text
stringlengths 1
377k
|
---|
học nhiều mà có ích gì đâu? HIẾU VẤN 24 古之學者爲己,今之學者爲人。 Cổ chi học giả vị kỉ, kim chi học giả vị nhân. Người xưa học vì mình (tức để tu thân), người đời nay học vì người (nghĩa là cho người ta biết tới mình). VỆ LINH CÔNG 15 不曰:如之何,如之何者,吾末如之何也已矣? Bất viết: “Như chi hà, như chi hà” giả, ngô mạt như chi hà dã dĩ hĩ. Người nào không tự hỏi: “Phải làm sao? Phải làm sao?” thì ta cũng chẳng có cách nào chỉ bảo cho được. VỆ LINH CÔNG 30 吾嘗終日不食,終夜不寢以思,無益,不如學也。 Ngô thường chung nhật bất thực, chung dạ bất tẩm dĩ tư, vô ích, bất như học dã. Ta có lần trọn ngày quên ăn và thức trọn đêm để suy nghĩ. Xét ra thấy vô ích, không bằng học. VỆ LINH CÔNG 31 君子謀道,不謀食…君子憂道不憂貧。 Quân tử mưu đạo, bất mưu thực… Quân tử ưu đạo bất ưu bần. Người quân tử mưu cầu về đạo, không mưu cầu về bổng lộc (…) Người quân tử lo về đạo, không lo nghèo. QUÍ THỊ 9 生而知之者,上也;學而知之者,次也;困而學之,又其次也。困而不學, 民斯爲下矣。 Sinh nhi tri chi giả, thượng dã; học nhi tri chi giả, thứ dã; khốn nhi học chi, hựu kì thứ dã. Khốn nhi bất học, dân tư vi hạ hĩ. Không ai dạy mà biết được đạo lí là hạng trên cùng; phải học rồi mới biết được là hạng trung; dốt mà chịu học là hạng thấp; dốt mà không chịu học là hạng cuối cùng[319]. QUÍ THỊ 10 君子有九思:視思明,聽思聰,色思溫,貌思恭,言思忠,事思敬,疑思 問,忿思難,見得思義。 Quân tử hữu cửu tư: thị tư minh, thính tư thông, sắc tư ôn, mạo tư cung, ngôn tư trung, sự tư kính, nghi tư vấn, phẫn tư nan, kiến đắc tư nghĩa. Người quân tử có chín mối xét nét: 1 khi trông phải trông cho rõ, 2 khi nghe phải lắng tai nghe cho rõ (rõ: nghĩa là phân biệt được phải trái). 3 sắc mặt phải giữ cho ôn hoà, 4 dung mạo phải cho khiêm cung, 5 nói điều gì phải trung thực, 6 làm điều gì phải kính cẩn, 7 có điều gì nghi hoặc thì phải hỏi han, tìm hiểu, 8 khi giận dữ thì phải nghĩ đến hậu quả tai hại sẽ xảy ra, 9 thấy mối lợi thì phải nghĩ đến điều nghĩa. |
QUÍ THỊ 13 陳亢問於伯魚曰:子亦有異聞乎?對曰:未也。嘗獨立,鯉趨而過庭。曰: 學詩乎?對曰:未也。不學詩,無以言。鯉退而學詩。 他日,又獨立,鯉趨而過庭。曰:學禮乎?對曰:未也。不學禮,無以立。 鯉退而學禮。聞斯二者。 陳亢退而喜曰:問一得三:聞詩,聞禮。又聞君子遠其子也。 Trần Cang vấn ư Bá Ngư viết: “Tử diệc hữu dị văn hồ?” Đối viết: “Vị dã. Thường độc lập. Lí xu nhi quá đình. – Viết: “Học Thi hồ?” Đối viết: “Vị dã”. – “Bất học Thi vô dĩ ngôn”. Lí thoái nhi học Thi. Tha nhật, hựu độc lập, Lí xu nhi quá đình. – Viết: “Học Lễ hồ?” Đối viết: “Vị dã”. – “Bất học Lễ, vô dĩ lập”. Lí thoái nhi học Lễ. Văn tư nhị giả”. Trần Cang thoái nhi hỉ viết: “Vấn nhất đắc tam: văn Thi, văn Lễ, hựu văn quân tử chi viễn kì tử dã”. Trần Cang hỏi Bá Ngư (con Khổng tử): Cha tôi hỏi tôi: Học (kinh) Thi chưa? Tôi đáp: Chưa. Cha tôi bảo: Không học (kinh) Thi thì không biết ăn nói. Tôi bèn lui vào học (kinh) Thi. Lần khác cha tôi lại đứng một mình, tôi đi nhanh qua sân. Cha tôi hỏi: Học (kinh) Lễ chưa? Tôi thưa: Chưa. Cha tôi bảo: Không học (kinh) Lễ thì không vững chí lập thân. Tôi bèn lui vào học (kinh) Lễ. Tôi chỉ nghe được hai điều đó[320]. Trần Cang lui ra, mừng rỡ bảo: Hỏi một điều mà biết được ba: 1 phải học Thi, 2 phải học Lễ, 3 người quân tử không hay gần con. DƯƠNG HOÁ 8 子曰:由也,女聞六言六蔽矣乎?對曰:未也。居,吾語女:好仁不好學, 其蔽也愚;好知不好學,其蔽也蕩;好信不好學,其蔽也賊;好直不好學,其 蔽也絞;好勇不好學,其蔽也亂;好剛不好學,其蔽也狂。 dã tặc. Hiếu trực bất hiếu học, kì tế dã giảo. Hiếu dũng bất hiếu học, kì tế dã loạn. Hiếu cương bất hiếu học, kì tế dã cuồng”. Khổng tử hỏi Tử Lộ: Anh Do này, anh có nghe sáu đức tốt bị sáu cái hại che lấp không? Thưa thầy chưa Ngồi xuống đấy, thầy dạy cho. Người ham đức nhân mà không |
chịu học hỏi thì bị cái hại là ngu muội; người ham đức trí mà không chịu học hỏi thì bị cái hại là phóng đãng; người trọng đức tín mà không chịu học hỏi thì bị tổn hại (bị lừa gạt); người ưa sự ngay thẳng mà không chịu học hỏi thì hoá ra nóng nảy; người ưa dũng cảm mà không chịu học hỏi thì hoá ra phản loạn; người thích cương quyết mà không chịu học hỏi thì hoá ra cuồng bạo. Trở lên trên là những lời của Khổng tử (trừ bài Bát dật 15, Công Dã Tràng 13, Tử Hãn 4). Dưới đây tôi xin chép thêm ít lời của môn đồ cũng nói về việc học và cũng rút trong Luận ngữ. A. LỜI TĂNG TỬ (TỨC TĂNG SÂM) HỌC NHI 4 吾日三省吾身:為人謀而不忠乎?與朋友交而不信乎?