kiến thức thu lại và hiện hình ra, trong cái tiểu giang sơn ấy! Kể cũng bõ công sang Tây du học lắm thay! Đèn thì là đèn pha lê trong vắt như nước lọc. Tẩu thì là tẩu "sái tách", nghĩa là khi ta kéo xong một mồi thuốc, nằm lơ mơ vừa được một phút, thì tự nhiên nghe thấy một tiếng "tách" rất bí mật, rất hữu tình: đó là sái trong tẩu đã rời ra tự nhiên, để cho về sau, ta chẳng cần lùa vào ruột tẩu cái móc thô lỗ nó có thể hỗn xược như một sự khám xét của tây đoan tại nhà một ông nghiện đã nức tiếng là trung quân ái quốc, Pháp Nam trung tín cả hai triều, vì xưa nay chỉ có dùng thuốc ty mà thôi. Giọc thì là thứ giọc trúc tối cổ, bóng hơn sơn quang dầu, tay mó vào, dầu có mồ hôi, không phải lau cũng không thấy ướt. Kéo khêu bấc thì không phải là thứ kéo có bán tại các hiệu tạp hoá, nhưng là thứ kéo đặc biệt dùng để cắt ruột người của những ông đốc tờ chuyên nghề mổ xẻ, mua ở hiệu thuốc tây. Còn những cái lặt vặt khác như lọ đựng rượu, vịt dầu, lọ đựng kéo, gác tiêm, cũng toàn bằng pha lê cả. Và nổi hơn hết, cầu kỳ hơn cả, là một cái bàn tính nhỏ, khung bạc, chốt ngà mà con triện là những viên ngọc tròn, đỏ và xanh. Cái bàn tính ấy, Pierre Quyền dùng để đo lường sức tiêu thụ thuốc, cái lượng của khói đã lùa vào phổi. Một ông nghiện biết tự trọng, có đâu lại tính nhẩm số những điếu thuốc đã hút bao giờ! Một bà vãi đọc kinh có đâu lại đếm cái số câu kinh đã thốt ra khỏi miệng bao giờ! Vậy thì cái bàn tính ở khay đèn này cũng có cái công dụng của giây tràng hạt của bà vãi ẻn. Một khi hút xong một điếu, Pierre Quyền chỉ việc gạt một con triện bằng cái mũi tiêm là xong. Than ôi cũng như nhân vô thập toàn bởi cớ Tạo hóa ố toàn, cái bàn tính ấy vừa là biểu hiện, hạnh phúc lại vừa là tượng trưng đau khổ của con người có lý tưởng ấy. Và đấng cứu thế Christ bằng gỗ vàng tâm mà anh Quyền treo bằng cách đóng đinh cả cái câu rút ấy một lần nữa trên tường, ở chỗ danh dự, lúc nào cũng như nhăn nhó, cảm động, về cái khổ sở của con chiên chỉ ghẻ lở một cách tinh thần kia. Vì tôi quên nói rằng Pierre Quyền là một tín đồ tin Kinh Thánh nữa. Lúc mới nằm vào, tôi được hân hạnh bạn giao hẹn thế này: Chả mấy khi anh đến chơi, vậy đã phạm tội thì cũng nên phạm thế nào cho bõ với sự thú tội, nghĩa là tôi hút một điếu thì anh cũng phải hút một điếu. Tôi gật đầu liền, vì lúc ấy chưa rõ cái đức tiêu sài đại lượng của anh đối với nhà Đoan. Nhưng sau, hỏi và được anh đáp là mỗi bữa anh hút ít nhất năm chục điếu, tôi mới thất đảm kinh hồn! Phải lạy van mãi mới được anh ưng cho tôi chỉ phải theo anh 1 phần 10 thôi. Tôi hút điếu thứ ba, anh Quyền hút đến điếu thứ ba mươi, thì vợ anh lên, ngồi chỗ dưới chân chúng tôi, pha cà phê một cách vô cùng ngoan ngoãn. Thấy người vợ trẻ măng như thế, mà lại không tỏ một tí gì là oán giận chồng hoặc hổ thẹn về cái đức nghiện hút của chồng, tôi mới nhớ ra cái gia tài ba cửa hiệu thợ may tây rất to thuộc quyền sở hữu của bạn tôi. Bỗng đâu tôi có thể có được cái ý nghĩ khoan dung này: "ừ, nói cho cùng thì thằng cha này hút cũng là phải! Tội gì mà chẳng nghiện, khi ta ở giữa một xã hội khó thở, mà bao nhiêu kẻ có học thức, có tâm huyết, ngoài cái sự hy sinh làm mồi cho ngục thất và máy chém thì thôi, cũng đến khoanh tay chịu vậy, chẳng làm được trò gì!" Rồi, xa xôi, tôi khen Quyền là một người may mắn được hưởng hạnh phúc. Nhưng Quyền lại ra ý không bằng lòng. Bảo anh sung sướng, anh cho thế cũng thí dụ như bảo anh là đồ ngu! Vì rằng anh cãi: Anh nói nông nổi lắm. Con người ta ở đời, phàm đã có một quả tim để sốt sắng, một khối óc để nghĩ ngợi, thì có thể nào lại sung sướng được! Tức quá, tôi bèn hỏi: ừ, thế như anh, thì anh còn thiếu thốn cái gì để khao khát cái gì nữa nào? Vợ anh Quyền cũng họa theo: Thưa bác, ấy nhà tôi cứ nói ương thế đấy, mà không biết rằng được thế này cũng đã là sung sướng hơn tiên. Quyền lim dim cặp mắt, đáp bằng những lời triết lý viển vông: Vì rằng người ta ai cũng thế cả, dầu nghèo, hay giàu, dẫu thừa thãi hay thiếu thốn, thì đều cùng khổ sở cả, duy cái khổ của thằng giàu khác với cái khổ của thằng nghèo, thế thôi. Tôi không nói rằng tôi cũng có một hoài bão riêng, một lý tưởng riêng, nhưng tôi nói rằng đối với ai cũng vậy cả, cuộc đời chỉ là một chặng đường dài đi thì nhọc mệt, chán nản; vì rằng đời là một cuộc chiến đấu... Tôi chưa hiểu rõ nhưng rồi chúng tôi cũng nói sang những chuyện khác. Quanh bàn đèn, ta có thiếu gì đầu đề mà bảo cứ phải bám mãi vào một lý thuyết mà ta không hiểu cho nhau! Anh Quyền, lúc ấy đã hút đến điếu thứ năm mươi. Tự nhiên thấy anh ngồi lên, sốt sắng mời: Này! Làm một điếu nữa nhé? Thôi chịu! Say lắm rồi. Thì một điếu nữa thôi thì đã làm sao? Nghiện ngay đấy mà sợ! Không phải sợ nghiện nhưng thấy buồn nôn rồi. Khó chịu lắm. Thôi thế thì anh về đi cho xong. Anh đuổi, chứ anh giết tôi, tôi cũng xin chịu thôi. Tôi thấy anh Quyền nằm xuống, ruỗi thẳng cả chân lẫn tay, thất vọng hết sức. Mặt anh có những nét buồn rầu, đáng cho ta động mối thương tâm. Đến lúc này, tôi mới hiểu ra rằng tuy vậy, Quyền vẫn không là người sung sướng thật! Tôi bèn vội cứu chữa: Ờ thì tiêm cho tôi một điếu nữa vậy. Rồi tôi hút, rồi bạn tôi gạt con triện trên bàn tính một cái, rồi bạn tôi ngoay ngoáy tiêm một hồi dài. Để hút chứ không phải để mời tôi nữa. Trên cái mặt hốc hác ấy, ở cặp mắt lờ đờ ấy, kể từ điếu thứ 52 trở đi hạnh phúc hiện ra bằng nét và hào quang. Tôi hỏi: Gớm, anh hút thêm mà sao hút nhiều thế? Anh đáp rất tự nhiên: Nếu đã hút thêm, thì cứ phải hút từng mười điếu một dịp, không hơn cũng không kém được. Sao lại không thể nào hút thêm một vài điếu mà thôi? Vì kiêng. Hút thêm dưới một chục sợ sái mất Thần Tài. Nếu Thần Tài mà sái, có khi không có thuốc đâu mà hút nữa. Câu mê tín ấy, Quyền đã nói một cách sốt sắng, cũng như đức Giáo Hoàng có thể nói quyết: "Tôi tin rằng Thượng Đế!" vậy. Từ đấy, tôi nằm yên, lim dim mắt lại xem anh ta "làm ăn" ra sao... Tiêm đến điếu thứ 59, bỗng Quyền lại gạ tôi: Này, lại hút một điếu cuối cùng nữa nhé? Biết từ chối là thất sách, tôi không đáp, chỉ ngồi lên nhăn mặt, một tay nắn cổ. Rồi tôi "oẹ" một cái để chảy nước bọt vào ống nhổ, vờ như đã buồn nôn. Thì Quyền không nài ép nữa. Anh ta hút điếu thứ 59, điếu thứ 60, rồi thở dài một cái thật là chán đời. Anh gắt như tôi có lỗi nặng: Chó thật! Có một thằng bạn, mà lại không hút! Rồi anh quay mặt vào tường, lại thở dài. Chẳng biết có phải đó là anh đương đau đớn vì có nhân ngãi mới chết đó chăng! Chẳng hiểu có phải ấy là anh đương khóc lóc đó chăng! Nhưng bỗng anh cựa mình đánh thình một cái, quay mặt lại bàn đèn một cách rất cả quyết. Trên mặt anh, tôi thấy cả một sự sốt sắng phi thường, cả một cái can trường xuất chúng. Anh hút điếu thứ 61 để rồi thở dài một cái sung sướng như một đứa trẻ vừa uống xong thìa dầu gan cá thu. Thế là, từ điếu 62 trở đi, tiếng thuốc chui vào nhị tẩu vo vo như máy xe hơi mở tốc lực mỗi giờ 70 cây số! Anh tiêm thuốc, hút, gạt bàn tính thoăn thoắt như một cô gái quay tơ gieo thoi... Tôi đã hiểu cái gì là sự nhanh nhẹn, cái gì là mỹ thuật. Cho đến điếu thứ 69, đã xe lại chậm chậm rồi. Người ấy lại tỏ vẻ thẫn thờ nhớ tiếc, như một người nạ giòng than phiền cái tuổi xuân qua. Quyền đã để một thời khắc khá lâu mới hút nốt điếu 70, chẳng khác một đứa trẻ rụt rè mãi mới dám ăn cái bánh ngọt mà nó vừa muốn nếm lại vừa muốn giữ. Dẫu sao, tôi cũng tưởng thế là xong bữa rồi. Tuy vậy, vờ dở ngủ dở thức, lúc ấy mắt tôi vẫn lim dim... Anh Quyền lại nằm đườn ra, rất lâu... Rồi anh co chân, ruỗi chân, co tay, ruỗi tay, thở dài, khó chịu, ngán ngẩm. Rồi anh lại quay mặt vào tường, như giận nhau với đèn dầu lạc, hoặc với tôi. Sau cùng thì, chao ôi! Anh lại cựa mình đánh sầm một cái, quay mặt ra một cách vô cùng quả quyết lần thứ hai nữa! ấy thế là điếu thứ 71 và 72 nhanh nhẹn, vui vẻ, hùng hồn bao nhiêu, thì điếu thứ 78 và 79 buồn rầu, uể oải, phân vân, thất vọng bấy nhiêu... Anh để cách 15 phút mới hút điếu thứ 80, tức là điếu hạ hồi phân giải. Vì đến thế thì thôi, chứ anh ta không quay mặt vào tường đau đớn để lại có dịp cựa mình hùng hồn. Trong thiên hạ này, ai dám bảo Pierre Quyền là một người khổ sở? Ai? ừ, đứa nào mà dám hỗn láo đến thế? Tôi! Đối với anh đời là đầy rẫy những cái tai biến, đại họa tức là những điếu thứ 8, thứ 9, và điếu chẵn chục, tuy đời cũng có nhiều hứng thú cho anh, như điếu thứ 1, 2, thứ 3, vân vân... kể từ số 50 trở đi. Những lúc quay mặt vào tường nằm im lặng, cái xác thịt yên nghỉ ung dung ấy, chính nó đương gói một linh hồn lao đao tan tác vì giông tố, đương gắt gao chiến đấu, chẳng kém cái phương pháp trường kỳ để kháng chiến Nhật của Tàu! Anh Quyền có thể cứu chữa cái khổ ấy bằng cách mời một vài người bạn sẵn lòng hút hộ cái điếu thứ... linh một để làm khởi điểm cho anh khỏi bứt rứt lương tâm mà kéo những điếu sau. Nhưng đó là sự tốn tiền! Mà bắt một ông nghiện tốn tiền, thì khó khăn khác gì bắt nhân loại không đau khổ nữa.===Tiểu thuyết Dứt Tình Tác giả: Vũ Trọng PhụngChương 1Anh trời tà đã hết nhuộm vàng bãi bể. Bên trên dãy núi tím, vàng, xanh, xám mấy màu pha lộn nhau như nét bay miết dài của nhà họa sĩ, mây lồng thành hình vạn vật, cỏ cây. Giữa khoảng vô cùng, đó là một đàn voi... dần dần dồn nhau lên một cái cánh phượng, rồi, sau hết, lại bị gió dãi ra tản mạn thành chỗ này thì eo bể, vịnh, bán đảo, chỗ kia, cù lao, sông, núi một bức địa đồ! Bức tranh vân cẩu tuy lạ mắt nhưng không để cho người có đủ thời giờ ngắm nghía, cứ thay đổi hoài, vì từ phía bể, gió đã bắt đầu rít lên. Thoạt đầu, chân trời chỉ thấy chấm đen. Mới một lúc đã không biết bao nhiêu là mây đen ở đâu kéo về, nhanh chóng lạ thường, hình như ở bể đùn lên nặng nề bao phủ, đè ép cả mặt đất. Bể, mới lúc nãy còn lăn tăn sóng gợn, vô nghĩa lý như cô gái buồn tiu nghỉu thì bây giờ có bộ mặt của một bà mẹ chồng hành nàng dâu. Những làn sóng rờn nhau, đuổi nhau vào bờ, làm lùi cả bãi cát, làm những tảng đá như khóc lướt mướt. Phía kia, tây phương, dãy Núi Đèo, mất mặt trời, mất cả những áng mây lồng, đã hiện nguyên hình đá đen, cỏ xác, hết khoe khoang. Đám người đương nô đùa dưới nước mặn hoặc đương ung dung dạo chơi trên cát, lúc đó cũng tất tả rủ nhau ra về. Một vài hạt mưa ném xuống lác đác... vài cơn gió, thế là cả vòm trời là một thác nước dữ dội. Đồ Sơn giữa mùa hạ, và buổi bão rớt này đã hóa vắng vẻ chẳng khác gì ở cảnh chiều đông. – Đấy nhé tôi đã biết mà! Nếu tắm hôm nay thì có phải khổ chạy mưa không? Ngồi nhà nghỉ ngơi trò chuyện với nhau thế này vẫn hơn chứ... Tiết Hằng nói xong lim dim mắt nhìn Yvonne mỉm cười một cách đắc chí, đoạn ngửa cổ kề đầu vào thành chiếc ghế mây. Hấp tấp Yvonne thêm: – Phải lắm, chị ạ. Có phải ở nhà ngồi nói chuyện hơn là đi tắm không, me nhỉ? Đương ngửa cổ uống bia, “me” bỗng cau mặt, đặt mạnh cốc xuống bàn... – Đồ hỗn láo! Sao mày dám gọi bà ấy là chị? Hở! Ai cho phép mày thế? Bà ấy ngang hàng với tao, nghĩa là với mẹ mày, biết không? Tức khắc Tiết Hằng ngồi ngay ngắn lên, nghiêm trang trách: – Ồ ồ! Sao lại thế, bà Năm? Vẫn hay là tôi được cái hân hạnh ngang hàng với bà, nhưng bà bốn mươi mà tôi mới hai nhăm, tôi kém bà những mười lăm tuổi! Tôi chả thích được ngang hàng với bà vì tôi chỉ hơn Yvonne có sáu năm. Tôi mong bà để Yvonne và tôi, coi nhau như chị em, hạng trẻ trung với nhau, chúng tôi phải tự do mới được! Rồi nàng quay lại, ái ngại nhìn Yvonne, lúc đó mặt cúi gằm. Bà Năm không đáp, lại điềm nhiên tu nốt cốc bia khiến Hằng cứ ngồi chờ, tay gõ cái quạt xuống bàn và đủ thời giờ nhìn bà ta một cách tinh quái. Đó là một người đàn bà to béo, có tướng đàn ông. Phấn không xóa nhòa những đường răn reo ở mặt. Sáp đáng lẽ phải tăng vẻ tươi cho cặp môi, lại chỉ khiến nó thêm có vẻ khôi hài. Đã thế, lúc nào cũng kèm bên mình một cái ví da nho nhỏ, một cái dù Nhật sặc sỡ và xinh xinh. Những cái tô điểm lặt vặt bé nhỏ đó khiến bà Năm đã to nhớn lại đẫy đà thêm độ mười phần. Trông đến bà rồi so sánh những đồ... phụ tòng, thiên hạ phải tưởng tượng đến một con voi đeo nhạc của miu con! Mẹ thế nhưng con khác hẳn. Yvonne có trong huyết quản ba phần máu Pháp và bảy phần máu Việt Nam, bộ mặt xinh đẹp một cách ngây thơ; cử chỉ ngôn ngữ rất ôn tồn. Không hỗng hợm, không “đầm” một tí nào cả. Trong nàng, tạo hóa đã dung nạp cái đẹp phương Tây với cái đẹp phương Đông để kết nên cái đẹp hoàn mỹ. Mũi nàng là mũi dọc dừa, không tẹt, cũng không nhọn. Tóc màu hạt dẻ và cặp mắt phơn phớt xanh lúc sáng sớm, đen đen lúc chiều. Khi bà Năm đẻ Yvonne được vài tháng thì ông chồng, đại tá De. S, phải về nước cầm quân. Chết trận, đại tá cũng đã để lại cho vợ con ở đây một chục nóc nhà. Sẵn tiền cho thuê nhà, lại thêm được tiền tuất quả rất hậu, bà Năm đã... thủ tiết nuôi con. Mấy phen đem bạc vạn góp vốn vào việc khai mỏ, xuất cảng gạo với Đào Quân chồng Tiết Hằng bà đã thành giàu lớn. Tháng trước, bà mời vợ chồng Đào Quân lên nghỉ tại biệt thự của bà tại Chapa. Nay, Tiết Hằng cũng dùng cái biệt thự của mình tại Đồ Sơn để trả cái nợ lịch thiệp đó. Trời mưa bão, nhưng vì hiên rộng, cả bọn vẫn ngồi ở hành lang. Tiết Hằng gặng một lần nữa: – Thế nào, bà Năm? Bà có ưng cho chúng tôi tự do với nhau không, thưa bà? Nghĩ hồi lâu bà Năm đáp: – Bà tuy trẻ nhưng cái trẻ của bà là trẻ của người lớn. Nó cũng trẻ nhưng cái trẻ của nó là cái trẻ của trẻ con. Bà dễ dãi quá thế. Nếu Yvonne nó hư là tại bà, tôi chả biết đâu cả! Nước đã muốn ngập lụt mặt đường. Những cây thông bị gió lay như tuốt cả về một chiều, hiện thành hình những cái roi tiên cầm ngược. Từ những biệt thự chung quanh đó, thỉnh thoảng lại có chiếc xe hơi mui buông kín mít chui ra, chạy hộc tốc về Hải Phòng, bốn bánh phun tóe nước ra hai bên đường đi. Tiết Hằng để quạt lên mồm, ngáp và hỏi Yvonne: – Xem hộ xem mấy giờ rồi? – Sáu giờ năm. – Bữa cơm chiều, ta ăn vào 8 giờ tối thì vừa vặn. Sáng sớm tôi đã đánh dây thép cho nhà tôi ở cảng ra cho vui. Có lẽ có cả mấy ông bạn ở Hà Nội xuống nữa. – Thế thì vui lắm nhỉ? Cô rất thích được giao thiệp với nhiều người An Nam! – Thích vì... ? Yvonne ngẩn ngơ, lúng túng: Thích vì... Hằng cười tinh quái và nói luôn: – Vì thích? Yvonne cũng cười khanh khách mà rằng: – Vì thích? Phải rồi, thế lại gọn. Thích vì thích... Thốt nhiên bà Năm nhăn mặt, đứng lên: – Ta vào chứ? Trời mưa thế này mà cứ ngồi mãi đấy làm gì? – Muốn chừng bà say... Bà Năm bưng một tay lên trán, lắc đầu: – Không, tôi có say đâu... Gió lạnh quá, tôi chóng mặt một tí. Hằng vồn vã: – Mời bà lên phòng nghỉ tạm, 8 giờ tôi xin đánh thức dậy xơi cơm. Bà mẹ vào rồi, Yvonne xem ra có phần được dễ chịu hơn: mặt nàng nhẹ nhàng khác trước. Nàng kể hết cho Hằng nghe cái lối giáo dục không có phương pháp của mẹ nàng... – Năm tôi đã 17, me tôi vẫn không quên đánh tôi như đánh đứa trẻ con. Buổi chiều hôm ấy đi học về, ăn cơm xong tôi toan lên phòng riêng học bài thi thì me tôi bắt tôi quét điện thờ để các bà ấy đồng bóng! Tôi còn ngần ngừ chứ cũng chưa phản đối, thì bà ấy đã vội làm một thôi một hồi thế này này: “A, con này mày cậy mày là Tây, mày gan với bà, không muốn bà cúng vái gì nữa chứ?” Thế là me tôi tiện tay cốc luôn vào trán tôi hàng chục cái, trước mặt một đám đông người! Gớm nghĩ rõ bực quá! Tiết Hằng cả cười, cho rằng bất cứ vào trường hợp nào cái cười cũng vẫn an ủi được người ta. Yvonne thêm: – Đến ngay bây giờ, tôi đã có vô số những ông danh giá hẳn hoi định lấy tôi rồi mà me tôi cũng vẫn mắng tôi như mắng một đứa trẻ! Lắm lúc lại thêu dệt ra những là: “Cái quân lai chúng nó bạc. Có đứa cầm búa đánh trả lại mẹ, có đứa đuổi mẹ đi ăn mày, mắt tao trông thấy luôn. Tử tế ôn tồn với chúng bay cũng vô ích!”. Chị bảo phải một người mẹ vô lý áp chế đến thế có tức không? Lắm lúc nghĩ giá tôi tìm cách gì lôi phăng bà ấy về Tây thì hay quá. Khốn nỗi, ở bên này như me tôi đã là giàu, nhưng mà về Pháp thì rồi ăn hết vốn, sẽ chết đói mất! – Chị xem xét cái xã hội Việt Nam này thấy nó hay dở thế nào? – Tôi có xem xét bao giờ! Tôi sinh trưởng ở đây, việc gì cũng quen mắt quen tai rồi, làm gì còn có con mắt quan sát của một người ngoại quốc mới đến đây. – Lúc nãy chị bảo thích được giao thiệp với người Nam? – Vâng, sự đó đối với một người lai là sự thường. Nghĩ đến đồng bào của bố được thì nghĩ đến đồng bào của mẹ cũng được. Có gì là lạ đâu? Tôi còn thích mặc quần áo ta nữa. Lững thững Yvonne đến gần Hằng. Hằng ngửa cổ, say đắm nhìn lên, rồi đứng dậy khoác lấy vai Yvonne: – Hôm nào tốt trời, ta sẽ cùng đi chụp ảnh... – Thế còn gì bằng! Được chụp ảnh chung với Tiết Hằng là người đàn bà xinh đẹp nhất nước Nam! – Nỡm, cứ chế nhạo mãi... Hằng đỏ bừng hai má chữa thẹn, nhưng chưa chi Yvonne đã nghiêm nghị mà rằng: – Thật đó chị ạ. Tôi chưa thấy người đàn bà nào đẹp như chị đâu. Chị hơn người ở chỗ không phấn sáp bao giờ. Chị không phấn sáp bao giờ mà bất cứ bao giờ, bất cứ ở đâu, chị cũng là người đẹp nhất! Trong phòng khách, đồng hồ từ từ đánh bảy tiếng. Tiết Hằng kéo Yvonne vào, cả hai vừa chạy vừa nhảy, tung tăng như đôi trẻ ngây thơ. Đoạn Hằng ngồi phịch xuống, gọi: – Bếp! Bếp! – Dạ. – Sắp xong chưa? – Con đương dọn bàn rồi. – Đúng như lời tôi dặn anh đấy chứ? Có đến nỗi thiếu món nào không? – Bẩm... không thiếu món nào cả. Tôm tươi, cua, sò, cá song, cá chim, mực tươi, con đã về cảng mua được hết; mấy món đồ hộp với rượu cũng dư dật cả. Yvonne nói len vào: – Nhiều đồ bể quá! Tiết Hằng cười: – Ở bể thì phải ăn đồ bể chứ... Tôi chả như Yvonne, mời tôi lên núi mà không thết tôi bằng đồ rừng... – Chị bảo gì? – Đồ rừng... nghĩa là thịt những giống vật trên rừng... Sao khi ở Chapa không mời tôi những món thịt nai, thịt vượn, thịt rắn, thịt hổ, vân vân... vân vân? Cả hai cười khanh khách. Vừa lúc đó, bà Năm cũng lững thững từ phòng rửa mặt đi sang. Bà dừng chân ngắm kỹ gian phòng có cái bài trí nên thơ: những đồ gỗ tối tân, mấy bức tranh vẽ sơn to lồng vào khung kim nhũ, mấy bức tượng và chỗ này mấy cái lọ Nhật, góc kia cái đôn, vừa đưa mắt quan sát vừa gật đầu. – Bà Hằng hiểu mỹ thuật lắm. Bày sơ sài mà trông đẹp làm sao? Còi ô tô rúc vang lên, cả bọn nhìn qua cửa chớp. Giữa khoảng đất trời đen kịt, hai đường ánh sáng chói lọi chiếu qua những dây hạt mưa lóng lánh như kim cương, từ cổng biệt thự tiến vào thềm. Một câu nói oang oang như giọng lệnh: “Bonsoir les amies!” rồi hai người phủ áo tơi từ xe nhảy ra. Một người béo lùn với một người cao lênh khênh, cả hai lên đến hành lang thì cái xe hòm cũng vòng cái sân, vào nằm nhà chứa xe nhắm mắt, hết thở hồng hộc. Nhẹ nhàng, Tiết Hằng đã để tay vào khuy bấm điện khiến cho khi hai người vừa kịp để mũi giày lên tấm thảm thì ở cả tám góc phòng khác, tám chùm bóng điện đều bật sáng quắc lên. Đào Quân bắt tay một lượt, hôn vào trán vợ một cái, đoạn quay lại giới thiệu người cao cao với mọi người: – Madame de S... Mademoisell Yvonne de S... Je vous présente le Directeur du journal L’Indé Pendance, Monsieur Phan Việt Anh, mon ami. Đào Quân nói xong đứng nghiêm trang hưởng cái hân hạnh được dịp khoe với bà vợ Tây và cô đầm lai một ông bạn thân của mình làm chủ báo, mà lại một tờ báo viết tiếng Pháp. Những câu khách sáo đã dùng rồi, mọi người ngồi xuống ghế, rồi câu chuyện bằng tiếng Pháp bắt đầu câu có vị giữa Yvonne và Việt Anh. – Tôi thích đọc tờ báo của ngài chủ trương lắm. Cũng đôi khi báo có giọng công kích một cách quá đáng thật, nhưng cũng lắm khi có những lời bàn rất có lý. Ngài có nhớ một bài xã thuyết đề mục là “Hai thái độ” ký tên Chiêu Quân không? – Có. Đó là thiên đại luận rất có giá trị của người đọc báo gửi đến tặng chúng tôi. Văn hay, ý sâu sắc lắm mà lại ký hiệu là Chiêu Quân, không rõ người viết ấy là người Pháp hay người Nam, đàn ông hay đàn bà... – Chiêu Quân là tôi đó! – A! Việt Anh rộ một tiếng rồi ngơ ngác nhìn cô đầm lai ẻo lả, đẹp nõn, dịu dàng, một người có văn tài, thi tài sẽ hợp với việc làm thơ, chớ không hợp với việc bàn chính trị. Đối lại, Yvonne cũng chăm chú nhìn chàng, một người đứng tuổi, mặt xương xương mắt đeo kính, tóc để bù, dáng điệu mạnh bạo quá, có cái tinh thần một nhà làm báo... du côn. – Nếu quả vậy thì hạnh phúc cho tôi biết bao! Mong rằng những lúc thư nhàn, cô nên nghĩ đến độc giả của báo đó. – Trước kia, chưa biết đến người giám đốc tờ báo mà tôi còn sẵn cảm tình với báo, nữa là bây giờ... – Tôi xin có lời cảm ơn trước. Nói xong, Việt Anh chợt sờ lên cổ, rồi ngượng nghịu, nhìn Đào Quân. Quân bô bô: – Không đeo ca vát rồi! Đáng kiếp lắm! Ai bảo anh cái gì cũng coi thường... ? Tiết Hằng chữa: – Được, không hề gì. Nội nhà này có mấy người đây thì đã là bà con cả. Giữa cái phòng khách sáng trưng mà tường hoa, mọi đồ mỹ thuật phô ra cảnh nghìn tía muôn hồng, Hằng với cái áo lam, bà Năm với cái áo đỏ thẫm, Yvonne với cái áo da trời, ba người đều như ba con chim lông cánh khác màu trong một bụi hoa. – Ồ, quên khuấy đi mất! Thưa các ngài... tôi có làm quà cho bà đầm tôi một con vật rất ngộ, biết làm xiếc và thích trang điểm như một người đàn bà! – Con gì thế? – Con khỉ! Một con khỉ thông minh y như người... Ta ra xem đi... Cả bọn hí hởn theo Đào Quân ra hành lang. Việt Anh và Tiết Hằng ngồi lại. Thấy vợ không theo. Quân quay lại giục thì Hằng cau mày... Mẹ con bà Năm đã bước ra rồi. Quân so vai, mà phải ra theo. Thấy Việt Anh cứ đăm đăm nhìn mình, Hằng đưa mắt mơ màng ra phía khác. Anh sẽ gọi: – Hằng!... Em Hằng! Hằng nguẩy đầu một cái, lườm Anh rồi lại quay đi. Việt Anh đứng lên thở dài rồi hỏi: – Hằng có vẻ khó chịu lắm nhỉ? Hay bởi lẽ có mặt tôi tại đây? – Có lẽ... – Hằng không bao giờ muốn nhìn mặt tôi nữa chăng? Hằng gật đầu. Tức khắc Anh đến gần nàng trừng mắt thất thanh mắng: – Khốn nạn! Đồ khốn nạn! Hằng cũng đứng lên, lạnh lùng: – Ô! Ngài nói ai?Chương 2Buổi sáng thấy Tiết Hằng ngủ li bì trên cái giường mà những nếp xô lệch ở tấm vải phủ nệm đã nói rõ tới một đêm trằn trọc, nghĩ ngợi ủ ê. Xiên qua lần màn phủ cửa kính, những tia nắng dịu soi lộng lẫy cái phòng ngủ quét vôi xanh, tăng vẻ đẹp cho hết thảy những đồ bày trong phòng. Nàng nằm nghiêng mình, mảnh chăn đơn phủ đến ngực, tay bắc ngang trán, đôi môi mím chặt, lông mày cau, đủ hiểu dù đã ngủ nàng cũng vẫn không được tĩnh trí và còn phải chiến đấu với cả những giấc chiêm bao, có lẽ vẫn giày vò nàng. Việt Anh cầm tay nàng và nhìn nàng trừng trừng, ai oán, giận dữ, đoạn vồ lấy hai vai nàng mà lay... Đó là một người mà lòng trông đợi, sự thất vọng đã khiến cho hóa ra rồ dại. Thoạt đầu, nàng còn nhìn trộm cái mặt gân guốc nhưng đau đớn đó một cách sợ hãi, nhưng dần dần, lòng thương đến thắng được lòng cương quyết, nàng cúi đầu nhắm nghiền mắt, rồi ngả đầu vào ngực Việt Anh. Ái tình đã một lần đắc thắng... Mà đó là lần đầu Tiết Hằng sa vào tội lỗi, đã chịu nhận sự âu yếm ở miệng một kẻ không là chồng, cả hai đều sa ngã nhưng đều sung sướng cực điểm. Thốt nhiên, một tiếng gót giày nện mạnh, cánh cửa phòng bật tung ra. Cặp nhân tình vội buông nhau, quay lại nhìn thì, đó là Đào Quân, đó là người chồng đứng trước cái tang chứng là vợ ngoại tình, nhưng mà chỉ đứng thừ người ra, mặt dần dần tái đi chứ không nói gì cả... – Trời ơi! Tiết Hằng tung chăn, chống tay ngồi dậy nhìn quanh, bàng hoàng. Nàng không tin cái phòng vắng vẻ, bình tĩnh, dụi mắt hai ba lần, vẫn còn hốt hoảng, vẫn còn ngơ ngác tìm cái tôi ở lúc nằm mê. Sau cùng, đã định thần rồi, nàng uể oải bước xuống dép. Mớ tóc mun xõa xuống kín lưng, nàng thong thả vấn thành búi trên đầu, rồi đẩy cửa và tươi cười, lấy đôi hàm răng ngà ngọc ra đón chào buổi bình minh. Hạnh phúc, mãi đến nay nàng mới hiểu nghĩa nó. Nàng sung sướng quá, vì như người đã để xuống đất được một gánh nặng... Chứ gì? Trận bão qua, một đêm... bây giờ là cảnh trời yên tĩnh, là cảnh lòng lâng lâng, không hối hận... Đến tiếng thông reo lúc đó cũng hết đem sự muốn hứng đến cho nàng, một người vốn vẫn giàu cảm tình. Tiết Hằng tươi cười ngắm vạn cỏ cây. Những cảnh chung quanh xưa vẫn quen mắt nàng mà bữa nay lại cảm nàng như những cảnh nàng chưa hề bao giờ thấy trước cả. Mặt trời còn đỏ, trên không gian sán lạn không một tí mây nào vẩn màu xanh... Gió mát thổi từng cơn làm bay quần, bay áo, làm tung tóc, dễ chịu như một sự trêu đùa. Và sóng bể rập rờn cũng như khe khẽ ngâm cái bài thơ của những kẻ chân mây góc biển. – Thưa bà... Tiết Hằng quay vào, mặc vội cái áo dài rồi mở cửa ra. Người bếp kính cẩn thưa: – Mơnuy bữa nay thế nào ạ? – Sao không hỏi ông. – Ông con vặn xe đi với bà Năm từ nẫy... – Đi từ nẫy? Thế bây giờ mấy giờ? – Bẩm gần 6 giờ... – Thế còn những ai ở nhà? – Không còn ai cả. Cô Yvonne với ông Việt Anh cũng vừa đi chơi, không kịp điểm tâm. – Thôi, không phải về cảng mua bán nữa. Liệu mua ngay tại đây rồi làm những món ăn xoàng, tùy ý anh. Rồi nàng đẩy cửa, lại quay vào ngồi thừ trên giường. Tối hôm qua, khi nàng gắt với Việt Anh câu: “Ồ, ngài nói ai?” thì chàng ngẩn người ra, không hiểu, tuy không dám nói gì nữa nhưng bụng phân vân như kẻ giữ lái một chiếc tàu bể đã mất địa bàn. Việt Anh là người si tình nhưng si tình một cách khác đời, nghĩa là có cái tâm hồn của một bạo chúa, với lòng yêu một cách gắt gỏng chứ không chịu ăn mày lòng yêu. Cho nên cử chỉ bất phục ngẫu nhiên đó đã bịt miệng chàng. Đến bữa cơm, Yvonne lại càng như xoắn lấy Việt Anh, mỗi phút ngồi gần nhau lại như đem cho cả hai bên thêm ít nhiều cảm tình về sự tâm đầu ý hợp. Cơm xong, trò chuyện ít lâu đến cuộc khiêu vũ mà Tiết Hằng chỉ ngồi nhìn một cách bàng quan. Vì không rõ chuyện chi cả, Yvonne khiêu vũ một cách có hứng thú, khi làm nữ kỵ binh của Đào Quân cũng như khi của Việt Anh, lúc nào nàng cũng vừa nhảy vừa ngửa cổ ra cười. Nhưng Việt Anh có một thái độ khác hẳn: muốn trêu gan Hằng, chàng đã đóng vai cái người say đắm Yvonne. Thản nhiên, Hằng ngồi vặn kèn, giữ nhịp cầm cung trong buổi khiêu vũ. Nàng đã muốn tránh mặt ái tình thì còn vạ gì mà ghen ai? Hai nữa, những cử chỉ chướng mắt của Việt Anh bên cạnh Yvonne chỉ khiến nàng cười thầm và tự nhủ rằng không khi nào lại mắc mưu sự trả thù của một anh hề. Nàng chỉ thương chớ không hề giận. Nhưng việc đó là việc trước mắt, còn hai người đi chơi mát buổi sáng lại là việc sau lưng. Hằng còn ngủ thì họ đã đi, cũng không thèm lên đánh thức nàng, không thèm bảo qua cho nàng biết, cử chỉ đó có nghĩa na ná với một sự rủ nhau cùng đi trốn chẳng biết nàng có cần để tâm? Tiết Hằng chợt nghĩ đến cơn ác mộng vừa rồi. Nàng cười, nhìn lên ảnh mình rồi tự nhủ: “May thật, chỉ là một giấc mê!”