title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Động đất Ambunti 2023
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824949
Động đất Ambunti 2023 là trận động đất xảy ra vào lúc 4:04 (theo giờ địa phương), ngày 3 tháng 4 năm 2023. Trận động đất có cường độ 7.1 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 62,6 km. Hậu quả trận động đất đã làm 8 người chết, 17 người bị thương.
Giải đua ô tô Công thức 1 Hà Lan 2023
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824950
Giải đua ô tô Công thức 1 Hà Lan 2023 (tên chính thức là Formula 1 Heineken Dutch Grand Prix 2023) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 27 tháng 8 tại trường đua Zandvoort ở Zandvoort, Hà Lan, và là chặng đua thứ 13 của giải đua xe Công thức 1 2023. Bối cảnh. Bảng xếp hạng trước cuộc đua. Sau giải đua ô tô Công thức 1 Bỉ, Max Verstappen dẫn đầu trước Sergio Pérez (189 điểm) và Fernando Alonso (179 điểm) trong bảng xếp hạng các tay đua với 314 điểm. Trong bảng xếp hạng các đội đua, Red Bull Racing tiếp tục dẫn đầu trước Mercedes (247 điểm) và Aston Martin (196 điểm) với 503 điểm. Lựa chọn bộ lốp. Nhà cung cấp lốp xe Pirelli cung cấp các bộ lốp hạng C1, C2 và C3 (được chỉ định lần lượt là cứng, trung bình và mềm) để các đội sử dụng tại sự kiện này. Thay đổi tay đua. Liam Lawson đã ra mắt Công thức 1 tại cuộc đua này để thay thế cho tay đua AlphaTauri Daniel Ricciardo sau khi xuơng bàn tay trái của Ricciardo bị gãy trong buổi tập thứ hai. Tường thuật. Buổi tập. Trong buổi tập đầu tiên, Max Verstappen lập thời gian nhanh nhất là 1:11,852 phút trước Fernando Alonso và Lewis Hamilton. Ferrari là đội đầu tiên của mùa giải sử dụng tay đua trẻ trong buổi tập này khi Robert Schwarzman tiếp quản chiếc xe đua của Sainz jr. cho buổi tập này. Trong buổi tập tự do thứ hai, Lando Norris lập thời gian nhanh nhất với 1:11,330 phút trước Verstappen và Alexander Albon. Trong buổi tập này, Oscar Piastri và Daniel Ricciardo va chạm ở khúc cua số 3. Sau vụ va chạm này, Piastri không bị hề hấn gì trong khi Ricciardo được đưa đến bệnh viện địa phương để kiểm tra thêm và được xác định rằng anh bị gãy xương cổ tay của tay trái. Liam Lawson được đề cử làm tay đua thay thế và tiếp quản chiếc xe AlphaTauri của Ricciardo trong phần còn lại của sự kiện này. Anh chính thức ra mắt Công thức 1 lần đầu tiên trong suốt sự nghiệp đua xe của mình. Trong buổi tập thứ ba, Verstappen lập lập thời gian nhanh nhất là 1:21,631 trước George Russell và Sergio Pérez. Vòng phân hạng. Vòng phân hạng bao gồm ba phần với thời gian chạy 45 phút. Trong phần đầu tiên (Q1), các tay đua có 18 phút để tiếp tục tham gia phần thứ hai vòng phân hạng.
Giải đua ô tô Công thức 1 Hà Lan 2023
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824950
Tất cả các tay đua đạt được thời gian trong phần đầu tiên với thời gian tối đa 107% thời gian nhanh nhất được phép tham gia cuộc đua. 15 tay đua nhanh nhất lọt vào phần tiếp theo. Albon là tay đua nhanh nhất phần này. Sau khi Q1 kết thúc, cả hai tay đua của Alfa Romeo, Esteban Ocon, Kevin Magnussen và Lawson bị loại. Phần thứ hai (Q2) kéo dài 15 phút và mười tay đua nhanh nhất của phần này đi tiếp vào phần thứ ba của vòng phân hạng. Verstappen là tay đua nhanh nhất phần này. Sau khi Q2 kết thúc, Lance Stroll, Pierre Gasly, Lewis Hamilton, Yuki Tsunoda và Nico Hülkenberg bị loại. Phần cuối cùng (Q3) kéo dài mười hai phút, trong đó mười vị trí xuất phát đầu tiên được xác định sẵn. Trong những giây phút đầu tiên của Q3, Sargeant đã va chạm ở khúc cua số 3 khi đường đua đang khô. Anh không hề hấn gì nhưng không thể tiếp tục tham gia Q3. Về cuối, Leclerc đâm vào hàng rào giữa khúc cua số 9 và 10 và anh cũng không hề hấn gì. Với thời gian là 1:10,567, Verstappen giành vị trí pole trước Norris và Russell. Kết quả. Vòng phân hạng. Chú thích: Cuộc đua. Chú thích:
Et pourtant
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824951
"Et pourtant" là một bài hát tiếng Pháp của ca sĩ kiêm nhà viết ca từ Charles Aznavour, có phần nhạc do Georges Garvarentz sáng tác còn phần lời của Aznavour. Đĩa đơn này trích từ album "La mamma" năm 1963 , vốn là một trong những album thành công lớn của ông , bán chạy số 1 tại Pháp, được hơn một triệu bản. Phiên bản tiếng Việt được nhạc sĩ Trường Hải đặt là "Buồn theo gió thu", còn nhạc sĩ Nhật Ngân đặt là "Giã từ em yêu". Lịch sử. Sau khi bước chân vào nghiệp ca hát và sáng tác vào những năm 1950, Charles Aznavour nhanh chóng trở thành ngôi sao tầm cỡ quốc tế từ thập niên 1960 nhờ rất nhiều bài hát tiếng Pháp, tạo thành một chuỗi vô vàn bản hit với hơn 2000 tựa đề. Các bài hát ông hát thường lấy cảm hứng từ chủ đề tình yêu và chính cuộc đời ông , như "Heureux avec des riens" (1955), "Je m'voyais déjà" (1961), "Il faut savoir" (1961), "Les Comédiens" (1962), "La Mamma" (1963), "Je t'attends" (1963), "Et pourtant" (1963), "For me formidable" (1963), "Hier encore" (1964), "La Bohème" (1965), "Emmenez-moi" (1967), "Désormais" (1969), "Mes emmerdes" (1976)... Những bài ông viết lời hay sáng tác cũng mang lại tiếng tăm cho nhiều ca sĩ khác, như "Retiens la nuit" (1961) do Johnny Hallyday ca, "La plus belle pour aller danser" (1963) do Sylvie Vartan ca hay "Celui que j'aime" (1966) do Mireille Mathieu ca... Phiên bản khác. Bản thân Charles Aznavour cũng từng hát "Et pourtant" bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Bản tiếng Anh có tựa là "Yet I Know" (do Steve Lawrence trình bày) còn bản tiếng Tây Ban Nha là "Y por tanto" . Phiên bản tiếng Việt được nhạc sĩ Trường Hải đặt là "Buồn theo gió thu" do chính ông hát, còn nhạc sĩ Nhật Ngân đặt là "Giã từ em yêu" do Elvis Phương hát. Bản hit này được nhiều nghệ sĩ tên tuổi biểu diễn lại, trong số đó có Rika Zaraï, Serge Lama hay Dany Brillant (trong album "Dany Brillant chante Aznavour - La Bohème" vào năm 2020)... Sinn Sisamouth cũng chuyển ngữ bài này qua tiếng Khmer với tựa đề "Tuos yang na" ("ទេាះយ៉ាងណា"). Bên Québec (Canada), ca sĩ Sylvain Cossette cover bài này vào năm 2005.
Địa đàng sụp đổ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824954
Địa đàng sụp đổ (tiếng Anh: "Concrete Utopia", tiếng Hàn: 콘크리트 유토피아) là một bộ phim điện ảnh Hàn Quốc thuộc thể loại thảm họatâm lýchính kịch ra mắt vào năm 2023 do Um Tae-hwa làm đạo diễn kiêm viết kịch bản, với sự tham gia diễn xuất của các diễn viên chính gồm Lee Byung-hun, Park Seo-joon, Park Bo-young, Park Ji-hu, Kim Do-yoon và Kim Sun-young. Được dựa trên truyện tranh "Joyful Outcast"phần thứ hai của loạt webtoon "Pleasant Bullying" của Kim Soong-nyung, tác phẩm tập trung xoay quanh vào thảm kịch đại địa chấn san bằng Seoul thành đống đổ nát và hành trình sinh tồn của những người sống sót tại chung cư Imperial Palace, và từ đây, hàng loạt cuộc tranh giành giữa những người ở chung cư và những kẻ vô gia cư diễn ra dữ dội. Bộ phim được công chiếu tại Hàn Quốc vào ngày 9 tháng 8 năm 2023 và ngày 1 tháng 9 năm 2023 tại Việt Nam. Được giới chuyên môn và khán giả nhiệt liệt khen ngợi, ngày 17 tháng 8 năm 2023, tác phẩm được Hàn Quốc chọn làm đại diện đi tranh giải Oscar cho phim quốc tế hay nhất tại giải Oscar lần thứ 96.
Vụ cháy tòa nhà Johannesburg 2023
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824957
Vào lúc 1:00 (theo giờ địa phương) ngày 31 tháng 8 năm 2023, một vụ cháy lớn xảy ra ở tòa nhà bỏ hoang năm tầng ở góc đường Delvers và Albert thuộc thành phố Johannesburg, Nam Phi. Một nhân chứng cho biết, có khoảng 200 người có mặt trong tòa nhà này. Hậu quả vụ cháy đã làm 73 người chết, 52 người bị thương.
Trang trại pizza
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824968
Trang trại pizza có thể vừa là một cơ sở ăn uống tại một trang trại bán bánh pizza hoặc có thể là một trang trại trình diễn nhằm huấn thị cho du khách về nông nghiệp bằng cách trồng các nguyên liệu làm bánh pizza, đôi khi được thực hiện trên một mảnh đất hình tròn, chia thành các ô có hình dạng như những lát bánh pizza. Trang trại trình diễn. Một số trang trại pizza được dựng thành trang trại trình diễn, nhằm huấn thị cho du khách về nông nghiệp bằng cách trồng những nguyên liệu làm bánh pizza, đôi khi trên một mảnh đất hình tròn được chia thành các ô có hình dạng giống như những lát pizza. Trang trại thường trồng các nguyên liệu có thể dùng làm pizza, chẳng hạn như lúa mì để làm vỏ bánh, cà chua, rau thơm, thịt lợn để làm pepperoni, bò sữa để làm phô mai và thậm chí trồng cả cây để làm củi cho lò nướng bánh. Một số trang trại thậm chí còn có quyền sử dụng than hoặc khí đốt tự nhiên, sử dụng làm nhiên liệu bổ sung cho lò nướng pizza. Ẩm thực trang trại pizza. Một số trang trại pizza chủ yếu là các cơ sở dịch vụ ăn uống, bán bánh pizza ngay tại đó. Các trang trại pizza đã trở nên phổ biến ở Minnesota, Wisconsin và Iowa. Các trang trại thường trồng hoặc nuôi nhiều nguồn nguyên liệu cho riêng mình, tương tự như các trang trại pizza trình diễn.
Georges Garvarentz
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824973
Georges Diran Garvarentz (, 1 tháng 4, 1932 – 19 tháng 3, 1993) là nhà soạn nhạc người Pháp gốc Armenia, nổi tiếng qua phần nhạc sáng tác cho các xuất phẩm điện ảnh và các bài hát của Charles Aznavour. Thiếu thời. Ông sinh ra tại thành phố Athens, Hy Lạp trong một gia đình người Armenia nhập cư. Cha ông là Kevork Garvarentz, làm nghề giáo sư văn chương và nhà thơ và là tác giả của quân ca Armenia. Năm 1942, cả nhà dời sang sống tại Paris, Pháp; tại đây Garvarentz theo học Nhạc viện Paris. Sự nghiệp. Năm 1956, ông quen biết Charles Aznavour và bắt đầu viết phần nhạc cho các bài hát mà Aznavour biểu diễn. Qua hàng chục năm, hai người đã sáng tác trên 100 ca khúc, như "Prends garde à toi" (1956), "Et pourtant" (1962), "Il faut saisir sa chance" (1962), "Retiens la nuit" (1962), "La plus belle pour aller danser" (1964), "Hier encore" (1964), "Paris au mois d'août" ("Paris in August", 1966), "Une vie d'amour" (1980)... Giai đoạn nửa sau thập niên 1980 cho đến năm 1993 khi Garvarentz qua đời là thời kỳ sáng tác hăng say và bền bỉ nhất của ông và Aznavour. Dù cho Aznavour đã bước sang độ tuổi lục tuần và đã xác lập được chỗ đứng vững chắc trên đỉnh cao danh vọng, nhưng các tác phẩm của họ vẫn không bổ sung cho kho tàng nhạc đương đại và đồng thời không hề thua kém các sáng tác cũ, được Aznavour dùng biểu diễn khắp nơi. Năm 1986 và 1987, lần lượt các album "Aznavour 1986: Je bois" và "Embrasse-moi" ra đời, đưa đến với thính giả nhiều bài hát được Aznavour diễn đi diễn lại về sau như 'Je me raccroche à toi", "Je bois", "Les émigrants", "Une idée"... Năm 1991, cặp đôi ra album "Aznavour 92" với các bài thành công như "Vous et tu", "Napoli chante" và "La Marguerite". Sản phẩm cộng tác cuối cùng là album "Toi et moi" ra năm 1994 (phát hành quốc tế với nhan đề "You and Me" vào năm 1995); trong album này có bài hát cuối cùng Garvarentz cộng tác với Aznavour, đó là bản "Ton doux visage". Ông kết hôn vào năm 1965 với em gái của Charles Aznavour, là bà Aida Aznavourian.
Georges Garvarentz
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824973
Georges Garvarentz cũng soạn khoản 150 nhạc nền phim, như "Taxi for Tobruk" (1961), "Tales of Paris" (1962), "The Devil and the Ten Commandments" (1962), "Rat Trap (film)" (1963), "That Man in Istanbul" (1965), "The Sultans (film)" (1966), "The Sea Pirate" (1966), "Triple Cross (1966 film)" (1966), "The Peking Medallion" (1967), "Darling Caroline (1968 film)" (1968), "They Came to Rob Las Vegas" (1968), "The Southern Star (film)" (1969), "The Heist (1970 film)" (1970), "Love Me Strangely" (1971), "Someone Behind the Door" (1971), "The Pebbles of Étretat" (1972), "Murder in a Blue World" (1973), "Killer Force" (1976), "Teheran 43" (1981), "Hambone and Hillie" (1983), "Triumphs of a Man Called Horse" (1983), "Too Scared to Scream" (1985), "Yiddish Connection" (1986), "A Star for Two" (1991), "Catorce estaciones" (1991)... Năm 1979, ông viết nhạc nền cho phim "The Golden Lady". Đây là ca khúc hợp soạn giữa ông và ca sĩ chính của nhóm The Three Degrees là Sheila Ferguson. Ông cũng là tác giả của nhạc kịch hài "Deux anges sont venus" và của operetta "Douchka".
Nhân quyền tại Phần Lan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824980
Nhân quyền tại Phần Lan bao gồm những quyền cơ bản về tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do hội họp và lập hội được ấn định trong pháp luật và thực thi trong đời sống xã hội. Quyền cơ bản của mỗi cá nhân được đảm bảo bởi Hiến pháp, pháp luật và các điều ước về nhân quyền do Chính phủ Phần Lan phê chuẩn. Hiến pháp Cộng hoà Phần Lan quy định bản chất độc lập của ngành tư pháp. Tổ chức Ân xá Quốc tế từng bày tỏ sự quan ngại đối với một số vấn đề còn tồn đọng tại Phần Lan, như cho phép Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ thực hiện các vụ bắt cóc trên lãnh thổ; bắt giam những người không đồng ý thực hiện nghĩa vụ quân sự; phân biệt đối xử đối với người dân tộc Di-gan cùng một số dân tộc và nhóm ngôn ngữ thiểu số khác.
Cúp EFL 2023-24
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824985
Cúp EFL 2023-24 là mùa giải thứ 64 của Cúp EFL (được gọi là Carabao Cup vì lý do tài trợ). Giải đấu dành cho tất cả các câu lạc bộT Premier League và English Football League. Đội vô địch giải đấu đủ điều kiện tham dự vòng play-off UEFA Europa Conference League 2024-25. Manchester United hiện đang là đương kim vô địch của giải đấu sau khi đánh bại Newcastle United với tỉ số 2–0 trong trận chung kết năm 2023. Thể thức. Tất cả 92 câu lạc bộ tại Premier League và English Football League đều tham dự Cúp EFL mùa giải. Suất tham dự được phân phối dựa vào 4 giải đấu hàng đầu của Hệ thống giải bóng đá Anh. Vòng 1. Có tổng cộng 72 câu lạc bộ thi đấu ở vòng 1: 24 từ League Two (Hạng 4), 24 từ League One (Hạng 3) và 24 từ Championship (Hạng 2). Bốc thăm cho vòng 1 được chia theo vùng địa lý gồm "phía bắc" và "phía nam". Vòng 2. Tổng cộng có 48 câu lạc bộ thi đấu ở vòng hai: 36 đội thắng ở vòng đầu tiên, cộng với 12 câu lạc bộ Premier League không tham dự giải đấu châu Âu. Bốc thăm cho vòng này được chia theo vùng địa lý gồm "phía bắc" và "phía nam". Vòng 3. Tổng cộng có 32 đội chơi ở vòng thứ ba. 24 đội thắng ở vòng 2 và 8 đội Premier League (tham dự cúp châu Âu) gồm Arsenal, Aston Villa, Brighton & Hove Albion, Liverpool, Manchester City, Manchester United, Newcastle United và West Ham United Vòng 4. Tổng cộng có 16 đội chơi ở vòng thứ ba gồm 16 đội thắng vòng 3. Vòng Tứ kết. Tổng cộng có tám đội chơi trong vòng tứ kết. Vòng Bán kết. Tổng cộng có bốn đội chơi trong vòng bán kết.
Wynn Las Vegas
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824995
Wynn Las Vegas, thường chỉ được gọi là Wynn, là một khu nghỉ dưỡng và sòng bạc cao cấp tọa lạc trên đại lộ Las Vegas Strip tại Paradise, Nevada, Hoa Kỳ. Khu nghỉ dưỡng này được sở hữu và vận hành bởi Wynn Resorts, và được xây dựng trên khu đất cũ của khu nghỉ dưỡng Desert Inn, mở cửa từ năm 1950. Steve Wynn, nhà phát triển sòng bạc, đã mua và đóng cửa Desert Inn vào năm 2000 để thực hiện kế hoạch xây dựng một khu nghỉ dưỡng mới tại đây. Quá trình thiết kế kéo dài hai năm rưỡi và việc xây dựng bắt đầu vào ngày 31 tháng 10 năm 2002, với Marnell Corrao Associates đảm nhận vai trò nhà thầu chính. Với kinh phí 2,7 tỷ đô la, Wynn Las Vegas trở thành khu nghỉ dưỡng đắt đỏ nhất từng được xây dựng, vượt qua khu nghỉ dưỡng Bellagio trị giá 1,6 tỷ đô la của Wynn và khai trương trên Las Vegas Strip vào năm 1998. Vào ngày 28 tháng 4 năm 2005, Wynn Las Vegas mở cửa với 2,716 phòng và sòng bạc rộng 111,000 foot vuông. Tại thời điểm đó, tòa tháp khách sạn 45 tầng của nó là tòa nhà cao nhất tại Nevada. Encore Las Vegas, một khu nghỉ dưỡng đối tác, ra mắt vào tháng 12 năm 2008. Được đặt ở phía bắc khu nghỉ dưỡng chính, Encore thêm một tòa tháp khách sạn thứ hai và không gian giải trí bổ sung, cùng với nhà hàng và câu lạc bộ. Khu phức hợp Wynn rộng 215 acre, có tổng cộng 4,748 phòng và không gian giải trí 188,786 foot vuông. Wynn cho biết khu phức hợp trị giá 5.2 tỷ đô la của họ hoàn thành vào tháng 5 năm 2010 sau khi mở rộng ở Encore. Đặc điểm. Khác với các khu nghỉ dưỡng trên Strip khác, Wynn Las Vegas không sử dụng chủ đề cụ thể và không có điểm thú vị miễn phí như các khu nghỉ dưỡng khác. Thay vào đó, nó che giấu các điểm thú vị bằng một ngọn núi nhân tạo, với ý muốn kích thích sự tò mò và hấp dẫn người vào khu nghỉ dưỡng. Ý tưởng ngọn núi này được Steve và Elaine Wynn tạo ra; họ đã từng có ý định tạo ra một điểm thú vị ngọn núi tại Mirage trước khi từ bỏ ý tưởng. Ngọn núi tại Wynn Las Vegas được thiết kế bởi Don Brinkerhoff và được xây dựng bởi công ty thiết kế cảnh quan của ông, Lifescapes International, đã từng làm việc trên các khu nghỉ dưỡng trước đây của Wynn. Ngọn núi cao hơn 100 feet.
Wynn Las Vegas
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824995
Ngọn núi cao hơn 100 feet. Nó được tạo thành từ các tường bậc thang, với đất bị ép vào chỗ. Xây dựng ngọn núi tốn 130 triệu đô la, và bao gồm 1.500 cây, nhiều cây trong số chúng đã được di chuyển từ sân golf cũ của Desert Inn. Ngọn núi cũng có một số thác nước, một số thác có độ cao lên tới 100 feet. Phía trước ngọn núi, và bị che khuất khỏi tầm nhìn của người đi bộ bên ngoài, là một hồ diện tích ba acre, có quang cảnh mà nhiều nhà hàng nhìn ra. Khu vực này là nơi diễn ra chương trình "Hồ của Giấc mơ". Khu nghỉ dưỡng bao gồm một biển quảng cáo bên lề dọc theo Strip. Biển này do YESCO tạo ra và có chiều cao 135 feet. Nó gồm một màn hình LED cao 100 feet và rộng 50 feet, với một nền tảng di chuyển lên xuống trên màn hình như một "cục tẩy", hiển thị hình ảnh mới sau mỗi lần di chuyển. Khách sạn và sòng bạc. Tòa tháp khách sạn có 45 tầng, mặc dù tầng cao nhất được đánh số "60". Tòa tháp bỏ qua nhiều tầng, bao gồm cả tầng số 4, mà người chơi người Trung Quốc coi là xui xẻo. Tòa tháp cao 613 feet và lúc hoàn thành, nó là tòa nhà cao nhất Nevada. Khách sạn ra mắt với tổng cộng 2,716 phòng, trong đó bao gồm các suite với diện tích . Khu nghỉ mát cũng bao gồm Tower Suites, một phần khách sạn nằm bên trong khách sạn chính. Vào năm 2008, Wynn Las Vegas là khách sạn-casino duy nhất trên thế giới đạt huy chương năm sao từ Mobil Travel Guide, với Tower Suites của nó được ghi nhận. Nơi này cũng cung cấp biệt thự tại sân golf fairway dành cho những khách hàng high roller của mình, thuộc một đối tượng mục tiêu cụ thể. Vào năm 2008, khu nghỉ mát sở hữu đội xe lớn nhất tại Bắc Mỹ, với 10 chiếc Rolls-Royce Phantom custom-made dành cho high roller và các khách nổi tiếng. Vào năm 2016, khách sạn thông báo sẽ trang bị một Amazon Echo trong mỗi phòng, trở thành khu nghỉ đầu tiên trên thế giới thực hiện điều này. Echo được sử dụng để điều khiển nhiều khía cạnh của phòng, bao gồm nhiệt độ và ánh sáng. Sòng bạc có diện tích . Khi khai trương, sòng bạc có 1.962 máy đánh bạc và 137 trò chơi bàn. Đèn chùm được xây dựng trên từng bàn chơi.