傳不習乎? Ngô nhật tam tỉnh ngô thân: Vị nhân mưu nhi bất trung hồ? Dữ bằng hữu giao nhi bất tín hồ? Truyền bất cập hồ?” Mỗi ngày tôi xét điều này: giúp ai có hết lòng không, giao du với bạn có giữ được đức tín không, có học tập điều thầy dạy cho không? B. LỜI TỬ HẠ (TỨC BỐC THƯƠNG) HỌC NHI 7 賢賢易色,事父母能竭其力,事君能致其身,與朋友交,言而有信。雖曰未 學,吾必謂之學矣。 Hiền hiền dịch sắc[321], sự phụ mẫu năng kiệt kì lực, sự quân năng trí kì thân, dữ bằng hữu giao, ngôn nhi hữu tín, tuy viết vị học, ngô tất vị chi học hĩ. Người nào biết đổi lòng yêu sắc đẹp ra lòng mộ người hiền, thờ cha mẹ thì tận lực, thờ vua thì liều thân, giao thiệp với bạn bè thì giữ được đức tín, người đó dù bảo là chưa học (đạo lí) chứ tôi thì cho là đã học rồi. TỬ TRƯƠNG 5 日知其所亡,月無忘其所能,可謂好學也已矣。 Nhật tri kì sở vô, nguyệt vô vong kì sở năng, khả vị hiếu học |
dã dĩ hĩ. Mỗi ngày biết thêm điều mình chưa biết, mỗi tháng không quên những điều mình đã biết, như vậy có thể gọi là ham học. TỬ TRƯƠNG 6 日博學而篤志,切問而近思,仁在其中矣。 Bác học nhi đốc chí, thiết vấn nhi cận tư, nhân tại kì trung hĩ. Học rộng mà dốc chí, hỏi điều thiết thực mà nghĩ đến việc gần[322], đạo nhân ở trong đó rồi. TỬ TRƯƠNG 7 百工居肆以成其事,君子學以致其道。 Bách công cư tứ dĩ thành kì sự, quân tử học dĩ trí kì đạo.” Thợ thuyền thì phải ở trong xưởng mới làm được việc (ý mói mới có đủ phương tiện để làm); người quân tử thì phải học mới thấu được đạo lí.” TỬ TRƯƠNG 12 子游曰:子夏之門人小子當洒掃,應對,進退則可矣,抑末也本之則無。如 之何? 子夏聞之曰:噫!言游過矣。君子之道,孰先傳焉?孰後倦焉?譬諸草木, 區以別矣。君子之道,焉可誣也?有始有卒者,其惟聖人乎? đối, tiến thoái tắc khả hĩ, ức mạt dã, bổn chi tắc vô. Như chi hà?” Tử Hạ văn chi, viết: “Y! Ngôn du quá hĩ. Quân tử chi đạo, thục tiên truyền yên? Thục hậu quyện yên? Thí chư thảo mộc, Tử Du bảo: Học trò của thầy Tử Hạ chỉ làm việc rẩy nước quét tước, ứng đối, tới lui là được. Đó chỉ là cái ngọn (việc nhỏ nhặt), còn cái gốc (đạo lí) thì không có. Như vậy đâu được. Tử Hạ nghe được, nói: Ôi! Tử Du nói sai rồi. Đạo của người quân tử cái gì phải dạy cho trước (nếu không phải cái ngọn?), cái gì phải được gắng sức truyền lại sau cho đến mệt mỏi[323] (nếu không phải là cái gốc?). Trình độ học trò ví như cỏ cây, phân biệt làm nhiều hạng. Đạo dạy học của người quân tử (phải tuần tự) đâu có thể viễn vong được? Biết đủ ngọn gốc (quán thông mọi lẽ), có phải chỉ bậc thánh nhân mới được vậy không? (còn bọn trẻ thì phải tuần |
tự mà dạy chứ)[324]. TỬ TRƯƠNG 13 仕而優則學,學而優則仕。 Sĩ nhi ưu tắc học, học nhi ưu tắc sĩ. Làm quan mà thừa sức thì nên học thêm; người học mà thừa sức thì nên ra làm quan. C. LỜI TỬ CỐNG TỬ TRƯƠNG 22 衛公孫朝問於子貢,曰:仲尼焉學?子貢曰:文武之道,未墜於地,在人。 賢者識其大者,不賢者,識其小者,莫不有文武之道焉。夫子焉不學?而亦何 常師之有? chí kì đại giả, bất hiền giả, chí kì tiểu giả, mạc bất hữu Văn Võ chi đạo yên. Phu tử yên bất học? Nhi diệc hà thường sư chi hữu?” Công tôn Triều (đại phu) nước Vệ hỏi Tử Cống: Ông Trọng Ni học với ai? Đạo của vua Văn vua Võ đời Chu chưa sụp đổ hẳn, vẫn còn trong lòng người: người hiền ghi nhớ được phần cao xa, người bất hiền ghi nhớ được phần nhỏ nhặt, không đâu không có đạo vua Văn vua Võ. Thầy tôi chẳng học ở đó ư? Cần gì phải nhất định học một ông thầy nào? ĐỌC THÊM[325] Tính Tương Cận Khổng Tử bị khốn ở nước Trần, nước Thái Tử Cống Nhà chính trị Nhà luân lí Nhà giáo (Trích Cổ Văn Trung Quốc) Văn học Trung Hoa tới thời Xuân Thu và Chiến Quốc đã phát triển rực rỡ, mà về số lượng và sự phong phú thì tản văn lấn hẳn thơ. Mới đầu tản văn chia làm hai phần: luận thuyết và sử truyện. Phần luận thuyết cũng gọi là phần “tản văn của chư tử”, gồm toàn những tác phẩm triết học, có giá trị rất lớn về tư tưởng, đôi khi cả về nghệ thuật nữa. Tác phẩm đầu tiên là bộ Luận ngữ, do môn đệ của Khổng tử ghi chép những lời dạy bảo của thầy mà soạn thành. Nó mở đường cho thể “ngữ lục” đời sau. Chúng tôi không chép lại tiểu sử của Khổng tử (551 479 trước |