. Nhưng đàn chim sẻ trên hiên cứ ồn ào cãi nhau, chiêm chiếp luôn hồi khiến nàng đã bâng khuâng lại càng thêm sốt ruột. Trong mười phút, nàng cứ ngồi ngây người ra nghĩ ngợi quẩn quanh. Thốt nhiên đứng lên như cái máy có người vặn, hấp tấp vào buồng rửa mặt, thay quần áo, đoạn xuống nhà vớ lấy một cái dù Nhật mở cửa ra đi một mạch, không ngửng đầu. Sau một đêm bão, mặt đường nhựa sạch như lau, bóng nhoáng đến có thể soi gương được, cỏ cây mơn mởn tốt tươi như sau một buổi tắm gội. Những mái ngói, tường vôi, lá cây đám cuội, hết thảy mọi vật đều sạch sẽ, ướt át, lấp lánh phản chiếu ánh mặt trời. Chỗ nào cũng là trăm nghìn mảnh gương. Lững thững Hằng đi, có ý tìm kiếm khắp nơi đều không gặp. Trên bãi bể, trên núi, trên các mỏm đá đều không thấy bóng dáng hai người. Những chỗ đẹp, đáng ngồi hóng gió với hứng thi vị của tạo vật mà không ngồi hưởng, vậy họ đi đâu? Chót vót đứng trên mũi bể, Hằng để một tay lên mặt che, quay khắp bốn phương tìm những mỏm đá trước đền Bà Đế cũng vắng tanh vắng ngắt. Hằng quay về, cũng đã nhọc mệt, lử thử đi. Nàng đi những con đường nhỏ quanh co bao bọc ruộng làng, đi tắt. Đến một gốc đề bèn cụp dù, ngồi xuống nghỉ chân. Gió bể hây hây, những cây dâu tốt lá, cao chấm đầu người... Hằng ngồi ít lâu, tầm mắt bỗng đặt tới một vật tròn tròn, xám xám. Lấy dù hẩy một cái, vật đó lật ngửa, phô ra màu trắng hếu: bụng một con chim sâu. Con vật khốn nạn chắc chết vì bão; bởi lẽ mình nó chỉ đét đi chớ không có tí thương tích nào. Hai chân quặp chặt, đôi mắt nhắm nghiền, còn mỏ há rộng. Tức khắc Hằng buồn rầu ngay. Nàng rùng mình nghĩ đến mọi sự tang thương biến cải của đời. Đẹp, trẻ, khỏe mạnh, lấy chồng giàu, sống một cuộc đời mà người ta cho là sung sướng tột bực, cái địa vị nàng bao nhiêu kẻ mầy mò không xong!... Nhưng nói cho cùng ra, hỏi nàng có sướng? Dù sướng thật đi nữa, ngày nay đã vậy ai biết ngày mai thế nào? Đó là sự bất trắc của hạnh phúc. Tiết Hằng liên miên hồi tưởng lại quãng đời từ thuở còn là cô học trò ngây thơ. Cái tuổi chứa chan hi vọng, cái tuổi sung sướng vô cùng, nhưng thời gian chỉ đi chứ không trở lại... Nàng chợt nhớ một buổi tan học, từ trường trung học Sa Lộ ra về, nàng ngồi xe nhà ở giữa cho Việt Anh với Đào Quân đạp xe đạp kèm hai bên... Hồi đó, nàng còn có tên Tây: Mathide Tiết Hằng. – Mathide! Tôi sẽ đem đến biếu mình một bộ sách rất đẹp... – Mathide! Cứ lấy máy ảnh của tôi mà dùng... Trong ba khối óc còn ngây thơ, óc của Đào Quân là của kẻ trưởng giả hợm đời và óc Việt Anh là của hạng si tình quá sớm. Trong khi Đào Quân chỉ biết nói tới câu: “Tôi cho tài xế đánh xe đến đón mình nhé?” thì Việt Anh đã khai chiến: “Hằng ạ, sau này tất chúng mình phải lấy được nhau”. Một hôm, Tiết Hằng đỏ mặt ngỏ ý riêng với mẹ trong một phút điên rồ. Tức thì bà mẹ tỉ tê nói: “Con nhầm. Khi nào thầy con lại có thể thuận gả con cho Việt Anh được! Vẫn biết hai bên xưa kia có đi lại với nhau, ông bà ấy cũng dòng dõi thế gia quý tộc, nhưng phải cái tội nghèo. Thời buổi này mà không có tiền thì làm gì được? Hai nữa, ba mày lại đang là người góp vốn với ba anh Quân... Nhân tiện con đã động đến, nên mẹ bảo con biết trước: ba con ngỏ ý với mẹ định gả con cho anh Quân đã lâu rồi. Về phần bên ấy, ai cũng ưng, nhưng vì chúng bay còn đi học nên bảo nhau giấu cả hai, chưa cho đứa nào biết vội”. Đó là vết thương thứ nhất có thể làm ngừng đập trái tim cô gái ngây thơ. Hằng nghe xong tái mặt, không nói gì. Cả đêm hôm ấy ngồi thức để khóc lóc vật vã. Không thể lấy Việt Anh được, vì lẽ bố Đào Quân là một nhà tư bản doanh nghiệp, chủ mấy cái mỏ kẽm và cái gia tài đó sẽ về phần Đào Quân! Nàng thấy nàng là một thứ hàng hóa, trong cuộc nhân duyên sắp bén đó. Một hôm, Hằng nói với bố rằng khinh bỉ sự làm giàu. Người bố hiểu ngay, biết rằng con gái muốn phản đối việc trăm năm, bèn nói lưỡng: “Tao hiểu mày rồi! Con không màng tưởng sự lấy chồng giàu phải không? Được, để tao liệu... ”. Một cô gái trẻ tuổi, còn dại dột nữa, liệu có thể thấu rõ được tâm địa một người cha, mà lại một người cha đã lăn lóc việc đời? Hằng được lời nói đó thì vội tin ngay. Nàng nói qua cho Anh rõ, để chàng liệu mà sửa soạn. Ồ, mà Việt Anh sửa soạn cuộc tóc tơ kia ra làm sao thì có trời biết. Đối lại mấy cái mỏ, mấy xưởng máy phần gia tài của Đào Quân là những khí giới lợi hại trong việc đi chinh phục Tiết Hằng, thì chàng hình như đã vững tâm ở số mệnh, cứ mặc lòng mê mệt về một ý tưởng riêng. Ít lâu, xảy ra sự chủ trương việc bãi khóa sau cái tang Phan Chu Trinh. Rồi đến thôi học, vào Nam Kỳ làm báo. Một năm tờ báo bị đóng mà ông chủ bị 6 tháng tù án treo, đuổi ra Bắc Kỳ. Những tai biến ấy Hằng phải trông thấy một cách đau lòng trong khoảng hai năm. Trong khi đó, phụ thân của Đào Quân lập thêm được một nhà máy chai, tậu thêm được một cái mỏ than nữa. Trước sự thay đổi lớn, Hằng còn biết nói thế nào! Cả nhà đều thì thầm một cách sợ hãi, mỗi khi nhắc đến một hành tung của Việt Anh. Giữa thời kỳ này mà ai lại đả động tới việc trăm năm giữa Hằng với Anh thì đích xác rồi, đó là một người hóa dại. Lẽ tất nhiên, ít lâu Đào Quân cưới được Tiết Hằng. Đó là sự nảy nở thịnh vượng của một gia đình này, bên cạnh sự sụp đổ của một gia đình kia. Lấy tư cách là bạn cũ cả vợ lẫn chồng. Việt Anh năng tới lui cái tiểu gia đình mới lập. Người vợ hơi e ngại sự thân mật trong tình bạn hữu đó, nhưng người chồng lại coi là việc rất tự nhiên. Lại thêm Đào Quân cho Việt Anh là kẻ có cái số phận ngang tàng, sinh ra đời không phải để hưởng mọi hạnh phúc êm đềm mà chỉ để tự hoại mọi đường công danh bởi một chí hướng riêng, nên cũng không đề phòng cho lắm. Việc đề phòng là việc riêng của Hằng. Đã bao lâu nay, người chồng thì vô tình không biết, người vợ thì giữ gìn, cự tuyệt, để người tình thân cứ việc chạy theo cái duyên đã đi thì không trở lại. – Ơ hay! Chị Hằng ngồi đây đấy à? Tiết Hằng giật mình quay lại, Yvonne và Việt Anh. Cả hai đứng dừng, ngạc nhiên không hiểu sao mới tinh sương Hằng đã ra ngồi làm gì đấy. Anh hỏi: – Sao bà lại ngồi đây? – À, tôi... tôi đang đi tìm hai người đấy mà. – Tìm chúng tôi ấy à? – Phải. – Tìm chúng tôi ở một gốc cây? – Chưa thấy đã mỏi chân, cấm không cho người ta ngồi à? – Thế khỏi mỏi chân chưa thì đứng lên, đi chơi một thể... Hằng đứng dậy oằn mình mấy cái rồi cầm lấy dù: – Khỏi mỏi rồi nhưng chả đi chơi. Ta quay về. – Ừ, về thì về. Cả ba lững thững quay về; tình cờ Hằng lại đi giữa. Dân quê tò mò đều dừng gánh đứng ngắm cái đám kỳ lạ; một người đầm đẹp, khoác tay một thiếu nữ đẹp, đi với một người đàn ông mặc tây cả ba có ý thân thiết với nhau quá chừng. Tiết Hằng hỏi Yvonne: – Nhà tôi đã cùng với bà đi đâu từ sáng? – A, đi về Hải Phòng, hình như về để ký giấy tờ quan hệ gì đó. Có bảo đến chiều lại ra ăn cơm. – Chứ buổi trưa thì thôi? – Có lẽ... Tự nhiên Việt Anh kêu: – Mai tôi cũng về Hà thành! Hằng chỉ nhìn nhưng không hỏi, còn Yvonne có ý tiếc: – Sao ông lại về ngay thế? Thế mà dám gọi là nghỉ hè. – Ấy làm nghề viết báo thì chỉ có quyền được nghỉ độ một vài ngày đã là nhiều. – Thôi được, ông cứ về Hà Nội. Rồi khi về, nếu có dịp, tôi sẽ đến thăm tòa báo của ông. Tới nhà, vào phòng khách, ba người uống trà mạn sen. Tiết Hằng lướt qua mặt Anh, giơ cho chàng một mảnh giấy. Chàng bỏ vội vào túi áo, lại ngồi nghiêm trang một lúc lâu. Nửa giờ sau đó. Việt Anh làm ra bộ vô tình mà bước ra hành lang. Đứng nấp bên một cái cột tròn to hai ôm, chàng nhìn trước nhìn sau rồi giở mẩu giấy ra đọc: Anh, Nếu mai mình đã về Hà Nội thật thì tôi có một chuyện nói ngay hôm nay. Ta để Yvonne ngủ trưa, ta lẻn đi Pagodon, sẽ tiện nhất. Nên khéo cho đến bữa trưa nay.Chương 3Con đường đi Hòn Đâu lúc đó vắng vẻ, mặc lòng trời tạnh mây quang. Kể từ khách sạn Pagodon đi, dần dần chỉ thấy dân quê, vì du khách mỗi lúc một ít bớt. Lúc đó mới quá 12 giờ. Nếu không có nhiều tầng mây do thỉnh thoảng bay qua che lấp mặt trời thì Việt Anh và Tiết Hằng đã chẳng lững thững đấy, đã vào ngồi một bàn trong khách sạn Pagodon. Hai người lững thững đi cạnh nhau như một cặp vợ chồng, nhưng không năng chuyện trò với nhau mấy. Vì rằng Tiết Hằng chưa biết nên nói ra sao cả, còn Việt Anh thì, vào cái trường hợp cần phải suy nghĩ ấy, chàng cũng phải dè dặt chứ chẳng dại gì mà cứ mải coi thường cái bụng đàn bà như xưa. Đã mang mãi sự thất vọng trong lòng, hôm nay chàng lại còn phải lo vơ vẩn... Mấy dòng trong mảnh thư trao vụng ban nãy tới tay chàng sẽ dắt đến sự cự tuyệt giữa hai người cùng đau đớn hay sẽ là sự hẹn hò của một cuộc ái ân? Khó đoán. Hằng đã bất mãn vì mọi cử chỉ gai mắt của Anh chăng? Điều đó rất có thể, đối với bụng dạ đàn bà. Nhưng nếu nó thật thì nó là một sự vô lý, rất vô lý. Việt Anh chất vấn ký ức, gợi đống gio tàn, hồi tưởng lại cái ngày đau khổ nhất đời của chàng là ngày chàng đem sự chúc mừng đến cho cặp vợ chồng mới cưới: Đào Quân, Tiết Hằng. Sau hôm đó trở đi, đến mấy tháng trời chàng không hề quay lại nhà bạn và, đó là Đào Quân phải đến tìm chàng một cách thành thực để giúp đỡ chàng ra khỏi cái cảnh túng thiếu, do sự từ Nam Kỳ bị đuổi ra đây. Một lần, Anh nói với Hằng một cách chua cay: “Không! Tôi chẳng phải là hạng giận thân giận đời! Việt Anh có đâu lại hèn như vậy. Yêu ai thì cầu cho người ấy được hưởng hạnh phúc trên đời còn bao nhiêu điều đắng cay, điều bất hạnh, điều vô phúc, thì cứ việc đổ vào đầu tôi”. Lần ấy, Hằng ngồi nhịn thở nghe câu nói đó một cách căm tức chớ không đáp lời. Hai người yêu chẳng được, dần dần hầu như ghét nhau. Nhưng cả hai đều thấy thi vị trong cái sự căm hờn chung đó, bởi lẽ chính đó là một bộ mặt của ái tình. Không yêu còn đâu ghen, không ghen còn đâu oán hận. Một hôm, Hằng nói: “Thôi chẳng qua chúng ta không chung duyên kiếp. Sự xảy ra rồi, đã không còn cách gì chữa lại được nữa, mình chỉ nên coi tôi là một người bạn gái trung thành là hơn. Mình đã nói với tôi một cách chua cay rằng tôi là người được hưởng hạnh phúc. Tôi đã cam lòng nhận lời mai mỉa ấy thì tôi cũng có phận sự tìm hạnh phúc giúp mình. Việt Anh nên nhận tôi là một người bạn gái trung thành có một không hai. Hằng xin nguyện với quỉ thần như vậy. Tôi xin tìm hộ một người bạn trăm năm rất đáng hưởng cái lòng yêu của mình, vả lại, Hằng cũng thường vấn tâm và rất lấy làm lạ rằng một người như Hằng thì không biết có phương diện nào đáng để cho một người như Việt Anh dành cho một chỗ trong tâm... ”. Chàng đã nghe câu nói đó rất kỹ lưỡng, nhưng cũng không đáp. Mà về phần Hằng, nàng cũng cho sự lặng im đó có nghĩa của một cái gật đầu. Thế là nàng nhầm mất một lần, vì rằng muốn người yêu mình đương đau khổ vì mình hay không còn phải đau khổ nữa thì nghĩa là không còn chịu nhận cái ái tình vô hi vọng kia. Việt Anh đã là người sinh ra đời để đau khổ chàng cần được người ta để mặc chàng cứ đau khổ. Vậy thì, sau những lời Hằng đã nói, liệu nàng còn có thể bực mình vì những cử chỉ của chàng khi gần Yvonne không? Nàng lại có thể vô lý đến bậc ấy nữa kia à? Việt Anh cứ đi gần Tiết Hằng mà nghĩ ngợi liên miên... Chàng đoán lời lẽ trong thư, kết luận đến cái lòng ghen của Hằng rồi nghĩ thầm: “Vô lý! Nếu thế thì vô lý quá!”. Nhưng đó là Việt Anh, trong một phút rối loạn, đã tự lừa dối mình. Chính thực ra, chàng vẫn muốn Tiết Hằng nổi ghen, cứ việc vô lý thì chàng mới được hả dạ. Đường vừa đến chỗ Chấm Tròn ở Hòn Đâu. Phía dưới đường là những tảng đá nhỏ to lởm chởm, rồi thì bể. Vài người quần áo rách ngồi kiên nhẫn, rải rác thả câu. Trước mặt là một ngọn đồi con, cũng có ít nhiều cây, hao hao giống núi Nùng. Xa xa ngọn đèn pha chơ vơ trên một cái đảo con như đứng quảng cáo cho sự hiu quạnh. – Ta ngồi xuống? – Phải đấy! Hằng và Anh bảo nhau ngồi xuống một ghế dưới một bóng me. Diu diu diu diu, tiếng ve sầu như ru ngủ. Đằng xa, thấp thoáng, mấy cánh buồm nâu to không hơn mấy cái chấm, phân biệt cảnh ánh nước lồng trời. Hai người ngồi im lặng trong một lúc đã khá lâu. Không phải im để ngắm cảnh nhưng để ngẫm nghĩ cẩn thận, để liệu đường khởi thế công, thế thủ với nhau cho khôn khéo. Sau cùng đó là Hằng phải nói trước: – Thật mai mình về Hà thành? – Phải. Cứ ở đây mãi, có ích gì cho ai? – Mà lại còn nguy hiểm cho tôi nữa. Việt Anh nhìn Tiết Hằng một cách mỉa mai, đoạn gay gắt giọng: – Thưa bà, nguy hiểm là nghĩa lý gì ạ? Tôi đây, tôi sở dĩ đem lòng kính yêu bà là vì bà đã tỏ ra là người đàn bà trinh tiết nhất đời, chỉ vì thế thôi. Nếu tôi lại được hân hạnh là... nguy hiểm cho bà thì còn nói gì nữa! Tiết Hằng cười nhạt. – Phải, mình về ngay Hà Nội là rất phải. Lắm lúc tôi cũng lấy làm lạ rằng sao tôi lại nhu nhược đến nỗi để cho một người chẳng là chồng tôi mà cứ mỉa mai gắt gỏng luôn luôn với tôi, y như một người chồng! Mà có phần lại tệ hơn một người chồng nữa! Anh cúi đầu ngẫm nghĩ, hối hận lắm. Hồi lâu chàng ngẩng lên ôn tồn nói: – Vâng, tôi đã nói tôi về là tôi về. Thật đúng như lời Hằng nói... tôi đã là một kẻ khó chịu, vô nghĩa lý. Nhưng làm thế nào được? Đã đau khổ trong lòng mà bắt cũng cứ vui như mọi người thì vui làm sao? Tôi phải xa Hằng, phải quên Hằng mới được. Nếu không, cứ gần gũi mãi Hằng thì lòng yêu kính đến thành ra sự thù hằn oán ghét mà thôi. – Mình thật là một người điên. Anh không để ý đến câu nói của Hằng, cứ nói luôn như không cần cho ai nghe cả: – Bây giờ tôi đã tỉnh ngộ nhiều lắm. Mình vẫn khuyên tôi mãi rằng ở đời này, chỉ nên cầu lấy sự hạnh phúc tương đối mà thôi. Tiết Hằng không là vợ Việt Anh nhưng là một người bạn gái trung thành có một không hai của Việt Anh! Thật không khác gì mình bảo ngay vào mặt tôi rằng: “Tôi không lấy anh nhưng vẫn là người giúp đỡ anh, tưởng cũng đã phúc cho anh lắm”. Có nói thế, tôi mới biết rõ rằng tôi là một kẻ nghèo. Đến đây Việt Anh đứng lên, mặt biến sắc. Chàng tì một tay vào thành ghế, còn tay kia rút khăn ra lau trán, cái trán đã lấm tấm mồ hôi. Tiết Hằng ngước nhìn một cách sợ hãi, xót thương, nhưng chưa kịp tìm lời cãi cho mình thì Việt Anh lại làm một thôi thẳng nữa: – Mà sao tôi lại cứ điên rồ chạy theo Hằng như bóng theo người thế này nhỉ? Thật vậy, người ta bảo rằng dục vọng làm cho người ta mất trí khôn cũng đúng lắm. Thế mình dắt tôi ra làm gì ở đây? Tôi rất muốn rằng để mình cự tuyệt tôi cho tôi có can đảm lánh mặt mình đi hơn là lại cứ an ủi tôi, hoặc giày vò tôi bằng những lời hứa. Tôi bây giờ có hi vọng gì nữa đâu. Người ta hi vọng đến sự thực, còn tôi. Hằng chỉ cho tôi hi vọng đến hi vọrg! Thôi, còn nói gì nữa! Muộn cả rồi! Tôi bị hỏng một nửa phần hồn rồi. Việt Anh lắc đầu thở dài rồi lại ngồi xuống ghế như một cái cây đổ, Hằng cầm lấy hai tay chàng mà thỏ thẻ bên tai: – Anh! Anh! Tôi van mình... mình làm ra đau khổ quá, tôi càng thêm bối rối, không biết tính sao nữa. Mình khổ là tôi khổ. Mình có yêu tôi thì nên kiên nhẫn, nên vui vẻ cho tôi đỡ lo... Tiết Hằng bao giờ cũng yêu quý Việt Anh hơn hết mọi kẻ mà Hằng có bổn phận yêu quý trên mặt đất này... – Mình! Việt Anh vẫn thế, lại vẫn những giọng cũ rích! Tôi tưởng nếu chỉ có thế thì cần gì Hằng bắt tôi theo Hằng ra đến tận đây? Tiết Hằng cũng gắt lại: – Thế thì anh muốn gì nữa nào? Việt Anh lúng túng đáp: – Muốn gì à? Nào tôi có muốn gì nữa đâu. Ồ! Giá mình mắng ngay vào mặt tôi đại thể rằng: “Đồ khốn nạn! Bước ngay! Tao không muốn bẩn mắt nhìn mày”, chẳng hạn... Nếu thế, tôi lại có can đảm cầm mũ đi ngay. Mà thế tôi mới có thể quên được... Chứ không thì... Giời ơi! Tôi quên làm sao! Hằng lại dịu dàng: – Anh! Mình quên cái bổn phận của mình rồi... Mình vẫn nói cho tôi rõ cái chí hướng khác đời của mình, nói rằng đời mình phải là đời hoạt động, có ích cho người khác, chớ có phải sẽ chỉ là cái đời của một kẻ yếu hèn, lăn lóc trên giường tình đâu... Lần này là lần đầu tôi dám đả động đến mình vì mình đã có phần chểnh mảng nghĩa vụ... Tức khắc Anh ngắt lời nàng: – Hằng nói đúng lắm! Nhưng mà tôi bây giờ có những tư tưởng khác xưa rồi. Nghĩa vụ của đất nước này có nghĩa lý gì? Tôi cần gì đến nghĩa vụ nữa? Vì nghĩa vụ, tôi đã bị đời lánh mặt vì khinh bỉ cũng có, vì ghê sợ cũng có, nào ai thèm biết đến những điều tôi rất có thể được hưởng mà vì nghĩa vụ, tôi đã phải hy sinh đi? Thôi, nhưng cái đó là chuyện để mà đùa. Đây này, nếu tôi không vì nghĩa vụ thì, dù tôi chẳng là con một nhà đại tư bản đi nữa, dễ mấy lúc đã để Tiết Hằng thành ra bà Đào Quân! Những lời hằn học đó rất cảm Tiết Hằng. Nàng chợt nhớ lại những ngày còn là bọn học trò trẻ cả. Hồi đó, Việt Anh là một trò thông minh, giỏi nhất lớp, Đào Quân chỉ cắp sách đến trường học để ngủ gật với để bị phạt vì không thuộc bài. Người ta thay đổi địa vị chóng thật. Mới ngày nào cậu học trò hi vọng của cả một trường, đã như hứa với mọi người một cuộc tương lai rực rỡ nhất thì bây giờ lại là một người lỡ dở nhất về công danh. Anh học trò ngu đần lại chủ trương những công cuộc doanh thương hiển hách. Hằng nghĩ rồi mà càng đem lòng kính trọng Việt Anh. Nếu đã nghĩ như mọi người, thì địa vị chàng cũng đã thừa sự bình yên như mọi người. Nàng ra vẻ kể lể: – Thôi, ta chả nên nhắc lại chuyện cũ. Không cần thế. Mình cứ biết rằng Hằng bao giờ cũng yêu quý mình, đau khổ vì mình, thế thôi. Việc gì cứ phải lấy nhau mới là yêu nhau được? Anh giương tròn đôi mắt hỏi: – Hằng nói là yêu tôi, được lắm, nhưng nào có sự gì để tỏ rõ lòng yêu? – Tôi xin lấy danh dự cam đoan lòng yêu với mình. Ở đời này, Tiết Hằng nguyện chỉ yêu mình Việt Anh. – Mình hứa sẽ chỉ yêu tôi, sẽ về tay tôi? Tiết Hằng gật gù: – Có thể lắm. Nếu được tự do tôi sẽ lấy mình. Việt Anh hấp tấp: – Sao mình lại không được tự do? Lúc nào muốn tự do mà chả được? – Mình muốn Hằng phải ly dị chồng ư? Không nên nói đến sự ấy một tí nào cả. Nhất là khi Hằng còn bố mẹ đây kia... – Thế thì bao giờ mình được tự do? – Biết thế nào mà nói trước được? – Hai chữ tự do ấy, mình có ý nói chẳng may khi nào góa chăng? Chờ khi Đào Quân chết à? Mình bắt tôi mong Đào Quân sớm chầy bất hạnh chết đi à? Tiết Hằng đứng dậy tái mặt: – Ồ! Việt Anh! – Thế thì mình bảo tôi hi vọng cách nào? Trông mong vào đâu? Ly dị mình đã không muốn... – Tôi không đời nào xin ly dị, đã đành vậy, nhưng Quân rất có thể xin ly dị được kia mà. – Việc gì tự nhiên Đào Quân lại xin ly dị vợ? Nó có là một thằng điên đâu! Vợ nó là người cho nó tự do muốn bắt nhân tình với ai thì cứ việc... Chớ không có ghen tuông gì, lại là một người đẹp... vì cớ gì nó có thể ly dị vợ nó? Ồ, Hằng! Mình thật là vô nghĩa lý, mình đã mất trí khôn. Này, Hằng, tôi yêu cầu mình chỉ nên thốt ra những lời tâm sự đã không yêu thì không cần cớ phải nói dối là yêu. Mình không yêu tôi! Mình là người đàn bà có nết, không thể trái lời cha mẹ, cũng không thể lừa dối chồng! Mình không dám yêu tôi, mình chỉ có thể thương hại tôi mà thôi. Đừng cho rằng thương với yêu cũng là một... Tiết Hằng ngồi xuống, lặng im. Nàng thấy hình như Việt Anh nói đúng. Nàng đã thương nhiều hơn đã yêu. Mà nếu có yêu Việt Anh thì cũng là do vì thương mà nên, chứ sự gìn giữ, sự dè dặt, xưa nay vẫn không phụng sự ái tình. Việt Anh năn nỉ: – Hằng! Hằng! Nếu mình không ly dị thì không xong! Tiết Hằng nghiêm trang: – Xin đừng ai buộc Tiết Hằng phải là đứa con bất hiếu! Việt Anh thở dài, đứng lên. Chàng lấy thuốc ra hút, khoanh tay đi đi lại lại trước ghế. Rồi chàng cất cái giọng sang sảng của một giáo sư dạy học trò: – Hôn nhân không phải là một kế đáng dùng vào sự thương mại; nó là một điều tốt đẹp vô cùng, vì nó dắt đến hạnh phúc. Khi người ta lấy chồng như tậu một cái nhà gạch để rồi cho thuê lấy lãi thì người ta nên hối hận, nếu người ta không là người hèn. Hằng cứ ngồi nghe, những điều châm chọc ấy một cách điềm nhiên như không... Thấy không công hiệu gì, Anh lại quay về giọng năn nỉ: – Ồ, nếu mình yêu tôi sao mình lại không ly dị? Mình có sướng gì đâu? Quân là đứa chơi bời, có người vợ như mình mà không biết yêu một cách xứng đáng! Nó cứ mỗi tuần lễ lại phải thay một người nhân tình, y như mình thay áo sơ mi. Tiết Hằng! Mình đau khổ. Vì trong cuộc trăm năm mình không thấy hạnh phúc. Cho nên mình phải sống cái cuộc đời xã giao lịch thiệp một cách vô nghĩa, người ngoài phải tưởng là sung sướng như tiên, nhưng chính ra, mình không thấy sướng bao giờ. Người Hằng yêu thì Hằng không có quyền yêu. Mà người có quyền yêu Hằng thì lại không yêu Hằng. Đào Quân lấy được mình làm vợ tức như lấy được sự kiêu ngạo. Hắn có cái nhẫn quí giá trong tay, thế thôi. Có bao giờ người ta lại đem lòng yêu một cái nhẫn ngọc quí giá? Hằng! Mình có muốn biết tên tuổi những nhân ngãi của Quân không? Tiết Hằng lắc đầu uể oải: – Biết để làm gì nhỉ? Mình muốn tôi phải ghen Quân à? Việt Anh lại ngồi xuống ghế nhìn ra phía bể. Chàng nói một mình: – Thế thì tôi chỉ còn hy vọng có một điều... là Đào Quân bất hạnh chết mà thôi. Phải, Hằng thành quả phụ, chúng mình sẽ công nhiên lấy nhau, bấy giờ ta sẽ tha hồ sung sướng. Nhưng biết bao giờ mình sẽ góa chồng! Đào Quân béo tốt, khỏe mạnh, vững chãi như một tảng đá, nó sẽ sống mãi, sống mãi cho đến bao giờ thành yêu thành tinh! Thế là nó mà sống trăm năm thì cái ái tình của chúng