Wynn Las Vegas
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824995
Ngoài ra, có phòng poker, phòng keno, phòng baccarat và một sports book với phòng lounge dành cho người chơi VIP. Đối với khách lưu trú, thẻ khóa phòng cũng là thẻ đánh bạc; Wynn là sòng bạc đầu tiên thực hiện điều này. Năm 2011, khu nghỉ này trở thành khu nghỉ đầu tiên ở Las Vegas cho phép đặt cược vào các sự kiện không liên quan đến thể thao. Khu thể thao đã trải qua đổi mới lớn năm 2017, bao gồm thêm màn hình video có kích thước 137 feet x 11 feet. Khu tổ hợp Wynn, kể cả Encore, chiếm diện tích . Tổng cộng, khu tổ hợp có 4,748 phòng khách sạn, và diện tích sòng bạc là . Sân golf. Sân golf của Desert Inn được duy trì và tái thiết kế cảnh quan để trở thành Wynn Golf Club. Đây là sân golf duy nhất trên Đại lộ Strip. Sân golf 18 lỗ, đạt chuẩn 70 gậy, dài 6.722 yard, và bao phủ diện tích . Năm 2000, công ty của Wynn, Valvino Lamore LLC, mua 41 căn nhà tại Desert Inn Estates, một phần của câu lạc bộ quốc gia của khu nghỉ dưỡng cũ. Tổng chi phí bao gồm 270 triệu đô la để mua sân golf và 50 triệu đô la cho các căn nhà. Mười hai chủ nhà còn lại từ chối bán và kiện Wynn để ngăn ông phát triển lại, ông đã đưa ra kiện ngược lại. Năm 2003, Wynn cố gắng loại bỏ sự giám sát của nhà nước đối với nguồn nước tại tài sản bằng cách thông qua dự luật của Nevada Assembly. Là chủ sở hữu của Công ty Nước Desert Inn, Wynn bị yêu cầu phải đưa tất cả các kế hoạch tài chính liên quan đến dự án qua sự xem xét của Public Utilities Commission (PUC) của nhà nước. Ông muốn tránh điều này trong trường hợp ông phải điều chỉnh kế hoạch tài chính cho khu nghỉ dưỡng. Cư dân phản đối, tin rằng đề xuất của Wynn sẽ trao cho ông quyền lực không hợp lý đối với nguồn cung cấp nước của họ. Một dự luật về nước được sửa đổi được thống nhất bởi thống đốc Nevada Kenny Guinn vào cuối năm đó, loại bỏ một số yêu cầu báo cáo tài chính cụ thể, trong khi vẫn giữ quyền giám sát của PUC đối với cư dân. Năm 2004, Wynn đạt được thỏa thuận mua 10 căn nhà còn lại với giá 23 triệu đô la. Sân golf Desert Inn đã được tái thiết kế bởi Wynn và Tom Fazio, hai người trước đây đã cùng làm việc với nhau trên thiết kế sân golf Shadow Creek. Sân golf Wynn bao gồm 1.200 cây được cứu từ sân golf Desert Inn cũ.
Wynn Las Vegas
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824995
Cây lớn được để lại, cây nhỏ tạm thời di chuyển đến một vườn cây trồng trong thời gian tái thiết kế sân golf. Ngoài cây cối, chỉ còn một cây cầu vành là di tích còn lại từ sân golf Desert Inn. Dòng suối và hồ mới đã được thêm vào, cùng với thay đổi độ cao. Sân golf par-70 dài 7.042 yard. Vào cuối năm 2004, Wynn đã có kế hoạch tái phát triển sân golf thành dự án đa dạng sử dụng liên quan đến hồ nhân tạo. Dự án có thể bao gồm khách sạn, không gian cờ bạc và căn hộ, tương tự dự án CityCenter của MGM. Tuy nhiên, vào năm 2014, Wynn nói rằng ông sẽ không tái phát triển sân golf này. Sau đó, ông đã thông báo kế hoạch mới cho khu đất vào năm 2016, dưới tên gọi Wynn Paradise Park. Dự án sẽ có chi phí lên đến 1,6 tỷ đô la, bao gồm khách sạn và sòng bạc nhỏ hướng ra một hồ nước nhân tạo, nơi khách có thể tham gia vào các hoạt động thể thao dưới nước. Nó cũng sẽ bao gồm bãi biển cát trắng và lối đi bộ. Wynn cho rằng khu đất này quá quý giá để bỏ không. Sân golf đã đóng cửa vào tháng 12 năm 2017 để nhường chỗ cho việc xây dựng Công viên Paradise. Vài tháng sau đó, Matt Maddox trở thành CEO của Wynn Resorts, thay thế sau khi Steve Wynn từ chức. Về việc xây dựng Paradise Park, Maddox cho biết: "Chúng tôi không thực sự quan tâm đến việc xây dựng một bể bơi công cộng lớn trên Đại lộ Las Vegas". Kế hoạch dự án đã bị hủy bỏ vào cuối năm 2018 do chi phí xây dựng tăng lên 3 tỷ đô la. Một trung tâm hội nghị là phần duy nhất của dự án được thực hiện, xây dựng trên một phần của sân golf. Fazio và con trai Logan của ông đã được thuê để làm mới phần còn lại của sân golf. Quá trình thiết kế lại bao gồm việc làm mới 10 lỗ và thêm 8 lỗ mới. Sân golf đã mở cửa lại vào tháng 10 năm 2019, phục vụ như tiện ích bổ sung cho đối tượng đa số nam giới trong sòng bạc. Trong thời gian đóng cửa, sân đã gây thất thoát tài sản lên đến 15 triệu đô la cho Wynn. Với giá 550 đô la mỗi vòng golf, đây là một trong những sân golf đắt đỏ nhất tại Hoa Kỳ khi mở cửa lại. Năm 2022, sân golf đã tổ chức sự kiện ô tô Las Vegas Concours d'Elegance. Nhà hàng.
Wynn Las Vegas
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824995
Nhà hàng. Khi khai trương, Wynn Las Vegas có tổng cộng 18 nhà hàng, bao gồm một nhà hàng buffet và hai nhà hàng thịt nướng: SW - viết tắt của "Steve Wynn", và Country Club Grill, với tầm nhìn ra sân golf. Các nhà hàng chính của khu nghỉ dưỡng được xây dựng dọc theo bờ hồ, hướng ra ngọn núi nhân tạo. Trái ngược với các khu nghỉ dưỡng khác, việc tiếp cận các nhà hàng tại Wynn Las Vegas không được thực hiện trực tiếp từ sòng bạc. Theo Wynn: "Mọi người biết cách tìm đến sòng bạc. Họ không muốn bước ra khỏi cửa nhà hàng và va vào máy đánh bạc". Wynn ưa thích tránh xa việc thuê đầu bếp vắng mặt giám sát nhà hàng từ xa. Thay vào đó, họ tuyển dụng những đầu bếp sẵn lòng chuyển đến Las Vegas. Các đầu bếp Daniel Boulud và Paul Bartolotta đã ký hợp đồng với khu nghỉ mát trước khi nó mở cửa. Bartolotta Ristorante di Mare hàng tuần nhập khẩu 1.5 tấn hải sản, và là một trong số ít nhà hàng ở Bán cầu Tây phục vụ tôm hùm. Bartolotta rời khỏi nhà hàng vào năm 2015, và sau đó nó được đổi tên thành Costa di Mare trong năm đó. Tuy nhiên, năm 2021, nhà hàng này đã đóng cửa. Wynn Las Vegas có nhiều nhà hàng châu Á, bao gồm Okada, một nhà hàng Nhật mang tên đối tác kinh doanh của Wynn là Kazuo Okada. Okada đã mở cửa cùng với khu nghỉ mát và có quầy sushi, lò nướng robatayaki và bốn trạm teppanyaki. Takashi Yagihashi đã làm việc như đầu bếp trưởng tại đó. Năm 2012, Okada đã được cải tạo và đổi tên thành Mizumi, một tên phụ nữ phổ biến ở Nhật Bản. Wing Lei cũng được giới thiệu tại Wynn Las Vegas, và trở thành nhà hàng Trung Quốc đầu tiên tại Mỹ đạt được ngôi sao Michelin. Nhà hàng được thiết kế bởi Jacques Garcia, với tầm nhìn ra vườn có cây lựu trên 100 tuổi. Nhà hàng tập trung vào nguyên liệu tươi mới dưới sự hướng dẫn của đầu bếp Richard Chen, với năm bể cá chứa cá sẵn sàng để nấu. Ngoài Wing Lei, hầu hết những nhà hàng tại khu nghỉ dưỡng lưu trữ hải sản trong bể cá dưới sàn sòng bạc. Mỗi tháng, khoảng 3.000 con tôm hùm được lưu trữ trong tủ lạnh này. Alex, một nhà hàng Pháp được đặt theo tên đầu bếp Alex Stratta, là một trong những nhà hàng khai trương cùng với khu nghỉ dưỡng. Nó có một bậc cầu thang mô phỏng theo một bậc cầu thang trong vở nhạc kịch "Hello, Dolly!"
Wynn Las Vegas
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824995
Sau đó, đầu bếp Stratta mở một nhà hàng Ý mang tên "Stratta". Nhà hàng Ý-Trung Địa Corsa Cucina ban đầu được mang đề tài đua xe grand prix đã được thay thế bởi Alex. Nhưng Alex đóng cửa vào năm 2011, một đại diện của khu nghỉ dưỡng cho biết "ẩm thực Pháp cao cấp không phải là điều mọi người muốn trong thời gian này". Trong năm năm liên tiếp trước khi đóng cửa, Alex đã giành giải Forbes Travel Guide Five Star Award và Giải thưởng Kim cương AAA Five Diamond Award. Nhà hàng eponymous Stratta khác đóng cửa vào năm 2012, được thay thế bằng một nhà hàng Ý mới mang tên Allegro. Nhà hàng "The Buffet at Wynn" đã từng là một trong những lựa chọn phổ biến tại Las Vegas. Do lo ngại về sức khỏe trong đợt đầu của đại dịch COVID-19, nhà hàng đã chuyển sang dịch vụ phục vụ thức ăn đến khách hàng. Sau một thời gian, Wynn Resorts nhận thấy khách hàng không ưa chuộng hình thức này và thông báo đóng cửa nhà hàng buffet vào cuối năm 2020. Tuy nhiên, nhà hàng "The Buffet at Wynn" đã trở lại vào tháng 7 năm 2021 với hình thức buffet truyền thống. "Nơi ẩn náu rượu và thực phẩm La Cave" được khai trương bởi Michael Morton vào năm 2010 và đã trải qua cải tạo vào năm 2019 với việc bổ sung một quầy lounge trong khu vườn. Chuỗi nhà hàng Ý "Cipriani" cũng đã mở một cơ sở tại Wynn vào năm 2018. Năm 2021, khu nghỉ mát đã mở thêm Delilah, một câu lạc bộ tối được đặt theo tên một cơ sở đã tồn tại ở West Hollywood. Delilah được thiết kế dựa trên các câu lạc bộ tối Las Vegas trong thập kỷ 1950. Các nhà hàng khác bao gồm Lakeside, một nhà hàng hải sản do đầu bếp David Walzog giám sát; và Tableau, một nhà hàng ẩm thực tinh tú. Năm 2023, đầu bếp Alon Shaya dự kiến mở một nhà hàng Địa Trung Hải tại khu nghỉ mát. Câu lạc bộ đêm. Wynn Las Vegas khai trương với một câu lạc bộ đêm mang tên La Bete, có chủ đề nước và nghĩa là "Quái vật" trong tiếng Pháp. Ban đầu hoạt động như nhà hàng và quán bar, sau đó câu lạc bộ chuyển thành hoạt động sau giờ. Tuy nhiên, câu lạc bộ không đạt được kỳ vọng và Giám đốc hoạt động câu lạc bộ đêm rời khỏi vị trí sau ít hơn hai tuần. Victor Drai được tuyển dụng vào năm đó để cải thiện La Bete.
Wynn Las Vegas
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824995
Sau một thời gian đóng cửa để đổi mới trong hai tháng với kinh phí hàng triệu đô la, câu lạc bộ mở cửa lại vào đêm Giao thừa năm 2005 với tên Tryst. Tryst bổ sung thêm nhiều chỗ ngồi ngoài trời và được quản lý bởi Drai cùng với hai anh em Cy và Jesse Waits. Drai rời khỏi Wynn Las Vegas vào năm 2010 để theo đuổi các dự án kinh doanh khác. Tryst đóng cửa vào tháng 11 năm 2015, và được tái thiết kế mở cửa lại vào tháng 4 năm 2016 dưới tên Intrigue, với diện tích 14,000 feet vuông, trước khi đóng cửa vào năm 2019. Một câu lạc bộ đêm khác là Blush, được quản lý bởi Nhóm Las Vegas Nightlife của Sean Christie. Blush hoạt động từ năm 2007 đến năm 2011. Bán Lẻ. Khuôn viên mở cửa với khu mua sắm boutique trong nhà được gọi là Wynn Esplanade, nơi ánh sáng tự nhiên thông qua các mái kính trần được sử dụng rộng rãi. Diện tích khu mua sắm là . Khi mở cửa, có 32 cửa hàng, trong đó có một số do Wynn Resorts sở hữu và quản lý. Các nhà bán lẻ nổi tiếng bao gồm Cartier, Chanel, Dior, Louis Vuitton, và Graff. Các nhà thiết kế thời trang Jean Paul Gaultier, Manolo Blahnik, và Oscar de la Renta cũng mở cửa hàng tại khu nghỉ dưỡng. Ngoài ra, Wynn Las Vegas cũng mở một cửa hàng tiện lợi dành riêng cho nhân viên. Đây là một trong năm khu nghỉ dưỡng trên Đại lộ Las Vegas có tính năng như vậy. Khu nghỉ dưỡng cũng khai trương với đại lý Penske Wynn Ferrari Maserati, là một dự án chung giữa Wynn Resorts và Penske Automotive Group. Đây là đại lý Ferrari và Maserati duy nhất ở tiểu bang, và bao gồm một showroom trưng bày các xe mới và đã qua sử dụng. Đại lý này đã rất phổ biến trong cộng đồng, khiến khu nghỉ dưỡng bắt đầu thu phí $10 để vào cửa. Ngoài việc bán xe, đại lý cũng cho thuê xe cho khách sạn và có một số gara bảo trì cho chủ sở hữu. Năm 2015, Penske và Wynn Resorts quyết định không gia hạn hợp đồng thuê cho đại lý, và cửa hàng đã đóng cửa vào cuối năm đó. Nó đã được thay thế bằng trung tâm mua sắm Wynn Plaza, được khai trương vào năm 2018. Trung tâm này có diện tích , và đã thêm vào danh sách 25 nhà bán lẻ cao cấp, bao gồm Breitling SA, Celine, Kiton, Le Labo, Loewe, Omega SA, Stella McCartney, và Rimowa. Nó được quản lý bởi Wynn Resorts và cộng sở hữu bởi Crown Acquisitions.
Hồi Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824996
Hồi Long có thể là một trong số các địa danh sau:
Aoshima, Ehime
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824997
, hay còn được biết tới là , là một hòn đảo trực thuộc tỉnh Ehime, Nhật Bản, nổi tiếng bởi số lượng đông đúc mèo ngụ cư trên hòn đảo. Các con mèo đã được ghi nhận lại bởi giới báo chí là vượt quá cả số người ngụ cư theo tỷ lệ 6:1 và 10:1, nhưng khi những cư dân cao tuổi của đảo qua đời, tỷ lệ này lại tăng vọt lên gần ngưỡng 36:1. Các con mèo được đưa lên đảo để chống chọi với nạn chuột hoành hành trên các tàu đánh cá, nhưng chúng lại ở lại hòn đảo và sản sinh thêm nhiều lứa hơn với số lượng lớn. Các con mèo định cư tại Aoshima được cho ăn bởi đồ ăn quyên góp từ khắp nơi trên Nhật Bản. Chúng cũng ăn cả các loài sinh vật nhỏ con hơn của đảo và một số đồ ăn từ du khách ghé thăm. Hòn đảo có chiều dài khoảng . Trước đây nó từng là một phần của Nagahama thuộc quận Kita, nhưng thì nó một phần của Ōzu. Cư dân sinh sống của đảo có chiều hướng giảm sút kể từ nghề đánh cá mòi suy thoái và việc làm chuyển hướng lên các thành phố. Vào thời điểm tháng 2 năm 2019, chỉ có sáu người ngụ cư sinh sống trên đảo Aoshima. Thời báo "New York Times" báo cáo lại vào ngày 10 tháng 5 năm 2023 rằng, số dân ngụ cư của đảo đã giảm xuống còn năm người. Dân cư. Năm 1945, hòn đảo là một làng chài với dân số khoảng 900 người. Năm 2013, hòn đảo được ước tính là có 50 cư dân. Năm 2018, "Ehime Shimbun" báo cáo rằng dân số đã giảm xuống còn 13 người với độ tuổi trung bình là "trên 75". Năm 2019, "" "Globe" đưa tin rằng chỉ còn sáu cư dân trên đảo. Hòn đảo thu hút khách du lịch đến thăm mèo và cho chúng ăn. Số lượng mèo trên đảo đã được báo cáo là trong khoảng 120 đến 130 con, giữa thời gian từ năm 2015 đến năm 2018. Tháng 2 năm 2018, "Ehime Shimbun" đã đưa tin rằng tất cả mèo trên đảo sẽ bị thiến hoặc triệt sản, nhằm làm giảm số lượng mèo để đối phó với tình trạng dân số đang suy giảm. Đến tháng 10, 210 con mèo đã bị thiến và triệt sản, theo đó ước tính có khoảng 10 con mèo khác không bị bắt và bị một cư dân cũ phản đối chương trình này giấu đi. Các đường giao thông.
Aoshima, Ehime
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824997
Các đường giao thông. Aoshima có thể tiếp cận được bằng phà, khởi hành từ phía trước nhà ga Iyo-Nagahama của JR ở cảng Nagahama, mất khoảng 30 phút di chuyển.
Enso González
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824998
Enso David González Medina (sinh ngày 20 tháng 1 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá người Paraguay hiện đang chơi ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Wolverhampton Wanderers.
Động đất Sunbury 2023
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825003
Động đất Sunbury 2023 là trận động đất xảy ra vào lúc 23:41 (theo giờ địa phương), ngày 28 tháng 5 năm 2023. Trận động đất có cường độ 4.0 richter (theo ), tâm chấn độ sâu khoảng 2 km. Trận động đất không gây thiệt hại về người.
Đảo Mèo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825006
Đảo Mèo có thể đề cập tới: Địa điểm. Nhật Bản. Một số hòn đảo của Nhật Bản được gọi là "Đảo Mèo" (猫島) bởi số lượng mèo ngụ cư đông đúc.
Neodymi(III) nitrat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825042
Neodymi(III) nitrat là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học Nd(NO3)3. Nó thường được biết đến dưới dạng hexahydrat, Nd(NO3)3·6H2O, còn được viết dưới dạng cấu tạo [Nd(NO3)3(H2O)4]·2H2O dựa trên cấu trúc tinh thể. Nó phân hủy thành NdONO3 ở nhiệt độ cao. Muối hòa tan trong nước này được sử dụng trong chế tạo pin nhiên liệu oxide rắn dựa trên perovskit (CaTiO3), tổng hợp vanadi pentoxide pha tạp Nd3+ sử dụng trong các siêu tụ điện và làm chất xúc tác cho quá trình tổng hợp bề mặt Friedlander quinolon biến tính để ứng dụng trong hóa dược.
Vòng bảng UEFA Champions League 2023-24
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825044
Vòng bảng UEFA Champions League 2023–24 bắt đầu vào ngày 19 tháng 9 năm 2023 và kết thúc vào ngày 13 tháng 12 năm 2023. Có tổng cộng 32 đội thi đấu ở vòng bảng để xác định 16 suất vào vòng đấu loại trực tiếp của UEFA Champions League 2023–24. Union Berlin và Antwerp có lần đầu tiên ra mắt ở vòng bảng. Đây là lần góp mặt đầu tiên của câu lạc bộ Bỉ ở Cúp C1 châu Âu kể từ khi họ bị loại ở vòng một vào mùa giải 1957–58 và là lần đầu tiên cho đội bóng Đức. Có tổng cộng 15 hiệp hội quốc gia được đại diện ở vòng bảng. Đây là mùa giải cuối cùng với thể thức vòng bảng, được thay thế bởi thể thức vòng đấu hạng bắt đầu từ mùa giải tiếp theo. Các đội bóng. Dưới đây là các đội tham dự (với hệ số câu lạc bộ UEFA năm 2023), được xếp theo nhóm hạt giống của họ. Họ bao gồm: Ghi chú Các bảng. <onlyinclude> Bảng A Bảng B Bảng C Bảng D Bảng E Bảng F Bảng G Bảng H </onlyinclude>
Quán rượu Kayabukiya
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825045
là một nhà hàng "nhà-sake" phong cách truyền thống Nhật Bản, được đặt vị trí tại thành phố Utsunomiya, về phía bắc của Tokyo, Nhật Bản. Chủ quán rượu, Kaoru Otsuka, sở hữu hai con khỉ cưng macaque được thuê làm việc tại địa điểm này. Con khỉ đầu tiên, "Yat-chan", 12 tuổi, mặc áo sơ mi và quần đùi trong khi nhận đơn đặt đồ uống của khách hàng và mang đến bàn ăn. Chú khỉ nhỏ hơn tên là ""Fuku-chan"," hiện đã 4 tuổi với nhiệm vụ chủ yếu là mang khăn nóng cho những người tham dự lau tay trước khi gọi đồ uống. "Fuku-chan" mới chỉ có hai năm kinh nghiệm, trong khi "Yat-chan" được cho là đã đảm nhiệm công việc này trong khoảng thời gian dài hơn. Cả hai chú khỉ đều nhận được đậu nành luộc từ khách hàng như tiền boa cho dịch vụ của mình. Môi trường dành cho những chú khỉ đã được kiểm tra để đảm bảo đối xử đúng đắn với động vật; theo các quy định về quyền động vật của Nhật Bản, mỗi con khỉ chỉ được phép làm việc hai giờ một ngày. Nhà hàng cũng được dùng làm phần thưởng cho đội chiến thắng trong tập thứ ba, mùa thứ hai của chương trình "I Survived a Japanese Game Show". Quán rượu bị bỏ hoang sau trận động đất và sóng thần ngày 11 tháng 3. Những con khỉ vẫn thuộc về chủ sở hữu. Tình trạng hiện tại của quán rượu và lũ khỉ đã được nghệ sĩ Pierre Huyghe ghi nhận lại trong một bộ phim năm 2014.