TL) vì độc giả đều biết cả rồi, chỉ xin giới thiệu ít điểm đặc sắc trong bộ Luận ngữ. Có lẽ môn đệ của Khổng tử mỗi lần nghe được một lời nào của thầy, thấy quan trọng thì ghi lại liền, rồi khi ngài mất mới gom góp lại chứ không sắp đặt theo đề mục, cho nên ta không thấy có một thứ tự nào cả về hệ thống tư tưởng; nhưng sự ghi chép đó rất đích xác, và các độc giả đời sau đều cho rằng chỉ có bộ đó là phát biểu được đúng học thuyết của ngài. Tuy nhiên hình như cũng có vài chỗ do người đời sau viết thêm, chẳng hạn như thiên Hương đảng. Nội dung của Luận ngữ rất là phong phú; bao quát cả triết học, chính trị, văn học, giáo dục…, tuy là văn kí sự mà có tính cách nghị luận; ý tưởng thì ôn hoà, thâm thuý mà hàm súc; giọng thì nghiêm trang mà vẫn thân mật, tự nhiên, đúng là lời trò chuyện giữa thầy trò. Văn rất cô: một phần vì thời đó phải khắc vào thẻ tre, rất bất tiện, nên lời ghi chép cần thật gọn, nhiều chỗ ta phải suy nghĩ mới tìm thấy mạch lạc tư tưởng. Chẳng hạn đoạn ở đầu sách: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ? Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ? Nhân bất tri nhi bất uẩn, bất diệc quân tử hồ?” Muốn cho rõ và đủ nghĩa thì chúng ta phải dịch ra như vậy: “Học mà mỗi buổi mỗi tập, cũng chẳng thoả thích ư? Khi học đã tấn tới rồi, có những bạn cùng chí hướng với mình, ở xa nghe tiếng mình mà tìm lại để bàn bạc với nhau về đạo lý, khuyến khích lẫn nhau, sửa đổi lẫn nhau, chẳng cũng vui vẻ ư? |
Nhưng nếu không ai biết tới mình, thì mình cũng không hờn giận, (vì mình học để cầu đạo chứ không phải để cầu danh), như vậy mới là quân tử.” Ta thấy ý nghĩa của ba câu liên lạc chặt chẽ với nhau và sắp theo thứ tự tự nhiên, câu đầu vạch bước đầu của người học đạo; câu thứ nhì xét về những người đã tiến kha khá trên đường đạo; câu cuối xét về những người đã đạt một trình độ rất cao trong sự tu dưỡng. Đại loại văn trong Luận ngữ thâm trầm như vậy, càng suy càng thấy hứng thú. Ngoài ra lại có những đoạn có giọng phúng thích như đoạn Quí Lộ hỏi về quỉ thần (chương Tiên Tiến); những câu nhiều thú vị như: “Tuế hàn nhiên hậu tri tùng bách chi hậu điêu dã”, những câu cảm xúc triền miên như: “ Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ!” Tóm lại, về hai phương diện tư tưởng và nghệ thuật, Luận ngữ được mọi thời công nhận là một tác phẩm bất hủ làm vẻ vang cho dân tộc Trung Quốc. Dưới đây chúng tôi sẽ giới thiệu hai đoạn, một đoạn cực kỳ hàm súc; một đoạn tả tính tình, chí hướng các nhân vật một cách rất linh động, đời sau khó có ai viết hơn được. 冉有曰:“夫子為衛君乎?”子貢曰:“諾,吾將問之。”入曰:“伯夷,叔齊何 人也?”曰:“古之賢人也。”曰:“怨乎?”曰:“求仁而得仁,又何怨。”出 曰:“夫子不為也。” Khổng tử lúc đó đương ở nước Vệ mà vua nước Vệ bất hiếu, cướp ngôi của cha trong khi cha tị loạn ra nước ngoài; rồi khi cha về, đem quân ra cự cha. Nhiễm Hữu và Tử Cống, hai môn đệ của Khổng tử, nghi thầy có ý bênh vực vua Vệ chăng, cho nên Nhiễm Hữu hỏi Tử Cống: “Thầy có vị vua Vệ không?” và Tử |
Cống đáp: “Ừ, chính tôi cũng định hỏi thầy về việc ấy.” Rồi Tử Cống vào hỏi. Nhưng không hỏi thẳng về việc vua Vệ, như vậy Khổng tử sẽ khó trả lời; theo đạo lý thì không thể nào bênh vực vua Vệ được, mà theo phép xử thế, đương làm khách ở Vệ thì không thể bài xích vua Vệ; cho nên Tử Cống đem việc Bá Di, Thúc Tề ra hỏi. Bá Di, Thúc Tề là hai anh em ruột, con vua nước Cô Trúc ở cuối đời Thương, đầu đời Chu. Bá Di là anh cả, Thúc Tề là em út. Vua Cô Trúc yêu Thúc Tề, lập di ngôn cho Thúc Tề nối ngôi. Quốc dân theo di mệnh, lập Thúc Tề, Thúc Tề không chịu, nhường lại Bá Di cho phải lẽ. Bá Di cũng không chịu, nhường lại cho Thúc Tề để tuân lệnh cha. Không ai chịu nhận rồi trốn cả Vậy hai người đó lấy nghĩa làm trọng, trái hẳn với vua Vệ. Nếu Khổng tử khen Bá Di, Thúc Tề, tức thị là chê vua Vệ rồi. Tử Cống nghĩ vậy rồi vô hỏi: Tử Cống chưa hiểu rõ, hỏi thêm: Hai ông ấy cầu được vẹn chữ nhân và quả nhiên làm được điều nhân thì còn ân hận gì nữa? Thấy thầy khen Bá Di, Thúc Tề, biết rằng tất chê vua Vệ, Tử Cống trở ra đáp Nhiễm Hữu: Quả nhiên, sau thầy trò Khổng tử bỏ nước Vệ mà đi. Dịch sát ra thì như vầy: Nhiễm Hữu hỏi: “Thầy chúng ta có vị vua Vệ không?” Tử Cống đáp: “Ừ, tôi cũng có ý hỏi thầy về việc đó”. Rồi vô hỏi Khổng tử: “Thưa thầy, Bá Di, Thúc Tề là người ra sao?” Đáp: |