ta cũng trong trăm năm phải vô hi vọng! Hằng đứng dậy, mặt vẫn bình tĩnh quả quyết: – Thôi ta về. Rồi mình cũng về Hà thành với Quân. Anh trước cái thái độ ấy, tuy ngạc nhiên nhưng cũng phải cầm mũ đứng lên đi theo, không dám căn vặn lời nào.Chương 4Bonjour chérie! – Kìa bà Hằng và ông Anh đây rồi! – Đi chơi đâu về thế? – Sao bảo tối mới ra? – Xong việc thì ra ngay chứ ở lại Cảng làm gì? Trong một phút, người nào cũng nóng hỏi chứ không ai nghĩ đến sự đáp rành mạch cho ai. Hằng và Anh lạ rằng sao bà Năm với Quân đã về, còn Quân cũng không hiểu vì lẽ gì hai người lại để Yvonne nằm nhà mà ra đi như vậy. Nhưng sự đó chỉ thoáng qua thôi. Quân vừa tính được mấy việc lớn với bà Năm tại Cảng nên cả hai đều tươi bưởi khác thường. Trời chiều, nắng xiên khoai khó chịu. Mấy vạn con ve sầu vẫn không quên biểu đồng tình với sự reo hò rầu rĩ của những cây phi lao. Chỉ có một ít gió. Cái không khí ấy đem sự uể oải, sự muốn nghỉ ngơi đến cho mọi người. Ai cũng ngoặt nghẹo trên ghế, không ai còn sức ngồi cho nghiêm chỉnh. Sau khi người bồi đem đồ giải khát vào, cái phòng khách hóa ra tĩnh mịch, vì người ta vừa ngáp ngủ vừa hỏi chuyện nhau. Đào Quân khoe với vợ: – Này mình, tôi đã thu xếp xong hai việc rất có lợi. Phái chủ mỏ An Nam ta đã ký kết với nhau một tờ hợp đồng về việc giữ giá than. Thế là từ nay trở đi, không lo làm lỗ vốn phá giá lẫn nhau nữa. Đó là một. Còn việc nữa thì là việc ép lão Đức để lại cái mỏ của hắn cho tôi. Rẻ quá! Có ba nghìn bạc một cái mỏ đã khai được sáu cửa lò. Mà than cũng khá. Hằng hỏi: – Sao lại có thể như thế được? – Thế mới kỳ! Mình cứ hỏi lại Madame Năm mà xem. Điều đình mãi, hết ngọt đến sẵng lão ta mới chịu ký đấy. Bà Năm đang nửa ngồi nửa nằm trên ghế trường, bỗng ngồi phắt lên, hấp tấp: – Lão ta để thế còn được ba nghìn, chứ nếu cưỡng bọn này mà đi kiện thì lão phải sạt nghiệp! Ai bảo địa phận của mình không đào lại đào lấn sang địa phận của mỏ người ta? Đào Quân cắt nghĩa kỹ hơn: – Không phải thằng cha ấy dại thế đâu... Nó đã tay trắng làm nên thì nó còn lép gì? Ấy là người làm của nó hại nó đấy. Mà vì tôi cũng khôn, nó mới mắc bẫy. Nguyên hai mỏ sát gần nhau. Mạch than ăn cả hai mỏ. Cả hai cùng làm hầm về một phía, vừa lúc bên ấy có người báo tôi rõ là họ đào lấn sang đây mà không biết thì tức khắc tôi bảo phu bỏ dở hầm đó, quay về đào phía khác cho khỏi gặp nhau. Đến khi bên kia ngập mất hơn ba mươi thước, tôi mới đến xin... “thưa chuyện” với ông chủ. Bây giờ mà không bằng lòng để lại cho tôi giá rẻ thì... chỉ còn việc ra Toà! Tiết Hằng chép miệng than thay người gặp rủi kia: – Sao có người đã làm việc mà lại không cẩn thận để đến nỗi thế! Đắc chí, Quân tu một hơi dài rượu rồi xoa tay nói: – Một ngày hôm nay, tôi làm được một việc lãi năm nghìn... ! Bà Năm ạ, khai sáu cái cửa lò cũng xấp xỉ số vốn ấy đấy. Bây giờ mình chỉ còn việc đào than mà bán thôi. Một ngày... năm nghìn! Việt Anh đùa nhả bạn bằng tiếng Pháp: – Một việc ăn không! Đào Quân cãi lại: – Thì đã đành! Nhưng mà đời nó thế, làm thế nào được! Ai vạ gì lại như anh, học hành như thế mà... bỏ phí một đời như thế. Nghề báo nuôi nổi sao được người? Anh so vai không đáp lời. Sợ bạn giận, Quân vội nói với vợ: – Này mình ạ, mình nên cảm ơn Anh vì đã chỉ cho tôi rõ cái ích lợi của một hội ái hữu ở xứ ta nó có mục đích giống một nghiệp đoàn. Hôm nay tôi đã lập xong một hội ái hữu các chủ mỏ. Chúng tôi đã ký kết với nhau để bênh vực quyền lợi cho nhau. Dù bao giờ ta có quyền được lập nghiệp đoàn thì mới thật được yên trí, nhưng, bây giờ hãy cứ nên cảm ơn Việt Anh. Rồi Quân giơ tay đón bạn. Anh bắt tay nhưng không quên dọa: – Bao giờ tôi làm cho dân phu mỏ lập nổi nghiệp đoàn đương đầu với phái chủ mỏ của anh, lúc đó tôi mới cho là việc đáng kể. Còn xui các anh lập một hội ái hữu đã có nghĩa gì? Gian phòng khách mỗi lúc một lặng lẽ hơn. Sau cùng, người nào cũng tơ tưởng đến việc riêng của mình thành ra gần như không ai chuyện với ai nữa. Rón rén, Yvonne tiến đến cái đàn. Nàng ngồi xuống ghế, mở nắp vừa liếc nhìn mọi người vừa dạo thử vài tiếng. Mọi người dùng sự im lặng để tỏ ý hoan nghênh. Thế là bài Reve de vatise nổi lên... rồi đến bài Ville d’ Amour kế tiếp. Điệu đàn cầm dắt mọi người, đáng cảm như một lời hứa, tha thiết như những tiếng gọi ái ân, tê mê như lớp sóng của một cặp mắt đa tình. Hết bài, Yvonne ngừng tay. Đôi mắt chứa chan hi vọng được khen, nàng quay nhìn lần lượt từng người. Nhưng cái phản động lực mạnh đến nỗi ai cũng phải ngây người ra mơ màng nghĩ ngợi, và không còn biết đến người đánh đàn là ai. Một lúc lâu Hằng nói: – Từ xưa tới nay, cái đàn mới được một người biết đánh ngồi vào lần này là lần đầu. Rồi nàng cũng ra ngồi với kỷ đàn thập lục. Mấy tiếng dạo nghe đã tê mê. Trên mười sáu sợi tơ đồng đó là mười cái búp măng mềm mại, thoăn thoắt. Cao hứng quá. Yvonne đi lại rún rẩy, miệng khẽ hát: “Đêm đông đêm đông gió thổi... ” một cách vụng về. Chợt Việt Anh khẽ vỗ vai Đào Quân khiến Quân đang mê man phải giật mình một cách khôi hài lạ. Anh ra hiệu cho Quân theo mình ra hành lang. – Chiều nhà tư bản đánh xe hầu ông chủ báo về Hà Nội nhé? Quân giương tròn cặp mắt: – Về Hà Nội? Mày nói thật hay nói đùa? – Sao lại nói đùa? – Thế mày điên à? Chơi vài hôm nữa đã nào. – Không thể được, có nhiều việc lắm. – Cái thằng này mới kỳ chứ! Thế thì mày ra đây làm gì? – Mày cứ bắt tao ra đây chứ tao có yêu cầu mày đâu? Mày nhầm. – Khỉ lắm nữa! Quân gắt xong đứng tần ngần một lúc, rồi bỗng lại hí hởn, khẽ nói ra vẻ bí mật: – À, cũng được. Để cho tài xế ở lại đây, chính tao cầm lái cho mày về... Thế tao lại có cớ về Hà Nội thăm con lai của tao một đêm. – Thế bao giờ sẽ lên xe? – Ta chờ họ tắm, rồi về chén, rồi độ chín giờ thì đi. Đôi bạn đương xì xào, bỗng từ giàn lý có cái gì rơi đúng ngay sau lưng Quân đánh huỵch một cái. Quân giật mình, rú một tiếng rồi hốt hoảng: – Chết! Cái gì thế mày? Việt Anh cả cười, rồi nói đùa: – Gì đâu... Bạn thân của vợ mày đấy. Mày chóng quên thế ư? Quân nhìn kỹ, thì là con khỉ đương ngồi dưới đất gãi đầu gãi tai nhìn lên như một kẻ luồn lụy, trông cũng khỉ thật. Hai người đương đứng trên con vật thì Hằng ló đầu ra, gọi với: – Này! Hay là đi tắm chứ, các ngài? Quân hất hàm hỏi bạn: – Mày nghĩ thế nào? Có tắm thì đi thay quần áo đi mau lên. Anh đáp: – Thôi, đi xem người khác tắm cũng đủ. Quân, ra vẻ bất mãn: – Phải, cái lối mày vẫn thế. Chỉ bao giờ cũng bàng quan thôi. Khả ố thật! Đương thế mà lại nhí nhảnh thì thào với bạn ngay được. Quân làm ra vẻ bí mật: – Để rồi xem cái... thể mỹ của Yvonne thế nào! Rồi hấp tấp chạy vào, lên phòng riêng thay quần áo. Khi xe hơi đỗ trước thềm, bà Năm, Yvonne và Hằng mỗi người một áo khoác phủ ngoài áo tắm, bước lên xe, cho xe ra trước để Quân và Anh lững thững đi bộ ra bãi sau. Chiều hôm đó nhằm ngày nghỉ lễ nên bãi bể đông đúc khác thường. Trong bọn đi tắm, Hằng nhận thấy một cách sung sướng rằng phái phụ nữ đã thắng số hơn xưa. Nàng trỏ tay hỏi bà Năm: – Bà trông xem. Đã tiến bộ lắm đấy chứ? Bà Năm nói bô bô: – Phải phải!!! Đã khá lắm rồi! Nhưng cử chỉ của ba người đàn bà này, không ngờ hình như lại gai mắt phái người ra tắm ở chung quanh. Nếu họ không cười, ấy là sự rộng lượng về cái đẫy đà của bà Năm thì họ cau mặt bực tức cái vẻ sang trọng của Yvonne là đầm lai, với của Hằng mà họ coi là hạng người gần quên chủng tộc. Sắc đẹp bữa ấy, đối với sự yêu ghét, không ăn thua gì. Mà phái phụ nữ lại còn ra vẻ giận hờn vì thua thắm kém xanh. Thấy sự ghẻ lạnh, bọn đàn bà chờ lúc Quân, và Anh khoác tay nhau đã ra đến nơi, liền tìm một chỗ vắng, ngồi xuống trò chuyện, chờ ngọn nước triều, về phần Việt Anh, chàng tung tăng dạo khắp nơi, chốc chốc mới lại quay về chỗ mà các bạn nô đùa, nó xa lánh cách biệt hẳn đám đông người, nó lại có rải rác mấy mỏm đá. Chàng thấy mọi sự tiện lợi cả: đi ngắm một lúc rồi về ngồi đấy mà bình phẩm to tiếng với bạn bè thì không còn gì khoái hơn. Cho nên bốn người cứ thấy chàng chợt ngồi đấy, chợt lại biến đâu mất. Nước thủy triều bắt đầu dâng lên. Mới thoáng một lúc, chỗ bãi cát mà bốn người nằm ngồi lả lơi đã đầy một thước nước. Rồi sóng cứ nhịp nhàng đuổi nhau vào bờ. Bể đã điểm cái lệnh nô đùa cho người ta. Tức thì, suốt một dọc vòng vòng chạy ngót một cây số, tiếng reo hò, sự nhảy múa bơi lội, bắt đầu họa theo cái sự mừng vui hơi cuống quýt của bể. Bà Năm vì không biết bơi nên tắm một cách có vẻ khôi hài. Khi thấy sóng ùa vào thì bà quay ngay lưng ra và rụt cổ đỡ, mấy bận ngã rúi xuống cát. Có vẻ bực mình, sau cùng bà cũng lên ngồi mỏm đá gần với Việt Anh. Chàng mặc cái áo lót xanh ngắn, cái quần dạ, đôi giày vải gót thừng, cứ nhảy từ mỏm đá này sang mỏm đá kia, đi lại thoăn thoắt, nhanh nhẹn lạ. Bà Năm trỏ Hằng với chàng: – Kìa ông thử nhìn... Có ai ngờ bà ấy ẻo lả thế mà khỏe đến thế không? Anh đáp: – Ấy chính những người ẻo lả mới ít bị sóng làm nhọc mệt. Còn mát da mát thịt như hạng bà thì... Chàng bật cười khiến bà Năm cũng cười. Yvonne vừa bơi, vừa nhổ nước, nghển cổ hỏi với bà mẹ: – Eh bien! Pourquoi ne t’amuses tu pas comme ilfaul, maman? Lời nói bị sóng bể át tiếng, bà Năm không nghe rõ, phải hỏi Anh: – Con cháu nó bảo gì tôi thế ông? – À, hỏi bà sao lại không bơi lội cho thỏa thích... Tức thì bà Năm để tay lên miệng thành loa, quát lớn: – Vừa vừa chứ, Yvonne!... Khéo không rồi mà lại phát ốm! Anh chêm: – Bà tưởng vậy chứ có ai đi tắm bể mà ốm bao giờ! Bà Năm so vai: – Ông không biết chứ tôi tắm bể là rất hay ốm. Vả lại ông trông xem,... thế kia... gió to, sóng lớn, sức người quần quật sao lại được? Đi tắm mà nô đùa quá sức thì cũng nhọc mệt như đi kéo xe tay... Gớm, ông trông ông Quân nữa kìa... ! Hai người cùng nhìn ra... Quân bơi ngang bơi dọc vùng vẫy chán rồi giở trò hụp. Chàng đương đứng chỗ này để nhìn Yvonne với vợ mà cười rồi lại ngụp xuống nước, biến hẳn một lúc lâu, mãi mới nhô lên ở chỗ khác cách đấy năm, bảy thước, vừa vuốt tóc đắc chí, lại cười. Sóng đánh vào đá rào rào, nước bắn tóe rất cao. Không tắm, Anh thấy quần mình cũng ướt át quá đầu gối. Đôi giày vải, nước cũng đầy cả. Bà Năm hỏi một cách lo ngại: – Này, ông Anh nhỉ... Hình như nước chiều nay to khác mọi ngày, phải thế không ông Anh? – Dạ... Tôi cũng không được biết. Tôi không kinh nghiệm điều đó bao giờ. Bơi lội mãi, thấy tẻ, Quân bàn cuộc bơi thi. Chàng cho chàng là giỏi nhất nên bảo Hằng và Yvonne bơi trước, ai được sẽ đến giật giải chung kết với chàng. – Nhưng mà thi thế nào? Yvonne hỏi. Quân đáp: – Ta thi lấy bơi nhanh. – Từ đâu đến đâu mới được chứ? – Từ đây đến chỗ gần mỏm đá mai cua ở giáp bờ phía kia, rồi lại bơi về. – Được lắm! Yvonne reo rồi quay lại hỏi Tiết Hằng: – Nào chị, có dám thi không? Tiết Hằng ngửa cổ cả cười: – Thì thi chứ sao! Gớm, tưởng tôi hèn chắc? Cả hai đứng gần nhau, quay nhìn Quân ra hiệu. – A lê hấp!!! Thế là cả hai người nhoài mình ra bơi. Lúc bơi nghiêng, khi bơi ngửa, tùy theo sự nhọc mệt phải thay chiều lưng đỡ sóng hoặc tránh khỏi sóng. Nhưng mà bơi ngang đà sóng nên cũng vất vả khó khăn. Nếu không giữ vững được dòng, để sóng lôi ra một ít hay đẩy vào một ít, thế cũng hại, bởi lẽ xa thêm mất đường. Từ chỗ Đào Quân đến mỏm đá hình mai cua ít ra cũng hơn mười thước. Cái lòng sốt sắng của bà Năm và Anh đứng trên bờ lộ ra mạnh lắm. Hai người cũng reo hò, tỏ ý hoan nghênh hai người thi bơi. Lượt ra chỗ mỏm đá thì hai người bằng nhau. Đến lượt về, vì hết sức cố, Yvonne hơn được Hằng hai sải, Hằng thua, lần vào bờ, chân vẫn ngâm dưới nước, chống tay vào một phiến đá đứng xem. Chờ khi Yvonne thật hồi sức đủ đua cuộc nữa, Hằng đứng trong giơ tay ra hiệu. Thấy hiệu, Yvonne bơi liền, trong khi Quân còn đứng lại chờ nàng bơi đã được mấy thước mới nhoài mình đuổi theo, tỏ ý chấp. Bấy giờ Việt Anh không để ý đến cuộc bơi nữa. Có lẽ vì Hằng đứng gần đó nên chàng chợt nhớ tới cuộc ly biệt chỉ trong vài giờ đồng hồ. Tay đút túi quần, Anh đi đi lại lại, tìm những chỗ bước được trên dãy đá. Vài giờ nữa, chàng sẽ về Hà Nội phải từ giã cái bộ mặt đẹp đẽ thân yêu... Việt Anh thấy lòng mình man mác, vì cuộc đời của mình trống trải. Chàng tự căn vặn tại sao chàng lại không thể có cái lòng cao thượng mà nghĩ rằng yêu ai, chỉ cốt cho người ấy được hết sức sung sướng là đã đủ mãn nguyện rồi. Hằng sung sướng đấy, nhưng chàng... không. Tiết Hằng được hưởng hạnh phúc với chồng nàng... tức là Việt Anh cũng hưởng hạnh phúc... Ồ! Sao lại như thế được! Việt Anh lầm bầm: “Phải, đời nào! Sao lại của người này mà lại đi bảo là của người kia. Vô lý! Vô lý lắm!”. Bể vẫn không ngớt tiếng reo hò, cứ ầm ầm đem các sóng bạc vào khiêu khích những tảng đá vô tri giác. Vô ích thay! Việt Anh ngắm cái sự hờn giận khiêu chiến vô ích của bể. Thật cũng vậy, những ngọn trào của lòng chàng. Quả tim chàng vẫn hằng đập dữ dội một cách vô ích như thế. Nếu vì hạnh phúc kẻ khác mà phải ngày đêm ngây ngất tâm thần thì... ô hay! Việt Anh cứ nhảy nhót trên dãy đá gập ghềnh như người cuồng chân, như một con hổ trong cũi sắt... Chợt chàng thấy bà Năm thất thanh kêu: – Chết chửa! Kìa!... Ông Anh đâu rồi? Anh giật mình, chạy lại thấy Hằng một tay để gần miệng, mặt cũng đã tái, lầm bầm: “Chưa, chưa việc gì. May ra thì không làm sao”. Ngực nàng phập phồng dữ dội, đủ đoán hơi thở ỳ ạch lo lắng đến đâu... Ngoài bể khơi. Yvonne với Quân đã đương bơi về, nhưng bị một làn sóng lớn lôi ra ngoài mất mấy chục sải. Nhưng cả hai đương lần mò vào, có lẽ còn sức, có lẽ may mà không làm sao... cả hai đương lần vào. Một làn sóng lớn cũng đuổi theo... Sóng vỗ ầm ầm vào bờ, đẩy cả hai vào, rồi đến khi rút ra, tiện thể kéo luôn cả hai ra xa bờ hơn trước nữa. Và Yvonne, xem ra đã đuối sức, phải giơ tay vẫy vẫy... – Thôi chết! Nguy đến nơi rồi! Việt Anh kêu vậy, đoạn tháo giày, cởi quần ngoài, lột nốt cả cái áo lót mình, đâm bổ xuống nước bơi một mạch ra khơi. Chàng dìu Yvonne vào, khi gặp sóng quay ra thì lặn xuống nước và đồng thời dìm cả Yvonne xuống, thế mãi mới vào đến bờ đá, Yvonne nhổ bao nhiêu nước gượng ngồi lên áy náy xem nốt tính mệnh của Đào Quân. Bà Năm thở hồng hộc: – Hay là cầu cứu? Hằng nghĩ một lát đoạn gắt: – Không nên vội. Hấp tấp quá người ta cười cho. Để xem thế nào đã. Chả nhẽ hai tay bơi thạo với nhau lại đến nỗi... Anh ra đến chỗ Đào Quân, cũng dìu chàng vào. Mặt ba người đàn bà trên bờ cứ luôn luôn thay đổi: hy vọng rồi lo sợ, rồi lại hy vọng, rồi lại lo sợ! Là vì sóng đã to lại mau. Khi dìu Đào Quân vào được một quãng, chợt Anh không kịp tránh một làn sóng quặt nên cả hai lại ra khơi xa hơn trước một ít. Mãi mới vào chưa quá chỗ cũ, thì, một làn sóng nữa. Anh bắn về đằng này, Quân bắn về phía kia. Anh lại đến dìu Quân, bơi, hết sức bơi, nhưng... một làn sóng qua, bỗng chìm lỉm cả! Rồi một lúc thấy chỉ có một cái mặt của Anh nhô lên rồi hai tay vẫy báo sự thất vọng và cầu cứu người trên bờ. Đến lúc đó, Hằng, Yvonne, bà Năm mới cắm đầu chạy về xe hơi. Hằng lên xe, bóp còi vang trời, rồi đánh đến chỗ đông cầu cứu, kêu la ầm ĩ. Người ta xúm lại hỏi rồi bảo thủy thủ và bảo Hằng đưa đến chỗ xảy ra. Hằng phải đánh xe xuống bãi biển mới quay được đầu xe. Khi xe phóng về chỗ cũ, chung quanh bám đầy những người. Đến nơi, vừa thấy Anh để chân lên tảng đá, giơ hai tay cho bà Năm và Yvonne. Chàng hổn hển hỏi: – Có thủy thủ chưa? Trên bờ đồng thanh: – Có rồi... đã bơi thuyền ra kia rồi. Việt Anh không nói ra hơi: – Tuyệt vọng! Không khéo thì hỏng cả. Tôi đuối sức quá, đành phải bơi vào bờ, sợ không khéo chết cả đôi. Mặt biển sóng cồn không thấy báo tăm hơi gì nữa. Bọn người đứng trông trên bờ, sao một giờ nó dài bằng một thế kỷ, đã đổi cái hy vọng vớt người ra vớt xác. Người ta quên mất cả Tiết Hằng. Đến khi Việt Anh chạy quanh tìm nàng thì thấy nàng chỉ còn thoi thóp thở; trong cái áo khoác ngoài với bộ y phục đi tắm, nàng nằm gục mặt xuống cái đệm chiếc xe hơi, lả hẳn đi như một kẻ đã nhịn đói bảy ngày...Chương 5Một tòa nhà ba tầng ở cách biệt hẳn đường hỏa xa và đường thuộc địa đến nửa cây số. Chung quanh tòa nhà là khu vườn rộng bốn mẫu, có trồng nhãn, muỗm, mận, ổi, cau, mai. Bốn dãy găng um tùm bao bọc cả hai dinh cơ đẹp mắt ấy. Đó, chỗ ở dưỡng lão của hai thân Tiết Hằng. Ông cụ bây giờ về nơi này sống như người ẩn dật. Cái tài kinh doanh hiển hách thuở trước, nay ông cụ đem dùng vào việc hớt bọ gậy cho mấy con cá vàng, cắt, xén vài cái lá hồng, hoặc thay lồng cho vài con chim sơn ca. Cuộc đời yên tĩnh của một người đã được đầy đủ bổn phận, được toại chí về đủ phương diện: sức khỏe, danh vọng, tiền tài. Từ sau ngày có cái tai nạn nó làm cho nàng thành góa chồng, Tiết Hằng cũng bỏ cuộc đời xã giao hoạt động mà về hầu hạ dưới gối hai thân. Nàng đã tâm tâm niệm niệm quyết sau khi đoạn tang sẽ dâng cho Việt Anh cái hạnh phúc là chồng. Đào Quân bất hạnh lâm nạn, cái chết không có chúc thư đi sau. Xưa kia món hồi môn của Hằng đem góp về cái cơ nghiệp của Quân cũng chẳng nhỏ đã của vợ cũng như của chồng thì nay của chồng là của vợ Hằng định để cả cho Anh, mai sau được tự ý muốn làm gì thì làm. Nàng đã để hỏng mất gần nửa đời người, lẽ nào bây giờ lại chẳng hết lòng phụng sự ái tình để cuộc nhân duyên sắp bén có thể chữa được hết những vết thương trầm trọng về tinh thần thuở xưa. Dù sao, việc của Anh và Hằng, đến lần thứ hai, cũng không thoát qua một trở lực. Quân mất. Việc giao quyền trông nom những công cuộc đang theo đuổi tình cờ về tay một người anh họ của Hằng là Huỳnh Đức, ở Huế vừa ra ngoài này kinh doanh. Đức là con một quan thượng đã về hưu, cũng có tài doanh nghiệp lại cũng góa vợ. Cho nên... cho nên ông thân ra Hằng những rắp muốn để Huỳnh Đức chiếm cái địa vị qui tế chớ chẳng muốn con mình về tay một người ngang tàng và bị các nhà cầm quyền ghét, là Việt Anh. Nàng đã đem hết bao nỗi phẫn uất của một người đàn bà, của một cô con gái trẻ trung, ra phấn đấu với ý định của bố. Nàng vẫn tự nhủ một cách có nghị lực: “Không, không đời nào! Đã một lần rồi, Việt Anh đã chịu thiệt. Không đời nào ta lại chịu để Anh phải khốn khổ vì ta lần thứ nhì”. Trái lời cha mẹ là bất hiếu, nàng vẫn biết thế. Nhưng nàng đã có lần cúi đầu trước lệnh song đường thì không thể bảo nàng là kẻ chỉ vị kỷ và không có dạ hy sinh. Thôi, đừng ai nên quá tay. Hy sinh nàng đã hy sinh cả cái xuân lộng lẫy, nghĩa là cả tuổi trẻ. Mà nàng còn hối hận bởi lẽ chỉ còn có thể đem cho kẻ tình chung một chút hương thừa! – Con nên nghĩ cho chín. Hằng! Việt Anh là người có nhiều nét khác thường, bị Chính phủ ghét. Cơ nghiệp của con ta sợ rồi sẽ đổ sụp, nếu mai sau vào tay y. – Không, con sẽ có cách làm cho Anh sẽ đi con đường khác. Chàng đã chẳng là kẻ thất phu vô học thì rồi cũng dễ vừa lòng được cha. – Huỳnh Đức đã có lần ngỏ ý với cha... Con nghĩ xem: Đức là người hiền hậu, tài giỏi, lại sẵn vốn. Ông cụ ấy là ông anh họ mẹ mày. Con nghĩ xem, cân nhắc xem... vợ một cậu ấm, con dâu cụ thượng nhất phẩm triều đình... – Giời ơi, nếu sống ở đời chỉ vì thế! – Hai nữa, Anh với Quân vốn là đôi bạn thân. Lấy vợ bạn, hẳn lẽ nào không sợ lời dị nghị? Mà con, lẽ nào con không sợ thiên hạ... – Thế con sống cho con hay sống cho thiên hạ? Giữa Hằng với cha nàng, sự xung đột về tư tưởng đại khái như vậy mà thôi. Ý muốn của một người bố không phải sự có thể coi thường. Việc chưa ngã ngũ ra sao, Hằng vì lo mà lâm bệnh. Nhưng hai tháng ốm kịch liệt đã cứu khỏi Tiết Hằng, may thay! Vì rằng trước lời phán của bác sĩ: “Bệnh này thuộc về tâm bệnh, phải tránh mọi sự ưu phiền, thất vọng, cho bệnh nhân”, thì cha nàng đã cho nàng toàn quyền cải giá! Người ta chẳng thể để chết mất cô con gái quí, khi người ta không có mống con trai nào. Từ ngày Đào Quân bất hạnh, tính đến nay đã hơn một năm trời mà mãi đến nay, Hằng mới khỏi phải lo âu, đau khổ. Là vì mãi đến hôm nay, nàng mới được phép đánh cho Việt Anh mấy dòng điện tín báo cho nhau cuộc tương lai với hẹn tình quân phải về ra mắt cha nàng. Tiện thể, nàng cũng mời cả mẹ con bà Năm. Thế là những ai đã được mục kích cái tai họa của Hằng tại Đồ Sơn hôm ấy cũng có về chứng kiến cho nàng khi nàng cần phải báo hai tin mừng: đã bình phục, sắp bước đi một bước nữa. Bà Năm đương đứng xem ông cụ tỉa hoa dưới vườn. Yvonne lên phòng riêng của Hằng, mách: – Này chị, lúc nãy tôi đã được nghe hết cả bao nhiêu chuyện về chị giữa ông cụ với me tôi. – Thế nào? – Nguyên me tôi đứng xem ông cụ tỉa hoa, có đả động đến lẽ vì sao có thư mời về chơi. Thì ông cụ nói: “Mời về để nói đến việc tôi cho nó tái giá”. Me tôi hỏi ai thì ông cụ bảo chị sẽ lấy Việt Anh. Thật thế không, chị Hằng? – Chính thế, Yvonne có điều gì phê phán vào việc này không? – Tôi ấy à? Tôi hoan nghênh lắm. Việt Anh kể mới xứng đáng là chồng Tiết Hằng. Hằng mỉm cười: – Cám ơn! Yvonne thêm: – Nhưng chị phải biết: ông cụ bất đắc dĩ mà phải ưng thuận việc ấy đấy. – Cái đó thì đã hẳn. – Ông cụ phải bằng lòng là vì sợ chị chết mất. Rồi ông cụ phàn nàn với me tôi: “Thời buổi ngày nay người ta chỉ biết có ái tình”. Ông cụ lại lấy làm lạ rằng sao bọn trẻ trung chúng ta hình như không có ái tình thì không sống được! – Chúng mình chỉ biết có ái tình, thế là phạm một tội ác ư? Yvonne cười: – Chị hỏi tôi? Không. Đâu tôi lại nghĩ như vậy. – Yvonne xem hộ mấy giờ? – Năm giờ hơn. – Việt Anh sắp đến... – Thế thì chị phải dậy sửa soạn tiếp anh ấy đi chứ! – Được... Có gì mà phải vội. – Chị đã được mạnh khỏe hẳn chưa? – Cũng có thể gọi là khỏi? Hằng nói rồi bỏ chăn, ngồi lên. Bắt đầu lập đông, tiết trời đã lạnh, nên ngày nào có mặt trời là ngày người ta hầu như thấy sự an ủi. Hôm nay cũng có mặt trời. Hằng ra bàn rửa mặt chải đầu, xoa một ít phấn để che đậy màu da hơi xanh. Nàng khoác thêm cái áo phủ ngoài rồi bảo Yvonne: – Ta xuống vườn một lát. Khi trông thấy con gái, ông cụ bèn ngắt câu chuyện đang nói với bà Năm. Bà này quay lại đon đả hỏi: – Bà đã bình phục hẳn? – Bẩm vâng! – Bà cho gọi mẹ con tôi về chơi có tin mừng, mừng gì thế? Hằng đỏ mặt, còn lúng túng thì bà Năm đã nói một cách tinh quái: – Vậy tôi xin ngỏ lời trân trọng mừng bà. – Xin đa tạ. – Thế còn bao lâu nữa nhỉ? – Còn hai tháng nữa thôi ạ. Bà Năm ngơ ngác hỏi: – Sao lại chỉ còn hai tháng nhỉ? – Vâng, chính thế. Tôi để tang theo người Âu. Bà Năm gật gù. – Ừ, thế cũng tiện! Chứ mà ba năm đúng lối An Nam mình, còn gì là xuân. Chợt có tiếng máy chạy của xe hơi. Ba người vừa kịp quay nhìn ra thì Việt Anh đã từ cái xe con hai chỗ ngồi, bước xuống. Chàng đóng cửa xe ngả mũ thoăn thoắt bước vào. Lời chào hỏi và vấn an đâu đấy xong. Hằng ra hiệu cho Anh chỗ ông cụ đã bỏ kéo xuống đất, đứng dậy: – Thầy cứ lên phòng khách, tôi cũng lên ngay đây. Việt Anh còn lúng túng thì ông cụ lại giơ tay ra bắt. Yvonne quay mặt mỉm cười, vì một ông cụ đầu râu, tóc bạc bắt tay một thanh niên lúng túng là một sự ít thấy xưa nay. Một cách bất ngờ, ông cụ vừa dẫn Anh lên, vừa vỗ vào vai chàng một cách thân yêu và nói: – Dễ ba năm nay, con không đến thăm bác đấy nhỉ? Việt Anh đỏ mặt, ấp úng: – Vâng. Chàng chưa biết nên thưa gửi với ông cụ thế nào, nhưng ông cụ đã tự nhận là bác trước khi nhận là nhạc phụ, đã nhắc tới tình đi lại thuở xưa thì việc gì chàng chẳng lợi dụng ngay lối xưng hô đó. – Bẩm bác cũng tha cho con, vì sinh kế phải bôn tẩu, con cũng không được rảnh lúc nào. Ông cụ chép miệng: – Khốn nạn! Nếu chỉ vì sinh kế mà anh phải lao đao vất vả! Thấy ông bố vợ muốn than trách cho chí hướng với số phận của mình, chàng cũng đã liệu lời đối đáp, phải đề phòng ngay. Nhưng vừa tới phòng khách, sự người nọ mời kẻ kia ngồi đã đánh lảng mất ý trên và khiến chàng không phải đáp nữa. Người bồi mang khay trà ra rồi, ông cụ lại hỏi Anh: – Bà vẫn được vô sự đấy chứ? – Cảm ơn bác, mẹ con vẫn được như thường. – Nghe nói bây giờ bà lại kém mắt lắm? – Bẩm vâng, bây giờ lóa, không trông rõ cái gì cả. Ông cụ chép miệng thở dài, hồi lâu lại nói tiếp: – Ấy ông nghè nhà mất đi là bà ở vậy nuôi con đấy. Thế mà chỉ có một anh, anh chớ nên làm những việc đến nỗi khiến bà phải mang lo vào lòng thì hơn. Anh chưa biết đáp ra sao, ông già đã nói: – Bác mong rằng nay mai, anh sẽ đổi chí hướng. May quá, chàng vội đáp: – Bẩm vâng. Người ta đổi chí hướng cũng dễ ạ. Miễn là địa vị và cảnh ngộ thay đổi được. Xin bác cứ an lòng. Từ trước còn là vấn an với câu chuyện ngoài đầu đề nên ông cụ nói khẽ: – Bây giờ đã là vào việc hẳn hoi, rồi ông cụ đổi ra giọng đài các dõng dạc hơn. Hôm nay, anh về chơi, bác lấy làm đẹp lòng lắm. Vì rằng bác tiện dịp nói anh biết cái tin về việc trăm năm của anh với em Hằng. Bên nhà bà có lòng thương đến em nó, kể là may cho em nó lắm, tôi và mẹ nó xin ký cả hai tay. Còn việc bà Nghè nhà ta, vì mắt kém không tiện đi thì đã có anh, anh cứ về thưa chuyện với bà là bà cứ an tâm, bên này chúng tôi không dám trách lấy nửa lời, đừng ngại gì cả. – Con xin thay me con cảm tạ bác. – Mà việc này tôi cũng muốn chóng thành, không nên để lâu. Tôi đã cho phép em Hằng nó để tang có một năm thôi, phải theo lối Tây, chứ không thì, em nó là đàn bà, tôi già cả, mọi việc không ai trông nom cả. – Bẩm để con về thưa chuyện với me con xem sao, rồi chúng con xin lĩnh ý. Đến đây, ông cụ đứng dậy, nhìn bà Năm tới Yvonne: – Bà với cô sẵn lòng bỏ thời giờ về chơi, tôi xin đa tạ. Ấy chỉ có bà với cô là thân thiết với em nó hơn cả. Mà ngày xưa lại biết cả anh Quân, nên tôi mới dám mời. Chứ thật ra, mấy việc hỉ tôi đã kể và sắp kể đây, tôi không báo tin cho ai biết nữa. Nhân tiện em Hằng nó vừa bình phục, tôi muốn bàn tới việc tái giá của nó, mà ngày mai lại là ngày sinh nhật của tôi. Vậy thì, bắt đầu từ hôm nay, gọi là xin có chén rượu. Bà Năm đón lời: – Bẩm được ạ, cái gì chứ cái cụ gọi đến để cho chè chén thì con rất hoan nghênh. Ông cụ nhìn Yvonne, cười khà khà: – Còn cô nữa? Bao giờ mới tính cuộc trăm năm? Bà Năm cau mày: – Bẩm đã mấy đám danh giá hỏi mà nó không ưng đấy ạ. Con cháu nó cứ kêu rằng: “Me không còn con giai, nay con lại lấy chồng Pháp thì không tiện cho me về sau, ngộ chúng con bắt buộc phải về Tây thì me ở với ai bên này, mà sang Tây thế nào?”