Terbi(III) bromide
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825052
Terbi(III) bromide (công thức hóa học: TbBr3) là một hợp chất vô cơ, kết tinh dưới dạng tinh thể màu trắng, tan trong nước. Điều chế và tính chất. Terbi(III) bromide có thể được điều chế bằng cách cho kim loại terbi hoặc terbi(III) oxide phản ứng với amoni bromide. Từ dung dịch, terbi(III) bromide rắn có thể kết tinh dưới dạng hexahydrat. Khi đun nóng, nó sẽ mất nước và tạo ra một lượng nhỏ TbOBr. Terbi(III) bromide là chất rắn màu trắng, dễ tan trong nước. Cấu trúc tinh thể của hợp chất này giống bismuth(III) iodide.
Cobalt(II) acetat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825059
Cobalt(II) acetat là muối cobalt(II) của acid acetic với công thức hóa học Co(C2H3O2)2. Nó thường được tìm thấy dưới dạng tetrahydrat Co(CH3CO2)2·4H2O, còn được viết tắt là Co(OAc)2·4H2O. Nó được sử dụng làm chất xúc tác. Điều chế và tính chất. Giống như nhiều muối acetat của kim loại chuyển tiếp khác, cobalt(II) acetat được tạo ra bằng phản ứng của cobalt(II) oxide hoặc hydroxide với acid acetic: Tinh thể học tia X đã chứng minh tetrahydrat có cấu trúc bát diện, trung tâm cobalt phối trí với bốn phân tử nước và hai phối tử acetat.Nickel(II) acetat cũng có cấu trúc tương tự. Nhiều loại hydrat khác nhau được biết đến bao gồm Co(CH3CO2)2·H2O và [Co(CH3CO2)2]5·0,5H2O. Phản ứng và sử dụng. Cobalt(II) acetat là tiền thân của nhiều loại chất làm khô dầu, chất xúc tác cho phép sơn và vecni cứng lại. Cobalt(II) acetat khan là nguồn cobalt được sử dụng rộng rãi trong quá trình tổng hợp vật liệu, chất xúc tác và điều chế các phức chất. An toàn. Muối cobalt có tính độc.
Thị trường lao động Nhật Bản
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825063
Lực lượng lao động tại Nhật Bản lên tới 65,9 triệu người vào năm 2010, chiếm 59,6% số dân trong độ tuổi từ 15 trở lên, và trong số họ có 62,57 triệu người có việc làm/đi làm thuê, trong khi đó có 3,34 triệu người chưa hoặc không có việc làm tạo ra tỷ lệ thất nghiệp là 5,1%. Cơ cấu thị trường lao động Nhật Bản trải qua sự thay đổi chậm rãi vào cuối thập niên 1980 và tiếp tục xu hướng này trong suốt thập niên 1990. Cấu trúc thị trường lao động chịu tác động bởi 4 nhân tố: 1) dân số thu hẹp, 2) sự thế chỗ bởi thế hệ bùng nổ trẻ sơ sinh thời kỳ hậu thế chiến, 3) sự gia tăng số lượng và 4) trình độ học vấn của người lao động tăng lên. Bên cạnh đó, sự gia tăng số lượng công dân người nước ngoài trong lực lượng lao động cũng đã được dự báo trước. Tính đến 2019, tỷ lệ thất nghiệp của Nhật Bản là thấp nhất trong khối G7. Tỷ lệ có việc làm ở số dân trong độ tuổi lao động (15-64) là cao nhất trong khối G7.
Phosphor tricyanide
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825070
Phosphor tricyanide là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học P(CN)3. Nó có thể được tạo ra bởi phản ứng của phosphor trichloride và trimethyl(iso)cyanosilan. Phản ứng của phosphor tribromide và bạc(I) cyanide trong diehtyl ether cũng có thể tạo ra phosphor tricyanide. Sự phân hủy nhiệt của nó có thể tạo ra pha C3N3P. Phosphor tricyanide phản ứng với Re(CO)5FBF3 tạo thành {P[CN-Re(CO)5]3}(BF4)3.
Giáo sư toán học Lucas
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825074
Chức danh giáo sư toán học Lucasian của Đại học Cambridge là một trong những vị trí uy tín nhất về học thuật trên thế giới. Vị trí này được tạo ra năm 1663, chính thức thông qua bởi vua Charles II ngày 18/1/1664. Nhà toán học lừng danh Isaac Newton được bổ nhiệm năm 1669. Không ai trong số hai đáp án còn lại từng dạy ở Cambridge. Richard Feynman giành giải Nobel vật lý về cơ học lượng tử năm 1965 và giảng dạy tại Viện Công nghệ California (Mỹ) cho đến khi qua đời vào năm 1988. Albert Einstein trải qua 20 năm cuối đời ở Viện Nghiên cứu Cao cấp ở Princeton, New Jersey (Mỹ). Ngoài Isaac Newton và Stephen Hawking, những người từng giữ chức danh giáo sư toán học Lucasian tại Cambridge gồm: Joseph Larmor, Charles Babbage, George Stokes, Paul Dirac…
Động đất Vân Nam 2000
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825075
Động đất Vân Nam 2000 () là trận động đất xảy ra vào lúc 7:37 (theo giờ địa phương), ngày 15 tháng 1 năm 2000. Trận động đất có cường độ 5.9 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km. Hậu quả trận động đất đã làm 7 người chết, 2.528 người bị thương.
Động đất Quần đảo Banggai 2000
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825077
Động đất Quần đảo Banggai 2000 () là trận động đất xảy ra vào lúc 12:21 (WITA), ngày 4 tháng 5 năm 2000. Trận động đất có cường độ 7.5 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 30 km. Động đất đã gây ra sóng thần lớn, với chiều cao lên đến 6 m. Hậu quả trận động đất đã làm 46 người chết, 264 người bị thương.
Santiago Bueno
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825078
Santiago Ignacio Bueno Sciutto (sinh ngày 9 tháng 11 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá người Uruguay hiện đang thi đấu cho câu lạc bộ Wolverhampton Wanderers ở vị trí hậu vệ.
Thung lũng Langdale Nhỏ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825079
Thung lũng Langdale Nhỏ là một thung lũng nằm ở quận Lake, Anh, bao gồm hồ Langdale Nhỏ và ngôi làng cùng tên. Hồ thứ hai, hồ Blea, nằm trong một thung lũng nằm giữa Langdale Nhỏ và Langdale Lớn ở phía Bắc. Langdale Nhỏ giáp Wetherlam và Swirl How lần lượt ở phía Nam và Tây Nam, giáp núi Lingmoor và Pike của Blisco ở phía Bắc và Tây Bắc. Thung lũng trên được nối liền theo chiều đi xuống với Langdale Lớn, ngay bên trên hồ Elter. Diện mạo. Trước đây, Langdale được nhiều người biết đến với tên gọi "Langdene" có nghĩa là "thung lũng rừng rậm ở vùng sâu, vùng xa" như là một cách thức để ám chỉ độ dài của một đường tàu hỏa nối từ nó đến vịnh Whitley. Trong lịch sử, Langdale Nhỏ là một điểm giao của các tuyến đường ngựa thồ đi Ravenglass, Whitehaven, Keswick, Penrith & Carlisle, Ambleside, Hawkshead và Coniston, Ulverston, Broughton-trong-Furness và Barrow trong Furness. Cầu Slater, được xây dựng từ thế kỉ XVI, là một cây cầu bắc qua sông Brathay. Nó được chia thành ba nhịp được "đỡ" bởi một tảng đá lớn ở giữa dòng và các con đường đều được đắp bằng đá. Đó chính là cây cầu cũ được xây dựng bằng những tảng đá phiến trên một trong những tuyến đường ngựa thồ này. Ngày nay, những con đường được rải kim loại nối Langdale Nhỏ qua đèo Wrynose và đèo Hardknott về phía Eskdale ở phía Tây, qua hồ Blea đến Langdale Lớn ở phía Tây Bắc, đến làng Elterwater ở phía Đông Bắc và đến cầu Skelwith nằm trên đường Coniston ở phía Đông. Tuyến đường Khu vực 37 của Mạng lưới Xe đạp Quốc gia Anh đoạn nối giữa Ambleside và Ulverston, được cho là có chạy qua thung lũng này. Quỹ Niềm tin Quốc gia Anh sở hữu nhiều trang trại và diện tích đất ở thung lũng này. Rất nhiều trang trại trong số đó có niên đại từ thế kỷ XVII. Ngoài ra, trong làng còn có các quán trọ. Nhà trọ Ba Shires đã được xậy dựng từ năm 1872 và được đặt theo tên của hòn đá Ba Shires cách đó hai dặm (khoảng 3,2 km). Quán trọ là địa điểm chính được sử dụng để tổ chức Cuộc đua ngã ba Shires.
Thung lũng Langdale Nhỏ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825079
Lượng mưa trung bình hàng năm của thung lũng Langdale Nhỏ là 2408mm, cao hơn mức trung bình của cả quận Lake, địa điểm vốn có lương mưa trung bình lớn hơn đáng kể so với phần còn lại của Vương quốc Anh. Đa số diện tích đất ở Langdale Nhỏ hiện nay chủ yếu được sử dụng để chăn nuôi một số gia súc (như cừu, bò...), mặc dù cho đến năm 1940, ít nhất một phần đất nông nghiệp đã được sử dụng cho một số mục đích khác. Vào tháng 3 năm 2006, thung lũng này từng là địa điểm bị chọn làm mục tiêu trong một kế hoạch tấn công của một nhóm "chiến binh biệt kích mujahidin" tự xưng. Sau đó, một trong số chúng đã bị kết án vì các tội liên quan đến khủng bố. Langdale Nhỏ cũng từng là một trong những địa điểm quay phim của bộ phim điện ảnh "Bạch Tuyết và Người thợ săn", một bộ phim ra mắt hồi năm 2012. Khoáng sản và các hoạt động khai thác mỏ. Các mỏ khoáng sản ở Langdale Nhỏ đã được khai thác rất nhiều trong vài trăm năm qua, đặc biệt là đồng và đá phiến mặc dù hiện tại ở đó có rất ít hoạt động khai thác. Các công trình ở các vùng lân cận bao gồm các mỏ đá phiến lớn tại Hodge Close, Tilberthwaite và các mỏ tại sườn phía nam của Wetherlam. Một mỏ nằm tại Hawk Rigg, một nơi cách không xa "vùng lân cận" trên, có thể đã có niên đại từ thời Elizabeth Đệ Nhất. và có báo cáo cho rằng quặng sắt đầu tiên đã được khai thác trong khu vực này vào năm 1709. Việc khai thác đá phiến ở khu vực này bắt đầu đạt mức "cực thịnh" vào Thời đại Victoria, nhất là sau sự ra đời của máy khoan khí nén để tạo ra các lỗ nổ, và tiếp diễn cho đến khi gạch xây dựng chất lượng cao được phát minh. Các loại đá trong thung lũng này nói chung là đá thô Borrowdale và Rhyolite trên nền andesit với các khu vực đá phiến, đặc biệt là ở phía Nam. Mỏ đá Cathedral. Mỏ đá Cathedral (Mã tham chiếu Quốc gia Anh: NY308028) là một tập hợp các mỏ đá phiến xanh chưa được khai thác liên kết với nhau, nằm ở phía trên một thung lũng trong Atkinson Coppice. Hiện nay, mỏ đá trên được quản lý bởi Quỹ Niềm tin Quốc gia Anh và bất kỳ ai cũng có thể vào tham quan. Nó có nhiều phòng và đường hầm khác nhau, trong đó có một phòng dài 400 feet (khoảng 120m).
Thung lũng Langdale Nhỏ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825079
Điểm thu hút nhiều sự chú ý nhất của mỏ đá là một phòng thờ cao 40 feet (khoảng 12m), được chiếu sáng từ hai cửa sổ với một cột đá đỡ mái nhà khổng lồ. Một số khoang nhỏ hơn của mỏ đá đã được đóng cửa để đảm bảo an toàn hoặc đã bị phá hủy. Mỏ đá này có ít nhất 25 tuyến đường leo núi được đặt tên và được xếp vào loại "cực kỳ nguy hiểm" và dài từ 30–40m. Những chất thải từ các mỏ này đã hợp lại với nhau, hình thành nên những bờ lớn, nơi mà các loài cây bạch dương bạc và thông tùng hiện đã và đang mọc lên. Mỏ Greenburn. Mỏ Greenburn (còn được biết đến với tên gọi khác là Mỏ Coniston Mới), là một mỏ đồng gần Greenburn Beck và hồ chứa Greenburn - một hồ chứa đã bị ngừng sử dụng. Nó được nhiều người cho là mỏ đồng được bảo vệ tốt nhất ở quận Lake. Các hoạt động khai thác ở mỏ này đạt đến cường độ "cực đại" vào giữa thế kỷ XIX nhưng có thể nó đã bắt đầu được vận hành từ cuối thế kỷ XVII. Mỏ đá đóng cửa vào năm 1865 nhưng đã được mở cửa trở lại với "nhịp độ vừa phải" cho đến khi nó đóng cửa một lần nữa vào năm 1940. Các trục chính của mỏ Greenburn nằm ở độ sâu lên tới 700 ft (210m) so với mặt đất. Hoạt động khai thác của mỏ có sự tham gia của một trục động cơ lớn cùng với một thiết bị cuộn dây và bơm được dẫn động bởi một bánh xe có đường kính 9,8m, cùng với nhiều trục và đường dẫn khác, một sàn đập, một máy nghiền chạy bằng bánh xe nước số hai, một đường xe điện nghiêng và hai bể chứa kết tủa. Phần còn lại của các tòa nhà trong khu mỏ bao gồm lò rèn, văn phòng, khu nhà ở hai tầng, kho để đồ đã được phơi khô, nhà thay đồ của thợ mỏ và kho thuốc nổ. Ít nhất năm mỏ đồng đã được khai thác, lần lượt có tên là Sump, Pave York, Low Gill và Gossan Veins. Năm 1906, mỏ được điều hành bởi công ty Greenburn & Tilberthwaite Syndicate, nhưng đến năm 1912 thì công ty bạc, chì và đồng Langdale đã mua lại mỏ này. Hồ chứa (khi được xây dựng vào thế kỷ 19) có diện tích khoảng 1,6ha và chiều cao khoảng 7,5m.
Thung lũng Langdale Nhỏ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825079
Tuy nhiên, một cơn bão tuyết vào mùa đông hồi năm 1979-1980 đã khiến con đập bị vỡ và nổ tung, giảm chiều cao của hồ chứa ấy xuống còn 6m như hiện tại.. Tác động của vụ nổ đập trên có thể nhìn thấy rõ trong các lõi trầm tích từ hạ lưu của hồ Langdale Nhỏ.