“Là người hiền đời xưa”. Lại hỏi: “Hai ông ấy có ân hận gì không?” Đáp: “Cầu nhân mà được nhân thì còn ân hận gì nữa?” Tử Cống trở ra bảo Nhiễm Hữu: “Thầy không vị vua Vệ đâu.” Phê bình đoạn ấy, Phan Bội Châu viết: “Bài này chẳng những đạo lý hay mà bút pháp nhà chép sách lại cực kỳ tinh diệu. Câu đứng đầu là: “Phu tử vị Vệ quân hồ?”, câu dưới là: “Phu tử bất vị dã” mà chính khoảng giữa không một chữ nào dây dướng gì đến Vệ quân cả. Một bên hỏi, một bên trả lời, rặt là ý tứ ở ngoài tiếng nói.” (Khổng học đăng – Anh Minh xuất bản) Đoạn dưới đây dài hơn mà cũng là đoạn chúng tôi thích nhất trong Luận ngữ, về phương diện văn học. 子路、曾皙、冉有、公西華侍坐。子曰:“以吾一日長乎爾,毋吾以也。居則 曰:’不吾知也!’如或知爾,則何以哉?”子路率爾而對曰:“千乘之國,攝乎大 國之間,加之以師旅,因之以飢饉,由也為之,比及三年,可使有勇,且知方 也。”夫子哂之。”求,爾何如?”對曰:“方六七十,如五六十,求也為之,比及 三年,可使足民。如其禮樂,以俟君子。”“赤,爾何如?”對曰:“非曰能之,願 學焉。宗廟之事,如會同,端章甫,願為小相焉。”“點,爾何如?”鼓瑟希,鏗 爾,舍瑟而作,對曰:“異乎三子者之撰。”子曰:“何傷乎?亦各言其志也。 ”曰:“莫春者,春服既成,冠者五六人,童子六七人,浴乎沂,風乎舞雩,詠而 歸。”夫子喟然嘆曰:“吾與點也!” “Dĩ ngô nhất nhật trưởng hồ nhĩ, vô ngô dĩ dã. Cư tắc viết: “Bất ngô tri dã”. Như hoặc tri nhĩ, tắc hà dĩ tai?” Tử Lộ suất nhĩ nhi đối viết: “Thiên thặng chi quốc, nhiếp hồ đại quốc chi gian, gia chi dĩ sư lữ, nhân chi dĩ cơ cận, Do dã vi chi, bí cập tam niên, khả sử hữu dõng, thả tri phương dã.” Phu tử sẩn chi. “Cầu, nhĩ hà như?” Đối viết: “Phương lục thất thập, như ngũ lục thập, Cầu dã vi chi, bí cập tam niên, khả sử túc dân. Như kỳ lễ nhạc dĩ sĩ quân tử.” “Xích, nhĩ hà như?” Đối viết: “Phi viết năng chi, nguyện học yên. Tôn miếu chi sự, như hội đồng, đoan, chương phủ, nguyện vi tiểu tướng yên.” “Điểm, nhĩ hà như?” Cổ sắt hy, khanh nhĩ, xả sắt nhi tác, đối viết: “Dị hồ tam tử |
giả chi soạn.” Tử viết: “Hà thương hồ? Diệc các ngôn kỳ chí dã.” Viết: “Mộ xuân giả, xuân phục ký thành, quán giả ngũ lục nhân, đồng tử lục thất nhân, dục hồ Nghi, phong hồ Vũ Vu, vịnh nhi quy.” Phu tử vị nhiên thán viết: “Ngô dữ Điểm dã.” DỊCH NGHĨA Tử Lộ, Tăng Tích[326], Nhiễm Hữu và Công Tây Hoa ngồi hầu ngài. Ngài bảo: “Các anh cho rằng ta có lớn hơn các anh một ngày[327] mà ngại, nhưng đừng ngại gì cả. Ở nhà, các anh thường nói: “Chẳng ai biết ta” [328]. Nếu có người biết thì các anh đem tài năng gì ra dùng?” Tử Lộ vội vàng đáp: “Ví như một nước có một ngàn cỗ xe[329], bị ép giữa hai nước, lại thêm có nạn chiến tranh, nhân đó dân chúng đói khổ; Do tôi mà cầm quyền chính trị nước ấy thì vừa đầy ba năm, có thể khiến cho dân chúng dũng cảm mà lại biết đạo lý nữa.” Ngài mỉm cười. Rồi hỏi: “Cầu[330], còn anh thì thế nào?” Đáp: “Như có một nước vuông vức sáu, bảy chục dặm hoặc năm sáu chục dặm[331], Cầu tôi cầm quyền chính trị nước ấy thì vừa đầy ba năm có thể khiến cho dân chúng được no đủ. Còn về lễ nhạc thì xin đợi bực quân tử” [332]. “Xích[333], còn anh thì thế nào?” Đáp: “Về lễ nhạc, tôi không phải giỏi song xin được học. Trong việc tế tự ở tôn miếu, hay trong hội nghị của các chư hầu, Xích tôi mặc áo lễ huyền đoan, đội mũ chương phủ[334] mà xin làm một tiểu tướng[335]. ” “Điểm[336], còn anh thì thế nào?” Lúc đó Tăng Tích gẩy đờn sắt vừa ngớt, đặt đờn xuống, nghe |
reng một tiếng, mà đứng dậy, đáp: “Chí của tôi khác hẳn với ba anh đó.” Ngài bảo: “Hại gì? Cũng là ai nấy tỏ chí của mình ra mà thôi.” Thưa rằng: “Như bây giờ là tháng cuối xuân, y phục mùa xuân đã may xong, năm sáu người vừa tuổi đôi mươi[337], với sáu bảy đồng tử[338] dắt nhau đi tắm ở sông Nghi rồi lên hứng mát ở nền Vũ Vu[339], vừa đi vừa hát, kéo nhau về nhà.” Khổng tử ngẫm một chút rồi than: “Ta cũng muốn như Điểm vậy.” Chỉ có một trang giấy mà tả rõ tính tình, chí hướng cùng sự tu dưỡng của năm nhân vật, lại vén cho thấy một cảnh trời xuân, có suối trong gió mát, tiếng đàn tiếng hát. Tính tình Khổng tử hoà nhã mà thân mật: chỉ mỉm cười chứ không trách Tử Lộ. Đọc bộ Luận ngữ ta có cảm tưởng như lúc nào ngài cũng đau đáu lo việc nhân quần, tới đoạn này ta mới thấy ngài cũng có lúc ưa cảnh thanh nhàn, và như vậy ta càng mến ngài; ngài rất gần chúng ta, không cực đoan như Mặc Tử hay Trang Tử, đã đạt tới cái mức quân bình trong tâm hồn, đạt được cái đạo trung dung trong phép xử thế. Tử Lộ có chí làm một vị tướng, tính tình nóng nảy là phải (hai chữ “suất nhĩ” rất có ý nghĩa), lời lẽ tự phụ, nên Khổng tử nghe xong mỉm cười. Nhiễm Cầu muốn làm một nhà kinh tế, còn Công Tây Hoa muốn làm một nhà lễ nhạc, đều nhũn hơn Tử Lộ. Tác giả chú trọng nhất vào đoạn tả Tăng Tích: ung dung mà lễ độ. Từ đầu câu chuyện, Tăng Tích vẫn khoan thai bấm nhẹ |