. Con nghĩ nó nói cũng phải, nhưng tìm một người chồng An Nam có Pháp tịch và xứng đáng cho nó cũng không dễ ạ. – Chả khó lắm, bà ạ. Để tôi mách mối cho. Tôi biết mấy ông đốc tờ, mấy ông luật khoa, bác sĩ... Kìa bà đấy là tôi tưởng bà tra thuốc nên không bảo nó lên mời. Sao bà không vào đây lại đứng dòm, lẩm cẩm thế? Tiết Hằng vội đứng dậy đi ra. Trừ ông cụ, cả bọn đều đứng lên. Đó là mẫu thân Tiết Hằng. Bà cụ vịn vai con gái lọm khọm bước vào, hỏi: – Thế cậu nào là Việt Anh? Việt Anh nghiêng mình cúi chào. Mọi người lại an vị. Bà cụ hỏi ông cụ: – Thế nào? Đã chuyện trò gì về việc ấy chưa? – Đã. Bà cụ ngồi yên một lúc rồi đột ngột hỏi Anh. – Độ này cậu làm ăn có phát tài không? Nghe nói hình như lôi thôi lắm phỏng? Mỗi chuyến phải Tòa phạt hàng mấy trăm bạc thế, còn gì là lãi nữa? Tôi tưởng chả nên làm cái nghề báo chí ấy nữa, ăn thua gì. Có bần cùng mới phải làm thế, chứ giá có vốn, chả thiếu gì những việc lợi hơn. Anh nghiêng đầu nhìn xuống mũi giày không đáp. Thì lại vẫn cái ý buộc chàng, nếu muốn làm con rể sẽ phải cúi đầu trước những lệnh của bố mẹ vợ giàu chứ gì! Được, thế nào cũng được, miễn Hằng sẽ về tay chàng thì thôi. Rồi sau có sao sẽ liệu. Việt Anh vừa ngửng đầu thì gặp tầm mắt của Yvonne. Đôi mắt xanh đen chăm chú nhìn chàng, nhìn lâu một cách khó chịu. Anh không thể đoán nổi đó là đôi mắt tỏ ý công phẫn hay mỉa mai chàng. Từ từ, đồng hồ điểm bảy tiếng. Mọi người sang phòng ăn. Giữa bữa tiệc. Hằng ngỏ ý với cha muốn về Hà thành điều dưỡng tại bệnh viện St. Paul cho chóng lại sức, chứ cứ ở nơi xa lánh này, hai ngày lại một lần bác sĩ về, tiền cũng tốn mà kết quả rất chậm. Bữa tiệc tan thì vừa 9 giờ. Việt Anh nhắc nhỏm hai ba lần đến việc xin ra đi. Ông cụ và bà cụ đã cáo lui rồi, nhưng bà Năm còn ngồi nói huyên thuyên chuyện “Tam Quốc” mãi. Cũng may Yvonne tinh ý đã giục bà mẹ đi nghỉ để cặp vợ chồng sắp cưới có dịp đôi lời tâm sự với nhau. Hằng hỏi Anh: – Có xe hơi, làm gì mà mình vội vàng thế? Anh cười: – Mình tối tăm quá! Tôi chỉ nóng được tâm sự với mình. Hằng! Đêm hôm nay là đêm gì nhỉ? Mà vầng trăng bạc kia là của vợ chồng nhà ai? – Đích là của đôi ta. – Vầng trăng đương tò mò nhòm chúng mình. Hằng cười say sưa, khẽ nói: – Chị Hằng nhìn... Hằng! Không có gì đáng thẹn. Việt Anh đến ngồi vào thành ghế của bạn, cúi xuống: – Hằng! Nói đi, em... Nói lại bao nhiêu cơn đau khổ ta đã qua cho cái hạnh phúc bây giờ tăng lên chút nữa. – Không, chả nói. Không nên gợi đống tro tàn. Sự đã qua là sự đã qua. – Thì nói những lời ái ân vậy. Hằng! Có ai dám ngờ lại có ngày nay? Tội gì ta chẳng gảy cho nhau những tiếng đàn của tâm hồn mà xưa kia ta không dám màng tưởng đến. Hằng để ngón tay trỏ lên miệng: – Nên để hạnh phúc được tĩnh trong sự im lặng thì hơn. – Nhưng tôi yêu mình! – Biết rồi! Biết đã tự bao giờ rồi... À mình về đi chứ? – Mình điên à? Giữa lúc này mà đuổi tôi! – Thế nhưng lúc nãy sôi sùng sục lên đòi đi mà lại ở lại lâu, sao không sợ người ta cười chết! – Ừ nhỉ! Thôi, thế tôi xin đi. Mình nên mau về Hà Nội nhé. Thôi không phải tiễn, đừng xuống nữa mà sương lạnh. Anh nói rồi rảo bước qua sân. Mãi tới đến chỗ cái xe hơi đỗ gần cổng. Chàng vừa lên xe chợt có tiếng hỏi: – Đã đi đấy à? Nhìn lại thì, Yvonne. Việt Anh hỏi bằng tiếng Pháp: – Tôi tưởng cô đã đi nghỉ? – Không, tôi còn đi bách bộ và ngắm trăng... – Sao độ này cô không cho tờ Độc lập bài nào? – Làm gì nhỉ? Ông chủ tờ Độc lập liệu rồi có... độc lập chăng? Người ta ở đời, giả dối cả. Đáng chán! Việt Anh ngạc nhiên quá, đoán ngay cặp mắt đã mỉa mai chàng: – Xin cô đừng để ý đến việc tư của tôi thì hơn. – Tôi mừng cho ông lắm! – Đối với kẻ đã cứu cô khỏi một cái nạn, thế tôi tưởng là vô ơn. Yvonne so vai: – Tôi chưa quên đâu. Ông đã cứu tôi. Nhưng người ta không phải chỉ có xác thịt còn có linh hồn. Ông chỉ mới vớt được cái... xác! Việt Anh cúi đầu lặng im. Chàng đã hiểu. Chàng ngây người ra một lúc rồi quay lại, giọng khổ não: – Tôi biết làm thế nào? Chậm mất rồi! Trong tối lòe hai đường ánh sáng. Chiếc xe hơi giật lùi rồi vòng ra. Tiếng động cơ cứ khẽ dần. Sau cùng thì lại là sự im lặng.Chương 6Mấy hôm sau. Tại Hà thành, trên con đường ngăn đôi phủ Toàn quyền và trường Sarraut. Hằng với Anh lững thững đi. Hằng mặc áo nhung đen quấn khăn quàng màu hồ thủy. Mặt nàng đã hồng hào, mặc lòng trời rét, nghĩa là sự được gần gụi Việt Anh đã mạnh hơn những mũi tiêm thuốc bổ nhiều. Cứ chiều chiều, Anh đến đón nàng tại bệnh viện St. Paul rồi cả hai ra đi. Quan thầy thuốc cho nàng mỗi ngày một giờ đi bách bộ. Hằng chỉ đến tòa lâu đài đồ sộ trước mắt. – Mình! Mình còn nhớ những ngày chúng ta còn đi học không? – Tôi nhớ đến cái ngày mà Quân đem máy ảnh đến lớp học. – Cái ngày mà mình nói là mình yêu tôi ấy à? – Phải đấy. Thế mà thoáng một cái đã... bây giờ. Chóng thật. – Chóng thật. Tôi bây giờ bị các nhà văn sĩ gọi là: xuân xanh trạc độ tam tuần rồi. – Mình, mình trông tôi đã già chưa? Việt Anh nhìn kỹ Hằng rồi lắc đầu: – Còn đẹp, còn đẹp đến não lòng người, người yêu quý nhất đời của tôi ạ. Hằng mỉm cười: – Bây giờ tôi đã về tay mình, còn não lòng mình được ư? Anh đáp một cách có ý vị: – Nếu không não lòng tôi thì cũng não lòng người khác, Huỳnh Đức chẳng hạn... – Ừ nhỉ! Huỳnh Đức cũng là người đáng thương. Đức đến muộn! Việt Anh cau mày: – Thế tôi, dễ thường tôi cũng đến muộn chắc? Hằng ra ý không bằng lòng: – Ồ, Anh! Sao mình cứ nhắc đến những chuyện cũ? Thế bây giờ Hằng không là vợ của mình rồi ư? Mình trái vô cùng. – Thế sao tôi không lấy ngay được mình từ trước khi mình là một người đàn bà góa chồng? – Mình đi mà hỏi Trời! – Bởi vì tôi nghèo! Nghèo cho nên đến sớm cũng hóa đến muộn! Hằng so vai: – Đừng tưởng Huỳnh Đức nghèo hơn mình, Việt Anh! Hai người đến đó, im lặng lững thững đi. Hồi lâu Anh mới nói: – Hai thân của mình ra điều cậy của, muốn bắt bẻ tôi. Nhưng mà tôi, không bao giờ tôi thay đổi chí hướng. Tôi thề cứ giữ vững nghề cầm bút đến lúc chết. Làm chủ mỏ không phải là nghề của một người như Việt Anh. Hằng ngẫm nghĩ một lát rồi đáp: – Ta sẽ bán mỏ. Thế là yên chuyện. Bán lại hết cho Đức. – Để rồi tậu một túp lều gianh. – Một túp lều gianh với ái tình? Thế thì còn gì bằng. Nhưng mà tòa soạn một cơ quan ngôn luận lẽ nào lại ở một túp lều gianh! Anh đăm đăm nhìn ra xa, sốt sắng nói: – Tôi sẽ làm việc, làm việc một cách ghê gớm... – Tôi mong rằng cưới tôi rồi thì mình không làm việc nữa. Ta sẽ tậu một dinh cơ ở vùng quê, ta sẽ lập một thư viện riêng, rồi ta đọc sách, rồi ta yêu nhau, rồi ta lại đọc sách. Còn nghề báo, hãy xếp tạm lại đấy. À, mà mình phải cẩn thận: mình có sáu tháng tù án treo phải không? – Được dịp giảm quốc mới xóa sạch rồi. Cuộc đại ân xá Lebrun... Hai người quay gót lại theo con đường về. Vì Hằng chỉ được có nửa giờ thôi. Anh ra vẻ bất mãn: – Mình điên thật! Đi vào nằm đó, cứ chín giờ tối đã phải đi nghỉ không được tiếp ai nữa. Bao nhiêu đêm tôi không được trò chuyện. Hằng nhìn chàng rồi rũ rượi ra cười: – Mình làm như chúng ta đã qua buổi tân hôn rồi vậy! Hai nữa, chả nhẽ tôi lại có thể về dưỡng bệnh tại nhà mình! Mỗi ngày gặp tôi hai lần, thế mà mình vẫn chưa hài lòng ư? Anh cũng cười chữa thẹn nhưng lại đi nói thêm một cách khôi hài: – Dù sao tôi cũng cho đó là một sự vô lý. Người ta không cho phép mình được ăn một bữa cơm ở ngoài. Tôi muốn mời, không được. Mà những lúc được gặp mình nó chóng hết làm sao! – Nếu cứ chiều chiều mình đánh xe năm mươi cây số về với tôi rồi đêm lại phải ra đi, tôi cho còn vô lý nữa ấy. Nhưng thôi cố kiên tâm vậy. Tôi chỉ còn có hơn mười ngày. – Thế thôi à? – Mạnh khỏe hẳn rồi, tôi cũng phải sửa soạn thì vừa chứ. – Riêng phần mình, có phải tiêu đến số nghìn? Việt Anh lắc đầu: – Không. Một người đã cực lực công kích những cái xa xỉ trong mọi cuộc hôn nhân xưa nay, bây giờ cũng thế, họ cười chết. Độ một nửa cũng đã dư dật. Hằng vỗ vai bạn: – Thôi thế cứ an lòng. Anh gật đầu không đáp. Chàng rất lấy làm hổ thẹn vì trước ái tình, những điều về tiền tài có thể khiến chàng phải mang tiếng là con người chẳng thật thà về lòng yêu. Không, nếu Tiết Hằng nghèo hèn, có lẽ chàng còn yêu hơn nữa. Chứ nay, bao nhiêu cử chỉ để tỏ lòng yêu dấu chàng đều phải gìn giữ dè dặt kẻo sợ mắc tiếng: vồ vập một đống tiền. Chàng khó chịu vì thấy như cái vô hình của kim tiền cũng có thể cứ hiện hình thành một bộ mặt mỉa mai. Hằng không hiểu thế, lại nói: – Tôi cũng lấy làm bực cho mình, lúc nào cũng cứ phải luẩn quẩn về kinh tế. Người tài giỏi đến đâu cứ thế, cũng phải bước giật lùi. Lúc nào cũng khổ về chuyện tiền thì tài nào mà không mai một! Nhưng thôi, chỉ còn vài tháng nữa, chúng ta sẽ được yên. Rồi mình sẽ nghỉ vài năm để di dưỡng tinh thần bằng sự đọc sách. Hay là, Anh ạ, ta nghỉ độ hai năm đi du lịch cho hết Đông Dương? Chứ trẻ trung như ta, tội gì! Anh lắc đầu: – Không, nghỉ vài năm thế nào được. Phải làm... – Kiếm tiền? Thôi đi, mình đừng nói dối tôi. Mình làm chỉ có lỗ vốn... Còn nếu mình muốn, lập một cơ quan to tát hơn trước thì cũng dễ, tôi xin chiều ý, nhưng dù sao, ta cũng nghỉ vài năm để đi chơi và để... và để có thời giờ yêu nhau cho thỏa thích. Việt Anh! Hằng hăm nhăm, hăm sáu tuổi rồi, sắp ba mươi đến nơi rồi, sắp già rồi. Anh lúng túng: – Thế nhưng mà... Không nghe thấy, Hằng lại tiếp: – Bây giờ ta đương có thời giờ, đương có sức khỏe, đương có tiền bạc, tội gì chẳng hưởng ngay? Kẻo không mai sau lại vô số sự ngăn trở, thí dụ tôi chửa, đẻ chẳng hạn. Hoặc nhỡ chết chẳng hạn... – Đừng nói dại. – Biết đâu đấy! Ở đời này, phải đề phòng những sự bất trắc của hạnh phúc mới được. Mà không nên để lại hôm sau những điều mình có thể hưởng được ngay ngày hôm nay! Việt Anh cau mày: – Nhưng mà... Hằng! Những lời chân thực của mình làm tôi rất cảm động. Nhưng tôi... nhưng có lẽ tôi không nên biểu tình... vì rằng... tôi có quyền gì được hưởng những cái ấy nhỉ! Tôi yêu Hằng là vì yêu Hằng chớ có phải vì Hằng giàu có đâu. Mình chỉ nên cho tôi được hưởng lòng yêu của mình, đừng nên đồng thời cho tôi hưởng cả sự phú quý. Tôi chỉ muốn biết có ái tình. Hằng ngạc nhiên đến nỗi phải đứng dừng lại. Nàng chòng chọc nhìn Anh rồi, một cách chán nản: – Thật tôi không hiểu được mình. Hay là khi tôi yêu mình thì là vì tôi nhầm mình, hở Việt Anh? Những lý sự của mình làm tôi lạ lắm. – Không, không bao giờ Việt Anh muốn thừa hưởng cái của ấy. Hằng, một cách cáu kỉnh: – Cái của ấy là của tôi. Mà của vợ là của chồng! Của Tiết Hằng nhưng Tiết Hằng lấy Việt Anh thì là... Chàng giơ tay ngăn: – Thôi, không cần nói thêm. Tiền không do tay tôi làm ra thì tôi không muốn hưởng. Rồi tôi sẽ làm việc, rồi tôi sẽ kiếm ra tiền, rồi tôi cũng làm giàu. Bao giờ tôi giàu, lúc đó vợ chồng mình sẽ cùng hưởng. – Mình trái quá không ai có thể chịu được, vẫn biết rằng của ấy cũng một phần do Đào Quân mà ra. Nhưng... mình muốn gì? Quân bây giờ bất hạnh rồi... Mà vợ Quân cũng về tay mình rồi, mình còn ghen ghét với hắn đến thế nào nữa? Không ai lại đi ghen với một người đã chết, mà cũng không ai lại đi ghen với tiền bạc của một người chết để lại. Mình nên lấy thế làm xấu hổ. – Ồ! Nếu cần phải xấu hổ thì tôi sẽ xấu hổ trong sự hưởng cái phú quý không phải của tôi làm ra được. – Mình mỉa tôi chăng? Mình muốn tôi đem cái phú quý ấy vứt xuống sông chăng? Nói chứ tôi thế mà ra tôi khốn khổ thật! – Hằng muốn dùng làm gì, mặc! Nhưng tôi, tôi quyết không hưởng. – Cái giọng lưỡi này bây giờ mới làm tôi phải kính phục biết bao! Khí khái quá! Này, nhưng mà cái người bây giờ nói những nhời cao thượng này giá trước đừng đến lấy tiền nghìn của ai để làm việc thì cái cao thượng bây giờ mới có nghĩa lý. Việt Anh trừng mắt: – Sao mà ngu thế? Đã vay một người bạn, đã chịu lụy bạn khi bạn sống, thì đó là một nhẽ nên hưởng luôn thể cơ nghiệp của bạn khi bạn chết à? Hằng không đáp, cúi đầu vừa đi vừa nghĩ ngợi. Suốt quãng đường dài qua nhà chứa thuốc súng hai người không nói gì với nhau. Sau cùng, Hằng hỏi: – Anh! Việt Anh! Có điều gì khiến mình phải nghĩ ngợi... Điều gì vậy? Vì tôi rất lấy làm lạ về thái độ của mình. Hay là trước khi Hằng làm vợ mình Hằng đã là một quả phụ? Mình đau đớn về nỗi ấy phải không? – Không. – Thế thì vì nhẽ gì? Tôi chịu, xin chịu không đoán nổi nữa. Xưa kia, còn là vợ người khác, tôi lại thấy mình không nghĩ ngợi nhiều như bây giờ, chưa có giọng chua chát như bây giờ. Bây giờ tôi là vợ mình đến nơi, có thể bảo là giấc mộng đã đến lúc thực hiện, thì lại thấy mình có cái tâm hồn bứt dứt của một người hối hận. Hay là mình có điều gì hối hận? Anh, một cách mệt nhọc: – Hối hận? Có lẽ. Nhưng mà thôi, rồi ra sẽ nói sau cái việc... hối hận ghê gớm ấy chưa cần phải nói bây giờ. Hằng sợ Anh đã giận mình không dám hỏi nữa. Từ đó, đôi bạn mất vui. Khi về đến gần bệnh viện. Hằng nói một mình: – Quái chửa kìa! Cái xe hòm nào như là xe của Huỳnh Đức. Anh để tay lên mắt rồi gật: – Xe của Huỳnh Đức thật. Hai người bước mau chân. Khi còn cách mấy bước, một người đẫy đà, mặc bộ âu phục màu gỗ hồng bước lên xe đóng cửa đánh sập một cái. Xe đã chực chạy. Anh và Hằng phải gọi, thì một bộ mặt trắng trẻo như mặt người Nhật Bản ló ra, quay lại rồi cười. Huỳnh Đức xuống xe. Bắt tay Việt Anh xong, Đức nói: – Tôi có lại tòa báo, không gặp ông, tôi lại đến đây thấy bảo cô Hằng cũng đi dạo mát. May quá, tí nữa thì lại không gặp. Tôi ở Hòn Gay về, trước khi về đây, đã có tạt vào qua nhà thăm hai cụ. Hằng hỏi: – Ở mỏ có gì lạ không? – Cũng chả có gì lạ cho lắm. Thế rồi ba người đứng tần ngần. Biết chắc anh em người ta có chuyện riêng với nhau, Việt Anh vội cáo thoái: – Thôi, tôi xin phép. Chốc nữa mong bác tạt lại chơi. – Vâng, vâng. Nhưng mà lại nhà riêng hay lại tòa báo? – Nhà riêng, số 14B, phố Nam Tràng. – Về ngả nào thế nhỉ? – Gần Tây Hồ. Anh lên một cái xe tay; Hằng đưa Đức vào bệnh viện. Đến phòng, nàng bảo đứa con đòi đi lấy nước nóng rồi mời Đức ngồi và hỏi: – Thầy me em có nhắn gì cho em không, anh? – Ông bà hỏi cô có cần tiền không thì gửi. Mà gửi tên ai, thế nào, gửi cho thầy thuốc hay tên cô? – Tiền à? Làm gì nhỉ? Tôi cũng còn nhiều, đủ tiêu? – Thế cô mạnh hẳn chưa? – Em mạnh lắm rồi anh ạ. Ở mỏ có gì lạ không? – À vừa rồi có mấy cái cờ đỏ với mấy trăm truyền đơn. Sở mật thám Hòn Gay về bắt lung tung cả. – À chết, tí nữa quên mất! Anh về lấy cho em sáu trăm nhé. Gửi bưu phiếu cho tên em, ở đây. Việc cần lắm đấy nhé, anh nhớ đấy nhé! – Việc gì mà cần ngay thế? – Rồi em sẽ cắt nghĩa cho thầy em sau. – Hay là... – Thế nào? – Hay là tôi sẵn đây, tôi ứng ra trước. Gửi bưu phiếu sợ phải đợi lâu chăng... – Hay thế cũng được, cảm ơn anh lắm. – Có tôi phải cảm ơn cô thì có. Tôi không muốn giữ nhiều tiền trong mình. – Được, cứ việc gửi tôi. – Đây, thế tôi xin đưa ngay. Huỳnh Đức giở ví, đếm sáu mảnh giấy một trăm đoạn cung kính trao cho Hằng. Nàng cầm rồi nói đùa: – Hay là nhân dịp này anh mừng quách tôi cho xong. Rồi nàng cười khanh khách. Chợt nàng phải ngây người ra, hơi biến sắc mặt. Đức đã đáp bằng một cái thở dài. Chàng buồn bã lấy khăn lau mấy giọt mồ hôi điểm lấm tấm cái trán bóng lộn. – Mừng cho cô thì có nhưng chẳng đáng mừng gì cho tôi. Cô nên biết rằng việc cô lấy chồng, tôi coi như... cái chết của cả cuộc đời tôi vậy. Hằng đứng lên, vẫn đáng yêu mà vẫn có lễ phép: – Thôi anh ạ, biết làm thế nào? Biết nhau thì đã muộn. Hằng hy vọng rằng lấy chồng rồi cũng vẫn được anh yêu như xưa, cái tình anh em. – Khốn nỗi tình anh em chỉ là tình anh em! – Thế không phải là không nồng nàn và đáng quý. – Cô không yêu, cô nói thế được. Còn tôi, tôi chỉ thấy đáng quý chớ không nồng nàn. Tôi không có phúc. Ông bà đã bằng lòng nhưng cô, cô không! – Tại anh đến muộn quá. – Cuộc đời tôi thật là trống trải. Cuộc đời vô nghĩa lý! Hằng cảm động, phải rền rĩ: – Tôi biết làm thế nào! Đức lau một vòng nước mắt, rồi đứng dậy! – Tôi điên rồi. Tôi đã phá hoại hạnh phúc của cô. Tôi đã phạm phải một điều cấm của quan thầy thuốc. Cô tha lỗi. Mà tôi chỉ xin cô nhớ: Cô sướng là tôi sướng, thế thôi. Dục vọng của tôi là thứ dục vọng ôn hòa. Rồi chàng ra đi, loạng choạng như say rượu.Chương 7Tòa báo L’Indépendance là một căn nhà Tây vuông vắn theo kiến trúc cổ, bên ngoài lớp tường gióng sắt lại có dãy dâm bụt cành với lá um tùm leo lên trên rồi xõa xuống, lởm chởm lôi thôi như một cái đầu của người tóc để nửa năm chưa xén. Ở vào một phố vắng như Hàng Cỏ, nhà báo đã vắng vẻ sẵn, lại càng tiêu điều hơn. Nếu không có cái bảng lớn quét sơn trắng kẻ chữ đỏ, khách qua phố phải cho đó là chỗ dưỡng lão của một nhà triết học có tuổi cao. Trông vào sân, ít khi thấy bóng người, mà ai qua đó có tò mò chậm đá chân thì mới nghe thấy tiếng lách tách của một cái máy chữ nhàn việc. Tiết Hằng trả tiền xe rồi đến cổng bấm chuông. Mãi không thấy người ra, nàng đi đi lại lại, ra vẻ nóng ruột lắm. Lúc đó đã xế chiều, dãy đèn điện ngoài đường đã bật sáng quắc mà trong báo quán vẫn thấy tối âm thầm... Việt Anh lúc này có tại đây hay đi đâu? Sao nàng đã sắp ra bệnh viện, chỉ còn dăm bảy ngày là về quê mà hai ba hôm nay, Anh không thấy đến với nàng? Sự bứt dứt của một con hổ mới bị nhốt cũi thế nào thì lòng bâng khuâng của Hằng lúc này cũng vậy. Nàng đau đớn vì thấy như trong tình yêu kia cứ có điều gì lừa nàng. Chồng chết, người nhân tình xem ý lại ra chiều muốn đổi thay. Do lẽ gì, mấy bữa nay, những lời ăn tiếng nói của Việt Anh khiến nàng phải lạ? Cái tính gay gắt đó không tỏ hẳn sự phai lạt, nhưng cũng không tỏ rõ những sự ỏe họe của ái tình. Hơn nữa, trong đời vẫn có hạng đàn ông khi yêu một người đàn bà nào là chỉ vì cái thích cướp lấy của một người đàn ông khác. Lòng ghen ghét nhỏ nhen vẫn thúc giục tới cái thú chiếm đoạt, nên sau khi chẳng còn phải nhọc lòng nghĩ cách chiếm đoạt thì ái tình ló dần dần cái bộ mặt đáng ghét là sự thờ ơ. Thế thì tại Việt Anh thờ ơ hay bởi có điều gì não lòng chàng? Không! Cần phải biết cho rõ trắng đen chứ Hằng không còn can đảm nhẫn nại mãi thế được. Lần này là nàng phải hỏi cho ra. – Thưa bà hỏi gì? Hằng quay lại, cũng hơi giật mình. Thấy người hỏi nàng ra vẻ là người thư ký nhà báo mà lại vừa tủm tỉm cười một cách tinh quái, nàng sinh nghi. Vô phép như vậy, họ coi nàng là hạng người thế nào? Ra oai, nàng lên giọng đài các hỏi xuống: – Ông Việt Anh! Người thư ký vẫn tủm tỉm: – Thế quý hiệu bà là gì? Hay là bà có sẵn danh thiếp không? – Madame Việt Anh! Tức thì người thư ký biến sắc mặt, vừa ngạc nhiên vừa ra ý hối hận, cắm cổ vội vào. Vài phút lại chạy ra kéo cánh cửa, vẻ sợ hãi. Xong quay vào dẫn Hằng qua mấy buồng giấy rồi trỏ cái thang gác mà rằng: – Ông chủ tôi ở trên gác, mời bà cứ lên. Hằng lên đến nơi thì Anh vừa hé cánh cửa. Chàng như vừa ngủ dậy, thẫn thờ đón áo khoác của Hằng cất đi rồi trỏ ghế cho nàng ngồi. – Tôi vừa dậy, toan rửa mặt xong thì đi thăm mình... Anh nói vậy nhưng vẫn mải cất mấy cuốn sách vào tủ, gập đống báo chí bỏ lên bàn giấy, và dọn dẹp bộ quần áo, cái mũ, đâu vào đấy đã, chứ không vội nhìn đến mặt người yêu. Còn về phần Hằng thì, cho lời Anh vừa nói là để thoái thác nói dối nên nàng không đáp. Ừ thì bữa nay đã định đến, nhưng cả mấy ngày hôm trước thì sao... ? – Tôi đi rửa mặt một lát đã nhé? Anh nói xong ra ngoài phòng một cách vội vàng. Hằng nhìn theo, thấy phản chiếu từ một miếng kính cửa, mặt chàng hốc hác, dưới mắt hãy còn ngấn lệ. Thế là quả tim nàng bắt đầu thình lình đập. Nàng hổ thẹn vì những ý nghĩ không tốt mấy hôm nay, khiến nàng hóa ra đề phòng và nỡ nghi hoặc tình quân, người đáng chỉ hưởng toàn mọi sự yêu đương! Nhưng mà... tại sao lại có điều gì có thể làm chàng đau khổ được? Hằng thần người ra mải nghĩ ngợi, chợt tầm mắt đặt đến một mẩu giấy xanh nhỏ, bên cạnh cái bồ giấy lộn, dưới gầm bàn. Tò mò, nàng nhặt lên thì đó là một mẩu thư có chữ ngòng nghèo non nớt của đàn bà, mấy dòng, ngay ngắn: Phải, tôi vẫn biết đã từ lâu là tôi chỉ là cái đồ chơi chốc lát của anh mà thôi. Con khốn nạn này đời nào lại dám cầu cái lòng yêu chân thật của anh, một người có tư cách lấy vợ giàu như bà góa Đào Quân, nguyên Vũ Thị Tiết Hằng! Nhưng anh phải biết... Mẩu giấy chỉ có thế nhưng Tiết Hằng đã thừa đoán nổi mọi chuyện đã xảy ra. Nàng cũng chẳng cần bới tìm nốt những mẩu khác chắc còn nằm trong sọt giấy. Rồi nàng mỉm cười, tự nghĩ thầm: “Nếu chỉ vì những lời khích bác chẳng đáng kể như thế này mà chàng phải bận lòng thì chàng thật là điên!”