Cộng hòa Xô viết Ukraina
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825080
Cộng hòa Xô viết Ukraina ( ) là một một nước cộng hòa Xô viết do những người Bolshevik Ukraina thành lập. Sau Đại hội Xô viết toàn Ukraina lần thứ hai, họ tuyên bố Ukraina Xô viết độc lập vào tháng 3 năm 1918, và sáp nhập Cộng hòa Nhân dân Xô viết Ukraina, Cộng hòa Xô viết Odessa, và Cộng hòa Xô viết Donetsk–Krivoy Rog thành một quốc gia. Lịch sử. Lịch sử của nền cộng hòa Ukraina với tư cách là Cộng hòa Xô viết Ukraina và chính phủ của nó bắt đầu từ ngày 24-25 tháng 12 năm 1917. Khi đó tại Kharkov, Đại hội Xô viết toàn Ukraina lần đầu tiên được tiến hành, họ tuyên bố Ukraina là một nước Cộng hòa Ukraina, Cộng hòa Nhân dân Xô viết Ukraina. Đại hội quyết định liên minh chặt chẽ với Cộng hòa Nga (cũng là Xô viết) và bầu ra Ban Chấp hành Trung ương (). Cộng hoà được cải tổ vào ngày 19 tháng 3 năm 1918, tại Đại hội Xô viết toàn Ukraina lần thứ hai ở Yekaterinoslav, sau khi Nga Xô viết ký kết Hiệp ước Brest-Litovsk vào ngày 3 tháng 3. Chính phủ Xô viết và những cư dân ủng hộ họ đã liên minh chặt chẽ với Cộng hoà Xô viết Nga. Sau chiến thắng của chính phủ Xô viết tại Ukraina, Cộng hòa Nhân dân Xô viết Ukraina chính thức được đổi tên thành Cộng hòa Xô viết Ukraina và sau đó là Cộng hòa Xô viết Xã hội chủ nghĩa Ukraina, trở thành một trong những nước đồng sáng lập Liên Xô. Lực lượng quân sự của chính phủ Xô viết Ukraina thời đó được gọi là Quân đội Cossack Đỏ, sau này là một phần hợp nhất của Hồng quân Liên Xô. Nước cộng hòa thống nhất Cộng hòa Nhân dân Xô viết Ukraina, Cộng hòa Xô viết Donetsk–Krivoy Rog và Cộng hòa Xô viết Odessa thành một phần của Nga Xô viết. Tuy nhiên, các lực lượng của Liên minh Trung tâm và Cộng hòa Nhân dân Ukraina nhanh chóng tràn qua khu vực. Vào ngày 18 tháng 4 năm 1918, tại Taganrog, phiên họp tiếp theo của Ban Chấp hành Trung ương Xô viết thông báo rằng chính phủ Ukraina Xô viết, Ban Chấp hành Trung ương Ukraina và Ban Bí thư Nhân dân giờ đây được hợp nhất thành "Cục Ukraina" để chỉ đạo cuộc đấu tranh nổi dậy chống lại quân Đức chiếm đóng.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1900
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825082
Cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1900 là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 29, được tổ chức vào thứ Ba, ngày 6 tháng 11 năm 1900. Là trận tái đấu của cuộc bầu cử năm 1896, Tổng thống đương nhiệm của Đảng Cộng hòa William McKinley đã đánh bại đối thủ từ Đảng Dân chủ của ông, William Jennings Bryan. Chiến thắng của McKinley khiến ông trở thành Tổng thống đầu tiên thắng cử 2 cuộc bầu cử liên tiếp kể từ Ulysses S. Grant vào năm 1872. Cho đến năm 1956, đây sẽ là lần cuối cùng một Tổng thống đương nhiệm của Đảng Cộng hòa tái đắc cử sau khi phục vụ đủ một nhiệm kỳ. Cuộc bầu cử này là trận tái đấu thứ 5 trong lịch sử bầu cử Tổng thống, một điều sẽ không xảy ra một lần nữa cho đến năm 1956. Đây cũng là trận tái đấu đầu tiên mà có cùng một người thắng trong cả 2 lần bầu cử. McKinley và Bryan đều gặp phải ít sự phản đối trong đảng của họ. Mặc dù một số đảng viên Đảng Dân chủ Vàng có ý định đề cử Đô đốc hạm đội George Dewey, nhưng Bryan vẫn dễ dàng giành được đề cử tại Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ năm 1900 sau khi Dewey rút lui. McKinley sau đó đã được nhất trí tái đề cử tại Đại hội toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1900. Vì Phó Tổng thống Garret Hobart qua đời vào năm 1899, đại hội Đảng Cộng hòa đã chọn Thống đốc New York Theodore Roosevelt làm đồng tranh cử mới cùng McKinley. Kinh tế trở nên thịnh vượng trở lại cũng như chiến thắng gần đây trong Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ đã giúp McKinley giành được chiến thắng một cách dễ dàng, trong khi lập trường chống chủ nghĩa đế quốc và ủng hộ bản vị lưỡng kim của Bryan chỉ thu hút được ít sự ủng hộ. McKinley đã chiến thắng hầu hết các bang bên ngoài miền Nam và giành được 51,6% số phiếu phổ thông. Kết quả bầu cử gần giống như năm 1896, mặc dù McKinley thắng thêm một số bang miền Tây và Bryan thắng thêm Kentucky. 6 tháng sau khi nhậm chức nhiệm kỳ thứ 2, McKinley bị ám sát và Phó Tổng thống Theodore Roosevelt lên kế nhiệm và trở thành Tổng thống. Đề cử. Đề cử của Đảng Cộng hòa.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1900
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825082
Đề cử. Đề cử của Đảng Cộng hòa. 926 đại biểu tham dự đại hội Đảng Cộng hòa được triệu tập tại Philadelphia từ ngày 19 đến 21 tháng 6, đã nhất trí tái đề cử Tổng thống William McKinley. Thomas C. Platt, “ông trùm chính trị” của Đảng Cộng hòa bang New York, không ưa gì Theodore Roosevelt, Thống đốc nổi tiếng của New York, dù ông cũng là một thành viên Đảng Cộng hòa. Những nỗ lực của Roosevelt nhằm cải cách nền chính trị New York - bao gồm cả cải cách Đảng Cộng hòa - đã khiến Platt và giới thượng tầng Đảng Cộng hòa ở đây đã gây áp lực buộc Tổng thống McKinley phải chấp nhận Roosevelt làm ứng cử viên Phó Tổng thống mới của ông, lấp đầy chỗ trống mà Phó Tổng thống Garret Hobart để lại sau khi qua đời năm 1899. Bằng cách bầu Roosevelt làm Phó Tổng thống, Platt sẽ loại Roosevelt khỏi chính trường bang New York. Mặc dù Roosevelt miễn cưỡng chấp nhận đề cử làm Phó Tổng thống, chức vụ mà ông coi là một chức vụ tương đối tầm thường và yếu kém, nhưng sự nổi tiếng rộng rãi của ông đối với hầu hết các đại biểu Đảng Cộng hòa đã khiến McKinley chọn ông làm đồng tranh cử mới của mình. Trớ trêu thay, vào tháng 9 năm 1901, McKinley bị ám sát và qua đời ở Buffalo, New York, Roosevelt lập tức kế nhiệm và trở thành Tổng thống - chức vụ quyền lực nhất và tất nhiên có ảnh hưởng tới chính trường tất cả các bang, gồm cả ở New York. Đề cử của Đảng Dân chủ. Ứng cử viên khác. Sau khi Đô đốc hạm đội George Dewey trở về từ Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ, nhiều người đề nghị ông tranh cử Tổng thống đại diện Đảng Dân chủ. Tuy nhiên, Dewey lại chót chọc giận một số người theo đạo Tin lành khi kết hôn với Mildred McLean Hazen theo Công giáo (vợ góa của Tướng William Babcock Hazen và con gái của Washington McLean, chủ báo "The Washington Post") vào tháng 11 năm 1899 và tặng cho bà ngôi nhà mà đất nước đã trao thưởng cho ông nhờ công lao trong chiến tranh của mình. Việc ứng cử của ông gần như ngay lập tức bị phản đối bởi một số lời vạ miệng.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1900
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825082
Báo chí bắt đầu tấn công ông ngay lập tức sau khi ông nói rằng công việc của Tổng thống vô cùng dễ dàng, chỉ đơn thuần thi hành luật do Quốc hội ban hành và rằng ông sẽ "thực thi luật của Quốc hội một cách trung thực nhất có thể như cách ông tuân lệnh cấp trên của mình.” Ngay sau đó, ông thừa nhận chưa bao giờ bỏ phiếu trong một cuộc bầu cử Tổng thống trước đây, đồng thời đề cập rằng người duy nhất mà ông sẽ bỏ phiếu nếu được sẽ là Grover Cleveland. Ông thậm chí còn bị chỉ trích nhiều hơn khi nói thẳng thắn (và sau này trở thành sự thật) với một phóng viên tờ báo rằng, "Cuộc chiến tiếp theo của chúng ta sẽ là với Đức." Chiến dịch của Dewey sau đó còn vấp phải sự phản đối của Đảng Dân chủ Vàng (ủng hộ vàng), những người mà ban đầu ủng hộ chiến dịch của ông. Một số thậm chí còn ủng hộ Bryan (ủng hộ bạc) vì họ tin rằng ông là ứng cử viên có uy tín hơn. Ngay sau 3 ngày ứng cử, chiến dịch tranh cử của ông đã gặp trắc trở bởi những sai lầm nói trên, đã có rất nhiều tin đồn về việc Dewey sắp rút lui. Tuy nhiên, trắc trở lớn hơn hết đã xảy ra khi có thông tin giới thượng tầng Đảng Dân chủ Vermont phản đối Dewey và hoàn toàn ủng hộ Bryan. Ohio cũng ủng hộ Bryan, mặc dù có cảnh báo rằng giới thượng tầng sẽ loại bỏ vấn đề bạc ra khỏi cương lĩnh đảng. Đến ngày 5 tháng 5, John Roll McLean, anh rể và quản lý chiến dịch của Dewey, đã rút khỏi chiến dịch và được nhiều người cho là âm thầm ủng hộ Bryan. Đến ngày 17 tháng 5, Dewey nhận ra rằng có rất ít cơ hội để ông có được đủ số đại biểu ủng hộ tại các bang miền Tây và miền Nam để ngăn Bryan đạt được 2/3 số đại biểu tại đại hội đến mức nói rằng ông thậm chí còn không biết tại sao mình lại quyết định tranh cử Tổng thống; ông sau đó rút lui. Sau đó đã có đề nghị ủng hộ ông tranh đề cử làm Phó Tổng thống cùng với Bryan; tuy nhiên Dewey kiên quyết từ chối đề nghị này. William Jennings Bryan gặp phải rất ít sự phản đối lớn sau khi Dewey rút lui.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1900
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825082
Bryan giành chiến thắng tại Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ năm 1900 được tổ chức tại Thành phố Kansas, Missouri, từ ngày 4 đến 6 tháng 7, giành được 936 phiếu đại biểu để giành được đề cử. Các ứng cử viên chính thức hoặc được suy đoán tranh đề cử Phó Tổng thống: Đề cử của Đảng Nhân dân (Đảng Dân túy). Là đảng lớn thứ ba trên toàn quốc, Đảng Dân túy đã đưa ra quyết định vào năm 1896 để từng bước "liên minh" với Đảng Dân chủ ở cấp quốc gia bằng cách ủng hộ ứng cử viên Tổng thống của Đảng Dân chủ - dù sẽ giữ ảnh hưởng của mình bằng cách đề cử một ứng cử viên của riêng mình cho vị trí Phó Tổng thống. Ở cấp tiểu bang, các Đảng Dân túy cấp địa phương được tự do hoạt động theo cách của riêng họ. Ở các bang vùng Bình nguyên, Đảng Dân túy liên minh với Đảng Dân chủ, và ở một số bang thì đã hoàn toàn sáp nhập vào đảng này. Ở miền Nam, Đảng Dân túy liên minh với Đảng Cộng hòa. Kết quả, mặc dù Bryan thất cử, Đảng Dân túy đã có thêm nhiều Dân biểu thắng cử vào Quốc hội, từ 10 lên 26. Tuy nhiên, ở một số bang miền Nam, cơ quan lập pháp do Đảng Dân chủ kiểm soát bắt đầu thông qua một loạt luật nhằm tước quyền bầu cử của cử tri da đen - khối cử tri lớn ủng hộ Đảng Dân túy. Động thái này đã gây ra nhiều hậu quả, như trong cuộc bầu cử giữa kỳ năm 1898, số Dân biểu của Đảng Dân túy tại Hạ viện đã giảm xuống còn 9, mức thấp nhất kể từ khi thành lập đảng. Cách Đảng Dân chủ đối xử với Đảng Dân túy đã dẫn đến sự chia rẽ trong nội bộ đảng này. Vào ngày 17 tháng 5 năm 1899, giới thượng tầng Đảng Dân túy đã gặp nhau tại St. Louis và đưa ra một bài phát biểu thành lập phái "Trung lộ", ngăn chặn nỗ lực hợp nhất 2 đảng. Tuyên bố chủ yếu nhắm vào chủ tịch toàn quốc của đảng, Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Marion Butler từ Bắc Carolina, người được bầu vào Thượng viện thông qua liên minh với Đảng Cộng hòa Bắc Carolina, và đang nỗ lực vận động Đảng Dân túy tái ủng hộ đề cử của William J. Bryan trong cuộc bầu cử này. Trong khi đó, phái "Liên minh" bắt đầu phản công từ đầu năm 1900.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1900
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825082
Nơi đầu tiên xuất hiện biểu hiện của sự chia rẽ là ở Đảng Dân túy Nebraska trong đại hội cấp bang vào ngày 19 tháng 3. Cả 2 phái đều cử đại biểu tham dự đại hội toàn quốc, dự kiến diễn ra ở Cincinnati. Cuối cùng, phái "Liên minh" đã quyết định tổ chức riêng một đại hội toàn quốc khi rõ rằng Đảng Dân túy Ohio không ủng hộ phái "Liên minh" và đang nỗ lực tổ chức một đại hội nhằm không ủng hộ đề cử của Bryan mà là đề cử một liên danh riêng của mình. Đề cử của Đảng Nhân dân phái "Liên minh". Đại hội toàn quốc của phái "Liên minh" được triệu tập ở ngay phía tây Sioux Falls, Nam Dakota vào ngày 9 tháng 5 và nhất trí đề cử Bryan làm Tổng thống. Charles Towne, lãnh đạo của Đảng Cộng hòa Bạc, gần như được nhất trí ủng hộ đề cử làm đồng tranh cử của ông, chỉ vấp phải sự phản đối nhỏ từ Dân biểu John Lentz từ Ohio. Tuy nhiên, cuối cùng thì Adlai Stevenson lại giành được đề cử Phó Tổng thống của Đảng Dân chủ thay vì Towne, Towne sau đó rút lui, và sau đó phái "Liên minh" quyết định ủng hộ Stevenson. Đề cử của Đảng Nhân dân phái "Trung lộ". Gặp nhau tại Cincinnati, Ohio, phe "Trung lộ" đã thông qua một cương lĩnh kêu gọi tạo ra tiền định danh, gia tăng quyền sở hữu của chính phủ đối với các ngành công nghiệp chủ chốt và thành lập các vùng đặc quyền kinh tế. Doanh nhân Wharton Barker được đề cử làm Tổng thống, trong khi Dân biểu Ignatius Donnelly được chọn đồng tranh cử cùng ông. Đảng nhỏ. Đề cử của Đảng Dân chủ Xã hội. Tổ chức Dân chủ Xã hội Hoa Kỳ được thành lập vào tháng 6 năm 1897 và sau đó được đổi tên thành Đảng Dân chủ Xã hội Hoa Kỳ vào năm 1898 khi Đảng Lao động Xã hội Hoa Kỳ đang gặp lục đục nội bộ. James F. Carey, thành viên của hội đồng thành phố Haverhill, Massachusetts, đã bị khai trừ khỏi Đảng Lao động Xã hội. Sau đó, Eugene V. Debs, Carey và Sylvester Keliher thành lập Đảng Dân chủ Xã hội. Carey và Louis M. Scates được bầu vào Hạ viện Massachusetts trong khi John C. Chase được bầu làm thị trưởng Haverhill. Victor L. Berger, lãnh đạo đảng ở Milwaukee, Wisconsin, và một nhóm ứng cử viên của đảng đã nhận được gần 6% số phiếu bầu trong cuộc bầu cử năm 1898. 20 thành viên đã đắc cử vào các văn phòng vào năm 1900.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1900
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825082
Morris Hillquit và các thành viên phe cánh của ông, được gọi là phái Kangaroo trong Đảng Lao động Xã hội đang cố gắng lật đổ Daniel De Leon khỏi vị trí lãnh đạo đảng tại đại hội năm 1899. Phái Kangaroo đã thất bại cay đắng trước De Leon và bị khai trừ khỏi đảng nên họ đã tự thành lập một Đảng Lao động Xã hội của riêng họ. Họ đề cử Job Harriman làm Tổng thống và Max S. Hayes làm Phó Tổng thống mặc dù họ không có ý định tranh cử trong cuộc bầu cử năm 1900 và thay vào đó chỉ dùng nó như một cách thỏa hiệp với Đảng Dân chủ Xã hội Hoa Kỳ. Đảng Dân chủ Xã hội ban đầu được mời tham dự đại hội của phái Kangaroo, nhưng họ từ chối dù Đảng Dân chủ Xã hội ủng hộ sự hợp nhất của 2 đảng. Dẫu vậy, Ban Chấp hành Đảng Dân chủ Xã hội vẫn cho phép phái Kangaroo cử đại biểu tham dự đại hội toàn quốc của họ. Phái Kangaroo đã thông qua một nghị quyết ủng hộ sự hợp nhất và thành lập một ủy ban thống nhất. 67 đại biểu từ 32 bang được triệu tập tại đại hội năm 1900 và bỏ phiếu ủng hộ Debs làm Tổng thống. Hayes và Harriman đều tranh đề cử Phó Tổng thống và Harriman đã giành được nó. Ban Chấp hành tuyên bố vào ngày 12 tháng 5 năm 1900 rằng họ sẽ không ủng hộ việc hợp nhất với phái Kangaroo sau khi cáo buộc họ quá giáo điều và cản trở một cuộc bỏ phiếu về vấn đề hợp nhất. Dẫu vậy, khi Ủy ban Thống nhất phái Kangaroo đã gửi phiếu bầu cho các thành viên của cả 2 đảng thì cả 2 đều bỏ phiếu ủng hộ sự hợp nhất. Phái Kangaroo đồng ý đề cử Debs và Harriman làm liên danh của họ và Debs đã chấp nhận vào ngày 31 tháng 7. Debs và George D. Herron bắt đầu chiến dịch tranh cử cho đảng vào ngày 29 tháng 9, tại Music Hall ở Chicago. Debs đã nhận được 87.945 phiếu bầu với số phiếu ủng hộ lớn nhất đến từ New York và Illinois. Số phiếu bầu Debs nhận được ở Chicago nhiều gấp 10 lần số phiếu của Đảng Lao động Xã hội nhận được trong cuộc bầu cử năm 1896. Debs đã nhận được nhiều phiếu bầu hơn bất kỳ liên danh Tổng thống nào từ Đảng Lao động Xã hội. Phái Kangaroo và Đảng Dân chủ Xã hội sau đó hợp nhất và trở thành Đảng Xã hội Hoa Kỳ vào năm 1901.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1900
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825082
Đề cử của Đảng Cấm rượu. Ứng cử viên khác. Đảng Cấm rượu đã họp tại Chicago, Illinois vào ngày 28 tháng 6 để đề cử liên danh của họ. Hale Johnson, người từng là ứng cử viên Phó Tổng thống của đảng vào năm 1896, đã rút lui ngay trước khi cuộc bỏ phiếu bắt đầu. John G. Woolley đã được đề cử trong lần bỏ phiếu đầu tiên, với Henry B. Metcalf từ Rhode Island được đề cử làm đồng tranh cử cùng ông thời gian ngắn sau đó. Đề cử của Đảng Cộng hòa Lincoln. Đảng Cộng hòa Lincoln, trước đây có tên là Đảng Cộng hòa Bạc, đến năm 1900 đã nhận ra rằng vấn đề bản vị lưỡng kim đã hạ nhiệt và vấn đề chủ nghĩa đế quốc đang ngày càng nóng lên, và họ hy vọng rằng một cương lĩnh đa dạng phù hợp với các giáo lý mà Abraham Lincoln ủng hộ sẽ giúp Đảng phát triển mạnh hơn chỉ là một vấn đề bạc tự do. Đảng Cộng hòa Lincoln triệu tập tại Thành phố Kansas, Missouri, cùng lúc và cùng nơi với Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ. Cam kết ủng hộ William Jennings Bryan tranh cử Tổng thống, mục đích chính của nhiều đại biểu tham dự là thúc đẩy Đảng Dân chủ đề cử Chủ tịch toàn quốc Charles Towne cho chức Phó Tổng thống, một nỗ lực ban đầu được Đảng Dân túy phái "Liên minh" ủng hộ. Thật không may cho những người ủng hộ Towne, những nỗ lực này có thể đã không có tác dụng, khi khối đại biểu từ miền Nam không ủng hộ ông. Cuối cùng, trong lần bỏ phiếu quyết định, Towne đứng thứ 3, với Adlai Stevenson giành chiến thắng. Việc Stevenson, người trước đây từng giữ chức Phó Tổng thống dưới thời Grover Cleveland, được đề cử, đã khiến nhiều thành viên Đảng Cộng hòa Lincoln tham dự phẫn nộ, và nhiều nỗ lực vô cùng sau đó nhằm đề cử Charles Towne tranh cử Phó Tổng thống đã xuất hiện. Chỉ cho đến khi chính Charles Towne phát biểu tại đại hội thì sự hỗn loạn mới nguôi ngoai. Từ chối tranh cử, Towne cầu xin các đại biểu có mặt chấp nhận và ủng hộ liên danh của Đảng Dân chủ, ngụ ý rằng Bryan mới làn nhân tố chính và phần lớn Cương lĩnh Đảng Dân chủ phù hợp với Đảng Cộng hòa Lincoln.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1900
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825082
Những người khác, chẳng hạn như Thượng nghị sĩ Fred Dubois, Thượng nghị sĩ Henry Teller và John Shafroth đã có những bài phát biểu tương tự kêu gọi ủng hộ Bryan và Stevenson. Sau cùng, một ủy ban được chọn lọc thành viên đã chính thức tán thành đề cử Phó Tổng thống của Adlai Stevenson. Đề cử của Liên đoàn Chống Chủ nghĩa đế quốc. Liên đoàn Chống Chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ được thành lập vào năm 1898 để phản đối thương vụ mua Quần đảo Philippine, coi thương vụ này vi phạm quy tắc "sự đồng ý của người bị trị". Mặc dù không chính thức là một đảng phái chính trị, nhưng đã tồn tại một phong trào trong Liên đoàn nhằm đề cử một liên danh riêng biệt trên cương lĩnh tập trung vào vấn đề chống chủ nghĩa đế quốc hoặc ít nhất là ủng hộ một ứng cử viên tổng thống từ Đảng Cộng hòa hoặc Đảng Dân chủ mà bản thân họ chống lại chủ nghĩa đế quốc. Tuy nhiên, sau khi McKinley và Bryan được đề cử, tranh luận đã bùng nổ về việc có nên tán thành Bryan và Cương lĩnh Đảng Dân chủ hay không; trong khi đó, nhiều đảng viên Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ Vàng lại cảm thấy với các triết lý chính trị của Liên đoàn rất phù hợp với triết lý của họ (trừ việc tố cáo chủ nghĩa đế quốc); đến tháng 7, một số người thậm chí còn có ý định ủng hộ McKinley vào tháng 11. Cuối tháng đó, Đại hội toàn quốc được triệu tập ở Indianapolis vào ngày 15 tháng 8 đẻ quyết định ủng hộ hoặc tự đề cử một liên danh riêng cho cuộc tổng tuyển cử. Các cuộc tranh luận đã bùng nổ với sự tham gia Đảng Dân chủ Quốc gia về khả năng liên minh đề cử một liên danh duy nhất, nhưng điều này đã bị ủy ban toàn quốc của đảng bác bỏ. Sau đó, những cái tên được thảo luận cho đề cử Tổng thống bào gồm cựu Chủ tịch Hạ viện Thomas Reed, cựu Ngoại trưởng Richard Olney, cựu Thống đốc bang Massachusetts George Boutwell, và cựu Thượng nghị sĩ John Henderson. Ngay từ đầu, những xu hướng này có lợi cho Bryan, với việc Chủ tịch thường trực George Boutwell phát biểu tại đại hội và kêu gọi ủng hộ Đảng Dân chủ, sau đó là các bài phát biểu của cựu Tướng John Beatty, Edgar Bancroft và Gamaliel Bradford.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1900
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825082
Tuy nhiên, nghị quyết tán thành Bryan đã vấp phải tranh cãi kéo dài với phe cánh ủng hộ đề cử một liên danh riêng do Thomas Osborne lãnh đạo. Osborne và phe cánh của ông nói rằng nhiều người chống chủ nghĩa đế quốc sẽ không sẵn sàng bỏ phiếu cho Bryan hoặc ủng hộ Cương lĩnh Đảng Dân chủ, và Đảng sẽ thu hút được nhiều phiếu bầu hơn nếu họ đề cử một ứng cử viên của riêng họ. Charles Codman, tác giả của nghị quyết, và Edwin Burritt Smith phản đối rằng cử tri sẽ ít để ý tới các vấn đề ngoài vấn đề chủ nghĩa đế quốc, và nên tận dụng mọi cơ hội để đưa một người chống chủ nghĩa đế quốc lên nắm quyền. Trong một lần bỏ phiếu, Cương lĩnh của Liên đoàn được thông qua, ủng hộ liên danh Bryan/Stevenson. Osborne và những người muốn đề cử một liên danh riêng sau đó rời đảng và gia nhập Đảng Quốc gia, đang chuẩn bị tổ chức đại hội gần đó. Đề cử của Đảng Quốc gia. Đảng Quốc gia được hình thành từ phong trào ủng hộ đề cử một liên danh riêng trong Liên đoàn Chống Chủ nghĩa đế quốc. Giai đoạn đầu của sự hình thành đảng xuất phát từ thất bại của đảng viên Liên đoàn, do Thomas Osborne và John Jay Chapman lãnh đạo, trong việc thuyết phục Đảng Dân chủ Quốc gia đề cử hoặc ủng hộ một liên danh. Một tuyên bố sau đó được các đại biểu Liên đoàn từ New York đưa ra, tố cáo cả hai đảng Cộng hòa và Dân chủ, ủng hộ nền độc lập của Philippines và Porto Rico, ủng hộ chế độ bản vị vàng và một hệ thống ngân hàng lớn mạnh, kêu gọi bãi bỏ những đặc quyền đặc biệt và yêu cầu cải cách dịch vụ công. Họ cũng tổ chức một đại hội toàn quốc từ ngày 14 đến ngày 15 tháng 8, gần Đại hội toàn quốc Liên đoàn được tổ chức từ ngày 15 tháng 8 đến ngày 16 tháng 8. Khi các đại biểu đến Indianapolis, mọi người dự định rằng Liên đoàn sẽ đề cử một liên danh riêng và Đảng Quốc gia sẽ ủng hộ liên danh của Liên đoàn. Tuy nhiên, vấn đề trở nên rõ ràng khi Liên đoàn có ý ủng hộ Bryan và đang chuẩn bị quyết định ủng hộ ông.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1900