cây đàn, nghe thầy hỏi mới đặt cây đàn xuống, (hai chữ “khanh nhĩ” thật linh động), rồi đứng dậy đáp, nhưng không đáp ngay câu hỏi, còn rào đón trước đã: “Chí của con khác ba anh đó”. Lời lẽ của Tăng lại văn hoa: cảnh dắt nhau đi tắm và hóng mát, như một bức hoạ vui tươi mà sáng sủa. Cái vui đó, duy bậc đạt quan mới biết hưởng, nên chính Khổng tử cũng biểu đồng tình, rồi liên tưởng đến đời bôn ba của mình mà hơi buồn. Phan Bội Châu, trong Khổng học đăng, đã phân tích ý nghĩa triết học của đoạn đó; chúng tôi không đồng ý hẳn với Cụ, nhưng cũng xin chép lại dưới đây vì lối giảng của cụ có chỗ mới mẻ. Cụ viết: “Học giả đọc chương (…) này, ngẫm nghĩ cho sâu, thiệt có thú vị. Chỉ thầy Tử Lộ làm một nhà tri binh; chỉ thầy Nhiễm Cầu làm một nhà lý tài; chỉ thầy Công Tây Hoa làm một nhà lễ nhạc, thảy là chăm về đường thực dụng, đức Khổng tử há không phải lấy làm hay đâu! Nhưng vì sao ngài biểu đồng tình với thầy Tăng Tích? Mà chỉ thầy Tăng Điểm có gì lạ đâu! Vì sao đức Thánh lại nói rằng: “Ngô dữ Điểm dã?” “Cắt nghĩa bài này in như bài học triết lý. Nói rằng “một xuân giả” là theo về lý tự nhiên của trời; “Quán giả ngũ lục nhân, đồng tử lục thất nhân” là theo về lối tự nhiên của người; “dục hồ Nghi, phong hồ Vũ Vu” là theo lối tự nhiên của đất. Dục rồi phong, phong rồi vịnh, vịnh rồi quy, chỉ là thuận theo cái lý tự nhiên mà phát triển tinh thần khoái lạc của mình. |
Chỉ nghe trên lời nói, thật là bình thường, mà dò tìm cho đến ý tứ tinh thần, thời bảo rằng tâm lý in như trời đất, cũng không phải quá đáng, nên đức Khổng tử chỉ biểu đồng tình với thầy Tăng Điểm.” Cụ Phan suốt đời hy sinh chiến đấu cho tự do và bình đẳng trong đời cách mạng cũng như trong việc trứ tác, thật đáng cho ta khâm phục. TÍNH TƯƠNG CẬN (Trích Đại cương triết học Trung Quốc) (…) Khổng tử cũng nói tới (tính) đấy, nhưng nói trong mỗi một câu này gần đầu chương Dương Hoá: “Tính tương cận dã, tập tương viễn dã” [340]. Vế sau, “tập tương viễn dã” thì rất rõ nghĩa; ai cũng hiểu là “do tập tành và thói quen mà tính cũng mỗi người mới hoá ra khác nhau”. Còn vế trên, “ tính tương cận dã”, thì mỗi người hiểu một cách. Tưởng Duy Kiều trong cuốn Trung Quốc triết học sử cương yếu (Trung Hoa thư cục – Đài Loan – 1957) cho rằng Khổng tử bảo tính là thuần, không gọi là thiện hay ác được, tuỳ theo hoàn cảnh mà nó biến ra thiện hay ác, cũng như tấm lụa bạch, nhuộm xanh thì nó hoá xanh, nhuộm đỏ thì nó hoá đỏ. Một số học giả khác – trong đó có Trần Trọng Kim – dẫn thêm câu này trong thiên Hệ từ (kinh Dịch): “Nhất âm nhất dương chi vị đạo, kế chi giả, thiện dã, thành chi giả, tính dã” và câu “Thiên mệnh chi vị tính” trong Trung Dung, rồi suy ra rằng “tính là cái phần thiên lý của trời phú cho” thì tất phải thiện, mặc dầu Khổng tử không nói là thiện hay ác. Vậy người nào sinh ra cũng có tính thiện, cho nên mới bảo là “tương cận”. |
Lời đó không hợp với chú thích của Chu Hi. Chu Hi bảo “chữ tính trong Luận ngữ có cái nghĩa gồm cả khí chất, vậy thì có thiện, có ác. Nhưng xét lúc đầu thì tính mỗi người không xa nhau mấy”. Có người dẫn thêm câu: “Tử viết: Duy thượng trí dữ hạ ngu bất di” [341], cũng trong chương Dương Hoá, ở kế câu “Tính tương cận dã, tập tương viễn dã” mà bảo Khổng tử chủ trương tính có ba hạng: cao, thấp, thấp và trung bình; hạng cao (trí) và hạng thấp (ngu) thì tính không thay đổi, còn hạng trung bình thì gần giống nhau, và thay đổi, tuỳ tập tành cái thiện mà hoá thiện hoặc quen với cái ác mà hoá ác. Giải thích như vậy là miễn cưỡng: bàn về tính mà sao lại nói đến trí và ngu? Huống hồ hai câu đặt sát nhau thật[342], nhưng đầu câu sau cũng có hai chữ Tử viết như đầu câu trước thì có thể tin rằng Khổng tử nói hai câu đó trong hai hoàn cảnh khác nhau chứ không phải cùng một lúc, và câu sau không nhất định là để bổ túc câu trước. Phan Bội Châu, trong Khổng học đăng, hiểu gần giống Chu Tử, bảo rằng: “Nhận cho đến ý đức Khổng tử thời ở trong chữ “tính” chẳng phải tuyệt đối là thiện, cũng chẳng phải tuyệt đối là ác” (trang 406). Nhưng rồi mười hàng sau lại viết: “Tương cận” nghĩa là sao? Nguyên đầu vẫn thiện[343] nhưng xê xích một tí thôi té ra ác cũng không khó gì”, thì cơ hồ lại như xa Chu Tử. Chúng tôi nghĩ rằng ở thời Khổng tử chưa có nhiều học thuyết khác nhau và ông cũng chưa đặt ra vấn đề tính thiện hay tính ác, ngẫu nhiên mà thốt ra câu đó, có lẽ nói rằng con người khi sinh ra không khác nhau bao nhiêu (nghĩa là có khác |