. Đến đây Việt Anh đã quay vào. Hằng vội bỏ túi mảnh giấy. Nàng thấy sung sướng lắm; nguyên do bao nhiêu sự khó hiểu của Việt Anh nàng đã khám phá ra nổi! Nhất là một lá thư như vậy mà bị vứt vào sọt thì cái ân ái của Anh với ả nào đấy cũng không bền gì. Một chứng cớ rõ rệt: Anh đã xé giấy, chỉ còn nghĩ đến nàng, thì cần gì nàng còn ghen ai? – Mình! Hằng đứng lên chắn lối Anh, cười lả lơi nhìn chàng một cách âu yếm hết sức. Im lặng, Anh vịn tay vào cả hai vai Hằng thì Hằng lim dim cặp mắt, ngửa cổ trên ngực chàng như mời một cái hôn nồng nàn mà nàng vẫn ước ao. Nhưng Việt Anh chỉ để cặp môi lên trán người vợ sắp cưới, kính cẩn nhiều hơn âu yếm. Sau cả đôi ríu nhau ra ngồi ghế trường. – Mình bắt tôi chờ mình suốt cả mấy ngày hôm nay! – Mấy bữa tôi bận quá, lại hơi mệt... – Mình cũng mệt à? Thế bây giờ ra sao? – Cũng gần khỏi. – Hình như mình thức đêm nhiều? – Phải, tôi có ngủ được đâu! – À, thế vừa rồi Huỳnh Đức có đến với mình không? – Có. – Anh ấy có nói gì là đáng để ý không? – Không, Đức chỉ tỏ lời mừng tôi, mừng cho vợ chồng chúng ta, thế thôi. Nhưng phải tinh ý lắm mới có thể nhận thấy Đức thường cười gằn... Cái vui gượng... Chắc Đức đau khổ lắm! Hằng hấp tấp hỏi nữa: – Đau khổ lắm? Sao mình biết được? Anh cười nhạt: – Làm gì tôi lại không biết! Cảnh Đức bây giờ là cảnh tôi khi xưa, lúc đến mừng Quân sắp cưới mình. Tôi đã đau khổ mãi, cho nên nay tôi cũng biết cho người khác cái nỗi đau khổ... Có lẽ để một người đau khổ thế cũng là không phải, khốn nỗi Việt Anh nghèo, Huỳnh Đức giàu, nên Việt Anh không thương. – Thế là phải. Mình thương mình chưa xong còn công đâu thương ai nữa! Anh, vẫn ra vẻ phẫn: – Chính thế. Mình thương mình cũng chưa xong... Hằng vuốt mớ tóc rối loạn trên đầu Anh, tha thiết hỏi chàng: – Mình vẫn có điều gì buồn à? Anh lắc đầu một cách vụng dại. – Không! – Thế thì mình tươi cười lên nào! Mình thử nhìn tôi mà cười một cái cho tôi xem nào! – Nhưng mà tôi có gì buồn đâu? Hay là tôi sướng quá mà rối trí đó. – Không phải! Khi Tiết Hằng chưa là một quả phụ, mình lại chưa đến nỗi có cái bộ mặt đưa ma như ngày nay. Tất mình có điều gì... điều gì lo buồn mà muốn giấu tôi. Nhưng mà làm sao lại phải giấu? Còn việc gì phải giấu nhau nữa! Anh hơi gắt: – Thì tôi cam đoan không có gì giấu Hằng rồi cơ mà! Hằng khẽ hỏi: – Lâu nay tôi không biết công việc làm ăn của mình ra sao... Có nói cho tôi rõ bao giờ! Hay mình buồn bực vì thiếu thốn đồng tiền? – Tiền thì bao giờ cũng thiếu, chẳng vì thế mà đến nỗi buồn bực được! Anh nói xong có ngay những nét hớn hở tươi cười. Rồi thêm: – Nỡm thật! Tôi sướng quá hóa lẫn. – Việt Anh! Tôi yêu mình, yêu mình một cách hằn học nữa! Thấy Hằng có những ngôn ngữ cử chỉ rất đáng cảm. Anh ôm nàng vào lòng, nhìn vào cặp mắt nàng đăm đăm. Dưới bóng điện xanh, khuôn mặt trái xoan trắng nõn nà với cặp môi chúm chím nụ hồng như là những tiếng gọi tha thiết của một sức mạnh huyền bí. Việt Anh ôm rõ chặt người yêu vào ngực mình. Trong một phút vũ trụ đã hầu bị quên... Chợt Anh bỏ Hằng ra, đứng thẳng lên mà rằng: – Không! Không thể như thế được! Rồi trước cái ngạc nhiên đến sợ hãi của Hằng, chàng để tay lên trán, đứng thừ ra hồi lâu mãi đến khi chợt nhớ ra rằng không nên gieo mãi sự ngờ vực vào óc người yêu, chàng mới lại cố ra vẻ tự nhiên, dịu dàng ngồi xuống ghế và nói: – Cái ngày ta phải nóng lòng chờ đợi chỉ còn vài tháng là đến, vài tháng nữa thôi. Tôi sẽ đẹp duyên với vị hôn thê chớ chẳng phải với một người tình nhân theo thói thường. Tôi muốn không đến nỗi sờm sỡ. Kính yêu chớ không phải chỉ yêu mà thôi. Hằng cười nhạt: – Sự cẩn thận ấy về phần mình thật lạ lùng lắm đấy. Tôi thật sự không ngờ. Anh vặn lại: – Có gì là lạ? Hằng so vai, nhìn Anh mà cười rũ rượi: – Không có gì lạ? Ồ sao mà mình thông minh và nhớ lâu thế nhỉ? Khi Hằng là gái có chồng thì mình hết sức tìm mọi cách chinh phục lấy... phần hồn. Tinh thần lòng yêu, mình có rồi mình cũng chưa thỏa, mình còn bao nhiêu lần lăm le chiếm cái xác thịt nữa. Đến bây giờ thì Hằng đã phó thác cả thân Hằng cho mình như cho một người chồng, thì mình lại đảo ngược các địa vị, mình lại dùng cái từ bi của một nhà tu hành mà lên giọng đạo đức: “Kính yêu chớ không phải chỉ yêu mà thôi!”. Như thế, bảo lại không lạ à? Việt Anh so vai đứng lên hát ầm ĩ, lại rún rẩy theo lối Maurice Chevalier: Elle a des pelits télons Que je lalais à talon Ton! Ton! Ton! Tontaine! – Mình hóa dại hay sao? Anh ngừng hát, ngạc nhiên rằng: – Hóa dại? Mình cấm cả tôi lộ sự vui sướng ra à? Hằng lắc đầu một hồi: – Không! Không! Mình không sướng! Thế không tỏ ra cái sướng! Việt Anh! Mình nên biết rằng nhiều lần mình bắt tôi lo. Mình vốn không phải là người như thế. Chưa bao giờ tôi thấy mình có những cử chỉ ấy. Mình đau khổ điều gì, hở Anh? – Anh là kẻ rất sướng! Mà có lẽ hiện nay sướng nhất đời! – Sao lại vẫn cái giọng lạ lùng nó vẫn tố cáo sự chua chát lẩn bên trong? Mình hãy nhìn thẳng vào mặt tôi mà nhắc lại thế tôi xem nào? Anh thẳng người, nghiêm giọng: – À, mình quá thật! Vì lẽ gì, những lời căn vặn vô ý thức đến bực ấy? Dễ thường tôi là một đứa có tội gì trước mặt mình là một quan tòa chăng? Tôi cấm mình hỏi mãi như thế đấy! Hằng cũng to tiếng không kém bạn: – Vì lẽ gì? Vì lẽ gì? Vì tôi đau đớn khi tôi phải nghi ngờ rằng người mà tôi yêu dấu vẫn cứ có một điều gì nói dối tôi. Đây này, mình đã muốn không nói thì để tôi nói cho mà biết: trước khi yêu tôi, hoặc trong khi nói là yêu tôi, chỉ yêu một mình tôi, ít ra... ông cũng có năm bảy cô nhân ngãi rồi. Anh cười sằng sặc: – À! Ghê thật. Ấy là chưa lấy nhau mà máu ghen đã đến thế. – Phải, vì ông đã nói dối, vì ông là kẻ hèn. Một con đĩ nào đó đã mỉa mai ông. Do thế ông đau đớn. Hay là ông hối hận gì chăng? Việt Anh đưa mắt đến sọt giấy rồi gật gù. Nhưng chàng vẫn thản nhiên: – Hằng đã chịu khó nhặt những mẩu vụn chắp lại đọc cả cái thơ rồi à? – Thưa không ạ. Tôi đâu thèm tò mò đến thế. Thấy một mẩu này thì tôi đọc chơi mà thôi. Rồi nàng giơ mẩu giấy ra. Bây giờ ông nghĩ thế nào? – Tôi không nghĩ gì cả, vì nếu tôi nghĩ vào đấy, thì tôi đã chả vứt nó vào sọt, thưa bà. Mà tôi mong rằng bà đừng hằn học với tôi về những việc xảy ra từ trước khi tôi là chồng bà! Cái giọng gắt gỏng của Anh khiến Hằng phải sợ. Nàng sợ chàng nhân đó lại có cớ nhắc đến Đào Quân. Sau cùng nàng dịu giọng: – Hay là trong cuộc trăm năm của đôi ta, có điều gì ngăn trở, về phần mình? Hay là người ấy chửa đẻ gì chăng? Anh đỏ mặt mà rằng: – Ô hay! Mình điên mãi à? Đối với một hạng đàn bà mà tôi vẫn giày xéo dưới gót chân thì đủ hiểu là hạng nào rồi, còn chửa đẻ làm sao được! Mà lại nó vô lý, không biết phận nó đấy chứ! Ai coi nó ra gì mà nó đòi... nọ kia. – Tôi thấy giọng thư mai mỉa mình dữ dội. – Mà vì không để tâm nên tôi đã xé thư bỏ sọt. Đến đấy, Hằng lại phải ngẫm nghĩ. Sự quả quyết giọng hồn nhiên của Anh đã tỏ ra rằng chàng đã thực thà về việc cái thư. Thế nghĩa là không có người đàn bà nào ngăn trở, mỉa mai hoặc đe dọa Việt Anh, khả dĩ bắt Anh suy nghĩ, cân nhắc, khổ sở trong cuộc phối hợp mai sau này. Vậy thì chỉ còn hai nhẽ: hoặc Việt Anh vẫn giấu nàng một điều gì, hoặc nàng nhìn thế sự một cách khác người nên đâm ra nghi ngờ, thế thôi. Rồi Hằng hối hận, sợ mình đã trái. Nàng vứt mẩu thư vào bồ giấy: – Chỉ tại cái mẩu thư khốn nạn này! Thôi, tôi lỡ một lần, mình có tha thứ cho tôi không? Anh cũng dịu nét mặt: – Mong Hằng bận sau đừng nhẹ dạ. – Nhưng chỉ vì yêu Việt Anh nên Tiết Hằng mới vô nghĩa lý thế... À quên, tôi có số tiền ấy rồi. Tôi đưa mình nhé. Nàng nói vậy, đoạn với lấy cái ví, mở ra. Nàng lấy tập giấy bạc xong... một cách ý tứ, bỏ tay vào túi chàng. Nhưng Anh lôi sáu tờ giấy bạc ra, nhìn mà nói: – Thế này đã đủ là một sự khốn nạn chưa? Hằng vờ nhìn ra cửa sổ: – Ồ! Cái tổ chim vành khuyên kìa? Nhưng Anh không mắc, lại tiếp: – Không! Không! Mình không nên đưa tôi ngay bây giờ. – Sao? – Hết ngay mất! – Thì cần dùng gì, cứ việc tiêu! Sau sẽ hay... ngại gì! – Không! Mình hãy giữ lấy! Thế này là một cái nhục! Hằng, đã sắp sửa phát điên: – Thế nào? Mình nói cái gì mà ngu vậy? Của vợ không là của chồng à? Thế sao gọi được là yêu nhau! Mình bây giờ vô lý quá! Việt Anh bây giờ khác hẳn Việt Anh ngày trước. Việt Anh nhại lại một cách rền rĩ, nghiến răng: – Ồ! Việt Anh ngày trước!... Rồi chàng ngồi phịch xuống ôm trán. Mười phút sau mới đứng lên: – Thật vậy, Hằng ạ, tôi có một điều muốn giấu mình mà lại muốn nói rõ với mình. Mấy hôm nay chưa biết quyết ra sao. Hằng đã đến. Vậy bây giờ Hằng về cho tôi suy nghĩ rồi tôi sẽ nói chuyện sau. Thế là Anh đẩy nàng ra ngoài phòng tiễn khách đến cổng.Chương 8Thưa bà, Tôi vốn không quen thuộc bà nên chúng ta cùng có cái hạnh phúc không là kẻ thù của nhau. Song tôi yêu quý bà, muốn giúp bà một việc. Người mà cùng bà sắp trăm năm kết nghĩa, đã có một cử chỉ đáng ngờ. Người ấy có lẽ đã gây nên cái chết của ông Quân cũng nên. Nếu ngờ thơ này thì bà thử nghĩ đến cái địa vị giàu sang của bà rồi xét cái ái tình kia xem giả hay thật. Tôi không yêu nhưng cũng chẳng ghét gì ông Việt Anh. Ông ta chỉ là một người đáng thương. Vậy có mấy dòng chữ này làm ơn cho bà. Trong cuộc hôn nhân không nên mắc lừa, bà ạ. Một người đàn bà có mặt lúc xảy ra tai nạn. Xin miễn ký tên. Cái thư này, Tiết Hằng đã đọc lại đến lần thứ ba. Lần đầu, mới đọc được một nửa thư, bao nhiêu máu trong người nàng hình như dồn vào cả hai thái dương, cử chỉ thứ nhất là vò thư, toan xé ra làm trăm nghìn mảnh, rồi đi tìm cho được người viết thư... Nhưng thư là thư nặc danh. Nàng đành nén mọi sự xúc động, đọc nốt. Người viết thư lại nhận đã có mặt lúc xảy ra tai nạn, vậy thì là người nào? Vô lý! Lúc đó chỉ có Yvonne và mẹ nàng, Tiết Hằng không viện lẽ gì mà dám ngờ cái lòng tốt của hai người ấy được. Thế còn người đàn bà nào khác đã có mặt tại chỗ bãi biển hôm ấy mà nàng không để ý đến? Lục tìm trong trí nhớ. Hằng mang máng thấy như là bữa ấy ngoài năm người ra, không còn một ai. Khốn nỗi, nàng chỉ nhớ mang máng thôi, ai lại đi tin một cái trí nhớ mang máng mà được! Hay là, tạm gác lẽ ấy ra, cứ cho rằng bữa xảy ra tai nạn, quả thật đã có mặt tại đó, một người đàn bà nào... Vậy trong cuộc hôn nhân này, người đàn bà đó tất phải bị thiệt hại. Ai? Tiết Hằng chợt nhớ đến cái cười tủm tỉm của người thư ký nhà báo. Chắc hẳn Việt Anh đã lôi thôi với một số đông bọn con gái giang hồ. Mà vị tất kẻ viết lá thư này đã không chính là kẻ đã gửi cái thư mai mỉa Việt Anh mà nàng đã từng có trong tay. Nàng muốn trông bút tích dò cho ra người, ác quá, thư cho nàng lại đánh máy chữ... Tiết Hằng mím miệng vò thư, căm tức những sự nhỏ nhen của loài người. Nàng hầu như nhọc mệt, cuộc đời chán nản lắm, không còn muốn sao nữa. Nàng nằm xuống giường, nhắm mắt những muốn tai không còn phải nghe một tiếng động, óc không còn bận về một ý nghĩ, mắt không còn phải thu nhặt một hình ảnh... muốn sao cho tâm thần không còn vương chút nợ trần, cứ được nhẹ lâng lâng. Không xong! Những ý nghĩ vẫn đến, những ý nghĩ tối tăm ác nghiệt. Thoạt đầu, nàng đã lập tức muốn làm thầy cãi cho Việt Anh. Nàng không muốn tin người viết thư, mặc lòng là người nào. Nàng không muốn tin những lý luận trong thư, mặc lòng xưa kia đã xảy ra những việc như thế nào. Song le, đó là ái tình! Mà ái tình thói thường vẫn là mong manh! Cho nên cái lòng tự kiêu của nàng lòng tự kiêu của một người đàn bà hầu như bị thương nặng. Hằng không thể cho phép rằng bất cứ là người nàng yêu dấu đến bậc nào, lại có thể đem ái tình ra dùng làm một vật bài trí được những sự vô lương tâm. Sự trong sạch của ý nghĩ nàng, cái ngây thơ của cả mảnh hồn nàng bắt nàng không bao giờ được nghĩ thiên lệch. Hãi hùng run sợ, nàng thâu trong óc những trường hợp có thể khiến Việt Anh là đáng nghi, Việt Anh, người nàng yêu, Việt Anh, vị hôn phu của nàng! Sao lá thư lại có những lời mà nếu ở ngoài cuộc, người viết không thể viết được đến thế? Sao cái giọng chua chát bứt dứt của một kẻ đã làm điều gì đến phải hối hận đã đến úp lấy Việt Anh khiến chàng nay như con cá lúng túng trong lưới? Sao chàng lại vùng vằng sự phú quí của Hằng, phải nói trước là không thèm hưởng, chàng, một người vốn theo cái hạng không cần nghe dư luận, làm việc gì đã cậy ở cứu cánh cắt nghĩa hết mọi phương tiện đã dùng mà thôi? Hết thảy những điều ấy, vì lẽ gì? Hằng tự căn vặn mình rồi lại đến lúc thấy cái cần phải cãi lý cho sự căn vặn trước. Nhưng, khốn thay, nàng chỉ là một trạng sư vô tài. Việt Anh không được bào chữa cho. Thầy kiện lúng túng không kiếm nổi lấy được một mẩu lý sự. Trong cái tòa án lương tâm của nàng hầu như xảy ra một sự rầm rộ của công chúng kéo cánh với công lý mà gào thét rằng việc Đào Quân chết, trách nhiệm ấy đè nặng trĩu vào vai Việt Anh, người yêu của Hằng. Mà chính nàng, nàng cũng hãi hùng bị mọi người coi là tòng phạm! – Trời ơi! Sao lại có thể như thế được! Hằng ngồi lên bưng trán kêu lớn, giọng rền rĩ như con nhạn bị tên xiên mà vẫn cố bay, bay để kêu thương. Tâm hồn nàng xưa kia vẫn cho nàng được kiêu hãnh vì nó lâng lâng và rất sán lạn như một buổi lễ minh ngày hạ, nay như bị bao nhiêu tầng mây phủ, tối tăm, âm thầm. Mà cái vết thương độc địa của trái tim non gây ra bởi cuộc kết hôn với Đào Quân, kịp khi tới cái tình sử kỳ lạ với Việt Anh nó như đã được hàn lại ra sao, thì nay lại bị một bàn tay tàn bạo dứt mạnh những lần băng giữ thuốc nhịt. Lần da non bị bóc tuột, nàng lại bắt đầu bị bệnh trầm trọng hơn xưa. Gian phòng rộng rãi trong bệnh viện, giữa lúc mùa đông tiết lạnh này, mà khiến Hằng thấy chật hẹp, tức tối, không thở được nữa. Trước sự kinh ngạc của một bầy nữ khán hộ đẹp như tiên, nàng mở tung các cửa, như nóng nực giữa mùa hè. Nhưng các cô khán hộ chẳng để Hằng tự do hóa điên. Cả mấy cô xúm quanh Hằng, rất lễ phép nhưng rất nghiệt, săn sóc nàng tựa hồ một đám cung tần nâng giấc một vị công chúa mới bắt được của địch quân. Họ đóng những cửa mà Hằng đã mở toang ra, kính cẩn mời nàng lên giường, đưa một cốc nước suối mà họ kêu có sức bình được những gân cốt bị rã rời sau một cơn xúc cảm mạnh. Rồi họ ngồi một dọc dài ở ghế bên cạnh giường, mỗi cô tìm một chuyện hòng khuây khỏa “bà chúa phải gai” ấy. Giữa một bầu không khí như vậy, Hằng tự xét là vô lý, nếu cứ chỉ mải nghĩ đến những nỗi thống khổ của mình. Đây, đây, những người cũng đủ sắc tài, chưa chắc về phần đức hạnh đã kém gì Hằng, mà sự bất công của nhân loại đã tạo thành những kẻ phải quỵ lụy mới kiếm nổi mảnh áo, miếng cơm. Lòng trắc ẩn khiến Hằng tạm quên tâm sự riêng mà cũng đon đả nói cười với những chị em kém hạnh phúc ấy. Song, vẫn tinh quái, Hằng tìm những chuyện trời mưa nắng, dắt được các cô khán hộ phải cắt nghĩa rành mạch về một câu hỏi vẫn chiếm chỗ trong mọi sự suy nghĩ của nàng. Đó là những tai nạn xảy ra trong khi bơi lội. Một cô nói: – Thưa bà, sự rủi ro rất nhiều, người ta sống chết đều có số mệnh cả. Như bọn thuyền chài chẳng hạn, còn ai phải ngờ họ là không biết bơi không? Ấy thế mà nhiều khi “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, họ cũng đến nỗi chết đuối! Nào có khó gì! Chỉ nhỡ ra bị chuột rút, chân tay không cử động được thì là toi mất đời. Hằng hỏi vẩn vơ: – Các bà các cô có ai biết những việc âm mưu hại người trong những cuộc bơi không? Cô khán hộ vừa nói lúc nãy bây giờ cau mày, vẫn chưa hiểu, phải hỏi lại: – Những cuộc âm mưu gì, thưa bà? Tức thì một cô khác, lanh lợi hơn, nói đón: – À, tôi hiểu rồi. Tôi đã đọc qua một cuốn tiểu thuyết Tây trong đó có nói tới hai chàng kia, cũng chỉ vì ghen ghét nhau mà một người chết đuối. Một người vì muốn chiếm giải, đã nỡ phản bạn. Anh ta lúc mời bạn một cốc rượu, đã bỏ vào cốc một thứ thuốc mà người nào uống phải sau vài giờ, thì gân cốt tê liệt hẳn đi. Thế là người bạn chết mất xác giữa biển để cho anh chàng kia chiếm được kỷ lục. Nhưng sau, vì hối, anh ta cũng tự sát! Mấy cô khác phê bình: – Đó là tiểu thuyết. Mà tiểu thuyết có phải hẳn là sự thực bao giờ? Song Hằng nói: – Thế mà nhiều khi sự thực ở đời lại quá những điều khó tin được trong các tiểu thuyết đấy. Hằng nói rồi bắt tay ngang trán, cặp mắt lim dim. Mấy cô khán hộ vẫn chuyện, song nàng chỉ ậm ừ. – Thôi, ta ra để bà an nghỉ! Một cô nói thế là cả bọn kéo nhau ra. Hằng nằm lại một mình, nào có an nghỉ được! Nàng nghĩ đến sự thay đổi đột ngột về tâm tính có thể sự thay đổi của cả tâm hồn của Việt Anh mới đây. Khi ở tòa báo, lúc Anh xua đuổi nàng thì Anh quả nhiên đã có cái thần thái của một người đã làm việc gì đến nỗi phải hối hận. Nhất là câu chuyện tiền. Khi còn Đào Quân, Việt Anh coi Quân như một con bò vắt sữa được. Một lần nàng mỉa chàng: “Rõ thật ghét người yêu của” thì chàng đay lại: “Cái của ấy chẳng lôi ra làm việc cũng phí mà thôi”. Đến nay... Việt Anh hốt nhiên ghê tởm sự phú quí của nàng! Việt Anh đã trở nên một nhà đạo đức cổ và nệ! Ngần ấy trường hợp lại càng là những chứng cớ đè nặng trĩu trên vai Anh. Phải chăng Anh đã dùng đến trước cửa nhà thi bơi mà cô khán hộ vô tình kia vừa nói cho Hằng biết? Đã đành rằng cái ái tình có thể xui người ta làm những việc táng tận vô hạn, song chàng không thể nào đi chịu rằng một người lại có thể hại bạn mà chiếm đoạt vợ bạn, dẫu là vì tình. Nàng chẳng chịu rằng mối hận về tơ duyên của nàng lại có thể là một cớ chính đáng khiến Đào Quân phải chết oan được, mặc lòng nàng tuy là vợ nhưng không yêu dấu thiết tha gì đến Quân. Sự thực có đến nỗi như Hằng phỏng đoán chăng! Ôi oái oăm! Nếu thực thế, ai sẽ trở nên vợ một kẻ giết... người. Hai hàng lệ bỗng đâu ứa lên, lấp lánh cặp mắt Hằng. Nàng đau đớn vì đã phải trong cảnh bó buộc nghi ngờ người mà nàng yêu quí nhất đời, song còn lý nào cho nàng khỏi nghi ngờ được? Lòng căm giận và lòng thương xót Việt Anh lúc này giao chiến nhau kịch liệt trái tim nàng là bãi sa trường, nỗi thống khổ của nàng thật chẳng biết lấy gì đem so. Cái đau tinh thần cũng khiến Hằng phải tê tái trong lòng như cái đau xác thịt. – Thưa bà, có ông Việt Anh chờ bên ngoài... – Cứ cho tôi tiếp. Cô khán hộ trẻ quay ra. Một lát sau, Việt Anh dè dặt tiếng giày bước vào. Chàng hãi hùng hỏi: – Chết! Sao trông mình khác hẳn đi thế? Vẫn nằm, chỉ ra hiệu cho bạn ngồi. Hằng khẽ nói: – Ồ! Cái thời giờ tôi phải đợi mình mới dài làm sao. Mỗi phút là một thế kỷ, bây giờ tôi thấy rõ nghĩa cái câu văn sáo của các nhà tiểu thuyết. Vậy mà trong bao nhiêu thế kỷ tôi đã phải áy náy về mình. Tôi đương lo cho cuộc sum họp của đôi ta. Tôi ước sao điều mình đã muốn giấu tôi mà mình sắp nói với tôi đây không đến nỗi là sự ngăn rào cách bức... Trời ơi! Tôi đã khốn khổ lắm rồi! Chắc mình cũng thừa đoán nổi cái nỗi băn khoăn của một người bị tử hình chờ đợi tin về lá đơn xin ân giảm, có phải không? Xin coi chừng! Tôi cũng như người xấu số ấy. Cái phút này là cái phút ghê gớm... Lời cắt nghĩa của mình sẽ đáng sợ cho tôi như lời tuyên án của một vị quan tòa. Xin đọc bản án đó cho nghe! Việt Anh nghĩ ngợi hồi lâu rồi cầm hai tay Hằng kể lể: – Phải lắm. Nếu tôi không nói thì sau này, sự hối hận sẽ vỡ lở càng to. Đây này... Việt Anh vốn nghèo. Song những sự khốn nạn của đời lại đi bắt Việt Anh say mê một người đàn bà ấy làm vợ. Do đó, Việt Anh, cái thằng vẫn chửi bới sự giàu có xưa nay, bây giờ bị coi là một thằng đồ tồi, một thằng lấy vợ thừa, một thằng híp mắt về tiền, một thằng... đào mỏ! Mấy tờ báo khác đảng phái hiện giờ được thể chửi bới hoài Việt Anh! Tiết Hằng có sẵn lòng làm vợ một người như Việt Anh thì phải đồng thời vui lòng nhận những lời chỉ trích đó. Mà nhận một cách vui vẻ, có thể hy sinh danh dự vì tình. Không bao giờ được nghi ngờ cái lòng yêu chân thật của Việt Anh. Không bao giờ quan tâm đến dư luận. Rồi đây Anh sẽ là cái bia chịu cho bao mũi tên thù. Rồi còn nhiều sự đặt điều nói xấu và vu oan! Liệu rồi Hằng có thể tin mãi mãi được tôi không? – Được lắm. Thế sao nữa? – Nếu thế ta mới nên lấy nhau. Còn không... – Thì sao? – Thì thà mỗi người tìm một con đường khác. Nên đề phòng nhất là cái hối hận. Hằng tươi bưởi, ngồi dậy: – Tưởng gì! Chỉ có thế mà mình làm tôi lo bao nhiêu đêm... Nói xong, nàng nhìn Anh thì thấy chàng vẫn còn như bận về một ý nghĩ. Theo tâm lý, lúc đó chàng phải sướng cực điểm mới hợp lẽ. Không, anh chưa hẳn đã bày tỏ hết nỗi lòng... Hằng gặng một lần nữa: – Chỉ có thế? – Phải, chỉ có thế. – Tôi tưởng còn gì nữa chứ? Tức thì Anh phát khùng: – Sao mình lại cứ muốn còn có gì nữa? Hằng, vẫn bình tĩnh: – Vì tôi tin mình. Thà có điều gì cứ bày tỏ hết cho nhau để sau khỏi phải hối hận. – Không còn gì nữa, mình ạ. Nói xong, Anh âu yếm hôn hai bàn tay lúc đó vẫn lạnh ngắt của Hằng. Gió bên ngoài thổi mạnh nhưng trong phòng tựa hồ như có sự ấm áp thật. Chợt con sen hấp tấp đưa một lá danh thiếp vào. Anh hỏi: – Ai thế? Hằng cau mặt đáp: – Huỳnh Đức! Rồi bảo con sen: Mày ra thưa với ông rằng độ nửa giờ nữa ông quay xe lại. – Bẩm vâng. Con sen ra rồi thì Hằng và Anh lại âu yếm nhìn nhau một lúc lâu. Chợt Hằng hỏi: – À này mình! Hôm xảy ra cái tai nạn ấy, có người đàn bà nào nữa tại đó không? – Hôm nào? Tai nạn nào? – Cái hôm Quân lâm nạn ấy. – Ô hay! Sao tự nhiên mình lại còn nhắc đến việc ấy? Tại sao thế, hở? Tôi tưởng chẳng nên nhắc đến việc ấy, giữa lúc này? – Không, không, tôi muốn biết rõ, mình cứ nhớ lại xem. – Hôm ấy không có người đàn bà nào lạ. – Thật không có ai? – Thật. – Trước khi đi tắm, hình như mình có uống rượu bia với Quân? – Chính thế. Nhưng thôi, sao mình cứ nhắc mãi đến việc ấy! Hằng im một lúc rồi lại hỏi: – Thế mình cứu Quân ra làm sao, mình còn nhớ không? – Lạ thật! Tôi tưởng lúc đó Hằng cũng có ở đấy thì phải. – Nhưng tôi quên rồi. – Mình cũng quên mà lại đi bắt tôi nhớ hay sao? – Hẳn chứ. Cứu hụt một người bạn, ai lại chóng quên được. Việt Anh đứng dậy trừng mắt: – Lạ nhỉ? Sao tự nhiên mình cứ nói đến việc cũ? Hằng! Mình nghi ngờ gì tôi, phải không? – Sao mình lại bắt tôi nghi ngờ mình? – Dễ thường tôi không cứu nổi Quân khỏi chết, trách nhiệm ấy ở tôi, có phải không? – Mình nói thế trước... Hằng lỡ lời khiến Anh vớ được. Chàng chua chát mà rằng: – Trước khi Tiết Hằng muốn nói thế? Hở? Thì gật đầu đi xem sao! Biết mình hớ, Hằng không đáp, chỉ cúi mặt. Anh đi đi lại lại, ra ý phân vua: – Đấy nhé! Tôi muốn yên mà Hằng có để tôi yên đâu! – Việc gì tôi lại không muốn yên? – Thế thì sao tự dưng lục đến chuyện ấy? – Hay lại có lá thư nào, phải không? Đưa đây mau! Xem thư thế nào nào! Hằng nhấc gối, Anh vồ lấy thư. Đọc xong, chàng cười nhạt: – Lời buộc tội ghê gớm quá! – Tất mình phải biết người viết thư là ai. – Trước khi biết người viết thư, tôi hãy hỏi mình do lẽ gì mình tin thư và nỡ nghi cho tôi đã! Sao thế, hở đồ khốn nạn? – Ồ! Đừng to tiếng vội! Cái thái độ kỳ lạ của mình, việc giãy đành đạch lên về tiền tài mà người chết để lại cho tôi... – Tất cả những việc ấy đã khiến mình ngờ, phải không? Nói đi, nói mau! Anh nghiến răng bóp chặt hai tay Hằng. Nàng giằng ra, kêu lên: – Bỏ ra! Trời ơi, đau! Anh, vẫn nắm chặt. – Mình có muốn tôi nói tên cái đứa viết thư? – Tôi chỉ mong có thế! Anh muốn nói, nhưng lại ngập ngừng: – Chính là... là... – Là... ? Việt Anh muốn nói to: Yvonne. Chàng chợt nhớ lại nét mặt tức tối của Yvonne dưới ánh trăng bữa ấy. Song vì chưa chắc chắn, mà dẫu chắc thì, thư đó tỏ lòng yêu chàng, chàng cũng chẳng nỡ nói ra. Anh đành nói dối: – ... Một đứa giang hồ! – Nhân tình của mình? – Phải! – Có mặt lúc xảy ra tai nạn! – Không. – Vô lý! Không có mặt khi nào viết nổi thơ như vậy! – Thôi, đó là những chuyện nhỏ nhen của đàn bà. Mình không cần biết. Tôi chỉ hỏi mình: có phải mình đã vì thế mà sinh ngờ tôi không? Thế thôi. – Tôi có quyền ngờ. Vì lẽ gì, tôi đã nói cả. Anh, một cách đau đớn, xua tay: – Đủ rồi, Hằng đã nỡ ngờ vực một người mà Hằng yêu quý nhất đời... là tôi! Ngờ tôi hại chồng Hằng để chiếm Hằng! Ngờ tôi phạm một điều đê hèn! Một tội ác! – Nếu lời buộc tội là vô nghĩa thì mình cười đi! Việc gì mà cáu? – Phải lắm. Nhất là Huỳnh Đức đã đỗ xe từ ngoài kia. Nếu không có Đức, vị tất mình đã phải ngờ. Tôi hiểu lắm. – Thôi đi ông! Đừng đổ vấy, ông ơi! Anh ngồi xuống ghế, bình tĩnh nét mặt: – Thí dụ tôi có trách nhiệm thật về cái chết của Quân, liệu mình có còn yêu tôi không? Hằng cau mày hồi lâu rồi: – Mình đừng thí dụ nữa. Nếu thật, thà cứ thú thật, tôi sẽ có ý kiến sau. Tôi muốn chồng tôi phải là người thực thà! – Tôi không nói thật được. – Nói thế, cũng như thú tội. Cử chỉ ấy cũng đã đủ tố cáo... Anh đập bàn, quát: – Tố cáo một tên sát nhân, phải không? Hằng? Mình không đáp à? Thôi, thế là hết! Mình đã nỡ ngờ tôi thế là xong. Không còn cách gì cứu vớt nổi nữa. Mà mình ngờ là phải! Quả tôi đã có trách nhiệm về cái chết ấy thật. Tôi chẳng muốn hỏi mình nghĩ sao đến tôi nữa! Thôi, ta xa nhau! Chúc Hằng sung sướng. Đã có Huỳnh Đức yêu quý mình. Thôi, tôi chỉ là một đứa khốn nạn! Thế là Việt Anh cầm mũ, bước ra nhanh. Hằng chạy theo, gọi thất thanh: – Việt Anh! Việt Anh!!! Nhưng chàng không hề quay cổ lại. Hằng ngã dài dưới đất. Các cô khán hộ chạy đến bê nàng vào giường. Khi Hằng mở mắt, thì thấy Huỳnh Đức đã ngồi bên giường, giữa lúc trời rét mà cái trán Đức cũng thấy lấm tấm mồ hôi.Chương 9Huỳnh Đức đứng tựa bao lan, vẩn vơ nhìn xuống đường... Tiết trời nặng nề oi ả một cách chưa từng thấy có. Cây cối đứng im lặng như trong một bức tranh. Đức kéo một hơi thuốc lá rất dài, đặt ý nghĩ vào làn khói thuốc xanh... Chàng lại nhìn xuống con đường nhựa vắng tanh mà giữa là con đường xe điện hiện ra bằng hai vệt sáng dài bởi ánh đèn hai bên chiếu xuống. Chợt thấy tiếng lịch kịch một chiếc xe bò... Chàng chăm chú nhìn thì thấy một người đàn ông cởi trần trùng trục ngồi trên thổi sáo rất vui vẻ để cho một người đàn bà làm bò thoăn thoắt kéo... Đức bỗng phát lên một câu: “Biết đâu cặp vợ chồng nghèo khổ ấy lại không sung sướng bằng vạn mình!”