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825082
Những đại biểu của Liên đoàn liên minh với Đảng Quốc gia sau đó đã rời khỏi đảng và tiến hành bầu Thomas Osborne làm Chủ tịch Thường trực của Đại hội, kêu gọi tổ chức một đại hội toàn quốc mới vào ngày 5 tháng 9. Người ta tuyên bố rằng vào thời điểm đó, các đại biểu có ý mời Moorfield Storey chấp nhận đề cử Tổng thống của Đảng Quốc gia, nhưng Storey đã từ chối và cuối cùng đã chọn tranh cử tại khu 11, Massachusetts; trong khi đó, William Jackson Palmer ban đầu được gợi ý cho vị trí đề cử Phó Tổng thống nhưng ông cũng từ chối lời gợi ý này. Đại hội triệu tập tại Carnegie Hall (sau đó là Chamber Music Hall) vào ngày 5 tháng 9, Đảng Quốc gia chính thức được thành lập, ứng cử viên Thượng nghị sĩ Donelson Caffery từ Louisiana được đề cử làm Tổng thống và nhà sử học Archibald Howe của Massachusetts cho Phó Tổng thống. Mặc dù có một số lo ngại về việc liệu Caffery có chấp nhận đề cử nếu được đề nghị hay không, Osborne tuyên bố rằng ông đã liên lạc với Caffrey và rằng ông vừa có thiện cảm với Đảng Quốc gia vừa sẵn sàng trở thành ứng cử viên cho chức Tổng thống của họ. Cương lĩnh của đảng gần như giống với cương lĩnh do ủy ban Liên đoàn soạn hồi tháng 7. Mục đích duy nhất của đảng chỉ dừng lại ở việc chia phiếu bầu của McKinley và Bryan. Thật không may cho Đảng Quốc gia, Thượng nghị sĩ Cafferty từ chối tranh cử chỉ vài tuần sau đó, dẫn đến một cuộc tranh luận mà Arthur Briggs Farquhar, chủ sở hữu của Công trình Nông nghiệp Pennsylvania, được coi là người có thể thay thế ông. Một ngày sau, ngày 21 tháng 9, chi ủy Đảng ở Massachusetts bỏ phiếu giải tán đảng. Đề cử khác. Đảng Cải cách Liên minh đã đề cử Seth H. Ellis của Ohio làm Tổng thống và Samuel T. Nicholson làm Phó Tổng thống. Đảng Cơ đốc Thống nhất đã đề cử Jonah FR Leonard làm Tổng thống và David H. Martin làm Phó Tổng thống. Ban đầu, đảng đã đề cử Silas C. Swallow làm Tổng thống và John G. Woolley làm Phó Tổng thống, nhưng cả hai người đều từ chối, thay vào đó họ chọn tranh đề cử của Đảng Cấm rượu "(mà Woolley là người chiến thắng)". Tổng tuyển cử. Chiến dịch.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1900
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825082
Tổng tuyển cử. Chiến dịch. Nền kinh tế đang phát triển thịnh vượng vào năm 1900, vì vậy khẩu hiệu của Đảng Cộng hòa là "Bốn năm nữa với một bữa tối đầy đủ", kết hợp với chiến thắng trong của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ năm 1898, đã hấp dẫn cử tri hơn bao giờ hết. Teddy Roosevelt đã trở thành một anh hùng dân tộc khi từng chiến đấu ở Cuba, hơn nữa ông còn là một phát ngôn viên nổi tiếng đại diện đảng Cộng hòa. Roosevelt tỏ ra rất năng nổ và là đối thủ xứng tầm với phong cách vận động tranh cử sôi nổi của William Jennings Bryan. Roosevelt phát biểu nhiều nơi, miêu tả là McKinley là người đã mang lại hòa bình và thịnh vượng cho đất nước và xứng đáng được tái đắc cử. Trong một chiến dịch vận động tranh cử thần tốc, Roosevelt đã có 480 điểm dừng để phát biểu ở 23 bang. Trong các bài phát biểu của mình, ông liên tục lập luận rằng cuộc chiến là chính đáng, đã giải phóng người Cuba và người Philippines khỏi chế độ chuyên chế của Tây Ban Nha: Chiến dịch của Bryan dựa trên vấn đề chính của chiến dịch năm 1896: Bạc tự do. Chiến dịch đã không thành công trong cuộc bầu cử này vì sự thịnh vượng kinh tế đã thay thế tình trạng suy thoái trầm trọng và McKinley có công trong việc này. Ngay cả những người ủng hộ bạc nhằm mở rộng nguồn cung tiền để nâng giá cũng phải thừa nhận rằng một lượng lớn vàng mới đang chảy vào nền kinh tế thế giới, và tình trạng giảm phát (tức là giá cả giảm) không còn là mối đe dọa với nền kinh tế nữa. Vấn đề lớn thứ 2 mà Bryan hướng đến là tấn công chủ nghĩa đế quốc của McKinley; Bryan ủng hộ chiến tranh nhưng phản đối việc sáp nhập Philippines. Ông nói McKinley chỉ đơn giản là thay thế chế độ chuyên chế độc ác của Tây Ban Nha bằng chế độ tàn ác của Mỹ. Bryan đặc biệt gay gắt khi chỉ trích nỗ lực đẫm máu của quân đội Mỹ nhằm trấn áp một cuộc nổi dậy của quân du kích Philippines. Vấn đề này lôi kéo được nhiều người trước đây phản đối Bryan, đặc biệt là những người Đức ủng hộ "tiền cứng", các cựu đảng viên Đảng Dân chủ Vàng và những người chống chủ nghĩa đế quốc như Andrew Carnegie.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1900
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825082
Cả 2 ứng cử viên đều tái sử dụng kỹ thuật tranh cử vào năm 1896, với việc McKinley một lần nữa vận động "trước hiên nhà" từ Canton, Ohio. Vào đỉnh điểm của chiến dịch, ông đã chào đón 16 phái đoàn và 30.000 người ủng hộ cổ vũ trong 1 ngày. Trong khi đó, Bryan lại bắt đầu hành trình, di chuyển 18.000 dặm tới hàng trăm cuộc biểu tình khắp miền Trung Tây và Đông. Lần này, ông còn có đối thủ hùng biện khác là Theodore Roosevelt, người đã vận động hăng hái không kém ở 24 bang, với quãng đường 21.000 dặm bằng tàu hỏa. Chiến thắng của quân đội và hải quân Mỹ trong cuộc chiến chống Tây Ban Nha là yếu tố quyết định trong việc gây dựng sự ủng hộ của Đảng Cộng hòa. Đảng Dân chủ cố gắng lập luận rằng chiến tranh chưa kết thúc vì cuộc nổi dậy ở Philippines; điều này đã trở thành vấn đề chính của họ. Nhận thức rằng Chiến tranh Hoa Kỳ-Philippines sắp kết thúc sẽ là một kho báu "màu mỡ" cho Đảng Cộng hòa, và chính quyền McKinley tuyên bố rằng quân đội sẽ được cắt giảm khi chiến tranh kết thúc. Đảng Cộng hòa cam kết rằng các cuộc giao tranh ở Philippines sẽ tự lắng xuống trong vòng 60 ngày kể từ khi McKinley tái đắc cử. Tuy nhiên, như một trung úy đã viết trong một bức thư gửi cho vợ mình, “Trên giấy tờ thì có vẻ ổn, nhưng thực sự ở đây không hề có sự cắt giảm lực lượng nào cả. Những tiểu đoàn [được hồi hương] này gồm toàn những người...sắp giải ngũ." Ngoài ra, Bộ trưởng Chiến tranh Elihu Root còn nhận được một báo cáo từ MacArthur vào tháng 9 năm 1900 rằng ông ta sẽ không cắt giảm lực lượng cho đến sau cuộc bầu cử. Tướng Arthur MacArthur, Jr., nắm quyền chỉ huy Philippines được 4 tháng, cảnh báo Washington rằng cuộc chiến không những không hạ nhiệt mà thậm chí còn chưa định hình được kết quả. MacArthur tin rằng giai đoạn du kích của cuộc chiến chỉ mới bắt đầu và người Philippines đang hoàn thiện kỹ thuật của mình thông qua kinh nghiệm của mình. Hơn nữa, chiến lược của nhà lãnh đạo Philippines Emilio Aguinaldo đã nhận được sự ủng hộ rộng rãi hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, phần lớn binh lính ở Philippines không ủng hộ Bryan.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1900
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825082
Hầu hết những lời nhắn đề cập đến cuộc bầu cử năm 1900 trong thư và nhật ký của những người lính đều bày tỏ sự ủng hộ rất lớn đối với Đảng Cộng hòa của McKinley và Roosevelt. Theo Trung sĩ Beverly Daley, ngay cả "đảng Dân chủ hú hét" cũng ủng hộ McKinley. Binh nhì Hambleton viết: "Tất nhiên, có một số chàng trai cho rằng Bryan là kẻ toàn diện, nhưng số lượng những chàng trai như vậy rất ít". Bất chấp những nỗ lực đầy nghị lực của Bryan, sự thịnh vượng mới dưới thời McKinley, kết hợp với sự ủng hộ của công chúng đối với Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ, đã giúp McKinley giành được chiến thắng dễ dàng. Kết quả. Theodore Roosevelt, ứng cử viên Phó Tổng thống của Đảng Cộng hòa, đã thu hút được sự ủng hộ bất ngờ trong chiến dịch tranh cử, và người ta khẳng định rằng ông đã giúp mang lại một lượng phiếu bầu rất lớn cho Đảng Cộng hòa. McKinley đã giành được khoảng 7.200.000 phiếu bầu. Ông đã thắng ở 28 bang với tổng số 292 phiếu đại cử tri (65,32%). Tỷ lệ phần trăm phiếu phổ thông của ông trên toàn quốc tăng nhẹ (51,60%), với nhiều hơn 120.000 phiếu bầu so với năm 1896. Sự thay đổi này được phản ánh qua số quận mà ông thắng; McKinley thắng nhiều hơn 222 quận so với số quận ông thắng vào năm 1896, do đó giành chiến thắng ở đa số quận vào năm 1900. Trong số 2.729 quận, McKinley giành chiến thắng với 1.385 (50,75%) trong khi Bryan giành được 1.340 (49,10%). 2 quận (0,07%) chia đều cho McKinley và Bryan, trong 2 hai quận (0,07%) ở Texas ghi nhận phiếu bầu cho ứng cử viên "Khác" nhiều hơn 1 trong 2 ứng cử viên của 2 đảng lớn. McKinley chiếm đa số ở 1.288 quận trong khi Bryan chiếm đa số ở 1.253 quận. Soi xét kỹ hơn kết quả, trong số 2.729 quận, 2.286 quận có người thắng giống hệt cuộc bầu cử 4 năm trước; 113 thay đổi từ đảng Cộng hòa sang đảng Dân chủ; và 328 thay đổi từ Đảng Dân chủ sang Đảng Cộng hòa. Một điểm đáng chú ý nữa là mức tăng tỷ lệ phiếu của Bryan ở khu vực New England và (Đông Bắc) Trung Đại Tây Dương, cùng với mức tăng nhẹ ở khu vực Trung Đông Bắc.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1900
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825082
Bryan thậm chí còn thắng ở thành phố New York với cách biệt gần 30.000 phiếu bầu, nơi ông thua với cách biệt 60.000 phiếu bầu chỉ 4 năm trước đó. Trong tất cả các vùng khác khác, số phiếu bầu của Bryan ít hơn năm 1896, và trên toàn quốc tổng số phiếu bầu của ông ít hơn 23.000 so với năm 1896. Tỷ lệ phần trăm tổng số phiếu bầu là 45,52%, giảm nhẹ. Kentucky, nơi ông mang thắng lần này, có mức tăng phiếu cho ông là 17.005. Ở 16 bang, số phiếu bầu của đảng Dân chủ tăng lên, nhưng ở 29 bang, tỷ lệ phiếu ít hơn năm 1896. Bryan chỉ thắng 17 tiểu bang. Đây là lần duy nhất trong 3 lần ứng cử mà ông không thắng Nebraska, quê hương của mình. Đây là cuộc bầu cử cuối cùng mà đảng Cộng hòa giành được đa số phiếu đại cử tri ở Maryland cho đến năm 1920. Đây cũng là cuộc bầu cử cuối cùng mà một đảng viên Cộng hòa thắng cử Tổng thống mà không thắng được Idaho và Montana. Ngoài ra, đây cũng sẽ là cuộc bầu cử cuối cùng sau 100 năm mà ứng cử viên Đảng Cộng hòa giành chiến thắng mà không giành được tối thiểu 300 phiếu đại cử tri. Điều này sẽ không xảy ra lần nữa cho đến khi George W. Bush đánh bại Al Gore trong cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ năm 2000. Tiểu bang sít sao. Các bang có cách biệt chiến thắng dưới 1% (42 phiếu đại cử tri): Các bang có cách biệt chiến thắng giữa 1% và 5% (150 phiếu đại cử tri): Thống kê. Các quận với tỷ lệ phiếu bầu cho Đảng Cộng hòa cao nhất Các quận với tỷ lệ phiếu bầu cho Đảng Dân chủ cao nhất Các quận với tỷ lệ phiếu bầu cho ứng cử viên "Khác" cao nhất Các quận với tỷ lệ phiếu bầu cho Đảng Cộng hòa thấp nhất Các quận với tỷ lệ phiếu bầu cho Đảng Dân chủ thấp nhất Các quận với số phiếu bầu cho Đảng Cộng hòa cao nhất Các quận với số phiếu bầu cho Đảng Dân chủ cao nhất Các quận với số phiếu bầu cho ứng cử viên "Khác" cao nhất Các quận Đảng Cộng hòa thắng với tỷ lệ phiếu bầu thấp nhất Các quận Đảng Dân chủ thắng với tỷ lệ phiếu bầu thấp nhất
La Plus Belle pour aller danser
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825086
"La Plus Belle pour aller danser" (tạm dịch: "Khiêu vũ với tuyệt sắc giai nhân") là bài hát tiếng Pháp do Georges Garvarentz soạn nhạc và Charles Aznavour viết lời, được nữ ca sĩ Sylvie Vartan biểu diễn vào năm 1964 trong phim "Cherchez l'idole". Phiên bản tiếng Việt do nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời với nhan đề "Em đẹp nhất đêm nay". Thành công thương mại. Bài "La Plus Belle pour aller danser" xếp quán quân đĩa đơn tại Pháp trong suốt 11 tuần. Tại vùng Wallonia (Bỉ), đĩa đơn này duy trì 24 tuần trong bảng xếp hạng và đạt thứ hạng cao nhất là thứ 3. Bài này cũng từng đoạt ngôi quán quân đĩa đơn tại Nhật Bản. Danh mục đĩa. EP 7 inch RCA 86046 (Tháng 3 năm 1964; Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha) Đĩa đơn 7 inch RCA Victor 49.067 (1970; Pháp) Đĩa đơn 7 inch "Aidoru o Sagase " RCA Victor SS-1476 (1964; Nhật Bản) Đĩa đơn 7 inch "Aidoru o Sagase " RCA SS-2018 (1972; Nhật Bản) Phiên bản cover. Bài này đươc rất nhiều ca sĩ hát lại, như Pompilia Stoian (Rumani), Michèle Richard (Canada), Chris Garneau, Sarah Dagenais-Hakim và Emilie-Claire Barlow trong album "Seule ce soir" (đoạt giải Juno 2013). Phiên bản tiếng Việt do nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời với nhan đề "Em đẹp nhất đêm nay", được đưa đến người nghe nhạc qua giọng ca của nữ ca sĩ Thanh Lan.
Hội đồng nghiệp Công nhân Điện Quốc tế
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825088
Hội đồng nghiệp Công nhân Điện Quốc tế (Tiếng Anh: International Brotherhood of Electrical Workers, viết tắt là hay IBEW) là một Công đoàn đại diện cho khoảng 775 nghìn công nhân đang làm việc hoặc đã nghỉ hưu trong các ngành công nghiệp điện năng, với quy mô trên khắp Hoa Kỳ, Canada, Guam, Panama, Puerto Rico, và Quần đảo Virgin thuộc Mỹ. Đặc biệt là thợ điện trong các ngành xây dựng và hệ thống điện công cộng. Công đoàn này cũng đại diện cho lực lượng lao động trong ngành công nghiệp máy tính, viễn thông, truyền hình cũng như lực lượng lao động trong tất cả các ngành khác liên quan đến điện năng. Tổng quan. Tổ chức mà sau này là Hội đồng nghiệp Công nhân Điện Quốc tế được thành lập vào năm 1891, hai năm trước khi George Westinghouse giành chiến thắng trong Cuộc chiến dòng điện bằng cách thắp sáng Triển lãm Thế giới Columbia ở Chicago bằng dòng điện xoay chiều, và trước khi các gia đình và cơ sở kinh doanh ở Hoa Kỳ bắt đầu nhận được điện . Đây là một tổ chức quốc tế, dựa trên nguyên tắc thương lượng tập thể. Chủ tịch quốc tế của nó là Kenneth W. Cooper. Ban đầu IBEW thuộc "Công đoàn Thợ dây và Thợ sửa Điện", sáng lập tại St. Louis, bang Missouri vào năm 1890. Cho tới năm 1891, sau khi ý tưởng về việc thành lập một công đoàn toàn quốc đã được hưởng ứng rộng rãi, một hội nghị được tổ chức vào ngày 21 tháng 11 năm 1891 tại St. Louis. Tại hội nghị, IBEW khi đó là Hội anh em Công nhân Điện Quốc gia (Tiếng Anh: National Brotherhood of Electrical Workers, NBEW), đã chính thức được thành lập. Liên đoàn Lao động Hoa Kỳ đã trao cho NBEW điều lệ cùng tư cách thành viên vào ngày 7 tháng 12, 1891. Tạp chí chính thức của công đoàn, "The Electrical Worker", được xuất bản lần đầu vào ngày 15 tháng 1 năm 1893 và vẫn được phát hành cho đến nay. Tại hội nghị năm 1899 ở Pittsburgh, bang Pennsylvania, công đoàn đã chính thức đổi tên thành "Hội đồng nghiệp Công nhân Điện Quốc tế" cho đến nay. Công đoàn đã trải qua thời kỳ khó khăn trong những năm đầu thành lập, sau đó phải vật lộn trải qua sáu năm phân ly nôi bộ trong thập niên 1910, khi có hai phe đối địch nhau đều cho rằng bản thân được bầu ra làm lãnh đạo Công đoàn một cách hợp lệ.
Hội đồng nghiệp Công nhân Điện Quốc tế
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825088
Vào năm 1919, nhiều công ty sử dụng lao động đã thực hiện một chiến dịch nhằm cố gắng tách các công đoàn lao động ra khỏi môi trường làm việc, công đoàn nhất trí thành lập "Hội đồng Quan hệ Lao động", một cơ quan lưỡng đảng bao gồm số lượng ngang nhau các đại diện bộ phận quản lý và bộ phận công đoàn có quyền giải quyết mọi tranh chấp thương lượng tập thể. Cơ quan đó vẫn hoạt động cho đến ngày nay và đã giải quyết phần lớn các cuộc đình công thuộc thẩm quyền của IBEW trong ngành xây dựng. Vào tháng 9 năm 1941, IBEW, Hiệp hội Nhà thầu điện Quốc gia và Ủy ban Liên bang về Đào tạo nghề đã chung tay lập nên "Tiêu chuẩn Đào tạo nghề Quốc gia cho Ngành xây dựng Điện lực". IBEW cũng đã bổ sung thêm các chương trình và khóa đào tạo bổ sung khi cần thiết cho các công nhân cần theo kịp các công nghệ mới, bao gồm ngành công nghiệp điện tử vào năm 1959 và một khóa học vê năng lượng hạt nhân vào năm 1966. Hiện nay, IBEW vẫn tổ chức các khóa dạy nghề thợ điện, thợ đi dây và công nhân VDV (thoại, dữ liệu và video) (những người lắp đặt hệ thống dây điện hạ thế như mạng máy tính), phối hợp với Hiệp hội Nhà thầu Điện Quốc gia, dưới sự bảo trợ của Ủy ban Liên hợp Dạy nghề và Đào tạo Quốc gia (NJATC), cho phép người học việc có thu nhập khi "vừa làm vừa học."Tại các khu vực pháp lý của Canada, IBEW không cung cấp chương trình đào tạo học nghề nhưng tiến hành đào tạo bổ sung cho những người học nghề do chính phủ đào tạo, thường với chi phí thấp hoặc miễn phí hoàn toàn. Điều lệ 353 IBEW Toronto yêu cầu tất cả người học việc phải đăng ký với JAC (Hội đồng Dạy nghề Chung) cho một số khóa học về an toàn, huấn luyện trước khi học nghề, các khóa học dự bị tại trường dạy nghề, huấn luyện bổ sung và các khóa học trước kỳ thi. Số thành viên của IBEW đạt đỉnh điểm vào năm 1972 với khoảng 1 triệu thành viên. Số lượng thành viên giảm dần trong suốt thập niên 1970 và 1980, nhưng sau đó đã ổn định.
Hội đồng nghiệp Công nhân Điện Quốc tế
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825088
Một sự kiện khiến số lượng thành viên IBEW sụt giảm nghiêm trọng là khi tòa án yêu cầu giải thể các bộ phận Công đoàn tại AT&T (Tập đoàn Điện thoại & Điện báo Hoa Kỳ) vào cuối năm 1982, khi đó IBEW được tổ chức chặt chẽ trong nội bộ nhân viên và trong các cơ sở sản xuất của AT&T. Năm 1988, 30% công trình xây dựng ở Mỹ được tổ chức theo công đoàn và IBEW chiếm 40% công trình xây dựng liên quan đến điện. Theo trang web chính thức của Công đoàn, số thành viên tính đến năm 2020 là khoảng 775.000. IBEW cũng hỗ trợ việc xây dựng các nhà máy điện hạt nhân mới ở Hoa Kỳ.
Beatriz của Tây Ban Nha
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825119
Beatriz của Tây Ban Nha hay Beatriz de Borbón y Battenberg (tiếng Tây Ban Nha: Beatriz de España; tiếng Anh: "Beatrice of Spain"; tiếng Scotland: "Beatrice o Spain"; tiếng Ý: "Beatrice di Borbone-Spagna"; tiếng Đức: "Beatrice Isabella von Spanien"; tên đầy đủ: "Beatriz Isabel Federica Alfonsa Eugénie Cristina Maria Teresia Bienvenida Ladislàa de Borbón y Battenberg"; 22 tháng 6 năm 1909 – 22 tháng 11 năm 2002) là con gái của Alfonso XIII của Tây Ban Nha và Victoria Eugenie của Battenberg, Thân vương phi xứ Civitella-Cesi với tư cách là vợ của Alessandro Torlonia, Thân vương thứ 5 xứ Civitella-Cesi. Vương nữ là cô của Juan Carlos I của Tây Ban Nha. Thời thơ ấu. Beatriz sinh ra tại Cung điện Vương thất La Granja, San Ildefonso gần Segovia, Tây Ban Nha vào ngày 22 tháng 6 năm 1909. Beatriz là người con thứ ba của Alfonso XIII của Tây Ban Nha và Victoria Eugenie của Battenberg. Vương nữ được đặt tên là Beatriz theo tên bà ngoại của là Beatrice của Liên hiệp Anh, con gái út của Victoria I của Liên hiệp Anh; Isabel theo tên của bà bác cố bên nội là Isabel của Tây Ban Nha; Federica theo tên của Friederike của Hannover, người sở hữu ngôi nhà mà cha mẹ Vương nữ đã đính hôn; Alfonsa theo tên của cha và Eugenia theo tên củaHoàng hậu Eugenia của Pháp, mẹ đỡ đầu của mẹ Vương nữ, Cristina và Maria dành cho Maria Christina Heniriette của Áo, bà nội cuaBeatriz, Teresa theo tên Maria Theresia của Áo và Ladislaa theo tên của Ladislaus I của Áo. Vương nữ Beatriz được giáo dục bởi các bảo mẫu người Anh trong Cung điện phía Đông. Beatriz được dạy về tiếng Anh và tiếng Pháp cùng với tiếng Tây Ban Nha. Beatriz cùng các anh chị em nói tiếng Anh với mẹ và tiếng Tây Ban Nha với bố. Giống với em gái María Cristina kém hai tuổi, Beatriz cũng mong muốn được học ở các trường tư thục giống như những cô con gái của giới quý tộc thường lui tới cung điện với để chơi với Vương nữ, nhưng theo truyền thống Tây Ban Nha, hai chị em phải được giáo dục bởi các phó mẫu và gia sư riêng. Họ học về ngôn ngữ, lịch sử, tôn giáo, piano và khiêu vũ. Alfonso XIII và Victoria Eugenie rất coi trọng việc tập thể dục ngoài trời và Beatriz cũng trở nên hứng thú với thể thao. Vương nữ bơi rất giỏi, có thể chơi quần vợt, chơi golf và thích cưỡi ngựa. Khi ở Madrid, Beatriz thường chơi đùa trong vườn của cung điện và thực hiện các chuyến du ngoạn trên lưng ngựa.
