|
Trăm năm trong cõi người ta, |
|
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. |
|
Trải qua một cuộc bể dâu, |
|
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. |
|
Lạ gì bỉ sắc tư phong, |
|
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. |
|
Cảo thơm lần giở trước đèn, |
|
Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh. |
|
Rằng: Năm Gia tĩnh triều Minh, |
|
Bốn phương phẳng lặng hai kinh chữ vàng. |
|
Có nhà viên ngoại họ Vương, |
|
Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung. |
|
Một trai con thứ rốt lòng, |
|
Vương Quan là chữ nối dòng nho gia. |
|
Đầu lòng hai ả tố nga, |
|
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân. |
|
Mai cốt cách tuyết tinh thần, |
|
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười. |
|
Vân xem trang trọng khác vời, |
|
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang. |
|
Hoa cười ngọc thốt đoan trang, |
|
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da. |
|
Kiều càng sắc sảo mặn mà, |
|
So bề tài sắc lại là phần hơn. |
|
Làn thu thủy nét xuân sơn, |
|
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh. |
|
|