. Chàng liền quay vào phòng giấy, vặn quạt, và lấy ra một quyển vở nhỏ, cầm bút định viết... Cầm bút lên, nghĩ ngợi lại đặt bút xuống, để mà thở dài... Sau chàng đứng lên đi đi lại lại trong phòng, cái đầu cúi xuống, cái đầu nặng trĩu những ý nghĩ... Sau cùng, chàng cầm vở, ra nằm xuống ghế. Quyển vở bìa da, cạnh vàng, chàng muốn nhờ nó mà ghi thêm mọi sự đã xảy ra trong đời chàng bằng vài trang nhật ký nữa. Cho nên chàng phải đọc lại cả những điều đã viết từ xưa. NGÀY MỒNG 5, THÁNG CHẠP, 1934. Thế mà nay tôi đã quyết định làm một việc xưa kia chưa hề nghĩ đến. Thật vậy, bây giờ tôi mới hiểu rằng những người viết nhật ký không phải toàn là dở hơi. Tôi, Huỳnh Đức, một người xưa nay ghét nhất những chuyện ngôn tình, mà bây giờ cũng viết nhật ký, vì tình. Tiếc rằng mình không viết ngay từ khi tưởng là được hưởng hạnh phúc. Đáng lẽ ra, phải viết ngay sau tối tân hôn với Tiết Hằng, người tôi yêu quý nhất đời, người làm cho tôi tưởng rằng cuộc đời vẫn là mới mẻ, mặc dầu đến lần này tôi lấy vợ đã là lần thứ hai. Hiện giờ tôi không còn nhớ gì đến người vợ trước cả. Tiết Hằng đã xóa hết đoạn đời dĩ vãng nặng nề của tôi. Đáng lẽ ra, tôi phải ghi chép ngay bao nhiêu tính tình, bao mối xúc cảm, ngay sau tối tân hôn hoặc ngay sau khi Hằng bảo tôi rằng có thể kết bạn được với tôi, vì Việt Anh là người nàng không thể lấy được. Buổi tối hôm ấy, tôi thấy tôi sung sướng nhất đời. Vậy mà đến bây giờ mới bắt đầu chép nhật ký! Thật vậy, khi người ta sung sướng thì người ta không muốn ghi nhớ gì cả. Người ta chỉ thấy cần ghi chép tính tình khi người ta muốn than vãn, khi nào người ta nghi ngờ cái sung sướng của người ta mà thôi. NGÀY 11. Đã sáu hôm nay tôi mới lại giở đến cuốn nhật ký này. Nếu chép cả thì cứ năm phút lại chép một lần, đương ăn cũng phải chép nhật ký, đương ngồi xe hơi cũng phải chép nhật ký, đương đi thăm mỏ cũng phải chép nhật ký, đương tắm nữa, cũng phải chép nhật ký! Tôi không thể như người khác được. Vả lại tôi sợ nhất những ý nghĩ lo buồn. Hôm nay tôi không buồn nên mới cầm đến bút. Là vì Tiết Hằng đã lành mạnh hẳn. Tiết Hằng, người tôi đã yêu quý nhất đời, đã làm tôi đau khổ nhất đời vì một mối tình tưởng là vô hy vọng, mà bây giờ đã là vợ tôi hẳn hoi! Hơn một tháng nay, sau khi lấy Hằng, tôi chỉ gia công mà nâng niu chiều chuộng nàng, săn sóc thuốc thang cho nàng, mà chưa hề hỏi xin nàng một lời ái ân nào cả. Nay mai tôi sẽ hỏi, vì nàng đã được bình yên. Chỉ yêu người ta, được cái quyền yêu người ta, thế đã là hạnh phúc đấy hẳn. NGÀY 14. Đã mấy hôm nay, tôi phải ngẫm nghĩ mãi về chữ hạnh phúc ở đời. Xưa kia tôi tưởng rằng say mê ai, lấy được người ấy, thế là hưởng hạnh phúc. Trong tuổi thiếu niên, các bạn tôi vẫn nói với tôi đại khái: “Anh ơi, tôi mà lấy được người ấy thì là tôi “nắm” được hạnh phúc ở đời”. Hồi bấy giờ, lần nào tôi cũng đã gật đầu, mà cho là phải. Nếu hôm nay, ai đến nói như vậy thì tôi sẽ gắt lên rằng: “Anh là đồ ngu dại! Liệu rồi người ta có yêu anh như anh yêu người ta không, mặc dầu khi người ta đã là vợ anh!”. NGÀY 15. Cả ngày hôm nay, tôi hối hận, vì đã không viết nhật ký ngay từ khi Tiết Hằng là vợ tôi. Từ lúc bắt đầu tôi thấy tôi lấy được nàng, tôi đã sung sướng. Vậy mà, những ý nghĩ vui vẻ đã qua, tôi lại không chép, để cho đến ngày nay, chỉ phải chép những ý nghĩ băn khoăn, có khi lo buồn. NGÀY 25. Dễ thường Hằng không yêu tôi như tôi vẫn tưởng. Có khi vì không lấy được Việt Anh thì lấy tôi là hơn, lấy tôi để mà thương hại tôi cũng nên. Sự thương hại không phải là ái tình. Mà tại sao tôi lại có những ý nghĩ này? Là vì tôi đã để công trong năm ngày trời săn sóc nàng, luôn luôn nói: “Hằng ơi, tôi yêu quý mình nhất đời”, mà không bao giờ thấy nàng nói cho tôi lấy một câu đại khái rằng “Tôi yêu cậu”. Nàng chỉ đáp lại bằng một nụ cười có vẻ “cho phải phép” mà thôi. Tôi Huỳnh Đức, một người đứng tuổi, cũng không ngu hèn gì mà tôi cứ phải nâng niu một người đàn bà đã thuộc quyền sở hữu của mình, để mà mong một ngày kia người ta sẽ thốt ra những câu ân ái tha thiết với mình, mà cái “Ngày kia” ấy chưa biết bao giờ mới đến... đã bao lần tôi muốn hỏi Hằng rằng nàng yêu quý tôi như thế nào, vậy mà cứ định hỏi thì lại thôi. Nếu vợ tôi quả thực yêu quý tôi thì rồi cũng có khi tự nhiên phải nói... Ái tình không phải là sự kêu xin mà có được. Nếu tôi hỏi, vợ tôi phải gượng đáp là có yêu tôi thì còn quý hóa nỗi gì? NGÀY 28. Không, Tiết Hằng là một người đức phụ, là một người vợ gương mẫu, không có điều gì trái đạo cả. Thế thì tôi oán giận thế nào được vợ tôi? NGÀY 4 THÁNG GIÊNG 1935. Cái thái độ của nàng vẫn thế thôi, không thay đổi gì cả. Nàng chỉ là một người vợ hiền! Tôi, tôi muốn Hằng thà là một người vợ có tính xấu, nhưng mà yêu tôi. NGÀY 10. Tôi có nên cứ coi Hằng như một người nhân tình không? Các nhà văn hào đều nói rằng ái tình là một món mỹ thuật, người nào muốn đắc thắng trong tình trường, ít ra cũng phải có tư cách một nghệ sĩ. Hay là tôi đã vụng dại trong cuộc đi chinh phục lòng yêu của Hằng? Dễ thường vì mình sốt sắng, si tình quá, khúm núm quá, nên người ta coi rẻ mình cũng nên. Ở đời này, nhiều khi có lắm việc không còn luận lý học nào cắt nghĩa nổi. Anh chồng kia, tư cách rất đáng bỉ, lại được vợ yêu chiều. Chị vợ nọ, chỉ làm hại và lừa dối chồng, mà được chồng kính nể cũng nên. Mình cứ tưởng hết cách bày tỏ lòng yêu của mình ra thì một ngày kia, không sớm thì chầy, sẽ được đáp lại, có khi mình lầm. Có lẽ tôi cứ lãnh đạm mà giữ địa vị một người chồng, nghĩa là một người mà vợ có bổn phận phải yêu, thì Hằng mới yêu tôi cũng nên... NGÀY 20. Tôi đã dùng cái chính sách ấy trong mười hôm mà không ăn thua gì cả. Săn sóc hay lãnh đạm, Hằng cũng vậy mà thôi. Nàng đã lấy tư cách một người vợ đối với chồng thôi thì nàng còn phải phàn nàn gì! Không, tôi chỉ được coi là một người chồng chứ không phải được hưởng lòng yêu của một người nhân tình, nghĩa là của một kẻ trong khi yêu mình vẫn không quên bắt bẻ mình, Hằng chỉ là vợ tôi, hết chuyện! NGÀY 22. Người ta khi đã yêu một lần, thì lần sau không bao giờ có thể yêu như lần thứ nhất được. Vậy tôi có cần phải ghen với Hằng về đoạn đời trước của Hằng không? Tôi có cần đả động đến Đào Quân và Việt Anh, nhất là Việt Anh, không? Tôi phải suy nghĩ lắm mới được. NGÀY 29. Trời ơi, tôi đã tưởng là sung sướng về ái tình! Tôi đã lầm mà sự nhận ra cái lầm ấy có thể giết chết mất bao nhiêu sức sống trong lòng tôi. Hằng không phải là yêu tôi, chính ra bằng lòng lấy tôi là vì bổn phận! Mà tôi cứ phải nghĩ rằng có một người vợ đẹp, có nết, thế chưa đủ làm cho tôi sung sướng, cứ phải khao khát ái tình! Thật vậy, ái tình là một việc, mà hôn sự là một việc khác. NGÀY 4 THÁNG HAI. Hôm nay, chúng tôi đã cãi nhau. Lần đầu tôi chạm đến lòng tự ái của Hằng và lần đầu, Hằng đã gắt tôi, giận tôi đã đả động đến Đào Quân, và Việt Anh. Điều nên nhớ: có yêu thì mới giận. Tôi cũng sung sướng rồi. NGÀY 5. Dù sao đi nữa, từ khi tôi kết bạn với Tiết Hằng rồi thì cuộc đời tôi cũng thấy đỡ quạnh hiu. Dễ thường tôi không nên còn phàn nàn gì mới phải. Tôi đã lấy được một người đàn bà mà tôi kính mến và quả thật cũng là đáng kính mến hơn nhất trong tất cả các người đàn bà. Tôi cũng nên nhũn nhặn, đừng hy vọng rằng người đàn bà ấy đem tấm chăn ái tình ra trao tặng cho tôi. Nếu ai hỏi vợ tôi không yêu tôi chăng, thì tôi không biết nên đáp thế nào cả. Bảo là được yêu cũng chẳng phải, mà bảo là bị ghét cũng không xuôi tai. Phải là chồng Tiết Hằng mới thấy như thế. Hình như nàng cũng đã cố sức tìm mọi cách cho tôi vui lòng. Chính ra, Hằng là đáng phàn nàn hơn tôi, vậy mà hình như nàng lại muốn phàn nàn cho tôi. Nàng đã hết sức giấu kín bao nhiêu nỗi khổ tâm của nàng. Tôi không thể nào hiểu rằng vì những lẽ gì mà nàng vẫn âm thầm đau khổ. Như thế đã đủ khốn nạn cho tôi chưa! NGÀY 8. Có lẽ tôi sắp hiểu rõ sự thực. Vì các cuộc sống chung với Hằng mấy tháng nay đã khiến tôi phải nghĩ lại cái ngày mà Hằng bảo muốn lấy tôi. Tôi ngu dại quá, vì mãi đến bây giờ mới nghĩ đến cử chỉ của Hằng hồi ấy. Chao ôi! Buổi tối hôm ấy, tại bệnh viện St. Paul, có ai trông thấy Hằng run sợ nép vào ngực tôi mà thở hồng hộc, mà khóc rưng rức, thì mới rõ một người đàn bà trong lúc khốn khổ, không tự chủ, tự mình cũng không dám tin mình. Nàng đã hấp tấp nói: “Anh Đức, anh lấy tôi đi!” vội vàng mà ai oán cũng như nàng kêu: “Ai cứu tôi với!” vậy. Lúc đó, tôi choáng váng, tê mê cả người, cảm động hết sức, mặc dầu chưa rõ căn nguyên. Tôi đã tìm mọi cách để hỏi han nàng, dỗ dành cho nàng nói để biết sự thực... Thì, Hằng đã nhìn tôi một cách như kêu van mà rằng: “Xin đừng bắt tôi cung khai gì cả, xin đừng hỏi han gì tôi nữa! Anh chỉ nên mau mau cứu vớt tôi mà thôi, phải, anh mau cứu vớt tôi!”. Cho khỏi những tai họa tày đình gì? Lúc ấy nào tôi có hiểu! Và ngay bây giờ nữa, nào tôi đã hiểu! Tôi chỉ nhớ rằng buổi tối hôm ấy, Hằng đã có cái thần thái hãi hùng kinh sợ của một con chim gáy vừa tránh khỏi đạn mà bay vào nấp được trong một bụi tre rậm rạp, là tôi. Thật vậy, nàng đã có cái tâm thần bàng hoàng của một người vừa thoát chết, nhưng mà vẫn phải sợ hãi vì vẫn còn có thể bị chết được nếu không giơ tay cầu cứu về phía tôi... Chính là Hằng đã muốn cho việc bách niên phải thành ngay lập tức. Người ngoài, nếu có biết tất cũng thấy rằng nàng vội vàng lấy tôi để tránh khỏi một sự nguy hiểm gì, lấy ngay tôi cho xong chuyện đi, cho không thể nào gỡ lại, cứu chữa lại được nữa, hình như chính nàng, nàng cũng sợ là không lấy nhau ngay thì rồi nàng lại đổi ý, lại sai lời chăng. “Anh mau cứu tôi!” những lời nói run sợ một cách đáng lạ lùng kia, ngay bây giờ, ngồi viết những dòng này, tôi thấy như bên tai vẫn còn văng vẳng!... NGÀY 9. Hôm nay, trong một cuộc hội họp, tình cờ chung quanh tôi, người ta đã nói đến Việt Anh. Máu tôi lúc ấy sôi lên, làm cho tôi chỉ muốn uống rõ nhiều rượu mà không thể nào ăn được những mỹ vị khác nữa. Tôi còn sống ngày nào thì tôi còn phải căm hờn Việt Anh ngày ấy, vì chính hắn đã làm khổ Tiết Hằng. Than ôi, tôi yêu quý Hằng đến nỗi rằng giá Hằng lấy hắn mà hưởng hạnh phúc ở đời thì tôi cũng xin vâng, tôi cũng sẵn lòng hy sinh... Tôi, tôi muốn quên tôi đi mà sống bằng cái hạnh phúc của người mà tôi yêu quý! Tại sao hai người đã đính hôn với nhau rồi mà việc đến nỗi ngang trở? Việt Anh hối hôn hay là Tiết Hằng đã hối hôn? Mà sao Việt Anh lại bỏ nàng mà ra đi biệt tăm hơi như thế? Tôi không biết một tí nào cả... Tôi muốn biết lắm mà không sao được, Hằng chẳng bao giờ buồn kể lể gì với tôi... NGÀY 10. Nhưng tôi cần phải ghi rằng dù không biết về những đoạn đời trước của Hằng thì tôi cũng tin rằng không bao giờ Hằng đã là người yêu của Việt Anh, trước cũng như sự khi Đào Quân rủi ro thiệt mạng, về điều đó nàng đã thề với tôi, mà tôi cũng đã tin, phải, tôi, tôi cũng đã tin! Việt Anh là người bạn của Quân... Sau khi Quân chết, đã hỏi nàng... Thấy người cũng khá, nàng đã nhận lời... ấy đầu đuôi hình như chỉ có thế. Sau khi dò la thăm hỏi những người biết Việt Anh thì tôi rõ rằng khi định kết bạn với Hằng, Việt Anh vẫn không thôi dan díu với một vài ả giang hồ. Tôi đoán rằng việc ấy khiến Hằng lấy làm bất bình nên nàng mới trái ước cùng Anh. Có lẽ nàng đã yêu quý Việt Anh cũng nên song vì phải gìn giữ, vì phải tự trọng. Hằng đã bỏ Việt Anh và thuận lấy tôi. Cái câu: “Anh mau cứu vớt lấy tôi” chắc cũng không có nghĩa gì khác. NGÀY 11. Mai, tôi phải đi Hòn Gay đến năm hôm mới về được. Mà vợ tôi, ngay hôm nay, cũng đã về cùng nhạc phụ tôi. NGÀY 17. Hôm nay tôi đã về quê đón vợ tôi ra. Nhạc phụ tôi xem ý vui vẻ lắm. Tất nhiên Hằng đã khéo léo giữ gìn lắm, vì nhạc phụ tôi sung sướng bao nhiêu thì chắc vợ tôi âm thầm đau khổ bấy nhiêu. Tôi cũng vậy. NGÀY 18. Tự nhiên, hôm nay tôi nói với Hằng: “Mình ơi, tôi là một người bạn của mình, để giữ trọn một cái nghĩa cả đối với mình, một người cùng mình đi trong đời và cái địa vị tôi Trời ơi! Tôi đã hiểu rõ chỉ là làm thế nào cho Hằng thấy rằng cuộc đời là dễ chịu, là có thể sống được, là cũng không hoàn toàn đáng buồn, là... nói tóm lại, thì tôi không làm cho Hằng phải bực mình, có phải thế không?”. Hằng đáp rằng: “Xin cảm tạ anh”. Tôi hỏi cảm tạ vì lẽ gì, thì Hằng lại nói: “Cảm tạ vì anh đã cứu sống được tôi. Bây giờ ta cũng nên nhắc lại chuyện cũ... Tôi, Tiết Hằng khốn nạn này, đương sắp chết, đương bị đắm đuối, thì nhờ có anh giơ tay ra cứu; và anh đã cứu khỏi chết một người đàn bà. Anh Đức ơi, suýt nữa thì tôi chết... chết!... Nay tôi sống... tôi như người vừa khỏi một bệnh nặng, bây giờ tôi gần khỏi hẳn, vì nhờ có anh là một ông thầy thuốc giỏi”. Nói rồi, nàng cúi đầu cảm động một lúc khá lâu. Sau chúng tôi lại hỏi nhau và đáp nhau, nghĩa là giữ miếng nhau, thế này: – Tôi cam đoan là thầy thuốc sẽ đem hết lương tâm và tài nghệ ra chạy chữa cho mình. Nhưng mà mình nên biết giúp đỡ thầy thuốc trong cái cuộc khó khăn ấy. Mình phải kể lể hết cho thầy thuốc nghe... Nếu thầy thuốc không hiểu rõ được căn bệnh... – Không, Hằng đã khỏi hẳn rồi. Bây giờ Hằng đã như người ăn lại bữa... – Nếu Hằng khỏi rồi thì vì lẽ gì lại cứ phải giấu giếm tôi? Mình ơi, nói rõ cho tôi nghe đi... Bảo cho tôi rõ là ai đã gây ra cuộc tơ duyên lỡ dở giữa mình và Việt Anh... – Tôi không muốn nói, mà nếu có muốn, cũng không thể nói được. Vả lại mình cứ nhắc lại chuyện cũ làm gì? Thôi đừng hỏi nữa, để cho tôi quên đi, quên mọi sự đi, để hoàn toàn yêu mình. – Tôi tưởng những lời lẽ ấy cũng làm tôi sung sướng được trong một phút. NGÀY 24 Hôm nay tôi nhận được thư của Việt Anh! Mà Việt Anh muốn vợ chồng tôi tiếp anh ta trong năm phút. Tôi nên đáp thế nào? Có lẽ tiếp hắn là phải. Trước mặt hắn, vợ tôi có những cử chỉ bình tĩnh hoặc rối loạn thế nào là tôi đủ khám phá nổi những ý nghĩ bí mật kia. Tôi cứ việc trả lời Việt Anh mà không báo cho Hằng biết mới được. Nếu cho vợ tôi biết, chắc vợ tôi chẳng bằng lòng nào... Đọc lại cuốn nhật ký mới viết có đến đấy, Huỳnh Đức lại ngồi lên, mặt bần thần và li bì như ngái ngủ. Chàng thở dài rồi rón rén sang bên buồng Hằng. Bóng điện xanh lồng trong tua xanh chiếu ra làn ánh sáng mát mẻ dễ chịu. Thấy vợ như đã yên nghỉ, Đức rón rén đến bên giường, để tay vào trán Hằng thì vừa lúc nàng chợt thức giấc, dụi mắt và ngơ ngác nhìn quanh... – Mình chưa ngủ kia à? – Có, tôi đã ngủ được một lúc... Chợt thức dậy nên sang đây xem em có cần dùng gì... – Không, tôi ngủ đây. Mình cũng ngủ đi. – Mình có nóng không? – Không. – Tôi vặn quạt nhè nhẹ để mình nghỉ nhé? – Thôi... Tôi mệt lắm, mình đừng hỏi nữa. Rồi Hằng cựa mình, quay mặt vào tường. Đức đứng lại nhìn nàng một lúc rồi quay ra, khẽ khép cửa phòng lại. Chàng cầm cuốn nhật ký ra ngồi bàn giấy, lấy bút viết: NGÀY 25. Thôi, thế là xong. Sau một ngày nghĩ ngợi, tôi đã đáp thư cho Việt Anh, hẹn hắn mai cứ đến. Tôi đã kết bạn với Tiết Hằng được mấy tháng trời rồi. Trong mấy tháng, cuộc đời sống chung kể cũng là bình tĩnh, vì chưa có một cuộc phong ba nào đến làm gợn mặt bể tình, dù là cái tình vợ chồng của chúng tôi. Vậy mà tôi đã táo tợn nhận lời cùng Việt Anh! Ngày mai tôi sẽ khỏi bị cái khổ là không hiểu biết gì cả. Tôi sẽ biết và tôi lo sau khi biết, sẽ phải đau khổ! Từ mai trở đi, Huỳnh Đức là người khôn ngoan hay là kẻ ngu dại, thì Huỳnh Đức sẽ rõ. Nếu biết mà đau khổ, thà biết. Còn hơn như thế này. Chỉ còn một ngày nữa. Tôi cố kiên tâm...Chương 10Mặt trời buổi sáng đã bắt đầu dòm dỏi vào phòng ăn. Trên trần nhà có in bóng mấy cây hoa hồng ở bên ngoài cửa sổ. Lớp bóng đen của những hoa, lá, và cành lộn xộn, không trật tự nào nữa, lại nhấp nhoáng rung động, thì quả nhiên đẹp hơn những hoa với lá đã vẽ sẵn trên trần nhà. Huỳnh Đức đứng thắt ca vát trước gương và cất tiếng gọi: – Nguyên! Sau tiếng dạ dài, con đòi chạy lên thì Đức bảo: – Lên mời bà xuống điểm tâm. Đức ngồi vào bàn chờ độ vài phút thì vợ chàng đã xuống. Với cái áo màu hồ thủy mặc cẩu thả không cài khuy, với món tóc vấn tạm, để rối loạn trên đầu, Hằng lại đẹp hơn những lúc trang điểm cho thật óng chuốt. Đức hỏi: – Đêm qua mình ngủ ngon giấc? – Vâng. – Chốc nữa mình có cần bảo nó đánh xe lên Hồ Tây không? – Thôi. – Có gì lạ không? Hằng bật cười mà rằng: – Mình gàn lắm! Lại còn có gì nữa? Đức cau mày mà rằng: – Phải, tôi chả gàn thì còn ai gàn! Tôi gàn vì tôi săn sóc đến vợ tôi quá. Chỉ vì thế, mắc tiếng gàn. Hằng cười, hỏi trêu: – Chứ không ư? Đức để cốc sữa lên miệng, uống một hớp rồi tiếp: – Còn mình thì không bao giờ mình gàn một tí nào cả. Thật thế. – Vì lẽ gì? – Vì bao giờ mình lại thèm săn sóc đến chồng mà hỏi chồng rằng: có gì lạ không? Hằng tủm tỉm cười, dịu dàng hỏi: – Thế mình có gì lạ không? – Tôi thì còn có cái gì lạ được nữa. – Thế thì còn cần gì tôi phải hỏi mình? Hằng nói xong cũng nâng cốc sữa... Lúc đó, Đức cúi mặt nhìn xuống cốc, nói dằn từng tiếng: – Nói chứ thế mà cũng có một sự lạ... Hằng không hỏi, chỉ giương cặp mắt ngạc nhiên nhìn chồng. Song Đức cũng đăm đăm nhìn vợ, không chịu nói ngay, khiến cho sự im lặng trong một lúc hóa ra nặng nề khó chịu. Sau cùng, Đức nói tiếp, và trong khi nói vẫn không quên nhìn chòng chọc vào mặt vợ. – Việt Anh có gửi cho tôi một bức thư... yêu cầu vợ chồng chúng ta tiếp hắn một buổi. Mợ có muốn đọc lá thư ấy không? – Thôi, mình đã đọc rồi thì tôi chả cần gì phải đọc nữa. – Mợ nghĩ thế nào? – Cậu nghĩ thế nào? – Nhận lời! Hằng tái mặt, cúi đầu xuống. Chân tay nàng run lẩy bẩy... Những hơi thở rối loạn làm cho cái ngực của nàng rung động, phập phồng, như ngực một người chạy thi lúc đã tới đích... Cái thìa bạc tự nhiên ở tay nàng rơi xuống thềm gạch, làm một tiếng keng. Nàng thất thanh hỏi, như người sợ hãi gì, thì thào rằng: – Mình đã nhận lời đấy à? Đức căm tức nhìn cái thái độ đáng căm tức của vợ. Mãi mới đáp: – Tôi chưa trả lời... Vì còn muốn hỏi ý kiến Hằng... – Thế thì từ chối đi! Hoặc là mặc kệ, không trả lời gì cả. – Vì lẽ gì? – Vì lẽ gì? Mình lại phải hỏi à? – Việt Anh xưa kia là bạn thân của Đào Quân... Dù sao nữa, người ta cũng là chỗ quen thuộc cũ với mình... Vả lại, người ta cũng đã quen thuộc tôi... Người ta muốn đến chơi, việc gì tôi lại không tiếp? – Nhưng mà người ta đã hỏi tôi... Rồi chúng tôi lại không lấy nhau! Tôi không muốn giáp mặt người ấy! Đức thản nhiên căn vặn: – Việc gì mà sợ? Nếu mình xưa kia không có tình gì với... Đến đây thì Hằng không còn chịu nổi nữa. Nàng gắt: – Nhưng mà tôi không muốn thì sao? Song le chồng nàng vẫn còn dịu giọng: – Sao lại không muốn? Hằng ơi, cái thái độ khó hiểu của mình, sự im lặng của mình làm cho người chồng đáng yêu nhất đời, hiền lành nhất đời, cũng phải nổi ghen. Bây giờ mới đến lúc tôi nói rõ ra với vợ tôi là tôi không thể nào chịu nổi nữa! Tôi đã đến lúc bực tức đến cực điểm rồi! Tôi cần phải biết hết mọi sự! Việt Anh với mình đã có những điều gì mà mình cứ giấu mãi tôi? Hở Hằng? – Chả có gì cả. – Nhiều lắm! Mình giấu tôi nhiều điều lắm! Mà tôi, tôi lại muốn biết rõ, và tôi tưởng tôi cũng có quyền biết rõ, tôi, hiện nay là chồng mình! Hằng! Việt Anh đã là tình quân của mình, có phải thế không? – Tôi tưởng đã nhiều lần tôi nói với mình rằng không thì phải. – Bây giờ thì không thể tin được mình nữa rồi. Hằng chỉ bình tĩnh mà rằng: – Cảm ơn! Đức đứng phắt lên, đẩy hắt ghế ra sau lưng, to tiếng. – À, thế thì dễ thường tôi phải xin lỗi mình đấy nhỉ? Nhưng đến lúc nãy. Hằng mà là tôi thì Hằng sẽ trông thấy Hằng có những thái độ kỳ lạ, khi chợt nghe thấy tôi nói đến tên Việt Anh thôi, mặt mày mình cũng đủ biến sắc, chân tay mình cũng đã run lên lập cập! Vậy mà mình tưởng tôi mù à? Mình đã là người yêu của Việt Anh! – Im đi! Mình im ngay đi! – Mình đã là người yêu của Việt Anh, rồi thì mình vì một tai họa gì, đã không lấy được Việt Anh, cho nên mình đến nay cũng vẫn đau khổ, cho nên mình mới sợ phải gặp mặt người ấy! – Ô hay! Mình có im đi không? – Được lắm! Mình không chịu thú thật gì cả thì để tôi, chính tôi, tôi sẽ hỏi thẳng Việt Anh! Hằng cũng đứng lên, làm một hồi: – Tôi cấm mình đây! Tôi cấm mình giáp mặt Việt Anh đấy! Coi chừng đấy, Đức ạ! Cuộc sum họp của chúng ta rất là mỏng mảnh... Mình chỉ vô lý một tí, nhỡ tay một cái, là có thể chúng ta đoạn tuyệt nhau, mình nên coi chừng! Khi tôi nói rằng mình không nên tiếp người ấy chính là vì tôi lo sợ cho cuộc tình duyên của chúng ta! Người ấy là một người tai hại, mình nghe ra chưa? Tai hại cho hết thảy mọi người, có thể làm rợp mất hạnh phúc của mọi người! Đây mình xem! Bởi với người ấy, tôi chỉ ghê sợ, phải, ghê sợ! Đức quắc mắt lên, nghẹn ngào mà rằng: – Tôi tưởng đó chỉ là lòng căm hờn! Mà lòng căm hờn thì vẫn còn là lòng yêu! – Nếu tôi yêu Việt Anh thì tôi lại lấy Huỳnh Đức à? Tôi lại phó cho mình cả cuộc đời tôi à? – Cả cuộc đời? Mình muốn nói gì? Hằng! Mình muốn nói gì? Cả cuộc đời mà tôi không hề biết mình có những ý nghĩ gì, mình đau khổ vì lẽ gì à? Hằng! – Hay là tôi phải nói dối để cho mình sung sướng? – Phải thật thà! Bao giờ cũng phải thật thà. Vào trường hợp nào cũng phải thật thà, dù sự gì đã xảy ra nữa, cũng phải thật thà! Chỉ có sự thật thà là đáng quý. – Tôi biết bịa đặt gì bây giờ để cho mình yên tâm? – Hằng cứ việc nói thật! Không thì Việt Anh cũng nói. Tôi sẽ hỏi hắn và chắc hắn sẽ nói. – Tôi cấm mình nhận lời tiếp hắn đấy! – Tôi đã nhận lời rồi. – Mình đã nhận lời rồi à? Để hỏi Việt Anh về tôi đấy à? – Mà Việt Anh sắp đến ngay bây giờ đây này. – Trời ơi! Không ngờ chưa! Tôi tưởng tôi không nói thì mình khỏi phải đau khổ, vì nói ra, rồi mình sẽ hối hận là đã bắt tôi nói rõ. Nếu mình muốn Việt Anh nói rõ thì thà để vợ mình nói còn kín chuyện hơn. Mình hứa là sẽ không hối hận đi, tôi sẽ nói lập tức! – Tôi không hối gì cả! Hằng ngồi xuống ghế, hằn học tiếp: – Phải, tôi, tôi đã là người yêu của Việt Anh. Đức thở dài một cái ra vẻ hả lòng hả dạ lắm: – Biết mà! Hằng phát điên lên, nói rất nhanh và to tiếng: – Chính thế! Tôi đã là người yêu của Việt Anh, từ trước khi Đào Quân chết nữa! Tôi đã lừa chồng tôi mãi, mãi mãi, một cách khôn ngoan, một cách đáng bỉ. Từ khi còn đi học với nhau, chúng tôi đã đem lòng yêu quý nhau. Vậy mà tôi không lấy nổi Việt Anh, vì bố mẹ tôi giàu. Đào Quân cũng giàu, mà Việt Anh thì lại nghèo. Thế nghĩa là khi còn là con gái ngây thơ và sau khi đã lấy chồng, tôi cũng là tình nhân của Việt Anh mãi mãi! Tôi đã lừa dối Đào Quân mãi, mình hiểu rõ chưa? Bây giờ thì mình đã trông thấy rõ cái hình thù của Tiết Hằng là một con đàn bà ghê tởm mà mình yêu quý nhất đời, hay là chưa? Mình muốn biết đến đây thôi hay là mình còn muốn biết thêm nữa, muốn biết rõ hơn nữa? Bị thương nặng, Huỳnh Đức ngã ngồi xuống ghế. Chân và tay của chàng đều run bần bật lên. Hai tay chàng bưng lấy thái dương như choáng váng vì say nắng vậy. Nhưng mà Hằng cũng không tha, nói luôn thêm một thôi một hồi: – Phải, Việt Anh là tình quân của tôi... Chúng