Beatriz của Tây Ban Nha
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825119
Vào mùa hè, khi gia đình chuyển đến Cung điện Magdalena, gần Santander, Beatriz và María Cristina luyện tập các môn thể thao dưới nước. Hai chị em cũng thực hiện vài chuyến thăm Anh để ở với bà ngoại tại Cung điện Kensington. Thiếu thời. Cuối thập niên 1920s, Infanta Beatriz và em gái Infanta María Cristina đã chủ trì một số sự kiện chính thức đồng thời đứng đầu các tổ chức và tài trợ cho các sự kiện khác nhau. Hai chị em còn dành sự quan tâm đến vấn đề bảo vệ động vật. Beatriz và em gái dành thời gian tham gia các lớp điều dưỡng và hỗ trợ Hội Chữ Thập Đỏ ở Madrid hai lần một tuần từ 9 giờ sáng đến 1 giờ chiều và từ 3 đến 7 giờ tối. Beatriz còn là là chủ tịch Hội chữ thập đỏ ở San Sebastián và làm việc tại đó trong kỳ nghỉ hè của vương thất. Hai vị vương nữ luôn ăn mặc sang trọng, có vẻ ngoài trái ngược nhau: một người có mái tóc vàng và người kia có tóc màu sẫm. Beatriz có ngoại hình tương đồng với những người họ hàng Tây Ban Nha với mái tóc nâu, dáng người cao và gầy giống cha. Vương nữ chính thức ra mắt vào năm 1927 bằng một buổi vũ hội tại cung điện vương thất. Trong số bạn bè của Beatriz có Công tước xứ Alba, Fernán Núñez và Aveyro. Ám ảnh về bệnh máu khó đông đã tác động lớn đến cuộc đời vương nữ: Anh cả Alfonso và em út Gonzalo của đều mắc bệnh máu khó đông. Người anh thứ hai Jaime bị điếc và chỉ có người em trai Juan là hoàn toàn khỏe mạnh. Năm 1929, Beatriz tròn hai mươi tuổi. Vương nữ đem lòng yêu Miguel Primo de Rivera y Sáenz de Heredia, con trai út của Miguel Primo de Rivera, người từng giữ chức Thủ tướng Tây Ban Nha từ năm 1923 đến tháng 1 năm 1930 với quyền lực độc tài. Beatriz và Miguel Primo de Rivera y Sáenz de Heredia được nhìn thấy cưỡi ngựa cùng nhau, nhưng hôn nhân giữa hai người là điều không thể xảy ra. Khi ngài Thủ tướng phát hiện ra mối qua hệ giữa hai nguòi, ông đã đưa con trai ra nước ngoài. Vì Beatriz và em gái có thể mang gene bệnh máu khó đông giống mẹ, Alfonso XIII đành miễn cưỡng tuân theo truyền thống tìm chồng có xuất thân là những vị vương tử Công giáo cho hai chị em.
Beatriz của Tây Ban Nha
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825119
Những người bạn của hai chị em là ba người em họ Álvaro, Alfonso và Ataúlfo de Orleans-Borbón y Sajonia-Coburgo-Gotha, ba con trai của Vương tằng tôn Alfonso của Orléans. Có những mong đợi rằng Beatriz sẽ kết hôn với Alfonso và María Cristina sẽ kết hôn với Álvaro, thế nhưng nhưng tình hình chính trị hỗn loạn ở Tây Ban Nha đã khiến cuộc sống của họ bị chệch hướng. Lưu vong. Sự ủng hộ mà Alfonso XIII dành cho chế độ độc tài vốn không được lòng dân của Primo de Rivera đã làm mất uy tín của quốc vương. Các cuộc bầu cử thành phố được tổ chức vào ngày 12 tháng 4 năm 1931 không có lợi cho chế độ quân chủ. Hai ngày sau đó, Đệ Nhị Cộng hòa Tây Ban Nha được thiết lập. Thiếu sự hậu thuẫn về mặt quân sự, Alfonso XIII cảm thấy buộc phải rời khỏi đất nước ngay trong ngày, nhưng không thoái vị với hy vọng được trở lại ngai vàng Tây Ban Nha. Beatriz các anh chị em và Vương hậu Victoria Eugenie, ngoại trừ Vương tử Juan đang công tác trong hải quân Tây Ban Nha, đã bị bỏ lại ở Madrid. Theo lời khuyên của những người ủng hộ, Vương hậu và 5 người con rời Cung điện Vương hậu bằng ô tô đến El Escorial, rồi từ đó họ bắt tàu đến Pháp. Vương thất ban đầu sống lưu vong tại Khách sạn Meurice ở Paris, sau đó nhanh chóng chuyển đến khách sạn Savoie ở Fontainebleau. Cùng với mẹ, Beatriz và María Cristina đến thăm Paris hai lần một tuần bằng ô tô hoặc cùng với một thị nữ bằng tàu hỏa. Khi ở Paris, họ dành thời gian cưỡi ngựa ở trường dạy hoặc chơi quần vợt với bạn bè. Cuộc hôn nhân của cha mẹ hai chị em vốn không hạnh phúc và ngay cả ở Tây Ban Nha, Quốc vương và Vương hậu cũng sống tách biệt. Sau khi lâm vào cảnh sống lưu vong thì hai vợ chồng đã sống ly thân hoàn toàn. Victoria Eugenie chuyển đến Luân Đôn, sau đó đến Lausanne, Thụy Sĩ và hai chị em sống với mẹ trong một thời gian. Năm 1933, Alfonso XIII chuyển đến Rapallo và vì cuộc sống quá tách biệt ở Lausanne, Beatriz cùng em gái cùng cha chuyển đến Ý. Trước sự nài nỉ của hai con gái, Alfonso XIII chuyển đến Roma và thuê một căn nhà cho hai chị em ở. Beatriz và María Cristina trở thành bạn của các thành viên Vương thất Ý và nhanh chóng thích nghi với cuộc sống ở Roma.
Beatriz của Tây Ban Nha
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825119
Năm 1934, một bi kịch ập đến với cả gia đình. Beatriz, bấy giờ đang trải qua kỳ nghỉ hè ở Pörtschach am Wörthersee ở Áo, lái một chiếc ô tô và ngồi cạnh là em trai Gonzalo. Vì cố gắng tránh một người đi xe đạp băng qua đường của hai người, Vương nữ đã đâm xe vào tường. Vụ tai nạn ban đầu có vẻ không nghiêm trọng, nhưng Gonzalo vì mắc bệnh máu khó đông nên bị xuất huyết trong và qua đời vào rạng sáng ngày hôm sau là ngày 13 tháng 8 năm 1934. Hôn nhân và hậu duệ. Vào thời điểm em trai qua đời, Beatriz đang mong chờ đến ngày cưới của mình. Khi đến thăm Ostia, Vương nữ được giới thiệu với một quý tộc người Ý là Alessandro Torlonia, Thân vương thứ 5 xứ Civitella-Cesi. Alessandro Torlonia được thừa kế khối tài sản lớn từ cha mình vào năm 1933, là con trai của Marino, Thân vương thứ 4 xứ Civitella-Cesi và Mary Elsie Moore, một nữ thừa kế người Mỹ. Gia đình của Alessandro có được khối tài sản lớn vào thế kỷ 18 và 19 nhờ việc quản lý tài chính của Vatican và được nhận tước hiệu Thân vương xứ Civitella-Cesi vào năm 1803 từ Giáo hoàng Piô VII . Mặc dù Alessandro là một thân vương nhưng vì không thuộc về một gia tộc đang hoặc từng trị vì, vì vậy cuộc hôn nhân giữa Beatriz và Alessandro bị xem là bất đăng đối và Beatriz phải từ bỏ quyền kế vị ngai vàng. Alfonso XIII, nhận ra rằng mối nguy về căn bệnh máu khó đông và tình cảnh sống lưu vong của gia đình sẽ khiến các con gái của ông khó tìm được người chồng có dòng dõi vương giả nên đã đồng ý cho mối hôn sự này. Đám cưới diễn ra vào ngày 14 tháng 1 năm 1935 tại Nhà thờ Gesù. Tại đám cưới, Beatriz mặc một chiếc đầm cưới có phần đuôi váy dài 20 foot, đội một coronet hình hoa cam để cố định mạng che mặt. Hôn lễ ghi nhận sự có mặt của Quốc vương Alfonso XIII, Quốc vương và Vương hậu Ý và khoảng 52 vị vương tử mang dòng máu vương giả. Hàng nghìn người Tây Ban Nha đã đến từ Tây Ban Nha để ủng hộ vương thất lưu vong đã khiến sự kiện mang tính chính trị. Tuy nhiên, Vương hậu Victoria Eugenie và người anh cả Alfonso, Bá tước xứ Covadonga, những người có quan hệ không tốt với Nhà vua, đều không tham dự lễ cưới. Sau buổi lễ,cặp đôi trẻ được Đức Giáo Hoàng Piô XI tiếp đón.
Beatriz của Tây Ban Nha
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825119
Vương nữ Beatriz và chồng có bốn người con, 11 cháu và 19 chắt: Cuộc sống sau này. Infanta Beatriz sống cùng chồng tại Palazzo Torlonia, một ngôi nhà phố thời kỳ Phục hưng đầu thế kỷ 16 trên Via della Conciliazione ở Roma. Khi Quốc vương Alfonso XIII qua đời năm 1941 và tình hình ở Ý trở nên xấu đi trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Vương nữ Beatriz Isabel và gia đình cùng các anh chị em của Vương nữ đến Lausanne và trải qua phần còn lại của cuộc chiến gần bên mẹ của họ là Vương hậu Victoria Eugenie. Sau chiến tranh, Beatriz trở về Ý và sống tại đây cho đến cuối đời. Năm 1950, khi đang ở cùng em trai Juan ở Estoril, Bồ Đào Nha, Beatriz được Francisco Franco cho phép đến thăm Tây Ban Nha. Ngày 25 thàng 8 năm 1950, Beatriz trở lại Tây Ban Nha lần đầu tiên kể từ khi rời đi gần hai mươi năm trước đó. Vương nữ đến Tây Ban Nha đến cùng chồng và con gái Sandra từ Lisboa và ở tại khách sạn Ritz thuộc Madrid để thăm Cung điện la Granja, nơi Vương nữ được sinh ra, và Nhà thờ-Thánh đường Đức Mẹ Cột Trụ ở Zaragoza. Infanta Beatriz được tiếp đón với sự ủng hộ chế độ quân chủ mạnh mẽ đến nỗi chỉ sau một tuần, trong chuyến thăm dài hơn ban đầu, chính phủ chỉ cho Vương nữ 24 giờ để rời khỏi đất nước. Mặc dù gia đình đã cố gắng dàn xếp một cuộc hôn nhân cho con gái của Beatriz là Sandra với Baudouin của Bỉ, nhưng Sandra lại kết hôn với Clemente Lequio, một quan phu có một con trai vào năm 1958. Clemente Lequio sau đó được phong tước hiệu "Bá tước Lequio di Assaba" vào năm 1963 bởi Umberto II của Ý. Sandra có một con trai và một con gái với Lequio, tuy nhiên cô con gái đã qua đời sau cú ngã từ tầng trên trong nhà của Lequio ở Torino vào năm 1971. Con trai của Sandra và Clemente Lequio là Alesandro Lequio chuyển đến Tây Ban Nha vào năm 1991 và ban đầu làm việc cho Fiat. Kết hôn với người mẫu Ý Antonia Dell'Atte, nàng thơ của Giorgio Armani vào cuối thập niên 1980s, Alessandro Lequio nhanh chóng trở thành nhân vật được chú ý trong giới "jet set" và báo lá cải Tây Ban Nha. sau khi ly hôn với Antonia, Alesssandro Lequio bắt đầu mối quan hệ với Ana Obregón, một nữ diễn viên và người dẫn chương trình truyền hình người Tây Ban Nha. Con trai cả của Infanta Beatriz là Marco kết hôn ba lần và có ba người con, mỗi ngưởi con là từ mỗi một cuộc hôn nhân.
Beatriz của Tây Ban Nha
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825119
Con trai cả của Marco là Giovanni Torlonia là một nhà thiết kế nổi tiếng. Con trai thứ hai của Infanta Beatriz là Marino đã qua đời vào năm 1995 vì các bệnh liên quan đến HIV. Người con út là Olimpia kết hôn với Paul-Annick Weiller (1933–1998), con trai đầu của phi công Paul-Louis Weiller thuộc gia tộc Javal vào năm 1965 . Trong số sáu người con của hai vợ chồng có Sibilla là Đại Công tử phu nhân của Luxembourg với tư cách là vợ của Đại Công tử Guillaume Marie của Luxembourg. Infanta Beatriz vẫn hướng lòng về Tây Ban Nha và ủng hộ quyền thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha của em trai Juan. Năm 1962, Beatriz cùng Vương thất dự lễ cưới của cháu trai Juan Carlos với Sophia của Hy Lạp ở Athens. Vết gãy xương đùi vào năm 1973 của Vương nữ không bao giờ lành hoàn toàn nên ảnh hưởng đến khả năng vận động của Vương nữ trong suốt quãng đời còn lại. Sức khỏe yếu ớt của Beatriz không cho phép Vương nữ cùng gia đình tham dự lễ lên ngôi của Quốc vương Juan Carlos I, đám cưới của Vương nữ Elena và Cristina hay các nghi lễ đưa hài cốt của cha mẹ và anh em Vương nữ về Tây Ban Nha. Tuy nhiên, Infanta Beatriz không chỉ sống lâu hơn các anh em của mình mà còn đến thăm Tây Ban Nha một lần nữa vào năm 1998 để thăm viếng Cung điện la Granja. Năm 1999, khi được phỏng vấn bởi Tạp chí "¡Hola!", Beatriz đã nói về cuộc đời của mình và khoảng thời gian Vương thất lưu vong khỏi Tây Ban Nha. Vương nữ đến thăm Tây Ban Nha lần cuối vào năm 2001 để đến với em dâu María de las Mercedes của Hai Sicilie và quay trở lại Cung điện Magdalena, gần Santander, nơi 70 năm trước Beatriz đã trải qua kỳ nghỉ hè 17 năm liên tiếp cho đến năm 1930. Vương nữ qua đời tại nhà riêng ở Palazzo Torlonia, Roma vào ngày 22 tháng 11 năm 2002, thọ 93 tuổi 5 tháng. Beatriz là người con hợp pháp cuối cùng còn sống của Alfonso XIII và Victoria Eugenie của Battenberg cũng như là người cháu hợp pháp cuối cùng còn sống của Alfonso XII của Tây Ban Nha.
María Cristina của Tây Ban Nha
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825120
Maria Cristina của Tây Ban Nha hay María Cristina de Borbón y Battenberg (tiếng Tây Ban Nha: María Cristina de España; tiếng Anh: "Maria Christina of Spain"; tiếng Scotland: "Maria Christina o Spain"; tiếng Ý: "Maria Cristina di Borbone-Spagna"; tiếng Đức: "Maria Christina von Spanien"; tên đầy đủ: "María Cristina Teresa Alejandra María de Guadalupe María de la Conception Ildefonsa Victoria Eugenia de Borbón y Battenberg"; 12 tháng 12 năm 1911 – 23 tháng 12 năm 1996) là con thứ năm và con gái út của Alfonso XIII của Tây Ban Nha và Victoria Eugenie của Battenberg cũng như là cô của Juan Carlos I của Tây Ban Nha. Tiểu sử. Đầu đời. María Cristina sinh ra tại Cung điện Vương thất ở Madrid, Tây Ban Nha. Vương thất Tây Ban Nha đã rời đất nước vào năm 1931, trước các cuộc biểu tình của Đảng Cộng hòa, định cư ở Paris, trước khi chuyển đến Fontainebleau. Hôn nhân và hậu duệ. María Cristina từ bỏ quyền kế vị ngai vàng Tây Ban Nha và vào ngày 10 tháng 6 năm 1940, Vương nữ kết hôn với Enrico Eugenio Marone-Cinzano (15 tháng 3 năm 1895 Torino – 23 tháng 10 năm 1968 Geneva), con trai của Alberto Marone và Paola Cinzano. tại Roma. Enrico được phong làm Bá tước thứ 1 vào ngày 13 tháng 5 năm 1940 bởi Victtorio Emanuele III của Ý. Enrico còn có một người con riêng từ cuộc hôn nhân trước của với Noemí Rosa de Alcorta y García-Mansilla (1907-1929): María Cristina và Enrico Eugenio có với nhau bốn cô con gái: Qua đời. María Cristina trở lại Tây Ban Nha và dành một khoảng thời gian ở đó, nhưng chưa bao giờ sống lâu dài tại đây. Vương nữ qua đời ở Madrid vì một cơn đau tim vào ngày 23 tháng 12 năm 1996 trong cuộc đoàn tụ Giáng sinh của Vương thất tại "Villa Giralda", nơi ở của họ hàng và chị dâu của María Cristina là Bá tước phu nhân xứ Barcelona. Lễ tang của Vương nữ được tổ chức tại nhà nguyện của Cung điện Vương thất Madrid vào ngày 24 tháng 12 và lễ an táng được tổ chức vào ngày 26 tháng 12 tại Đền thờ Marone-Cinzano ở Torino.
Ade Surapriatna
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825129
Muhammad Ade Surapriatna (sinh ngày 7 tháng 11 năm 1951) là một chính trị gia người Indonesia, ông là đại biểu của Hội đồng Đại diện Nhân dân từ năm 2009 đến năm 2014. Ông còn là đại biểu của Hội đồng Đại diện Nhân dân Khu vực Jakarta từ năm 1992 đến năm 2009, giữ chức chủ tọa của hội đồng từ 2004 đến 2009 và phó chủ tọa từ năm 1997 đến 2004. Đầu đời và nghề nghiệp. Muhammad Ade Surapriatna sinh ngày 7 tháng 11 năm 1951 tại Jakarta. Ông học ở Jakarta và tốt nghiệp Học viện Hàng hải Quốc gia năm 1969. Sau đó ông làm việc tại một vài công ty. Trong quá trình học, ông gia nhập trung đoàn sinh viên vào năm 1971, kết nạp vào đảng Golkar mới thành lập. Sự nghiệp chính trị. Ông được bầu vào cơ quan lập pháp của Jakarta lần đầu vào năm 1992, và ông được bầu lại vào các năm 1997, 1999 và 2004. Ông là phó chủ tọa cơ quan lập pháp từ năm 1997 đến năm 2004. Ông còn là phó chủ tịch đảng Golkar chi nhánh Jakarta từ năm 1992 đến năm 2001, và được bầu làm chủ tịch năm 2001. Trong nhiệm kỳ 2004–2009, Ade được bầu giữ chức chủ tọa cơ quan lập pháp, nhậm chức vào ngày 4 tháng 10 năm 2004. Cùng năm 2004, Ade tái cử chức chủ tịch đảng Golkar chi nhánh Jakarta cho đến năm 2009. Trong cuộc bầu cử thống đốc Jakarta năm 2007, Ade được coi là một trong hai ứng cử viên dẫn đầu cho tấm vé của Golkar, cạnh tranh cùng Fauzi Bowo. Tuy nhiên, Ade bất ngờ từ bỏ việc ứng cử trong cuộc họp đảng Golkar vào tháng 2 năm 2007, Fauzi Bowo sẵn sàng cho việc ứng cử. Cuối năm 2008/đầu năm 2009, một vài phe cánh trong cơ quan lập pháp mở cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm phản đối Ade, dẫn chứng ngân sách tỉnh năm 2009 mà theo các phe cánh là thắt chặt chi tiêu quá mức. Ade bác bỏ việc từ chức để phản ứng lại. Ade tranh cử với tư cách là ứng cử viên cho cơ quan lập pháp quốc gia trong cuộc bầu cử lập pháp Indonesia năm 2009 đại diện khu vực bầu cử Jakarta III và được bầu với 20.378 phiếu. Ông tái tranh cử trong cuộc bầu cử lập pháp năm 2014, nhưng không giành được vị trí nào.
Ade Surapriatna
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825129
Trong lần đi vận động cho cuộc bầu cử năm 2014, một số người ủng hộ đảng Golkar trong một cuộc biểu tình đã bị phạt do vi phạm luật giao thông. Ade chống đối với sĩ quan cảnh sát tại đó, bảo vệ những người vận động và kêu gọi phân phát đặc biệt.
Aditya Srivastava
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825130
Aditya Srivastava (sinh ngày 21 tháng 7 năm 1968 tại Prayagraj, Uttar Pradesh, Ấn Độ) là một nam diễn viên và nhà sản xuất người Ấn Độ. Ông được biết đến qua vai diễn Thanh tra phó Abhijeet trong loạt phim truyền hình "Đội đặc nhiệm CID". Ông cũng đã từng có nhiều vai diễn nổi bật trong các bộ phim Bollywood như "Satya", "Gulaal", "Lakshya", "Paanch", "Black Friday", "Kaalo", "Super 30" và "Dil Se Pooch Kidhar Jana Hai". Tiểu sử và sự nghiệp. Aditya Srivastava sinh ngày 21 tháng 7 năm 1968 tại Prayagraj, Uttar Pradesh, Ấn Độ. Trong khi đang theo đuổi việc tốt nghiệp Đại học Allahabad, ông đã tham gia vào đoàn kịch Sangeet Samiti. Để trau dồi kỹ năng diễn xuất, vào năm 1989, ông quyết định chuyển sang Delhi sinh sống và tham gia diễn xuất tại Trung tâm biểu diễn nghệ thuật Sri Ram. Được đạo diễn Shekhar Kapoor phát hiện, ông đã tham gia bộ phim đầu tiên là "Bandit Queen" với vai diễn Puttilal. Sau đó, ông chuyển đến sinh sống ở Mumbai vào năm 1995. Ông từng tham gia lồng tiếng cho các bộ phim quảng cáo. Năm 1999, ông được khán giả biết đến nhờ vai diễn "Thanh tra phó Abhijeet" trong "Đội đặc nhiệm CID" do B. P. Singh làm đạo diễn. Trước đó, ông từng thủ vai tên tội phạm Paresh trong loạt phim này. Ông, Shivaji Satam và Dayanand Shetty là bộ ba diễn viên chính của loạt phim này. Ngoài ra, ông từng có một số vai diễn nổi bật trong các bộ phim Bollywood như: "Dil Se..", "Mohandas", "Dansh", "Satya", "Matrubhoomi", "Black Friday" và "Gulaal". Ông cũng được ghi danh vào Sách Kỷ lục Guinness do đã tham gia một số cảnh quay mà không bị cắt một cảnh nào trong bộ phim điện ảnh "The Inheritance" (tạm dịch là: "Quyền thừa kế") thuộc loạt phim truyền hình "Đội đặc nhiệm CID". Năm 2014, ông cùng với Shivaji Satam, Dayanand Shetty và Narendra Gupta đã từng tham gia chương trình "Kaun Banega Crorepati" (Ai là triệu phú phiên bản tiếng Hindi) và quyên góp tiền vào các hoạt động từ thiện. Đời tư. Ông từng kết hôn với Manasi Srivastava vào năm 2003. Cả hai người đã có với nhau 2 người con gái, một người sinh năm 2005 và người còn lại sinh năm 2007.