nhau một chút, chứ không phải là “thuần” như Tưởng Duy Kiều giải thích), có người dễ hoá thiện, có người dễ hoá ác; nhưng quan trọng nhất là sự tập tành và thói quen, có thể làm cho người ta khác xa nhau: kẻ rất thiện, kẻ rất ác. Chúng tôi chưa chắc rằng đã đoán đúng. Ông chỉ thốt ra có bốn tiếng thì làm sao hiểu rõ ông cho được! tập tương viễn dã” [344]. “do tập tành và thói quen mà tính cũng mỗi người mới hoá ra khác nhau”. Còn vế trên, “ tính tương cận dã”, thì mỗi người hiểu một cách. bất di” [345], cũng trong chương Dương Hoá, ở kế câu “Tính tương cận dã, tập tương viễn dã” mà bảo Khổng tử chủ trương tính có ba hạng: cao, thấp, thấp và trung bình; hạng cao (trí) và hạng thấp (ngu) thì tính không thay đổi, còn hạng trung bình thì gần giống nhau, và thay đổi, tuỳ tập tành cái thiện mà hoá thiện hoặc quen với cái ác mà hoá ác. đến trí và ngu? Huống hồ hai câu đặt sát nhau thật[346], nhưng đầu câu sau cũng có hai chữ Tử viết như đầu câu trước thì có thể tin rằng Khổng tử nói hai câu đó trong hai hoàn cảnh khác nghĩa là sao? Nguyên đầu vẫn thiện[347] nhưng xê xích một tí thôi té ra ác cũng không khó gì”, thì cơ hồ lại như xa Chu Tử. KHỔNG TỬ BỊ KHỐN Ở NƯỚC TRẦN, NƯỚC THÁI (Trích Sử Ký của Tư Mã Thiên) Khổng Tử dời sang ở nước Thái được ba năm, thì xảy ra việc nước Ngô đánh nước Trần. Nước Sở cứu viện nước Trần, kéo quân đến đóng ở ấp Thành Phủ. Nước Sở được tin Khổng Tử |
lúc đó đang ở khoảng ranh giới hai nước Trần, Thái thì sai sứ giả đến mời ông. Đang lúc ông tính đi tiếp kiến người Sở, thì ở hai nước Trần, Thái bọn đại phu cầm quyền bàn với nhau rằng: Khổng Tử là một bậc hiền minh, những lời ông chê bai đều đúng với những lầm lỗi của các nước chư hầu. Lâu nay, ông dừng lại ở khoảng ranh giới hai nước Trần, Thái; những việc bọn đại phu chúng ta làm đều không hợp với ý ông. Nay nước Sở, một nước lớn, mời ông. Nếu nước Sở dùng ông thật thì bọn đại phu chúng ta nguy lắm. Thế họ cùng nhau sai người đến vây Khổng Tử ở giữa rừng. Khổng tử muốn thoát mà không có lối; lương thực lại hết sạch mà các đệ tử theo thầy đều ngã bệnh vì đói; không dậy được. Khổng Tử biết bọn học trò mình có ý oán trách, nên mới gọi Tử Lộ lại hỏi: Kinh Thi có câu: “Tê chẳng phải, hổ chẳng phải, rừng hoang một đàn quanh quất mãi”. Đạo ta sai chăng? Làm sao mà ta đến nỗi này? Tử Lộ thưa: Có lẽ đức nhân của ta chưa đủ, cho nên người chưa tin ta. Có lẽ mưu trí của ta chưa đủ, cho nên người chẳng để công việc của ta trót lọt. Khổng Tử nói: Thật à? Này anh Do! Nếu cứ có đức nhân là người ta tin thì tại sao Bá Di, Thúc Tề lại chết đói ở núi Thú Dương? Nếu cứ đủ trí mưu là công việc trót lọt thì làm sao vương tử Tỉ Can lại bị moi tim? Tử Lộ ra, Tử Cống vào. Khổng Tử hỏi: |
Anh Tứ! Kinh Thi có câu: “Tê chẳng phải, hổ chẳng phải, rừng hoang một đàn quanh quất mãi”. Đạo ta sai chăng? Làm sao mà ta đến nỗi này? Tử Cống thưa: Đạo của Thầy cực kì rộng lớn, cho nên người đời chẳng dung nạp được Thầy. Có lẽ Thầy nên thu hẹp, rút nhỏ đạo của Thầy đi một chút. Này anh Tứ! Người làm ruộng lành nghề giỏi cày cấy đấy mà vị tất đã giỏi thu hoạch; người thợ lành nghề, đủ ngón khéo léo mà vị tất đã làm được vừa ý người; người quân tử tu đạo, biết giữ cho có kỉ cương điều lí đấy[348] mà vị tất đã khiến nổi người đời dung nạp mình. Nay anh chẳng tu đạo của mình mà lại chỉ muốn cho người đời dung nạp? Anh Tứ! Chí anh không được cao cả! Tử Cống ra, Nhan Hồi vào. Khổng Tử hỏi: Anh Hồi! Kinh Thi có câu: “Tê chẳng phải, hổ chẳng phải, rừng hoang một đàn quanh quất mãi”. Đạo ta sai chăng? Làm sao Nhan Hồi thưa: nạp được Thầy. Tuy nhiên, Thầy cứ theo đạo ấy và khuếch sung nó. Người đời chẳng dung nạp được Thầy, đủ thấy Thầy là bậc quân tử. Đạo ấy chẳng sửa thì thầy trò ta xấu. Đạo ấy sửa rồi mà chẳng được dùng thì kẻ có nước – bọn vương hầu – xấu. Người đời chẳng dung nạp được Thầy, điều đó có quan hệ gì? Người đời chẳng dung nạp được Thầy, đủ thấy Thầy là bậc quân tử. Khổng Tử cười, vui vẻ bảo: Thế à? Trò họ Nhan của ta ơi, giá mà anh giàu thì ta tình nguyện làm kinh tài giúp anh. Rồi Khổng Tử sai Tử Cống đến nước Sở, vua Sở Chiêu vương |