tôi yêu nhau, quấn quít nhau, tưởng không lấy nhau thì không sống được... Vậy mà rồi tôi bỏ chàng. Không phải! Chính ra tôi nhầm, vì ấy là Việt Anh bỏ tôi. Bỏ tôi vì một người đàn bà khác. Nghĩa là quả tim tôi vẫn còn dấu vết nỗi đau xưa! Thế mà chồng tôi muốn bắt tôi phải họp mặt với kẻ đã phụ tình tôi! Thế mà chồng tôi tưởng hễ tôi trông thấy bạc tình lang thì tôi mới được sung sướng trong lòng!... Nhưng mà bây giờ thì chồng tôi đã biết rồi, chắc là đã đủ sung sướng rồi. Từ bây giờ chắc là hết những tấn kịch ghen tuông nhau, căn vặn nhau, tra khảo nhau! Từ bây giờ trở đi, chắc là tôi được nằm yên một mình mà khóc! Nói đến đó, nước mắt ứa ra giàn giụa. Hằng chỉ kịp lôi vạt áo lên lau mặt, đứng nức nở một lúc rồi choáng váng đi ra ngoài phòng, lên gác, tiếng dép nặng nề vỗ bình bịch vào những bậc thang. Còn Đức thì vẫn ngồi, ngồi ngây người ra như tượng gỗ vậy. Năm phút... Mười phút... Huỳnh Đức vẫn cứ ngồi ngây ra như thế thì chợt từ bên ngoài giàn lý, một hồi còi điện kêu ran lên, người làm vườn ló đầu vào: – Thưa ông, có một ông vào! – Mời vào. Đức nói xong vội đứng lên, ra soi gương, sửa sang lại nét mặt... Một hồi gót giày nghiến trên đường cuội lạo sạo, thì rồi... Việt Anh. Nhưng mà đó là Việt Anh khác chứ không còn là Việt Anh ngày trước nữa. Má chàng hõm lại, da chàng tái đi. Trông già hẳn đi như đã sống thêm mười năm nữa vậy. Hai người đứng nhìn nhau một lúc lâu rồi Việt Anh cất tiếng: – Kính chào ông... Đức trỏ ghế mà rằng: – Anh ngồi chơi. Chúng ta đã quen thuộc nhau, việc gì còn khách sáo thế? Rồi chàng nhìn vào phía trong nhà, phán rằng: Bồi đâu, dọn bàn đi mày. Chờ khi người bồi mang khay cốc tách ra ngoài phòng rồi, Việt Anh mới nói với Huỳnh Đức: – Cảm ơn anh đã sẵn lòng tiếp tôi. Cảm ơn cả chị ấy nữa. Tôi mong chị ấy cũng sẵn lòng tiếp tôi như anh. Đức ngồi ngay ngắn lên mà rằng: – Nhà tôi không bằng lòng gặp anh... Việt Anh sửng sốt hỏi: – Vậy mà trong cái thư của anh gửi cho tôi... Thì Đức cắt lời: – Về sau, nó lại đổi ý. Nghe đến đó, Việt Anh buồn rầu, nhìn vào gầm bàn, Đức thêm. – Và tôi mong rằng từ nay trở đi, anh đừng nên tìm cách gặp mặt Tiết Hằng... Anh lại nên tránh sự gặp mặt cả tôi nữa. Tức thì Việt Anh đứng lên, chỉ vào mặt Đức mà rằng: – Tôi, tôi, rất vui lòng gìn giữ cho Tiết Hằng khỏi bực mình mà thôi, còn ngoài ra, lời yêu cầu của anh nghe không thể lọt tai được! Tôi xin phép anh mà nói rằng lời lẽ trong thư của anh với cái thái độ bây giờ của anh làm cho tôi rất ngạc nhiên. Tôi muốn đi đâu thì đi, đến đâu thì đến, mà nếu anh không có thư trả lời, tất nhiên tôi đã không đến. – Tôi dịu dàng yêu cầu anh sao anh lại sừng sộ thế? – Thế còn anh? Thế cái giọng ôn tồn một cách giả dối, dịu dàng mà rất hách dịch của anh vừa rồi? Một người đắc thắng một cuộc đời, một người gặp đủ mọi sự may mắn, là anh, mà như anh, thì là một người kém lịch sự. Anh cho phép tôi nói thế, vì tôi tưởng rằng hình như bây giờ anh hưởng hạnh phúc thế này là do Việt Anh, là tôi, mà nên! Đáng lẽ ra, anh phải tiếp đãi tôi như một ân nhân mới phải. – Tôi cấm anh nói nhảm! – Thôi đi! Anh là một đứa vô ơn! Anh là chồng Tiết Hằng rồi mà chưa là đủ hay sao? Ái tình làm cho anh đến nỗi xấu thói đến thế à? Nếu tôi vào địa vị anh thì... Trời ơi! Tôi tưởng rằng anh sẽ sung sướng cực điểm, say sưa cực điểm, kiêu ngạo cực điểm, tử tế cực điểm! Ấy thế mà chính anh, anh đã cướp mất Tiết Hằng của tôi! Thật là một sự khốn nạn cho tôi! – Anh nên đi đi, vì anh hiện là một người điên đáng thương hại. Việt Anh rền rĩ: – Anh nhầm lắm! Anh còn phải ghen với tôi hay sao? Anh thử nhìn anh trong gương xem! Anh thử nhìn tôi xem! Anh giàu có, sung sướng, là chồng Tiết Hằng... Hằng đã về tay anh! Còn tôi... tôi... bò lê trên mặt đất, cô độc khổ sở ốm yếu, không lấy gì được nữa... Tôi không ao ước được gì nữa, không biết hy vọng gì nữa... Tôi muốn chết mà không chết được, ấy là tôi đã cực kỳ chán đời... Tôi muốn kiếm ngày hai bữa cho no bụng cũng không xong... Anh Đức! Tôi đã như thế, mà anh nỡ đuổi tôi như xua một con chó à! Anh Đức, anh nỡ cấm tôi không cho tôi gặp một lần cuối cùng nữa à? – Tôi không muốn anh gặp Hằng nhưng mà tôi rất sẵn lòng làm những việc khác cho anh, giúp đỡ anh... Việt Anh xua tay mà rằng: – Không! Không phải thế. Dù tôi chết đói, tôi cũng không đến đây xin tiền. – Nhưng mà anh yêu cầu, một điều không ai thuận được. Anh mơ mộng quá. Tôi không thích khôi hài. – Anh sợ à? Anh Đức, anh còn sợ gì? – Nhưng mà tôi không muốn làm một thằng ngu. Đức đáp xong đứng lên, khoanh tay sau lưng, đi đi lại lại... Việt Anh, bằng một giọng đầy những căm hờn, dọa rằng: – Anh không thể cấm tôi gặp mặt Hằng đâu. – Sao lại không? – Anh không cấm được tôi nói với Hằng vài lời đâu! – Anh cứ thử đi xem nào! – Thật đấy. Vì anh nên nhớ rằng tối thứ bảy nào cũng vậy, tại rạp chiếu bóng nọ đều có mặt vợ chồng anh. Anh nên biết rằng tuần lễ nào tôi cũng đến đó ngồi ở hàng ghế cuối cùng, chờ những lúc đèn sáng mà nhìn lên, ngắm cái hạnh phúc của anh, của vợ chồng anh, cái hạnh phúc tôi có thể đập vỡ tan ra được, nếu tôi muốn... Đương đi đi lại lại như hóa điên mà nghe đến đó, Đức cũng phải tức giận đến cực điểm, cũng phải đứng dừng lại. Chàng đỏ mặt lên như đã rót đến mấy chai rượu mạnh vào đáy lòng... Chàng săm săm định lên gác gọi ngay Hằng xuống, nhưng vừa đẩy cửa thì đã thấy Hằng đứng đờ người ở bên trong. Đức hỏi dịu dàng một cách đáng sợ: – Mình nghe chắc đã đủ đấy chứ? Hằng so vai mà rằng: – Tôi tưởng không phải chính tôi mời... người ấy đến đây. – Thế thì mình còn chờ gì mà không ra tiếp người nhân tình cũ? Việt Anh sửng sốt hỏi: – Anh Đức, anh nói gì càn rỡ thế? Đức gắt: – Thôi anh không phải đóng kịch. Chính vợ tôi đã thú tội với tôi rồi. – Thú tội là tình nhân của tôi ấy à? – Chứ gì! Hai người đã nhân tình với nhau, đã chỉ non thề bể với nhau... Nói thế cho gãy nghĩa chữ nhân tình. Việt Anh nhìn trừng trừng Tiết Hằng rồi quay lại với Đức: – Ồ hay! Sao chị ấy lại nói thế? Cần gì chị ấy phải bịa đặt ra như thế? Lạ thật! Chị Đức! Sao bỗng dưng chị lại vu oan cho chị như thế. Tiết Hằng là nhân tình của Việt Anh à? Đây ba mặt một nhời, thì chị hãy thử nhìn thẳng vào mắt tôi mà nhắc lại thế để tôi xem. Để tôi xem Tiết Hằng có can đảm nhận liều đã là nhân tình của Việt Anh không nào. Đến đây thì Hằng cúi gằm mặt xuống. Anh phân bua ngay: – Ấy đấy! Rõ có phải chị ấy đã thêu dệt ra để buộc tội tôi và tự buộc tội mình một cách vô nghĩa không! Đức ngạc nhiên mà rằng: – Thế này là nghĩa lý gì? Trong hai người, người nào đã nói dối? Tôi không tin được ai cả đâu... Nhưng mà hiện giờ thì tôi có cả hai người trước mặt tôi, tất là tôi phải biết rõ sự thực. – Nhưng mà anh Đức muốn biết gì? – Tôi muốn biết tại sao anh lại không lấy Tiết Hằng! Tại sao sắp lấy nhau mà anh lại bỏ đi! Đó, điều tôi muốn biết. Mà tôi mong ở lòng lương thiện của anh, mong anh thật thà mà nói ngay cho tôi nghe... – Ô hay! Thế vợ anh chưa nói gì với anh hay sao? Đức so vai một cách nhọc mệt: – Nó lại có nói gì với tôi bao giờ! Hằng vội cãi rằng: – Chỉ có Việt Anh biết, mà lại không nói thì tôi có quyền tố cáo anh ấy hay sao? Vả lại, tôi cũng chưa biết đích xác thế nào... Đáng lẽ thú thật, thì anh đã bỏ tôi ra đi, như người đi trốn. Anh đã hổ thẹn với lương tâm! Mà tôi, tôi cũng xấu hổ thay cho anh nên chỉ đáng lẽ nói thật với chồng tôi, tôi cũng đã câm miệng hến! Thành thử vì muốn bảo toàn danh dự cho anh, tôi đã vô tình trở nên kẻ tòng phạm với anh! Bây giờ thì chúng ta không ai thua kém ai nữa. Cái hèn nhát của tôi đã bắt tôi, cùng hàng với anh rồi. Anh cứ việc thù tôi đi, và đồng thời, tố cáo cả tôi đi! Đức hỏi: – Thế là nghĩa lý gì hở Hằng? Anh đỡ lời: – Không, cứ để yên chị ấy... Chị ấy không hiểu gì cả nên chị ấy nói nhảm... – Ô hay, thế thì việc gì mà bí mật đến thế? – Anh nóng biết thế kia à? Coi chừng đấy, anh Đức! Khi biết sự thực rồi, thì anh sẽ như mắc một bệnh lây. Đó là một bệnh tinh thần. Anh thử nhìn mặt tôi xem. Thử nhìn mặt chị ấy xem! Liều thuốc độc cho tinh thần đã hại chúng tôi đến như thế... Rồi nó sẽ hại đến anh! Lúc nãy tôi bảo nhờ tôi, anh mới lấy được Hằng thì anh đã so vai lên. Rồi anh sẽ chịu điều đó là thật! Xưa kia, Hằng đã tưởng tôi gây ra cái chết của Đào Quân. Hằng đã tưởng Việt Anh là một kẻ có tâm địa hại người! Nào phải đâu vì tôi mà Quân chết đuối, có phải thế không anh Đức? Anh có tin được Việt Anh là kẻ giết người không? Không chứ? Ấy thế mà tôi cũng đã làm một việc ghê tởm cũng gần như việc manh tâm hại người! Tôi, tôi đã để cho Đào Quân phải thiệt mạng! Đức giương tròn cặp mắt hỏi: – Thế anh đã... Hằng cũng thở hồng hộc mà hỏi: – Thế anh đã làm gì? Đến đây, Việt Anh đứng sát vào cái bàn phân địa thế bằng hai tay đặt lên bàn để cắt nghĩa rõ cái lúc Đào Quân chết đuối. – Tôi đương dạo chơi trên bờ, thình lình bể nổi sóng lớn, giữa lúc Quân và Yvonne đương bơi thì... Thế là tôi đã nhảy xuống vớt được Yvonne lên... Rồi tôi lại nhảy xuống để cứu Đào Quân. Tôi đã ôm được ngực anh ấy... một làn sóng qua... tôi lại phải bơi theo dìu anh ấy một lần nữa, thì... lại một lớp sóng nữa... Tôi đã chìm lỉm... rồi tôi lại ngoi lên... Tôi trông trước nhìn sau chẳng thấy Quân đâu cả mà tôi chỉ trông thấy ai, anh có biết không? Tôi, lúc ấy, tôi chỉ trông thấy Tiết Hằng! Tiết Hằng, phải, Tiết Hằng đứng ở trên bờ nghĩa là Tiết Hằng góa chồng và tự do!... Tiết Hằng, sự cám dỗ, lòng ham muốn, sự mê muội, ngần ấy điều nghĩ của tôi bảo tôi là có thể lấy Hằng làm vợ, thì tôi khỏi phải đau khổ, khỏi phải cô độc ở đời!... Thế là đáng lẽ bơi đến dìu Quân thì tôi thôi, tôi giơ tay vẫy cầu cứu... chính ra, lúc ấy tôi còn đủ sức cố cứu Quân khỏi chết, nếu không có sự cám dỗ kia, nếu tôi không trông thấy Tiết Hằng đứng một mình trên bờ... Tôi, tôi đã không để bạn tôi thiệt mạng! Hằng nức nở lên mà rằng: – Trời ơi! Khổ chưa! Sao từ trước anh không nói ngay ra! Việt Anh so vai buồn rầu, đáp: – Về sau, tôi mới hiểu rằng thế là xong, tôi không còn hy vọng gì nữa... Tôi không thể lấy được người đàn bà mà tôi yêu quý, nghĩa là vợ góa của Quân. Tôi, tôi không thể lợi dụng được cái chết của Quân, cái chết mà tôi cũng có chịu một phần trách nhiệm! Anh Đức ơi, tưởng anh cũng tin được rằng dù sao đi nữa thì tôi cũng là một người, có một lương tâm... mà đã có lương tâm thì phải tự xử! Thế là hết! Bao nhiêu hy vọng, bao nhiêu điều mơ mộng, hết sạch! Đức bỗng ngậm ngùi đỡ lời: – Chính ra thì có phải vì anh mà Quân chết đâu. Việt Anh hấp tấp đáp: – Phải, việc của tôi, trước mắt anh, không ghê tởm như một việc giết người đã đành. Nhưng đối riêng với tôi thì khác hẳn... Tôi không thể cầm đến bút mà hô hào nhân đạo với công lý gì nữa. Vậy mà tôi vẫn làm cái nghề kêu đòi công lý với nhân đạo! Thật vậy, khi người ta đã làm một việc như tôi làm rồi, thì người ta không có quyền nói đến nhân đạo nữa, có phải thế không? Hằng lau nước mắt, hỏi: – Thế bấy lâu nay, anh sống bằng cách gì? Việt Anh lắc đầu rồi ngồi phịch xuống ghế mà đáp: – Tôi có sống nữa đâu! Tôi có sống cái đời của tôi như xưa đâu! Tôi bây giờ sống vì quân bài lá bạc, hôm nào vận đỏ thì có tiền uống rượu và hút thuốc phiện, mà hôm nào thua thì nhịn! Vả lại tôi cũng không thấy đói bao giờ. Có tiền thì một ngày bốn năm bữa tiệc cũng được, mà hết tiền thì hai ba ngày nhịn ăn cũng chả sao. – Trời ơi! Những điều anh kể ra nghe thảm hại quá! Tôi không ngờ một người như anh mà nay đến nỗi hết nghị lực... – Nghị lực để làm gì? – Để kiến thiết lại cuộc đời... Anh rền rĩ: – Kiến thiết lại cuộc đời... cuộc đời không cùng với Hằng ư? Anh Đức, anh tha cho cái lỗi tôi nói thế trước mặt anh, tôi đã đau khổ quá! Phải, không có Hằng thì sống nữa mà làm gì. Thôi! Tôi không hy vọng gì nữa. Hiện giờ thì tôi vẫn sống để thỉnh thoảng tự hỏi: sống làm gì? Việt Anh nói xong, sằng sặc cười ra nước mắt. Hằng cũng ngồi bưng mặt khóc nức nở, không còn nhớ đến chồng là ai... Sau Việt Anh đứng lên: – Thôi, không việc gì phải xót tôi... Tôi chẳng đáng thương tí nào. Có phải thế không, anh Đức? Anh im lặng đấy à? Phải lắm, anh muốn biết thì bây giờ anh được biết! Những ý nghĩ u ám làm khổ chúng tôi mãi, bây giờ đã bắt đầu làm khổ anh! Tôi đã để chết một người để anh sung sướng. Hằng kêu van cùng chồng: – Mình ơi, xin mình cố cứu vớt lấy Việt Anh! Thì Việt Anh cầm mũ đứng lên, rất chán chường: – Muộn mất rồi còn gì! Còn ai cứu sống nổi một cái xác chết nữa! Tôi bây giờ cũng như mảnh ván mục của một chiếc thuyền bị bão đập tan nát vậy. Mảnh ván ấy muốn dạt vào đâu thì dạt, muốn trôi đi đâu thì trôi, vả lại chính tôi, tôi cũng không muốn cứu tôi nữa, thì ai cứu tôi nữa mà làm gì!... Thôi, tôi chúc anh sung sướng, chúc Hằng sung sướng. Nói xong, chàng bước ra, Đức giơ tay gọi: – Việt Anh! Thì Anh quay vào, bắt tay rất chặt rồi mới đi hẳn. Hằng đã đứng trông theo người có bộ y phục bẩn thỉu, nhầu nát ấy, mãi cho đến lúc khuất bóng sau bức tường bằng hoa hồng.Chương 11Trước cái khổ chung của ba người, ngày, giờ cứ thản nhiên qua... Quả đất quay tuy chậm mà chậm nhanh, vì chưa chi... Phải, hình như người ta mới kịp nhìn đi rồi ngoảnh lại một cái thôi, thì chưa chi mùa đông đã lại đến. Tháng một, hình như sẵn những lúc không ai để ý cứ mỗi hôm một thêm nhuộm tím da trời. Lá ổi bắt đầu vàng, lá bàng ngả màu cánh kiến, mà lá hồng thì thêm to, thêm đẹp, cứ chờ buổi sáng để hứng được những giọt sương lạnh đọng lại như thủy ngân. Đó là mùa mà dân quê cùng đi ngủ một lúc với mặt trời, lại cái mùa ổ rơm chăn bông, lại cái mùa đêm nay chưa để cho sáng mai có những con đường đọng bùn và lầy lội. Buổi chiều hôm ấy, trong căn nhà xây theo kiểu biệt thự ở con đường Quán Thánh, bên cạnh lò sưởi, ngoài vợ chồng Huỳnh Đức lại còn có mặt một người nữa là Yvonne. Bên ngoài lác đác mưa... Trong gian phòng ấm cúng, cả ba đương chuyện trò. Đức đã đưa ra những sổ sách cho Yvonne xem, và cả hai đều được bằng lòng, vì những công việc ngoài mỏ đều có lợi, mặc dầu kinh tế khủng hoảng. Riêng Hằng vẫn ít nói ít cười cứ nhìn vào đám khói ở mấy chén nước trà như muốn kiểm soát lại cái dĩ vãng nó đã đi xa lắc xa lơ... Chợt Đức lên xin lỗi là có việc cần phải xuống phòng giấy. Trước lò sưởi, còn có hai người đàn bà. Yvonne ngắm nghía Hằng một lúc lâu rồi hỏi nàng: – Tôi tưởng dạo này chị không có điều gì trong lòng thì phải... Hằng uể oải đáp như trong khi dở thức dở ngủ: – Tôi có điều gì buồn nữa đâu! Con chó Nhật rất xinh xắn lúc đó len lén vào nằm dài trước lò sưởi. Dần dần một cách không cho ai nghĩ đến sự uể oải đến úp lấy cả hai người đàn bà... Tiếng lách tách củi nổ, cái giọng âm thầm của con họa mi khẽ hót ngoài hành lang, tiếng một chiếc xe hơi văng vẳng đằng xa, ngần ấy tiếng động mà người ta thấy trong khi người ta không để tai nghe, làm cho sự im lặng có một giá trị khó tả. Mà, giữ nhịp cho những tiếng động ấy, là những cái tí tách trong một chiếc đồng hồ lớn, để dựng đứng như một cái tủ ở một góc phòng. Hằng vẫn mãi nhìn những ngọn lửa nhảy múa trong lò sưởi. Nàng thấy cái lò sưởi cũng giống với cuộc đời con người ta. Miệng lò là sân khấu mà ngọn lửa là những vai trò trong tấn bi kịch. Ngọn lửa trước to, sau nhỏ dần, và sau cùng thì bao giờ cũng chỉ là một nắm gio tàn khói lạnh, là hình ảnh đích xác về cái cứu cánh cuộc đời con người ta! Cặp mắt đầy những vẻ hối hận, Yvonne nhìn Hằng một lúc lâu rồi lại hỏi: – Chị Hằng ơi, thật ra thì chị có sung sướng hay không? Hằng, như chợt tỉnh giấc mê, cười khanh khách mà rằng: – Bảo vì lẽ gì mà tôi lại không sung sướng? – Tôi tưởng chị cũng đã khuây khỏa dần dần. Chị cũng nên cố quên đi. – Không quên mà được à, Yvonne? Trong khi đau khổ, người ta cứ tưởng người ta chết mất, vì người ta không quên được. Chính ra dần dần rồi người ta cũng quên... Nếu không có sự quên, làm gì còn có được loài người trên mặt đất này! – Thật đấy, ít lâu nay, tôi thấy chị đã khá lắm. Chỉ có anh ấy là già đi, xấu đi... Hằng ngậm ngùi cắt nghĩa: – Nhà tôi lúc nào cũng lo sợ về tôi, về sức khỏe của tôi... săn sóc tôi y như một người mẹ săn sóc đến sự ấm lạnh của đứa con mới đẻ vậy. Thật thế, chính vì tôi mà anh ấy quên ăn bỏ ngủ, vì vợ mà quên cả cái sức khỏe của mình. Có khi đương đêm, chợt tỉnh dậy, tôi thấy chồng rón rén đến bên giường tôi nằm, để lại cái gối, đắp lại một nếp chăn. Thật là người đáng kính phục một cách lạ! Tôi không hề tưởng tượng được rằng trong đời này lại có người yêu tôi đến như thế, lại có người kiên tâm như thế. Mỗi ngày, mỗi phút, anh ấy đều phải chiến đấu, không lúc nào nghỉ, chiến đấu để chinh phục lòng yêu của tôi, một người đã là vợ anh ấy rồi. Phải được trông thấy anh ấy kiên tâm ra sao thì mới tin lời tôi nói là thật được. – Một người chồng mà yêu quý vợ như quý nhân tình thì cũng là người chồng đáng yêu. – Chính thế. Cho nên bây giờ, tôi ao ước có một mụn con, một đứa con bất cứ giai hay là gái, con của chúng tôi. Có một đứa con cũng như là có sự an ủi rất cần thiết những khi đau đớn về phần hồn, cũng như là có một cái nghĩa cho sự sống. Xưa kia, Đào Quân không bao giờ nghĩ đến sự sinh con đẻ cái, và cả tôi nữa, hồi ấy cũng chưa hề nghĩ đến đường con cái. Hồi ấy, tôi có nhiều tư tưởng rồ dại trong óc tôi... Bây giờ thì tâm tính tôi đổi hẳn... Bây giờ tôi thấy sự trống trải của một cuộc đời vô nghĩa lý rồi. Tôi nay cũng như một con tàu đã dày dạn gió sương, đã vượt trùng dương, nay đến ngày cập bến vậy. Tôi đã giật mình nghĩ đến những buổi chiều đông lạnh lùng, cái già cái yếu nó đến ngày mai! Cho nên tôi rất nóng ruột có con. Một đứa con cho vui vẻ cửa nhà, cho vợ chồng phải yêu quý nhau, cho cuộc đời có thêm một bổn phận để gánh vác, thêm một mục đích để theo đuổi... Yvonne cầm tay Hằng nói một cách cảm động: – Yvonne sung sướng lắm chị ạ. Nếu chị đau khổ thì Yvonne lấy làm buồn rầu lắm. Chị có muốn biết hành tung của Việt Anh độ này ra sao không? – Không. – Độ này người ta không thấy mặt Việt Anh trong cái xã hội thượng lưu nữa. Có người thấy Việt Anh ở hàng tuần lễ tại xóm ả đào, lại có người thấy Việt Anh đi hút thuốc phiện với lũ gái nhảy trong những ngõ hẻm tối tăm... Hằng buồn rầu mà rằng: – Thế à? Thế rồi là sự im lặng. Hằng và Yvonne, trong một lúc lâu, không ai nói gì cả. Vừa lúc đó, Đức cũng quay lên... thì Yvonne đứng dậy: – Thôi, tôi xin phép vợ chồng ông bà... – Kìa, sao lại vội thế? Hằng cũng ngạc nhiên hỏi: – Yvonne có việc bận gì à? – Không. Nhưng mà tôi đi đã lâu, sợ về me tôi gắt. Hằng vội bảo chồng: – Thế mình cầm xe đưa chị ấy về tận nhà. – Thôi, không phải phiền thế, để tôi đi xe tay. – Trời mưa mà phố vắng, chả sẵn xe đâu. Mà đi xe tay thì ướt hết mất! Yvonne vừa bước ra vừa khanh khách cười mà rằng: – Thế thì tôi lại cướp mất anh ấy của chị trong mười phút ngồi tri kỷ với nhau trước lò sưởi. Hằng cũng cười: – Cũng chả sao! Đức cùng Yvonne xuống nhà dưới. Khi tiếng máy xe hơi đã xa hẳn. Hằng đứng lên bật đèn, vì ngoài đường đèn cũng đã sáng choang. Nàng thấy khó chịu trong mình, như nhức đầu chóng mặt. Nàng gọi bằng chuông điện thì con Nguyên chạy lên. – Nhà có gì là của chua không? – Bẩm có chanh, nhưng mà để lâu lắm rồi, sợ ủng. – Hay mày lấy vào cái đĩa cho tao mấy quả dưa chuột ngâm giấm lên đây nhé. – Vâng. Một lát, con Nguyên lên thưa rằng: – Bẩm có một ông xưng danh là Việt Anh muốn nói với bà một câu chuyện can hệ lắm. Hằng nghĩ một lúc rồi bảo: – Mày xuống bảo hôm nay tao mệt, không tiếp ai. – Vâng. Con ở vừa tất tả chạy đi thì Hằng lại gọi: – Nguyên! Nguyên! – Dạ! – Bà bảo gì nữa ạ? – Mày mời ông ấy lên phòng trên này, tao chờ. Nói thế rồi, nàng ngồi xuống nghĩ ngợi băn khoăn. Nàng sắp làm một điều càn rỡ... nàng sắp tự quyết lấy điều sinh tử gì cho mình và cho ai... Hằng bất giác lại hối hận, song đã muộn mất rồi. Đến đây, đứa ở đã dẫn Việt Anh vào ngồi ngay xuống. Chàng đội mũ dạ đen, đi giày đen, khoác một cái áo tơi trắng đã ngả màu vàng, trên cái áo tơi có những nốt lấm tấm nước mưa. Hai cặp mắt chàng quắc lên như mắt người điên, giọng nói của chàng nghe ghê như giọng nói của người hấp hối. – Hằng! Tôi xin lỗi mình. – Kính chào anh. – Phải, tôi đã có lỗi lắm. Đáng lẽ, tôi không còn được bước chân vào nhà này... – Nếu anh đến chơi vào lúc chồng tôi có nhà thì phải hơn. – Khốn nỗi những điều tôi muốn nói thì lại không thể nói trước mặt Đức được. Tôi đã phải đứng chờ mãi ở đầu phố cho anh ấy đánh xe với Yvonne ra đi. Không nên để Đức biết là tôi có vào đây... Còn đối với bọn gia nhân thì, sau khi tôi đi rồi, Hằng chỉ việc dặn chúng là có một người em họ đến xin tiền, không được nói cho ông chủ biết thế là đủ... Vả lại... Việt Anh nói đến đó thì nghẹn lời, mình mẩy run lên, Hằng phải nói: – Chết chửa! Anh làm sao thế? – Không, không hề gì... Đứng chờ mãi ngoài đường nên hơi lạnh, nhưng không hề gì. – Anh xơi một chén trà nóng nhé? Anh ngồi xuống ghế mà sưởi đi, để tôi bảo nó pha. Việt Anh lắc đầu: – Thôi, tôi không ngồi lâu. Và Hằng cũng không sợ tôi nói dài dòng... Hằng ơi, tôi sắp đi xa đây, cho nên tôi lại từ biệt Hằng... – Thế anh định đi đâu? – Xa lắm. Đi khỏi xứ sở, khỏi đất nước này... Nhưng mà Hằng không cần biết rõ, vô ích. Nói đến đây. Anh đưa mắt nhìn khắp gian phòng, rồi đặt mũ xuống ghế, vịn hai tay vào thành ghế như nhọc mệt lắm, Hằng tần ngần hỏi: – Thế anh đi xa thế để làm những việc gì? – À, tôi làm công cho một thương đoàn của người Hoa Kiều một việc khá to tát. Nhưng mà việc can hệ chỉ là xa cái đất này, để tìm sự quên. – Thật đấy, anh cũng nên đi xa... – Có phải thế không? Đi là phải lắm chứ! – Vì đất Hà thành chỉ làm hại anh mà thôi. Trông anh bây giờ thảm hại quá. Tôi cũng không lấy gì làm lạ, vì nhiều người vẫn nói đến cái đời vô trật tự của anh trong mấy tháng nay... Họ nói anh ngày nay đã ngã hẳn xuống một đống bùn... tửu, sắc, yên, đổ, thôi thì đủ cả! Phải không? Trời ơi! Mặt mũi anh tiều tụy đến thế kia kìa! Việt Anh! Đêm hôm qua anh ngủ ở tiệm thuốc phiện nào? Tôi thật không ngờ một người có học thức như anh, có chí khí như anh, mà bây giờ mất nhân cách đến như thế? Việt Anh so vai đáp bằng giọng oán hận: – Thôi đi, Hằng không cần sỉ nhục tôi đến như thế nữa. Tôi tưởng tôi đến thế này, không có gì là khó hiểu. Nếu tôi ngày nay hóa ra bê tha, đê tiện, là vì tôi giao thiệp với cái đám xấu xa... Sự đau khổ, sự túng kiết, cái nghèo đói... Nếu tôi đến nỗi mất nhân cách như Hằng vừa nói là bởi vì tôi... tôi đã yêu một người đàn bà. Nói xong, Anh ngồi bịch xuống ghế, đăm đăm nhìn lửa đỏ trong lò sưởi. Hằng cũng oán hận mà rằng: – Người đàn bà ấy cũng đã yêu anh... Nếu anh không biết cách làm cho người đàn bà ấy về tay anh thì là tại ai, tưởng anh đã biết. Mà nếu không lấy được người đàn bà ấy nữa thì anh cũng phải làm thế nào cho xứng đáng lòng yêu của người ta thì hơn... Ngày nay, anh đã lăn lóc khắp mọi chỗ của bọn đãng tử! Việt Anh! Như thế là xứng lòng yêu của Tiết Hằng đấy à? Việt Anh đứng lên, lại gần nàng, khẽ gọi: – Hằng ơi... Hằng! Nàng đứng lánh ra, cau mày: – Gớm, anh sặc lên những mùi thuốc phiện! Anh đã nghiện chưa? – Chưa nghiện nhưng thỉnh thoảng vẫn hút. Ồ, thuốc phiện làm cho người ta khuây khỏa lắm, Hằng biết sao được. – Rõ, khốn nạn chưa! – Hằng ơi, trước khi ra đi, trước khi từ biệt, mình, tôi muốn hỏi mình một điều. Chắc Hằng còn nhớ hôm chúng ta cãi nhau ở bệnh viện St. Paul, sau khi Hằng nhận được lá thư của Yvonne. Hằng giật mình lên, vội hỏi: – Lá thư nào của Yvonne? – Lá thư chữ đánh máy, tố cáo tôi có trách nhiệm... – Trời ơi! Yvonne là kẻ có cái tà tâm ấy à? – Chứ gì! – Thôi đi, anh đừng đổ oan cho người ta... – Không, không, không. Việt Anh không bao giờ nói nhảm. Vả lại Yvonne đã thú thật với tôi rồi... Hằng nên biết rằng năm sáu tháng trước đây không mấy tối là Yvonne không