Động đất Enggano 2000
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825137
Động đất Enggano 2000 () là trận động đất xảy ra vào lúc 23:28 (theo giờ địa phương), ngày 4 tháng 6 năm 2000. Trận động đất có cường độ 7.9 độ richter, tâm chấn độ sâu khoảng 35 km. Hậu quả trận động đất đã làm 1.032 người chết, 2.585 người bị thương.
Terbi(III) iodide
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825138
Terbi(III) iodide (công thức hóa học: TbI3) là một hợp chất vô cơ. Điều chế. Terbi(III) iodide có thể được tạo ra bằng cách cho terbi phản ứng với iod. Một phương pháp khác là cho terbi và thủy ngân(II) iodide phản ứng ở nhiệt độ 500 °C. Cấu trúc. Terbi(III) iodide có cấu trúc tinh thể giống bismuth(III) iodide (BiI3), với sự phối trí bát diện của mỗi ion Tb3+ bởi 6 ion iodide.
Động đất Baku 2000
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825139
Động đất Baku 2000 () là trận động đất xảy ra vào lúc 22:09 (UTC+4), ngày 25 tháng 11 năm 2000. Trận động đất có cường độ 6.8 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 35 km. Hậu quả trận động đất đã làm 26 người chết, 412 người bị thương.
Izumi Kenta
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825142
là một chính khách người Nhật Bản. Ông hiện đang là lãnh đạo đảng Dân chủ Lập hiến (CDP hay CDPJ) từ ngày 03 tháng 11 năm 2021 sau khi Edano Yukio từ chức. Ông hiện đang là Nghị viên Chúng Nghị viện đại diện cho quận 3 Kyōto.
Cửa sổ Sash
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825144
Cửa sổ Sash hoặc cửa sổ đóng mở được tạo từ một hoặc nhiều tấm cửa có thể di chuyển, gọi là "sashes". Các sashes thường là cửa sổ có khung được chia thành tấm kính nhỏ, nhưng cũng có thể là một tấm kính duy nhất (hoặc nhiều tấm kính trong trường hợp của cửa kính đôi). Lịch sử. Cửa sổ sash cổ nhất được lắp đặt tại Anh vào những năm 1670, ví dụ như tại Ham House. Người ta cho rằng việc phát minh cửa sổ sash có thể là của Robert Hooke hoặc là một phát minh của Hà Lan. Tuy nhiên, vẫn chưa có bằng chứng cụ thể về người phát minh cụ thể. Cửa sổ sash thường xuất hiện trong các ngôi nhà kiến trúc kiến trúc Georgian và kiến trúc Victorian, với sắp xếp cổ điển là ba tấm kính ngang và hai tấm kính dọc trên mỗi cửa sash, tạo thành cửa sổ "sáu trên sáu". Tuy nhiên, điều này không phải là quy tắc cố định. Nhiều ngôi nhà ngày nay vẫn sử dụng cửa sổ sash kích thước tiêu chuẩn khoảng 4 feet (1.2 m), nhưng cửa sổ cổ hơn có thể có kích thước khác nhau. Vấn đề. Cửa sổ sash bằng gỗ thường gặp vấn đề về mục nát, sưng hoặc biến dạng của khung gỗ, cũng như tiếng động khi gió thổi. Những vấn đề này có thể được khắc phục thông qua sửa chữa cẩn thận và lắp đặt cách nhiệt chống gió. Cửa sổ sash cũng đòi hỏi bảo trì thường xuyên hơn so với cửa sổ gập, nhưng lại mang lại nhiều ưu điểm về thẩm mỹ, phong cách và tuân thủ luật pháp. Tuy nhiên, khi được bảo quản tốt, cửa sổ sash có thể tồn tại qua nhiều thế hệ mà không cần thay thế bộ phận. Một ưu điểm khác là có thể lau chùi kính từ bên trong tòa nhà bằng cách di chuyển hai tấm kính vào các vị trí khác nhau. Cửa sổ sash bằng nhựa vinyl (uPVC) đã xuất hiện kể từ khi khung cửa sổ PVC đầu tiên được giới thiệu tại Đức vào những năm 1960. Các cửa sổ này đã chiếm ưu thế trong ngành công nghiệp cửa sổ, với hơn 50% cửa sổ được làm bằng nhựa vinyl tại Hoa Kỳ tính đến năm 2017. Những ưu điểm của nhựa vinyl bao gồm khả năng chống nước và dễ dàng trong việc lắp đặt. Tuy nhiên, cũng có nhược điểm về độ bền và tác động đến môi trường.
Cửa sổ Sash
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825144
Theo thời gian, các hợp chất tạo độ dẻo cho nhựa vinyl bay hơi, làm cho vật liệu trở nên giòn và dễ gãy. Nhựa vinyl cũng yếu hơn gỗ và nhôm, cần hỗ trợ thêm khi sử dụng trong cửa sổ lớn. Nhựa vinyl cũng được sử dụng để bảo vệ gỗ khỏi thời tiết trong các cửa sổ gỗ. Tuy nhiên, nhựa vinyl có giới hạn trong việc sử dụng thương mại và nhà ở thấp tầng do tính cháy và khói độc hại khi cháy. Trong tương lai, có thể sẽ có phiên bản nhựa vinyl chống cháy dành cho xây dựng cao tầng, nhưng hiện tại vẫn còn nhiều vấn đề về tính cháy và khói độc hại.
Mi (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825147
Mi có thể là:
Vòng loại Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825151
Vòng loại Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023 là quá trình để xác định 30 trong tổng số 32 đội tuyển giành vé tham dự Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023. Với tư cách là hai đội chủ nhà của giải đấu, Philippines và Nhật Bản được đặc cách tham dự giải đấu khi họ được trao quyền đăng cai chung với Indonesia. Lịch thi đấu các giai đoạn vòng loại. Tương tự như vòng loại của giải đấu năm 2019, các trận đấu sẽ diễn ra qua 6 giai đoạn vòng loại, trong khoảng thời gian 15 tháng trên tất cả các liên đoàn khu vực của FIBA. 80 đội tuyển đến từ 4 liên đoàn sẽ tranh tài trong quá trình diễn ra vòng loại. Lịch thi đấu cho 6 giai đoạn của vòng loại như sau:
Tẩu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825153
Tẩu có thể là:
Graeae
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825154
Trong thần thoại Hy Lạp, Graeae (tiếng Hy Lạp cổ đại: Γραῖαι; , có nghĩa là "bà già"), là ba chị em nữ thần có mái tóc bạc từ khi sinh ra và dùng chung một con mắt và một cái răng. Có nguồn gốc từ biển cả, các Graeae là nhân cách hóa của bọt trắng trên những ngọn sóng. Thần thoại. Graeae đều là những người con gái của hai vị thần biển nguyên thủy, Phorcys và Ceto, do đó, Graeae cũng là chị em với các nữ quái tóc rắn Gorgon, nổi bật nhất là Medusa. Do là con của thần biển Phorcys nên các Graeae còn được gọi là Phorcides ("những đứa con của Phorcys"). Trong tác phẩm "Thần hệ", nhà thơ Hēsíodos chỉ đề cập đến hai Graeae là Pemphredo (Πεμφρηδώ) (đôi khi được viết là Pephredo (Πεφρηδώ)) và Enyo (Ἐνυώ). Hēsíodos đã mô tả Graeae như sau: Nhà soạn kịch Aeschylus đã nâng Graeae lên 3 người, khi ông thêm vào đó là Deino (Δεινώ, còn phiên âm là Dino). Trong vở "Prometheus Bound", Aeschylus mô tả các Graeae có đầu và tay của một bà già, còn thân mình là của thiên nga. Pseudo-Apollodorus cũng đã thêm Dino vào nhóm Graeae này. Hyginus cũng ghi chú rằng, Dino cũng được gọi là Persis (Περσίς). Các Graeae được cho là sống bên ngoài Hy Lạp, có thể là dưới dãy núi Atlas hoặc ở "dòng nước ngăn chia hai lục địa" (có thể là Biển Đỏ), có nhiệm vụ là canh giữ những người chị em Gorgon. Trong thần thoại, nhân lúc các Graeae truyền nhau con mắt, Perseus đã lấy trộm mắt và ép họ phải nói ra nơi trú ngụ của các Gorgon.
Động đất Côn Lôn 2001
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825160
Động đất Côn Lôn 2001 () là trận động đất xảy ra vào lúc 17:26 (theo giờ địa phương), ngày 14 tháng 11 năm 2001. Trận động đất có cường độ 7.8 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km. Không có báo cáo trường hợp thương vong nào sau khi động đất xảy ra.
Eleonora Cecchini
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825165
Eleonora Cecchini (sinh ngày 27 tháng 9 năm 2003) là một nữ cầu thủ bóng đá người San Marino hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ St. Catharines Roma Wolves tại League1 Ontario. Sự nghiệp thi đấu. Trẻ. Cecchini dành cả sự nghiệp cầu thủ trẻ cho câu lạc bộ San Marino Academy. Cao đẳng. Vào tháng 3 năm 2022, cô bắt đầu cam kết theo học tại Đại học D'Youville ở Hoa Kỳ, nơi cô chơi cho đội bóng đá nữ của trường. Vào ngày 5 tháng 9 năm 2022, cô ghi bàn thắng đầu tiên cho đội bóng đá vào lưới Bluefield State Big Blue. Sau khi ghi bàn trong trận đấu tiếp theo, cô được mệnh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất tuần của East Coast Conference. Cô dẫn đầu đội bóng về thành tích ghi bàn trong mùa giải với 4 bàn thắng. Vào cuối năm sinh viên năm nhất, cô có tên trong ECC All-Conference Second Team và USCAA Second Team All-American. Chuyên nghiệp. San Marino Academy. Tháng 12 năm 2018, cô ra mắt cho đội 1 của San Marino Academy trong trận gặp Pontedera tại Serie C. Vào ngày 5 tháng 5 năm 2021, cô ra mắt cho đội bóng tại Serie A. Cô vẫn ở lại đội bóng trong mùa giải 2021–22 tại Serie B. Vào ngày 10 tháng 3 năm 2022, cô ghi bàn thắng chuyên nghiệp đầu tiên cho đội bóng, vào lưới Roma C.F.. St. Catharines Roma Wolves. Năm 2023, cô gia nhập câu lạc bộ St. Catharines Roma Wolves tại League1 Ontario. Quốc tế. Do San Marino không có một đội tuyển quốc gia dành riêng cho bóng đá nữ nên vào tháng 1 năm 2018, cô đã tham gia trại huấn luyện với đội tuyển U-15 Ý. Cô tiếp tục được gọi lên một trại huấn luyện khác vào tháng 7.
Dệt
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825167
Dệt là phương pháp sản xuất vải bằng cách xen kẽ hai bộ sợi tạo thành một mảnh vải. Sợi dọc gọi là sợi chữ, sợi ngang gọi là sợi trái. Cách xen kẽ này tạo thành các kết cấu khác nhau trong vải. Việc dệt thường thực hiện trên máy dệt, có thể thực hiện bằng cách khác như dệt bằng viên nang hoặc dệt không máy. Có ba loại kết cấu phổ biến: dệt bình thường, dệt satin và dệt twill. Vải có thể đơn giản hoặc trang trí theo thiết kế nghệ thuật. Khảo cổ học. Có dấu vết cho thấy dệt đã biết đến từ thời Kỷ đá thượng cổ, khoảng 27,000 năm trước. Tại di chỉ Dolní Věstonice, tìm thấy dấu vết về vải mờ mờ. Những người dệt thời Kỷ đá thượng cổ chế tạo nhiều loại dây, đan rổ và dệt vải bằng kỹ thuật đan và dệt đơn giản. Những hiện vật gồm dấu in trên đất sét và mảnh vải còn lại sau khi đốt. Ở châu Mỹ, những tàn dư vải cổ nhất tìm thấy ở Hang Guitarrero, Peru. Được làm từ sợi cây, những sản phẩm này có niên đại từ 10,100 đến 9,080 TCN. Năm 2013, tại di chỉ Çatalhöyük, tìm thấy mảng vải từ cây gai có niên đại khoảng 7,000 TCN. Tại Ai Cập cổ đại, năm 2013 còn tìm thấy mảng vải từ cây gai có niên đại khoảng 7,000 TCN.
Lê Gia Nguyên
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825171
Lê Gia Nguyên (sinh ngày 23 tháng 10 năm 2008), là một nhà sản xuất âm nhạc, người Việt Nam. Anh cũng là người sáng lập hãng thu âm 75 Entertainment và được biết đến với các bản nhạc cụ Lofi, EDM. " nhịp đập và Hip hop..
A Bảo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825172
A Bảo (; ? – 1739) là một vương công Mông Cổ thời nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, người thừa kế tước vị Trát Tát Khắc Đa La Bối lặc của A Lạp Thiện Ách Lỗ Đặc kỳ thuộc Tây Sáo Mông Cổ. Đồng thời, ông còn là ngạch phò của nhà Thanh khi thành hôn với Đạo Khắc Hân Quận chúa. Cuộc đời. A Bảo là con trai thứ 3 của – một hậu duệ của Chuyết Xích Cáp Tát Nhi, em trai ruột của Thành Cát Tư Hãn. Năm 1697, Hòa La Lý được Khang Hi phong làm Trát Tát Khắc Đa La Bối lặc, ban cho vùng đất A Lạp Thiện. Năm 1704, Khang Hi lệnh cho A Bảo đến kinh thành, phong làm Ngự tiền Thị vệ. Cùng năm đó, ông được ban hôn với Đạo Khắc Hân Quận chúa, con gái của Trang Thân vương Bác Quả Đạc được Khang Hi nuôi dưỡng trong cung, trở thành Hòa Thạc Ngạch phò của nhà Thanh. Hòa La Lý cũng từ đó mà toàn toàn quy thuận nhà Thanh. Sau khi A Bảo thành hôn, Khang Hi đã lệnh Tuần phủ Cam Túc xây dựng phủ đệ cho quận chúa và ngạch phò ở địa phận Mông Cổ. Năm 1707, Hòa La Lý qua đời. Đến năm 1709 thì A Bảo quay về A Lạp Thiện kế thừa tước vị của cha. Năm 1723, A Bảo được thăng làm Quận vương, nhưng sau đó vì phạm tội mà lại bị giáng làm Bối lặc vào năm 1729. Hai năm sau, A Bảo được khôi phục tước vị Quận vương. Cũng trong năm 1731, triều đình nhà Thanh thưởng Định Viễn Doanh () cho A Bảo làm nơi ở và đồn trú, nơi hiện nay là thị trấn Bayanhot, kỳ A Lạp Thiện Tả thuộc minh A Lạp Thiện của khu tự trị Nội Mông. Trong khoảng thời gian tại vị, A Bảo từng phụng lệnh triều đình nhà Thanh suất quân chinh phạt Chuẩn Cát Nhĩ, đóng quân tại các khu vực có nhiều người Hồi như Kumul, Barkol, Thanh Hải. Sau khi bình định phản loạn, Thanh Hải bộ được quy vào quyền sở hữu của A Lạp Thiện kỳ, người dân bản địa cũng theo A Bảo trở về A Lạp Thiện kỳ. Theo nhiều sử liệu, một bộ phận người Hồi ở Mông Cổ chính là do A Bảo mang về A Lạp Thiện trong lần này, nhân số khoảng 100 người.
A Bảo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825172
Thêm vào đó, trong những năm dưới triều Càn Long, người Duy Ngô Nhĩ thường xuyên đến A Lạp Thiện kỳ để buôn bán làm ăn, trong số những người ở lại A Lạp Thiện kỳ có một số người theo đạo Hồi. Đây được xem là khởi đầu của sự truyền bá đạo Hồi vào khu vực A Lạp Thiện. Năm 1739, A Bảo qua đời. Theo ghi chép của Di Thân vương Hoằng Hiểu chịu trách nhiệm quản lý sự vụ Lý phiên viện về tấu thỉnh của Đạo Khắc Hân Quận chúa dâng lên Càn Long sau khi chồng qua đời, hai người vốn có 3 người con nhưng con trưởng lại mất sớm, hiện chỉ còn người con thứ mới 6 tuổi và người con út mới 5 tuổi. Trừ hai người con trai này, A Bảo không còn người con trai nào khác. Vì vậy Đạo Khắc Hân Quận chúa tấu thỉnh xin cho phép người trai thứ được thừa kế tước Vương. Sau khi triều đình nhà Thanh cho phép, người con trai thứ là La Bặc Tàng Đa Nhĩ Tế thừa kế tước vị. Theo quy định tập tước của nhà Thanh, vì tước vị không phải thiết mạo tử vương nên khi thừa kế sẽ bị giảm xuống một bậc. La Bặc Tàng Đa Nhĩ Tế được phong làm Bối lặc.
Thơ Thẩn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825175
Về các bài thơ của Đinh Liệt. Trong cuốn "Ngọc phả họ Đinh" do Công bộ Thượng thư Đinh Công Nhiếp, con trai đầu của Thái sư Đinh Liệt, có một số bài thơ do Đinh Liệt viết có liên quan đến vụ án Lệ Chi viên. Bài thơ Nôm nhận xét về Lê Thái Tông: Trong bài này Đinh Liệt buộc phải dùng phép nói lái: "Tống Thai" tức là Thái Tông (Lê Nguyên Long). Vua là một "anh quân" vì ông biết ngăn ngừa cường thần, dẹp phiên trấn, sùng nho, mở thi cử, song lại quá ham mê tửu sắc. Về "họa tự trong nhà", Đinh Liệt có bài thơ: "Nhung tân" đọc lái là Nhân Tông, tức là Bang Cơ, con Nguyễn Thị Anh, "thịnh y" là thị Anh. Bài này có thể tạm dịch: Trước khi vào cung, Thị Anh đã gian díu với Lê Nguyên Sơn, một người thuộc họ xa của dòng dõi Lê Khoáng (cha Lê Lợi). Một bài thơ khác, Đinh Liệt viết: Dịch là: Việc Thị Anh giết hai hoạn quan Đinh Phúc, Đinh Thắng được Đinh Liệt viết trong bài thơ mà nhiều người cho rằng vì chính hai người này đã mật báo cho ông và Nguyễn Trãi biết: Dịch là: Với cách gọi các vua bằng miếu hiệu như Thái Tông, Nhân Tông, chắc chắn các bài thơ này Đinh Liệt viết vào thời Lê Thánh Tông. Dù Nhân Tông và Thái hậu Nguyễn thị đã chết nhưng việc này vẫn không thể nói công khai, vì trên danh nghĩa, ngôi vua của Nhân Tông vẫn là hợp pháp. Có như vậy, việc cướp ngôi của Lê Nghi Dân mới là "phản nghịch" và việc lên ngôi của Thánh Tông mới là hợp lẽ. Đây chính là nguyên nhân khiến Đinh Liệt phải dùng phép nói ẩn ý để truyền lại cho đời sau. Sau này tới đời vua Lê Thánh Tông, vua Thánh Tông đã minh oan cho Nguyễn Trãi. Tuy nhiên, những bài thơ trên được tìm thấy trong gia phả họ Đinh thất lạc tại Trung Quốc nên tính chính xác của nó không được kiểm chứng, chỉ mang tính tham khảo giả thuyết.
An toàn cháy nổ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825176
An toàn cháy nổ là tập hợp các biện pháp nhằm giảm thiểu thiệt hại do hỏa hoạn gây ra. Các biện pháp an toàn phòng cháy chữa cháy bao gồm những biện pháp nhằm ngăn chặn sự bùng phát của đám cháy không được kiểm soát và những biện pháp được sử dụng để hạn chế sự lan rộng và tác động của đám cháy. Các biện pháp an toàn phòng cháy chữa cháy gồm những biện pháp được lên kế hoạch trong quá trình xây dựng một tòa nhà và những biện pháp cung cấp kiến thức phòng cháy chữa cháy cho cư dân trong tòa nhà đó. Các mối đe dọa đối với an toàn cháy nổ được gọi là nguy cơ hỏa hoạn. Nguy cơ hỏa hoạn là các tình huống làm tăng khả năng xảy ra hỏa hoạn hoặc có thể cản trở quá trình thoát hiểm trong trường hợp hỏa hoạn xảy ra. An toàn cháy nổ là một phần của an toàn xây dựng. Thanh tra có nhiệm vụ đến các tòa nhà để theo dõi các vi phạm Luật Phòng cháy chữa cháy và đến trường học để giáo dục trẻ em về các chủ đề an toàn phòng cháy chữa cháy. Trưởng phòng Phòng cháy chữa cháy làn người đào tạo những người mới làm việc tại phòng Phòng cháy chữa cháy và cũng có thể tiến hành thanh tra, kiểm tra, giám sát.
Kinh chiều Sicilia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825179
Kinh chiều Sicilia (tiếng Ý: "Vespri siciliani"; tiếng Sicilia: "Vespiri siciliani") là một cuộc nổi dậy thành công trên đảo Sicily nổ ra vào Lễ Phục sinh năm 1282, chống lại sự cai trị của vị vua gốc Pháp Charles I xứ Anjou, người đã cai trị Vương quốc Sicilie kể từ năm 1266. Cuộc nổi dậy diễn ra sau 20 năm triều đại Angevin cai trị Sicily, nơi có những chính sách không được lòng dân chúng Sicily. Gây ra bởi một sự cố ở Palermo, cuộc nổi dậy nhanh chóng lan rộng đến phần lớn Sicily. Trong vòng 6 tuần, khoảng 13.000 đàn ông và phụ nữ Pháp đã bị quân nổi dậy giết chết và chính phủ của Charles mất quyền kiểm soát hòn đảo. Tìm kiếm sự hỗ trợ cho cuộc nổi dậy, người Sicily đã dâng ngai vàng cho Peter III của Aragon, người đã thay mặt vợ ông, Constance xứ Sicily, tuyên bố ngai vàng. Sự can thiệp của người Aragon vào cuộc nổi dậy đã dẫn đến việc mở rộng xung đột thành Chiến tranh Kinh chiều Sicilia.