cho đem quân đi đón Khổng Tử, nhờ vậy, Khổng Tử thoát nạn. TỬ CỐNG Điền Thường[349] muốn làm loạn ở nước Tề, nhưng còn e bọn Cao Chiêu tử, Quốc Huệ tử, Bảo Mục, Án Ngữ, cho nên mới chuyển quân đi một nơi, định đánh nước Lỗ đã. Khổng Tử được tin, bảo các học trò rằng: Nước Lỗ là nơi có mồ mả tổ tiên ta, là nước cha mẹ ta chôn nhau cắt rốn. Nay nước ấy lâm nguy, tại sao các anh không đi cứu? Tử Lộ bèn xin đi. Khổng Tử ngăn lại không cho. Tử Trương, Tử Thạch[350] cũng xin đi. Khổng Tử vẫn không chịu, Tử Cống tình nguyện thì Khổng Tử bằng lòng. Tử Cống đi thẳng đến nước Tề, nói với Điền Thường: Ông muốn đánh nước Lỗ là ông lầm. Nước Lỗ rất khó đánh, vì thành quách nước Lỗ mỏng và thấp; đất đai nước Lỗ rất hẹp, không có bề sâu; vua tôi đần độn, không có lòng nhân, các quan đại thần dối trá, vô dụng, dân chúng lại ghét chiến tranh. Vì những lẽ đó, không thể đánh nhau với nước ấy được. Ông nên đánh nước Ngô hơn. Nước Ngô, thành quách cao và dầy, đất rộng và có bề sâu; binh khí tốt, lại mới; binh sĩ cũng trẻ trung sung sức; binh khí tốt, quân đội tinh thục tập trung cả ở đó; quan đại phu được cử giữ thành lại là những người sáng suốt. Như thế dễ đánh. Điền Thường nổi giận, biến sắc, nói: Cái người ta cho là dễ thì ông bảo là khó, cái người ta cho là khó thì ông lại bảo là dễ; ông dùng những lời lẽ ỡm ờ ấy dạy |
khôn tên Thường này, là có ý gì? Tử Cống nói: Tôi nghe nói: Bị chèn ép ở triều đình thì phải đem quân đi đánh nước mạnh, bị dân chúng trong nước không ưa thì đem quân đi đánh nước yếu. Nay tôi được biết ông đang bị chèn ép ở triều đình, nghe nói: ba lần ông sắp được phong mà cả ba lần điều hụt. Như vậy tất là trong đám đại thần có người chống đối ông. Bây giờ ông định đánh phá nước Lỗ, để mở rộng đất đai cho Tề (nếu thành công thì chiến thắng để vua mình thêm kêu, diệt địch để các vị đại thần khác thêm quí), chứ công lênh đâu đến phần ông. Trái lại, tình quân thần giữa đấng nhân chủ và ông sẽ ngày một thêm sơ. Thế là: trên, ông làm cho vua sinh lòng kêu ngạo; dưới, ông làm cho quần thần lộng hành. Như vậy mà mong thành việc lớn thì khó lắm. Vua chúa mà kêu ngạo thì càn rỡ. Bầy tôi kiêu ngạo thì tranh hành. Thế là trên, ông làm cho đấng nhân chủ xích mích với ông; dưới, ông làm cho các vị đại thần hục hặc, tranh chấp với ông, cái thế đứng của ông ở Tề bấp bênh nguy hiểm lắm. Cho nên tôi mới nói là: đánh nước Ngô hơn. Ông đánh nước Ngô không thắng thì dân chúng ở ngoài hết oán ông, các vị đại thần cũng sẽ hết hằn học ông (vì nước lâm nguy, họ đều trông cả vào ông). Trên không có bọn cuồng thần thù nghịch, dưới không có đám dân chúng mè nheo. Ông sẽ “một mình một chợ”, nắm giữ nhân quân, chế ngự nước Tề; nước Tề cũng chỉ biết |
có mỗi mình ông. Điền Thường nói: Phải lắm! Khốn một nỗi là tôi đưa quân đến nước Lỗ mất rồi, bây giờ mà rời Lỗ kéo đi đánh Ngô thì thế tất bọn đại thần sẽ ngờ tôi. Vậy, làm thế nào? Ông chỉ có việc án binh bất động. Tôi xin đi sứ Ngô, yêu cầu Ngô vương cứu Lỗ mà đánh Tề. Nhân cớ đó, ông sẽ đưa quân nghinh chiến với quân Ngô. Điền Thường bằng lòng, để Tử cống đi về phương nam yết kiến Ngô vương. Tử Cống đến nước Ngô, yết kiến Ngô vương, tâu rằng: Tôi nghe: đứng vương giả không tuyệt diệt nước yếu, đứng bá giả không dung kẻ địch mạnh. Nặng cả ngàn “quân” [351], thêm một đồng, đủ gây chếch lệch. Nay một nước lớn có vạn cỗ xe là nước Tề, đang toan tính chiếm riêng lấy nước Lỗ nhỏ yếu, để tranh hùng với nước Ngô. Tôi trộm nghĩ đó là mối nguy cho Đại vương vậy. Vả lại, cứu Lỗ thì Đại vương sẽ hiển danh, đánh Tề thì Đại vương sẽ được lợi: một mặt trấn an các nước chư hầu ở lưu vực sông Tứ, mặt khác, diệt xong bạo Tề là khắc phục được cường Tấn. Còn có cái lợi nào lớn hơn! Trên danh nghĩa, được tiếng là tiếng cứu nước Lỗ sắp mất; trong thực tế là làm cho nước Tề cùng khốn. Dù là bậc trí giả cũng không nghi ngờ việc Đại vương làm. Ngô vương nói: Hay lắm! Có điều là quả nhân đã từng giao chiến với nước Việt, Việt vương rút về náo ở Cối Kê, chịu đựng gian khổ, chăm nuôi sĩ tốt, định báo thù quả nhân. Xin ông để quả nhân |