đi lùng các cao lâu, các nhà khiêu vũ, các tiệm thuốc phiện, để tìm tôi... Nó yêu tôi, con bé đáng thương ấy! Mà vì nó yêu tôi quá nên nó mới làm cái việc càn rỡ để... hại tôi... Thôi, tôi cũng chẳng oán trách gì nó... – Sao hai người không lấy nhau đi? Việt Anh bất bình lắm, cau mày: – Tôi, tôi không muốn lòng người dễ quên, dễ yêu thế được. Vả lại, chắc gì mà nó đã bằng lòng... Nhưng mà thôi, mặc chuyện ấy đấy, cho tôi nói nốt đã: tại bệnh viện bữa ấy, nếu tôi đã thú tội cùng Hằng, đã nói rõ sự thực, liệu Hằng có tha thứ không? – Sao lại không? Tôi tưởng anh đã dìm chết mất Quân chứ có phải chỉ ngờ anh không cứu Quân đâu. – Ấy thế mà tôi, tôi lại cho rằng vì có Đức cũng muốn lấy mình nên mình kiếm chuyện duỗi tôi ra. – Nghĩa là anh đã là một kẻ ngu dại. – Phải lắm. Hơn nữa lúc ấy lòng tự ái của tôi đã bị thương nặng... Tôi căm tức rằng đến Hằng mà cũng lại nghĩ tôi đã hại chồng của Hằng. Tôi đã ghen Hằng lắm, giận Hằng lắm, cho nên tôi đã không cắt nghĩa rõ, đã không thú tội! Hằng ứa nước mắt kể lể: – Thành ra tôi cứ tin rằng anh đã ám hại Quân, mà không biết anh đã dùng những cách gì! Lúc ấy tôi vẫn yêu anh lắm. Nhưng tôi sợ nếu lấy anh thì là đồng phạm với anh... Một người đàn bà cùng nhân tình âm mưu ám hại chồng là một con quái vật... Vậy mà tôi vẫn yêu anh một cách xót xa... Cho nên muốn khỏi mang tội với trời, tôi đã nghĩ không còn cách gì hơn là vội vàng nhận lời với Đức. Việt Anh đứng ngây ngất như bị thương nặng trên đỉnh đầu. – Trời ơi, vậy nếu tôi đã thú thật thì Hằng cũng đã lấy tôi đó ư? Hằng rền rĩ mà rằng: – Chứ gì nữa! Anh buông xuôi hai tay xuống, thở dài: – Lòng kiêu ngạo!... Trời ơi, lòng kiêu ngạo của tôi đã hại cả một đời tôi! Tôi đã muốn có Hằng, vậy mà tôi đã đánh mất hết cả! Hằng quay về phía lò sưởi chất mấy thanh củi và bảo: – Thôi, sự đã rồi! Mình đi đi, đừng làm khổ tôi nữa. Nhưng mà Anh bàng hoàng tỉnh giấc mộng, như điên như dại, hấp tấp mà rằng: – À! Nhưng mà bây giờ thì tôi lại không thể nào rời bỏ cái đất này mà đi được nữa! Không, tôi không đi! Những lời Hằng vừa nói thật như là ngọn đuốc cho con đường đời u ám của tôi, thật như một liều thuốc bổ cho cái thân thể ốm yếu của tôi! Từ hôm ở bệnh viện St. Paul đến nay chỉ mới là một năm thôi. Cái tình của mình với tôi đã đến thế thì trong một năm chưa phai nhạt được! Lúc ấy Hằng yêu tôi thì bây giờ Hằng cũng còn yêu tôi! – Nhưng hiện giờ... tôi là người đã có chồng! – Nhưng mà không yêu chồng! Mình không yêu Đức... – Anh làm thế nào anh biết? – Tôi biết! Nếu mình yêu Đức, mình lại bằng lòng tiếp tôi thế này hay sao? Mình lại phải khóc vì tôi hay sao? Những giọt lệ chưa khô đấy kia... Tiết Hằng! Hằng đứng lên rầu rĩ mà rằng: – Anh nên đi đi! – Không! Những cơn giận dữ của mình, những giọt lệ lã chã của mình đã đủ nói rõ là mình yêu tôi!... Hằng ơi, Hằng nhớ lại những ngày ta còn đi học với nhau... Những lời mình thề thốt với tôi... Mình đã lừa dối tôi mà kết duyên với một người khác! – Thôi đi, anh im đi! – Không! Trời sinh ra Hằng để mà yêu tôi, Hằng vẫn đau khổ vì là vợ một người không phải là tôi, cũng như tôi, tôi đương khô héo cả tâm can bởi không được là bạn trăm năm của Hằng! Hằng chạy ra hẳn một góc phòng, cách xa Anh. Chàng lại gần nằn nì: – Này, Hằng ơi, những điều đau khổ của ta chưa phải là đã hết phương cứu chữa... Nếu Hằng thương xót tôi thì Hằng rất còn có thể cứu vớt được tôi... Mình có muốn cho tôi lại được như xưa, lại là người có can đảm, có chí khí, một người xứng đáng hay không? Xin cứu tôi khỏi chết! Hằng run sợ, thất thanh hỏi: – Nhưng mà tôi làm gì được? – Đi trốn! Ta cùng nhau đi trốn! Tôi vẫn biết Hằng không ưa gì sự phản trắc... nhưng mà... dư luận thì cần gì? – Đó không phải là việc của dư luận mà là của bổn phận. Việt Anh nhìn vào tận mặt nàng mà rằng: – Bổn phận của người ta là: yêu! Liệu hồn! Rồi thì mình sẽ sống một cuộc đời vô vị, rỗng tuếch! Tôi đã nói là tôi đi xa... sang Tân Gia Ba làm ăn... Mình có muốn cùng đi không? Hạnh phúc ở bờ biển bên kia... đã như giơ tay sẵn đón chúng ta... Việt Anh và Tiết Hằng ở nơi đất khách quê người thì sẽ cùng sung sướng! Hằng nghĩ thế nào? Hở? Tiết Hằng bưng mắt khóc mà rằng: – Mình làm tôi khốn khổ quá đi mất. Nếu mình muốn hy sinh tính mệnh vì mình thì tôi cũng hy sinh ngay, vì tôi thấy tôi có trách nhiệm lớn trong cái đau khổ của mình. Nhưng mà mình lại muốn bắt tôi phải hèn hạ, phải phản trắc! – Tôi chỉ muốn bắt mình có can đảm! – Không, chính thế là hèn hạ đó, mình ạ. Mình muốn gì? Muốn tôi chết ư? Không! Mình lại hứa hạnh phúc cho tôi! Trời ơi, tôi còn biết nghĩ ra làm sao nữa! Việt Anh đi đi lại lại, nghiêm giọng nói: – Không, tôi không bắt ép Hằng. Tôi để cho Hằng có toàn quyền quyết định cuộc đời của Hằng, cuộc đời của tôi. Thật đấy, chỉ một mình Hằng gánh lấy cái trách nhiệm ấy. Mà tôi không muốn Hằng đi theo tôi vì thương hại tôi đâu. Không! Nếu Hằng không đi, thì Hằng không phải lo ngại gì cả, không phải hối hận gì cả... Tôi đi ngày mai, hoặc ngày kia, trong lòng chứa chan hy vọng sẽ quên được, sẽ khỏi đau khổ, vì người yêu quý nay đã tha thứ cho tôi rồi. Đấy Hằng xem, tôi có cố ý làm cho ai phải thương xót tôi đâu!... Nếu tôi ra đi một thân một mình, đi biệt tăm biệt tích, thì đó là do ý muốn của Hằng... Thế là xong chuyện, thế là hay lắm... Vì Hằng sẽ không bao giờ, không bao giờ còn nghe thấy ai nói đến Việt Anh này nữa? Thật đấy, không bao giờ Hằng còn phải nghe chuyện đến tôi nữa! Hằng hãi hùng vội hỏi: – Mình muốn nói gì thế? Việt Anh cười cho nàng yên tâm và thêm: – Chỉ có thế! Hằng quyết định đi thôi. Tôi ở đây lâu rồi, chắc Đức cũng sắp về. Tôi sẽ xuống đứng dưới đường kia mà chờ mình... Tôi sẽ đứng nấp vào một chỗ nào đó để đợi mình... Nếu Hằng còn yêu tôi, dám hy sinh danh tiết vì người yêu, thì mình sẽ lẻn ra đi, tôi xin chờ mình, chờ mình... mãi mãi đến đêm khuya! Từ dưới đường, tôi sẽ nhìn lên cái cửa sổ phòng này, nếu đèn còn sáng, cửa còn mở, thì tôi còn chờ Hằng mãi mãi! Thật thế, tuy mưa, tuy rét, tôi cũng đứng chờ đợi được, vì bây giờ tôi đã có can đảm lắm. Mình muốn ra đi cùng tôi thì mình chỉ cần gói ghém một ít quần áo vẫn dùng thôi. Tôi đã có đủ tiền hai xuất tàu... Hằng ấp úng mà rằng: – Tôi tưởng là nếu... Nhưng Việt Anh ngắt lời nàng: – Thôi, tôi phải xuống đây. Nếu mình đã suy nghĩ kỹ quyết ở lại... thì mình chỉ có việc đứng lên ra đóng cửa sổ lại! Nếu tôi thấy đèn tắt cửa đóng thì tôi đi... Trời ơi. Nếu vậy thì ác quá nhỉ? Thôi, hoặc là chốc nữa, hoặc là không bao giờ ta thấy mặt nhau nữa... Tôi chờ Hằng đấy... Hằng ngẫm nghĩ đi... quyết định đi... Tôi van Hằng! Nói xong, Anh nhanh nhẹn cầm mũ ra khỏi phòng, xuống một lúc lâu, Hằng ngồi bưng đầu ngẫm nghĩ... rồi Hằng đứng lên, ra cửa sổ nhìn xuống đường... Trời rả rích mưa... Gió thổi ào ào, mặt đường nhựa đầy những ánh sáng đèn điện. Lá rụng phủ lác đác khắp mặt đường. Một lát, nàng quay vào gọi con Nguyên và bảo: – Đem cho tao cái va ly con vào đây. – Bẩm con đã lấy dưa ngâm dấm... – Thôi, đem cho tao cái va ly... Vừa lúc đó chợt thấy tiếng còi xe hơi gọi mở cổng. Hằng thấy mồ hôi toát ra đầm đìa khắp mình. Nàng thấy chóng mặt như muốn ngã lăn xuống đất... Vừa lúc đó, Đức uể oải bước lên... Chàng hỏi: – Mợ chưa đi nghỉ kia à? Hằng bảo con Nguyên: – Thôi cho mày xuống dưới nhà. Đức lại hỏi: – Từ lúc tôi đi đến giờ, Hằng vẫn ngồi yên một chỗ? Hằng gật đầu. Đức nhìn vợ một lúc rồi quay ra: – Thôi, tôi để mình đi nghỉ. Hằng nhìn theo chồng, bâng khuâng hồi lâu chợt khẽ gọi: – Mình ơi mình... Đức quay vào, vồn vã: – Mình cần giúp gì? – Không... Vừa rồi, lúc mình đi vắng, nhà có khách... – Thế à! – Tôi vừa tiếp Việt Anh một lúc lâu... Đức gật gù một hồi, khoan khoái mà rằng: – Tôi biết đã lâu rồi... cảm tạ Hằng đã nói thật cho tôi rõ. Tôi chờ Hằng có nói rồi tôi mới nói... Lúc đánh xe ra, tôi thấy Việt Anh nấp sau một gốc cây... Lúc về, tôi lại thấy Việt Anh đi về mạn trên, chợt trông thấy xe tôi, thì lại vội nấp sau một gốc cây! – Bất đắc dĩ mà tôi phải tiếp... – Hằng tiếp anh ấy là phải lắm chứ! Tôi có dám phàn nàn gì! Tôi chắc mình đã khuyên bảo anh ta được nhiều điều hay... Hiện giờ thì Việt Anh là người rất hỏng. – Việt Anh chỉ là người đáng phàn nàn. – Ơ hay... thì chính tôi, tôi cũng vẫn ái ngại cho anh ta. Mà vì thế cho nên đáng lẽ vào bàn giấy làm việc thì tôi lên qua phòng này... Tôi không biết mình với Việt Anh đã chuyện trò với nhau những gì, song riêng tôi, tôi cũng có một chuyện muốn nói đấy, mình ạ. – Gì vậy? – Cái tự do của Hằng!... Cứ để tôi ôn tồn nói cho có đầu có đuôi... Hằng nên biết rằng hiện giờ, Huỳnh Đức là một thằng chồng đã chán nản lắm, đã nhọc mệt lắm. Thật đấy. Hôm nay thì tôi xin cất bỏ cái mặt nạ của tôi ra... Mình vẫn thấy tôi cười nói, bông đùa... chính ra, ấy chỉ là đóng kịch. Vì rằng tôi đã định chiếm lòng yêu của Hằng, cố làm cho Hằng phải quên đau... Tôi đã phải làm ra cái vẻ sung sướng mãi mà thật ra, tôi đau khổ lắm! Tôi đã phải chiến đấu mãi, nhưng nay, tôi ngã lòng mất rồi! Tôi không thể được nữa... Tôi tưởng Hằng đã yêu tôi, đã hoàn toàn về tay tôi... Chao ôi! Tôi nhầm! Bây giờ tôi mới biết là tôi mơ ước hão! Mình vẫn còn yêu Việt Anh... – Tôi đã làm gì cho chồng tôi... – Khoan, Hằng cứ để tôi nói nốt... Bao giờ mình cũng yêu Việt Anh! Cuộc đời của mình chỉ có thể sung sướng nếu mình cùng sống chung một cuộc đời với Việt Anh! Tôi biết rõ mình lắm rồi. Tôi đã ngẫm nghĩ chán chê ra rồi. Bây giờ đã đến lúc tôi quyết định! Đến đây, Đức chững chạc ngồi xuống ghế. Hằng cũng nghiêm nét mặt mà thản nhiên rằng: – Tôi rất vui lòng nghe. Đức quả quyết tiếp: – Tôi bây giờ không dám nghĩ đến tôi nữa. Tôi phải quên tôi đi mà nghĩ đến Hằng!... Mình lấy hai đời chồng rồi... Cuộc nhân duyên thứ nhất phải âm thầm đau khổ thì cuộc nhân duyên thứ nhì không lẽ lại cũng thế được. Chính ra Hằng cũng đáng hưởng hạnh phúc ở đời... vì ái tình! Trời ơi! Tôi yêu Hằng quá, không thể để Hằng cứ đau khổ như thế mãi được! Hằng là vợ tôi thì tôi có lợi hơn gì đâu? Tôi chỉ khổ hơn xưa thôi! Tôi được mọi người mách rằng Việt Anh sắp rời xứ sở ra đi... Hằng có muốn cùng đi với người yêu chăng? Nàng giương to cặp mắt nhìn chồng, ngạc nhiên hết sức, Đức cũng đăm đăm nhìn nàng rồi nói tiếp: – Không, chả có gì lạ đâu. Tôi cũng chỉ là một người như mọi người! Bắt chả được thì tha đi, lại được cái tiếng làm phúc nữa. Hằng chỉ cần gật đầu một cái là tôi xin chịu nhận hết mọi điều lầm lỗi của một người chồng không ra gì, để Hằng có thể được tự do. Tôi xin dằn lòng ký một chữ. Nếu mình yêu Việt Anh thì tôi khuyên mình nên cùng ra đi với anh ấy! Cùng sống chung một cuộc đời với mình, Việt Anh chẳng bao lâu lại trở nên một người giỏi giang, hữu ích và anh hùng nữa. Rồi thể nào hai người cũng sẽ sung sướng cả hai... – Trời ơi! Anh Đức! – Thật đấy. Mà Hằng không cần nghĩ đến tôi đâu. Tôi có nhiều việc lắm, tôi sẽ quên đi. Tôi chỉ xin có một điều là: khi Hằng sung sướng rồi thì đôi khi cũng nên chợt nghĩ đến tôi là một người bạn tốt nhất đời của Hằng, chỉ có thể lòng yêu Hằng bằng cách nhường Hằng cho kẻ khác! Nói rồi Đức đứng lên quay ra phía khác để giấu hai dòng lệ đã sắp tuôn rơi... Hằng thổn thức nói: – Mình nói thật đấy à? – Tôi lại dám nói đùa như thế à? Hằng gục đầu xuống bàn, khóc mà nói: – Đức ơi, thế thì tôi xấu hổ lắm, tôi không dám nhìn mình nữa! Thật vậy, lúc nãy Hằng đã tính bỏ hết cả danh tiết, bỏ chồng mà đi theo giai! Nhưng may sao cho Hằng là nay Đức đã nói đến những lời tha thiết đến thế, cảm động đến thế. Cái lòng quân tử vô cùng của mình đã ngăn ngừa được sự sa ngã rất tai hại của vợ mình là tôi. Lúc nãy tôi đã định trốn đi, mà bây giờ thì tôi lại không thể nào bỏ mình mà đi được nữa!... Tôi chưa yêu mình nhưng mà tôi phải nhớ ơn mình... Từ giờ trở đi, mình không những là người chồng đáng quý nhất đời, quân tử nhất đời, mà lại còn là ân nhân của tôi! Hằng vẫn nói nhưng vẫn gục mặt xuống bàn. Đức đến ngồi cạnh nàng, nâng niu đỡ nàng lên, thất thanh hỏi: – Thật không, em Hằng? Hằng ngẩng đầu lên, vén lại mấy mảng tóc rũ xuống trán và gáy rồi đăm đăm nhìn ngọn lửa đỏ trong lò sưởi nói tiếp: – Thật đấy anh Đức ạ. Từ nay trở đi, Tiết Hằng có bổn phận phải hầu hạ dưới gối anh... Đạo trời đã muốn như vậy. Hằng có muốn cưỡng cũng không nổi... Thật đấy, từ nay trở đi, thì có một sức mạnh thiêng liêng huyền bí trói buộc tôi gần mình... trời ơi! Đức xanh mặt vì Hằng đương nói bỗng ôm bụng nhăn nhó. Chàng luống cuống hỏi: – Chết nỗi mình làm sao? Nhưng Hằng xua tay rồi lại bình tĩnh nói tiếp: – Không, tôi hơi chóng mặt và thấy lợm giọng một chút... Mình ạ, ít lâu nay tôi còn bán tín bán nghi, nhưng bây giờ thì tôi đã đến lúc dám cả quyết báo tin cho mình biết là dễ thường tôi đã bắt đầu... tôi đã bắt đầu có thai... Thật thế trong mình tôi hình như có sự chuyển động, sự thay đổi... Trời ơi, nếu sẽ là con giai thì sướng quá nhỉ? Đức ôm chặt vợ vào lòng, áp mặt mình vào mặt vợ. Hằng hỏi: – Mình khóc đấy à? Đức thổn thức đáp: – Thật thế, khóc vì sung sướng. Trời ơi ta sẽ quý hóa nó biết bao nhiêu... Nó sẽ là cái nghĩa sống cho chúng ta, đó Hằng! – Tôi thấy lạnh lắm mình ạ. Mình đi kiếm những cái gì cần dùng cho tôi đi. Đức buông vợ ra, hấp tấp xuống nhà dưới. Hằng gượng đứng lên, lần ra đến cửa sổ, nhìn xuống đường. Gió thổi mỗi lúc một mạnh hơn... Mặt đường nhựa ngập lụt, đầy lá rụng. Tại một gốc cây nọ thấp thoáng như có bóng một người mặc áo tơi. Hằng thổn thức khép cửa... HẾT===Tiểu thuyết Giông Tố Tác giả: Vũ Trọng PhụngChương 1Mặt trăng rất to và rất tròn, chiếu vằng vặc... cánh đồng lúa chín như một tấm thảm vàng. Con đường quan lộ rải nhựa, như một con rắn bóng nhễ nhại, nằm uốn khúc trên tấm thảm ấy. Những làng mạc xa xa hiện ra những nét vẽ thẳng đen sì. Đó là vào tháng mười, năm 1932. Giữa lúc đêm khuya tịch mịch ấy, trên con đường quan lộ, mà thỉnh thoảng mới có một vài cây xoan không lá khẳng khiu và tiều tụy như thứ cây trong những bức họa về “cảnh chết”, một chiếc xe hòm phăng phăng chạy hết tốc lực, thân xe chỉ là một cái chấm đen bóng, còn hai ngọn đèn sáng quắc chiếu dài hàng nửa cây số thì như hai cái tên vun vút bay dưới ánh trăng. Xe đương phăng phăng chạy thì đến gần một chỗ ngoặt mà bên đường có một lớp quán gạch và một cây đa cổ thụ, bỗng dần dần chậm lại, rồi đứng hẳn. Khi xe đã đứng dừng lại lâu rồi, người ta còn thấy sự cố sức của người tài xế mở máy sình sịch mấy lần nữa mà xe vẫn không nhúc nhích được một ly. Rồi thì từ xe bước xuống, hai người tài xế hấp tấp ra mũi xe, lật miếng sắt che máy ra, loay hoay kiểm điểm bộ máy. Trong khi hai người chưa tìm được cỗ xe chết vì lẽ gì, thì từ trong hòm kính thấy đưa ra một câu hỏi gắt rất ngắn, nhưng cũng đủ làm cho cả hai run lập cập. Thế nào? Vài phút im lặng, rồi người tài xế chính ấp úng đáp: Bẩm quan, con đã thấy rồi. Cái ống cao su dẫn ét xăng có một đoạn nát nhủn, đến nỗi xăng chảy cả ra ngoài nhưng mà xuống không thoát. ... ! Sao không liệu mà thay vào cái chuyến chữa hôm nọ đi?... Dứt lời “chửi”, “quan” bước xuống xe và sập cửa xe rất mạnh để tỏ ý giận dữ. Đó là một người gần 50 thân thể vạm vỡ, hơi lùn, trước mặt có một cặp kính trắng gọng vàng, trên môi có một ít râu lún phún kiểu tây, cái mũ dạ đen hình quả dưa, cái áo đen bóng một khuy, cái quần đen, rọc trắng, đôi giày láng mũi nhọn và bóng lộn, làm cho lão có cái vẻ sang trọng mà quê kệch, cái vẻ rất khó tả của những anh trọc phú học làm người văn minh... Tài xế chính và phụ, cả hai đều sợ hãi lắm, cứ việc châu đầu vào cái hòm máy, lúc đánh diêm soi, lúc sờ soạng như xẩm tìm gậy, chứ không dám quay lại nhìn đến ông chủ, lúc ấy đứng dạng háng giữa đường, hai tay khoanh trước ngực, đầu hơi cúi xuống phía trước mặt, cặp mắt gườm gườm hứa một sự trừng trị đáng sợ. Bị chủ mắng tài xế chính khẽ quát người phụ: Cầm lấy cái mùi xoa này, buộc nối vào hai đầu dây cao su! Mau lên! Mà quấn rõ chặt cho nó thật kín chứ! Rồi người tài xế chính lại lên ngồi mở máy thử. Cái xe kêu sình sịch một lúc lâu rồi lại thôi. Mấy bận đều thế cả, hai người càng hấp tấp bao nhiêu, càng gia công vất vả bao nhiêu thì cái xe càng bướng bỉnh, càng ỳ ra bấy nhiêu. Lão chủ cười nhạt mà rằng: Tội chúng mày đáng chết cả đó, các con ạ! Hai anh làm công đưa mắt nhìn nhau lo sợ, chứ không dám nói gì. Lão chủ lại tiếp: Chúng mày để ông ngủ đường thì khốn cả đó! Lạy quan, chẳng may như thế này, quan thương cho. Tài xế chính van lơn như vậy rồi lại ra hiệu ngầm cho người phụ mình cứ việc vờ vịt loay hoay chữa một cách vô hiệu cái bộ máy hầu như không thể chữa được ấy. Lão chủ hỏi: Thế còn bao nhiêu cây nữa đến Hà Nội? Anh phụ lái nhanh nhảu thưa: Bẩm chỉ còn độ bốn mươi cây. Hừ! Lão chủ hừ một cái đi đi lại lại trên đường bực tức cực điểm. Nguyên lão ta là một ông đồn điền giàu có đã khét tiếng miền trung thổ, bữa nay đương đêm khuya về thủ đô, là vì muốn để sáng sớm hôm sau có đủ thời giờ đến một cửa hiệu kim hoàn, mua một thứ hàng quý giá, để mừng một ông tổng đốc được đệ nhị đẳng Bắc đầu bội tinh. Cho nên khi thấy xe bị liệt máy như thế ở giữa đường, đương đêm khuya, không còn biết cầu cứu vào đâu nữa thì lão băn khoăn và bực tức, băn khoăn về nỗi sợ đến mừng chậm hơn những người khác thì mất vẻ long trọng, và bực tức về nỗi từ khi lão ta giàu có đến phú gia địch quốc, từ một anh cai phu mỏ lên đến bậc nhân dân đại biểu, thì chưa hề có một sự gì trái ý lão mà lão lại phải chịu. Lần này là lần đầu, lão phải chịu thua cái máy xe hơi. Lão đi đi lại lại như cuồng chân, như con hổ trong cũi sắt, nghĩ đến những cái má hồng mơn mởn, những cánh tay trắng như ngà ngọc của mấy cô đào ở Hà Nội... nếu tài xế của lão đã biết lo liệu từ trước cho cái xe lúc nào cũng lành lặn hoàn toàn. Vậy mà bây giờ lão phải thơ thẩn giữa nơi đồng không mông quạnh ngắm trăng suông, nhìn sương tỏa, nghe giun kêu dế khóc, bên cạnh những tiếng búa gõ vào sắt cành cạch, những tiếng sình sịch của một cái xe hơi khó tính cứ muốn chạy lại thôi... Tao cho chúng mày nửa giờ sau nữa đấy! Nói rồi, lão nhằm phía cây đa mà đi thẳng trên một con đường nhỏ, qua cánh đồng, đi dạo chơi cho tiêu diệt thì giờ, cũng không có mục đích gì khác... Mặt trăng lúc này thì mảng mây to lướt qua che đi thành thử trời đất tối sầm hẳn lại. Sương xuống dầy quá, làm ướt cả áo của lão. Giữa cánh đồng thấy tản mạn những cục lửa xanh, lửa đỏ trên mặt đất lúc cháy lúc tắt, như ma trơi. Tiếng côn trùng tỉ tê, ri rỉ, làm cho lão ta bắt đầu cảm thấy sự im lặng, hiểu rõ được ý nghĩa sự vắng tanh và thôi cũng không nện mạnh gót giầy xuống đường lộp cộp nữa. Hai tay đút túi quần, lão cúi đầu xuống mà đi, có vẻ ngẫm nghĩ như một nhà triết học... Chợt thấy về phía trước mặt có tiếng cười khúc khích... Lão ngẩng lên, thấy bốn năm đống rạ lù lù tiến đến. Thì ra một bọn thợ cấy đi gánh rạ đêm. Ngần ấy người cười nói chuyện trò vui vẻ lắm. Lão đứng tránh ra một bên. Những đống rạ cũng lù lù tiến đến. Đám mây to đã buông tha mặt trăng ra rồi. Trời đất lại sáng quang vì cái ánh trăng lạnh lẽo. Bọn thợ cấy thấy có một người ăn mặc tây đứng đấy thì thôi không chuyện trò gì với nhau nữa, chỉ len lén rón rén đi qua. Bà lão già đi đầu khẽ thưa. Quan lớn làm ơn nánh cho chúng con đi một thị. Lão bèn làm ra cái bộ thương người mà hỏi cả lũ: Các người đi làm đồng khuya nhỉ? Mùa màng có khá không? Một người trong bọn đáp một câu oán hận: Bẩm quan, lúa bị sâu cắn ráo cả, không đủ tiền thuê ạ. Bà lão già đi đầu qua rồi thì đến một mụ trông bẩn thỉu. Mụ thứ ba trông cũng xấu xí. Người gánh cái gánh rạ thứ tư là một ông lão râu đã bạc, cái đầu trọc quấn trong miếng vải nâu trông như một cái mõ nhà chùa, gánh thứ năm thì do một cô ả mà quần áo trông gọn ghẽ hơn hết thảy. Lão trố mắt nhìn... Cô ả gánh rạ hơi cúi nghiêng mặt để đưa mắt nhìn trộm. Ánh sáng trăng tuy leo lét, song cũng đủ khiến cho hai con mắt rất tinh tường của nhà điền chủ nom thấy rõ hai cái má phúng phính, một cặp môi nhỏ và dầy, cái cằm tròn trĩnh và hơi lẹm trong cái vành khăn mỏ quạ bằng láng thâm. Khi cô ả gánh rạ đi qua, nghĩa là cái mặt đã khuất sau đống rạ tròn, nhà điền chủ lại trông theo cái váy nâu cũn cỡn, do một đường lạt khíu giữa, cho nó chẽn đến nửa đùi, một bộ đùi phốp pháp trắng nõn, trông rất đáng yêu, mặc lòng từ bụng đến bàn chân đều có một lớp bùn trắng, mỏng, khô, đông lại, đã nứt ra thành từng miếng nhỏ, sắp rơi xuống... Nhà tư bản đứng trông cái bộ đùi thôn nữ ấy một cách tần ngần trong đến vài phút, đoạn như định thần lại, thoăn thoắt bước theo mà nói bằng một giọng rất ân cần: Này chị gánh cái gánh lại chỗ xe ô tô kia, tôi mua một ít cho. Thấy lời nói lạ tai ấy, chị nhà quê đứng lại, nửa tin, nửa ngờ. Lão này nhanh nhảu dùng đến cái giọng hách dịch: Xe nổ lốp, người ta phải mua rạ để nhồi vào bánh, mà có sẵn rạ lại không bán hay sao? Alê mau lên gánh lại, quan lớn trả cho tiền một nửa gánh! Còn các bà già kia có muốn chờ thì cứ đi đủng đỉnh lại một tí, chị ấy đem lại chỗ xe đây kia thôi. Nói xong, lão khôn ngoan bước nhanh về chỗ cái xe. Bọn thợ gặt cũng đủng đỉnh lên đến đường cái quan thì đặt gánh, ngồi phệt xuống đất, cẳng xoạc ra và hai tay bó làm một. Còn chị nhà quê ngây thơ thì thoăn thoắt gánh gánh rạ thẳng tiến đến cái xe hơi, trong đó quan đã chễm chệ lên ngồi và bật đèn sáng quắc lên rồi. Hai anh tài xế quay lại, ngừng tay, nhìn ông chủ như có ý đợi lệnh gì thì lão chủ quát: Chúng mày ngẩn người ra làm gì thế? Chúng mày định để ông ngủ đêm trên xe này phải không? Thế là cả hai lại quay đầu vào bộ máy. Một anh vẫn còn có gan khẽ nói: Bẩm quan, con đã cắt được một đoạn dây ở chỗ khác để thay vào đây rồi. Chậm lắm thì cũng chỉ nửa giờ nữa là xe chạy được. Lời ông chủ: Ông cho chúng mày một giờ nữa! Nói xong, lão chủ quay lại sau lưng nhìn qua miếng kính hậu ở hòm xe thì thấy bọn thợ gặt đặt gánh ngồi chờ ở chỗ cách xa ô tô những ba mươi thước còn cô bán rạ thì đã đến đứng bên cửa xe. Thưa quan, quan dùng hết cả gánh, hay độ bao nhiêu con tháo... À, con bán cho quan lớn một bên nhé! Tháo đi rồi quan cho tiền. Trong lúc cô ả lúi húi tháo một bên quang thì nhà điền chủ ló đầu ra, đôi mắt phong tình ngắm nghía không chớp... Bẩm con gạt rạ ở bên đường đó ạ. Ừ, để rồi quan cho tiền. Vờ tìm ví da trong túi áo, nhà điền chủ mắt vẫn lẳng lơ nhìn chị nhà quê cho mãi đến khi cầm trong tay cái ví rồi mà vẫn không lấy tiền ra vội, lại hỏi: Con tính bao nhiêu? Bẩm quan chả mấy tí, quan cho mấy xu cũng được ạ. Được lắm! Con ngoan ngoãn lắm, để ta thưởng cho nhiều tiền! Con hãy lên xe này để quan đóng cửa không rét quan... Ta đang đến tiềm đây. Chị nhà quê nhìn đến những đệm dạ đẹp đẽ, những chỗ kền mạ bóng nhoáng, con búp bê Nhật hay hay, treo ở bên miếng kính, ngọn đèn nhỏ sáng chói lọi trên nóc xe, thấy nó sạch sẽ quá, sang trọng quá, không dám bước lên. Nhưng mà quan đã với ra định đóng cửa xe, chị đành liều mà bước lên vậy. Quan đóng cửa đánh sập một cái rồi lại hỏi: Thế con làm vất vả như thế thì mỗi ngày được bao nhiêu? Bẩm chỉ được mỗi ngày sáu xu và hai bát gạo. Khổ nhỉ! Thế để quan cho năm đồng con may áo mặc tết nhé! Đây này, năm cái giấy bạc một đồng đấy, con đem về mà mua nhiêu, mua xã cho chồng. Con xin quan lớn, cảm ơn quan lớn. A, nhưng mà con đã có chồng rồi hay là chưa? Chị nhà quê cúi mặt không đáp, buộc tiền vào thắt lưng xong đứng lên. Thôi lạy quan, quan cho con xuống kẻo họ đợi. Ấy khoan đã! Mặt con tái đi thế kia, khéo không thì trúng phong rồi đó, để quan lấy cho một tị dầu trong này mà bôi rồi về thì về. Nhà điền chủ nói xong lấy ở áo ra một lọ gì nhỏ, để đầu ngón tay vào miệng lọ lắc một cái, rồi quờ tay vào trán chị nhà quê. Chị này cứ để yên và co ro khép đôi đùi lại, kéo cái váy xuống.