Bắn phá mạnh cuối
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825182
Bắn phá mạnh cuối được cho là cuộc tấn công Trái Đất siêu mạnh khoảng bốn tỉ năm về trước. Có lẽ đã gây hại cho Trái Đất chúng ta nếu sự kiện này bị hoãn đến bây giờ vì đây là một sự kiện nguy hiểm nhất trên thế giới này. Tìm hiểu. Tìm hiểu cơ bản. Các thiên thạch sẽ rơi vào Trái Đất(rất nhiều), nếu có nhà cửa thành phố trong lúc này thì sẽ gây ra một thiệt hại lớn, nên hãy may mắn khi điều này không thể xảy ra được nữa! Tìm hiểu chuyên sâu. Theo hình ảnh trên, một thiên thạch không may đã bị rơi xuống khu vực trên và tạo ra khu vực hố sâu tên là Meteor, hố này thực sự rất nguy hiểm đến mức bạn không thể xuống dưới được vì nó rất là sâu.
Vòng bảng UEFA Europa League 2023-24
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825184
Vòng bảng UEFA Europa League 2023–24 bắt đầu vào ngày 21 tháng 9 năm 2023 và kết thúc vào ngày 14 tháng 12 năm 2023. Có tổng cộng 32 đội thi đấu ở vòng bảng để xác định 16 trong số 24 suất vào vòng đấu loại trực tiếp của UEFA Europa League 2023–24. Aris Limassol, Brighton & Hove Albion, BK Häcken, Raków Częstochowa, Servette và TSC có lần đầu tiên ra mắt ở vòng bảng. Tất cả 6 câu lạc bộ cũng có lần đầu tiên ra mắt ở vòng bảng một giải đấu UEFA. Hơn nữa, Brighton giành quyền tham dự bóng đá châu Âu lần đầu tiên trong lịch sử của họ. Có tổng cộng 21 hiệp hội quốc gia được đại diện ở vòng bảng. Đây là mùa giải cuối cùng với thể thức vòng bảng, được thay thế bởi thể thức vòng đấu hạng bắt đầu từ mùa giải tiếp theo. Các đội bóng. Dưới đây là các đội tham dự (với hệ số câu lạc bộ UEFA năm 2023), được xếp theo nhóm hạt giống của họ. Họ bao gồm: Ghi chú Các bảng. <onlyinclude> Bảng A Bảng B Bảng C Bảng D Bảng E Bảng F Bảng G Bảng H </onlyinclude>
Vòng bảng UEFA Europa Conference League 2023-24
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825187
Vòng bảng UEFA Europa Conference League 2023–24 bắt đầu vào ngày 21 tháng 9 năm 2023 và kết thúc vào ngày 14 tháng 12 năm 2023. Có tổng cộng 32 đội thi đấu ở vòng bảng để xác định 16 trong số 24 suất vào vòng đấu loại trực tiếp của UEFA Europa Conference League 2023–24. Tất cả các đội bóng ngoài AZ, Ballkani, Bodø/Glimt, Fiorentina, Gent, HJK, Maccabi Tel Aviv, PAOK, Slovan Bratislava và Zorya Luhansk có lần đầu tiên ra mắt ở vòng bảng. Breiðablik, Čukarički, KÍ, Olimpija Ljubljana và Zrinjski Mostar có lần đầu tiên ra mắt ở vòng bảng một giải đấu UEFA. Breiðablik, KÍ và Zrinjski Mostar là những đội bóng đầu tiên lần lượt từ Iceland, Quần đảo Faroe và Bosnia và Herzegovina thi đấu ở vòng bảng một giải đấu UEFA. Có tổng cộng 28 hiệp hội quốc gia được đại diện ở vòng bảng. Đây là mùa giải cuối cùng với thể thức vòng bảng, được thay thế bởi thể thức vòng đấu hạng bắt đầu từ mùa giải tiếp theo. Các đội bóng. Dưới đây là các đội tham dự (với hệ số câu lạc bộ UEFA năm 2023), được xếp theo nhóm hạt giống của họ. Họ bao gồm: Ghi chú Các bảng. <onlyinclude> Bảng A Bảng B Bảng C Bảng D Bảng E Bảng F Bảng G Bảng H </onlyinclude>
Pedro III của Aragón
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825191
Peter III của Aragon (tiếng Tây Ban Nha: "Pedro III de Aragón";khoảng  1239 – tháng 11 năm 1285) là Vua của Aragon, Vua của Valencia (với vương hiệu Peter I), và Bá tước xứ Barcelona (với bá hiệu Peter II) từ năm 1276 cho đến khi ông qua đời. Theo lời thỉnh cầu của giới lãnh đạo cuộc nổi dậy Kinh chiều Sicilia, ông đã chinh phục Vương quốc Sicilia và trở thành Vua của Sicily vào năm 1282, thúc đẩy yêu sách của vợ ông, Constance II của Sicily, thống nhất vương quốc với Vương quyền Aragon. Cuộc sống đầu đời. Peter là con trai cả của James I của Aragon và người vợ thứ hai của ông là Violant của Hungary. Vào ngày 13 tháng 6 năm 1262, Peter kết hôn với Constance II xứ Sicily, con gái và là nữ thừa kế của Manfred, Vua của Sicily. Trong thời trẻ và những năm đầu trưởng thành, Peter đã thu được rất nhiều kinh nghiệm quân sự trong các cuộc chiến tranh "Reconquista" chống lại người Moor của cha mình. Vào tháng 6 năm 1275, Peter bao vây, bắt giữ và hành quyết người anh cùng cha khác mẹ nổi loạn Fernando Sánchez de Castro tại Pomar de Cinca. Sau cái chết của cha ông vào năm 1276, các vùng đất của Vương quyền Aragon được chia cho hai con trai. Vương quốc Aragon, Vương quốc Valencia và các bá quốc Catalan thuộc về Peter III với tư cách là con trai cả; trong khi Vương quốc Majorca và các bá quốc Catalan ngoài dãy Pyrenees thuộc về con trai thứ hai, người trở thành James II của Majorca. Peter và Constance được tổng giám mục Tarragona làm lễ đăng quang tại Zaragoza vào tháng 11 năm 1276.
Phòng gia đình
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825194
Phòng gia đình là một phòng không chính thức, có nhiều mục đích trong một ngôi nhà. Phòng gia đình được thiết kế để là nơi gia đình và khách mời tụ họp để tham gia vào các hoạt động nhóm như trò chuyện, đọc sách, xem TV và các hoạt động gia đình khác. Thường, phòng gia đình được đặt bên cạnh nhà bếp và đôi khi có thể liên thông mà không có sự cắt quãng hình ảnh. Phòng gia đình thường có cửa dẫn ra sân sau và các khu vực sống ngoài trời cụ thể như một deck, vườn, hoặc terrace. Thuật ngữ "phòng gia đình" được định nghĩa trong cuốn sách năm 1945 "Tomorrow's House" của George Nelson và Henry Wright. Chương 7, có tiêu đề "Phòng không có tên", nói về sự cần thiết trong cuộc sống hiện đại cho một "phòng lớn nhất trong nhà" mới, mà sẽ phục vụ nhu cầu xã hội và giải trí của toàn bộ gia đình, cho phép các hoạt động mà không được phép trong phòng khách. Phòng lớn này sẽ có nội thất và vật liệu "chắc chắn", cho việc sử dụng khó khăn, và nó nên dễ dàng để lau chùi. Khác với các "phòng ồn ào" hiện tại, nó đôi khi sẽ phục vụ cho giải trí hơi trang trọng hơn, vì vậy nó nên là một căn phòng đẹp mắt và nên có tủ để đồ chơi, dụng cụ, vv. có thể được giấu đi. Sự phân biệt giữa phòng gia đình, phòng khách và phòng giải trí là linh hoạt, nhưng có thể được phân loại theo ba đặc điểm: vị trí, chức năng và thiết kế. Trận bóng đá trên các TV màu lớn đã làm cho phòng gia đình đủ lớn cho cha mẹ và con cái trở nên phổ biến hơn trong những năm 1970. Trong những ngôi nhà có nhiều hơn một phòng như vậy, phòng gia đình không chính thức hơn, cả về chức năng và nội thất, và nó được đặt xa khỏi cửa chính, trong khi phòng khách thường trang trọng hơn, dành cho khách, các dịp đặc biệt và trưng bày các vật phẩm như đồ cổ hoặc nghệ thuật. Nó thường nằm ở phần trung tâm của ngôi nhà hướng về mặt trước. Phòng giải trí thường ở tầng hầm và được sử dụng cho các trò chơi và thời gian chơi. Trong những ngôi nhà chỉ có một phòng như vậy, các thuật ngữ thường được sử dụng thay thế cho nhau. Trong các bản vẽ mặt bằng, một "phòng lớn" là nơi phòng khách và phòng gia đình được kết hợp thành một phòng cao trần kế bên nhà bếp.
Kính thông minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825196
Kính thông minh (tiếng Anh: "Smart glass") là một loại kính có khả năng thay đổi tính chất phản xạ để hạn chế ánh nắng mặt trời và nhiệt độ từ việc xâm nhập vào tòa nhà và bảo vệ quyền riêng tư. Mục tiêu của kính thông minh trong kiến trúc là tạo ra tòa nhà tiết kiệm năng lượng hơn bằng cách giảm lượng nhiệt từ ánh nắng mặt trời đi qua cửa kính. Có hai loại chính của kính thông minh: hoạt động và không hoạt động. Các công nghệ kính hoạt động phổ biến nhất hiện nay bao gồm điều biến màu điện tử, lỏng kristal và thiết bị hạt bám (SPD). Các công nghệ không hoạt động bao gồm biến màu nhiệt và biến màu ánh sáng. Khi được lắp đặt trong vỏ bọc của tòa nhà, kính thông minh giúp tạo ra các lớp vỏ kiến trúc phù hợp với khí hậu, với lợi ích bao gồm điều chỉnh ánh sáng tự nhiên, tạo sự thoải mái trong việc nhìn, chặn tia tử ngoại và tia hồng ngoại, tiết kiệm năng lượng, cung cấp sự thoải mái về nhiệt, khả năng chống đối mặt với điều kiện thời tiết khắc nghiệt và bảo vệ quyền riêng tư. Một số cửa sổ thông minh có thể tự điều chỉnh nhiệt hoặc làm mát để tiết kiệm năng lượng trong tòa nhà. Các cửa sổ thông minh có thể thay thế việc sử dụng rèm cửa, mành hoặc trang trí cửa sổ. Các hiệu ứng cũng có thể được đạt bằng cách bám bộ phim thông minh hoặc bộ phim chuyển đổi lên bề mặt phẳng sử dụng lớp kính, acrylic hoặc polycarbonate laminates. Một số loại bộ phim thông minh có thể được áp dụng lên cửa kính hiện có bằng cách sử dụng bộ phim thông minh tự dính hoặc keo đặc biệt. Phương pháp phun sương để áp dụng lớp phủ trong suốt để chặn nhiệt và dẫn điện cũng đang được phát triển. Lịch sử. Thuật ngữ "cửa sổ thông minh" được xuất phát từ những năm 1980. Nó được giới thiệu bởi nhà vật lý vật liệu Thụy Điển Claes-Göran Granqvist từ Trường Đại học Công nghệ Chalmers. Ông đưa ra ý tưởng để tạo vật liệu xây dựng tiết kiệm năng lượng hơn cùng với các nhà khoa học từ Trung tâm Quốc gia Lawrence Berkeley ở California. Thuật ngữ này được sử dụng để mô tả một cửa sổ phản hồi có khả năng thay đổi độ tối.
Cục Điều tra Hiện tượng Không trung Bất thường
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825198
Cục Điều tra Hiện tượng Không trung Bất thường (), viết tắt DIFAA, là một cơ quan trực thuộc Không quân Peru chuyên điều tra hiện tượng kỳ lạ trên không có liên quan tới UFO. DIFAA được thành lập lần đầu tiên vào năm 2001 rồi về sau bị đóng cửa vào năm 2008 do "các vấn đề hành chính". Năm 2013, do thường xuyên nhìn thấy UFO, Không quân Peru đã khởi động lại cơ quan này, tập hợp chuyên gia đến từ đủ mọi tầng lớp xã hội như nhà xã hội học, nhà khảo cổ học, nhà thiên văn học và nhân viên không quân để phân tích những trường hợp chứng kiến UFO. Các cơ quan tương tự cũng đã được thành lập ở các nước xung quanh Peru như Brasil, Argentina và Chile.
Phòng vẽ tranh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825199
Phòng vẽ là một phòng trong nhà dùng để tiếp đón khách và cũng là tên thay thế cho phòng khách. Thuật ngữ này xuất phát từ các thuật ngữ "phòng rút lui" và "phòng rút lui thứ" vào thế kỷ 16 và tiếp tục sử dụng trong thế kỷ 17, lần đầu được ghi nhận vào năm 1642. Trong những ngôi nhà lớn ở Anh từ thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 18, phòng rút lui là nơi chủ nhà, vợ chồng ông hoặc khách quý ở trong căn phòng chính của ngôi nhà có thể "rút lui" để có thêm sự riêng tư. Thường nó nằm gần phòng lớn (hoặc phiên bản hiện đại của phòng lớn, phòng nhà nước) và thường dẫn đến phòng ngủ hoặc "phòng hoàng gia". Ngày nay, trong những ngôi nhà hiện đại, nó có thể được dùng như tên gọi tiện lợi cho một phòng tiếp thứ hai hoặc nhiều hơn, nhưng không có chức năng cụ thể liên kết với tên gọi này. Lịch sử và phát triển. Vào thế kỷ 18 ở Luân Đôn, buổi tiếp đón sáng sớm của hoàng gia mà người Pháp gọi là "levée" được gọi là "phòng vẽ", với ý ban đầu là các thành viên ưu tú của triều đình sẽ tụ tập trong phòng vẽ ngoài phòng ngủ của vua, nơi ông xuất hiện công khai lần đầu tiên trong ngày. Trong thời kỳ Nội chiến Hoa Kỳ, ở Nhà Trắng của Liên minh miền Nam ở Richmond, Virginia, phòng vẽ nằm ngoài phòng tiếp khách nơi Tổng thống CSA Jefferson Davis đón khách. Sau khi chào hỏi, nam giới ở lại trong phòng khách để thảo luận chính trị và phụ nữ rút lui vào phòng vẽ trò chuyện riêng. Điều này thường thực hiện trong gia đình giàu có ở miền Nam Hoa Kỳ. Năm 1865, một sách hướng dẫn kiến trúc tại Anh định nghĩa "phòng vẽ" như sau: Vào giữa thế kỷ 20, sau bữa tối, phụ nữ của một bữa tiệc tối rút lui vào phòng vẽ, để đàn ông ở bàn ăn, nơi màn bàn ăn được gỡ bỏ. Sau một thời gian trò chuyện, thường kèm theo rượu brandy hoặc port và đôi khi xì gà, đàn ông trở lại phòng vẽ để hòa nhập cùng phụ nữ.
Phòng vẽ tranh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825199
Thuật ngữ "phòng vẽ" không được sử dụng rộng rãi như trước đây và thường chỉ được dùng tại Anh bởi những người có nhiều phòng tiếp đãi khác như phòng sáng, một thuật ngữ từ thế kỷ 19 chỉ phòng để thư giãn ban ngày, hoặc phòng tiếp khách cho tầng lớp trung lưu, một thuật ngữ từ cuối thế kỷ 19 chỉ phòng thư giãn. Do đó, phòng vẽ thường là căn phòng thông minh nhất trong ngôi nhà, thường được người lớn sử dụng khi tiếp khách. Thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi ở Ấn Độ và Pakistan, có lẽ bắt đầu từ thời thuộc địa, trong các ngôi nhà lớn ở thành phố nơi có nhiều phòng. Thuật ngữ phòng khách ban đầu chỉ định các phòng tiếp đãi khiêm tốn của tầng lớp trung lưu, nhưng cách sử dụng thay đổi tại Vương quốc Anh khi chủ nhà cố gắng tương thích với ngôi nhà lớn của người giàu. Thuật ngữ "phòng khách" tiếp tục sử dụng phổ biến ở Bắc Mỹ cho đến đầu thế kỷ 20. Tại Pháp, từ "salon", trước đây chỉ định phòng tiếp đãi nhà nước, bắt đầu được dùng cho phòng vẽ từ đầu thế kỷ 19, phản ánh sự tụ tập xã hội "salon" đã trở nên phổ biến trong những thập kỷ trước đó.
Mark McDowell
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825200
Mark McDowell là một doanh nhân, chính trị gia và là thành viên của P. Ông là thành viên của Nghị viện New Zealand McDowell là người đồng sáng lập và Giám đốc điều hành của Primal Digital Agency và Syndatrace. Tiểu sử. McDowell sinh ra ở Bangkok, Thái Lan, nơi anh theo học tại trường Bangkok Patana. Anh đã hoàn thành chương trình giáo dục đại học tại Đại học Otago ở New Zealand, tốt nghiệp với bằng cử nhân thương mại và quản trị kinh doanh. Mark McDowell bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là nhà phát triển trang web, hoạt động tự do và xây dựng trang web cho nhiều doanh nghiệp khác nhau khi còn là sinh viên. Sau khi trở về Bangkok, anh nhận được vai trò giám đốc tiếp thị tại một cơ sở kinh doanh thịt nướng nhỏ. Năm 2013, McDowell chuyển đến Melbourne, Úc, nơi ông giữ chức vụ quản lý tài khoản tiếp thị hiệu suất tại WME. Khi trở về Thái Lan vào năm 2015, anh đồng sáng lập Primal Digital Agency, một công ty tiếp thị kỹ thuật số có trụ sở tại Thái Lan và Malaysia. Từ năm 2017 đến năm 2020, ông là thành viên của Quốc hội khóa 52 của New Zealand. Năm 2020, anh được đưa vào danh sách Forbes 30 under 30. Năm 2022, McDowell đồng sáng lập Syndatrace, công ty cung cấp các dịch vụ tiếp thị kỹ thuật số và các công cụ phân tích được hỗ trợ bởi AI. McDowell cũng là cố vấn tại Talent First, một công ty tư vấn tuyển dụng, vị trí mà ông đảm nhận vào tháng 11 năm 2022. Ngoài ra, ông còn là người đứng đầu bộ phận thăng cấp tại Superist.
Royal Antwerp F.C.
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825203
Câu lạc bộ bóng đá Hoàng gia Antwerp , thường được gọi là Royal Antwerp hoặc đơn giản Antwerp , là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp của Bỉ . RAFC có trụ sở tại thành phố Antwerp và hiện là nhà vô địch Belgian Pro League của Bỉ. Được thành lập vào khoảng năm 1880 với tên Câu lạc bộ cricket Antwerp bởi các sinh viên người Anh cư trú tại Antwerp, 15 năm trước khi thành lập Hiệp hội bóng đá Hoàng gia Bỉ , Antwerp được coi là câu lạc bộ lâu đời nhất ở Bỉ. Lúc đầu, không có môn bóng đá có tổ chức nào được tổ chức bởi các thành viên, cho đến năm 1887 khi bộ phận bóng đá được thành lập với một hội đồng riêng, lấy tên là Câu lạc bộ bóng đá Antwerp.. Là câu lạc bộ hoạt động lâu đời nhất vào thời điểm đó, đây là câu lạc bộ đầu tiên đăng ký tham gia Hiệp hội vào năm 1895. Do đó, khi số điểm trúng tuyển được đưa ra vào năm 1926, câu lạc bộ đã nhận được điểm trúng tuyển số một. Đội đã 5 lần vô địch giải VĐQG Bỉ và 4 lần Cúp bóng đá Bỉ , trong đó có cú đúp vào mùa giải 2022–23. Ở các giải đấu châu Âu, đội đã lọt vào trận chung kết Cúp các nhà vô địch UEFA Cup năm 1992–93 . Các cầu thủ.
Matteo Vitaioli
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825204
Matteo Giampaolo Vitaioli (sinh ngày 27 tháng 10 năm 1989) là một cầu thủ bóng đá người San Marino hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ La Fiorita tại Campionato Sammarinese di Calcio. Sự nghiệp thi đấu. Câu lạc bộ. Sinh ra tại Fiorentino, San Marino, Vitaioli đã thi đấu cho 4 câu lạc bộ: San Marino Calcio, F.C. Fiorentino, Sammaurese và Tropical Coriano và đã chơi cho 4 câu lạc bộ dưới dạng cho mượn: Empoli (mặc dù anh không thể ra sân một trận nào trong nửa sau của Serie A 2005–06), ASD Cagliese, Real Montecchio và P.D. Castellarano. Số áo. Anh mặc áo số 11 cho cả câu lạc bộ và đội tuyển quốc gia.
Giáo phận Nakhon Sawan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825206
Giáo phận Nakhon Sawan (; ) là một giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Thái Lan. Giáo phận là một giáo phận trực thuộc Tổng giáo phận Bangkok. Địa giới. Địa giới giáo phận bao gồm các tỉnh Chainat, Kamphaeng Phet, Lopburi, Nakhon Sawan, Saraburi, Sukhothai, Tak, Uthai Thani và Uttaraddit ở Thái Lan. Tòa giám mục và Nhà thờ chính tòa Thánh Anna của giáo phận được đặt tại thành phố Nakhon Sawan. Giáo phận được chia thành 51 giáo xứ. Lịch sử. Giáo phận được thành lập vào ngày 9/2/1967 theo tông sắc "Officii Nostri" của Giáo hoàng Phaolô VI, trên phần lãnh thổ tách ra từ Tổng giáo phận Bangkok. Vào ngày 2/7/1969 giáo phận đã đổi tên thành như hiện tại theo nghị định "Cum Excellentissimus" của Bộ Truyền giáo. Vào ngày 20/6/1970 tỉnh Uttaradit đã được Giáo phận Chiang Mai trao cho giáo phận quản lí theo nghị định "Cum ad disciplinae" của Bộ Truyền giáo. Giám mục quản nhiệm. Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ. Thống kê. Đến năm 2021, giáo phận có 18.565 giáo dân trên dân số tổng cộng 8.959.045, chiếm 0,2%.