đánh xong Việt đã, rồi sẽ xin theo kế hoạch của ông. Nước Việt mạnh không hơn nước Lỗ, nước Ngô không hơn nước Tề. Đại vương để nước Tề đấy, đi đánh nước Việt, thì trong khi đó nước Tề lấy xong nước Lỗ rồi. Vả Đại vương cần bảo vệ nước yếu, phục hưng nước mất để nêu cao chính nghĩa. Đánh nước nước Việt nhỏ, sợ nước nước Tề mạnh, như thế e không phải là dũng. Kẻ dũng không sợ việc khó, kẻ nhân chẳng ở cảnh cùng, kẻ trí chẳng lỡ thời cơ. Đứng vương giả chẳng để cho một dòng vua bị diệt, nhờ vậy mà được tiếng là trọng nghĩa. Nay, Đại vương không diệt nước Việt là tỏ cho chư hầu rõ lòng nhân của Đại vương; cứu nước Lỗ, đánh nước Tề, uy dũng của Đại vương chấn động cả nước Tấn, thì chư hầu tất sẽ dắt nhau về thần phục nước Ngô, nghiệp bá của Đại vương thế là thành tựu vậy. Vả lại, nếu Đại vương ghét nước Việt thì tôi xin đi về đông, đến nước Việt, làm cho nước Việt đem quân giúp sức Đại vương, sự thực làm cho nước Việt suy kiệt mà trên danh nghĩa là cùng với chư hầu làm việc thảo phạt. Ngô vương bằng lòng lắm, nhờ Tử Cống sang nước Việt. Tử Cống đến nước Việt, Việt vương ra tận ngoài thành tiếp rước, đích thân đưa về khách xá, hỏi rằng: Tệ quốc là nước man di, Tiên sinh chẳng sợ thất thể diện, đến thăm một cách trang trọng như thế này, chẳng hay Tiên sinh có điều gì dạy bảo? Hiện nay, tôi đang yêu cầu Ngô vương giải cứu nước Lỗ, thảo |
phạt nước Tề. Ngô vương có ý muốn giúp, nhưng còn sợ nước Việt, bảo: “Đợi quả nhân đánh xong nước Việt đã, rồi sẽ làm theo ý ông”. Như vậy thì nước Việt sẽ tan tành mất. Không rắp tâm báo thù người mà để cho người ngờ, là vụng, Rắp tâm báo thù người mà để cho người biết thì mệt. Việc chư phát hiện mà tiếng đã lọt ra ngoài thì nguy. Ba điều đó, người cử sự tối kị. Việt vương Câu Tiễn cúi đầu sát đất, lạy hai lạy, nói: Kẻ bất đức này đã chẳng từng lượng sức mà giao chiến với Ngô, để đến nỗi nguy khốn ở đất Cối Kê này. Nỗi đau khổ thật thấm đến xương tuỷ. Ngày ngày, kẻ bất đức này thường cùng với sĩ tốt nhắc nhở điều đó đến rát lưỡi, se môi, chỉ muốn cùng Ngô vương một trận sống mái. Đó là ước nguyện của kẻ bất đức này. Rồi hỏi Tử Cống (về con người của Ngô vương). Tử Cống nói: Ngô vương là một người hung bạo, bầy tôi không ai chịu nổi; vì chinh chiến luôn, nước nhà hao tổn, quân lính chán nản. Dân chúng oán hờn người trên, bọn đại thần ngấm ngầm chống đối. Ngũ Tử Tư vì can thẳng mà bị giết[352]. Quan thái tể Phỉ cầm quyền thì chiều cả lỗi của vua, để được yên thân, đúng là cái lối làm lụn bại quốc gia. Nay nếu Đại vương gửi quân đội giúp Ngô vương, để kích động ý chí của ông ta, đưa đồ quí báu cống hiến cho nhiều để làm đẹp lòng ông ta và dùng lời lẽ nhúng nhường mà tâng bốc ông ta thì ông ta tất sẽ |
đánh Tề. Ông ta đánh Tề mà không thắng thì đó là điều hay cho Đại vương. Nếu thắng, ông ta tất sẽ xua quân đánh Tấn. Tôi xin đi lên phương bắc yết kiến vua Tấn, yêu cầu cùng đáng Ngô. Như vậy, nước Ngô suy yếu là điều chắc chắn. Binh ròng của Ngô đem cả sang Tề, giáp nặng của Ngô kẹt cả ở Tấn, Đại vương thừa cái thế Ngô đang mệt mỏi mà đánh thì Ngô tất bị diệt vong. Việt vương nghe Tử Cống nói như vậy thì vui vẻ nhận lời, tặng Tử Cống trăm dật vàng, một thanh kiếm, hai cây mâu tốt. Tử Cống không chịu nhận, cáo từ đi ngay. Tử Cống về tâu với Ngô vương rằng: Tôi kính cẩn nói lại lời của Đại vương cho Việt vương nghe. Việt vương sợ lắm, bảo: “Kẻ bất đức này chẳng may mất cha từ nhỏ, không tự lượng sức mình, đã xúc phạm đến nước Ngô, đến nỗi quân bị phá, thân bị nhục, phải rút về nương náu ở cái đất Cối Kê này, đất nước hoang tàn, kho tàng trống rỗng; may được Ngô vương còn ban ơn để cho có đồ cúng tế mà phụng thờ tổ tiên, ơn ấy để đời, chẳng bao giờ kẻ bất đức này quên, đâu còn dám tính chuyện (trả thù, báo oán). Sau đó năm hôm, quả nhiên Việt vương sai đại phu Chủng đến, cúi rạp đầu tận đất, tâu với Ngô vương rằng: Nước Tề không tốt, làm cho chúa tôi là Câu Tiễn căm hờn. Vì tình hình Đông Hải (tức Tề), chúa tôi sai tôi đến đây làm thân với các quan cấp dưới để dọ hỏi các vị cận thần của Đại vương, thì trộm được hay tin rằng Đại vương nay sắp vì đại nghĩa dấy quân diệt trừ nước mạnh để cứu nước yếu, vây hãm |
nước Tề bạo ngược để ủng hộ nhà Chu cho vương thất được yên lòng. Chúa tôi xin đem hết ba ngàn quân trong nước, đến giúp Đại vương và nguyện tự mặc áo giáp, cầm đồ nhọn, tiến trước mà hứng lấy mũi tên, hòn đạn. Nhân dịp, nước Việt có cho Chủng tôi mang đến đây mười hai tấm giáp của tiền nhân đã giữ gìn để lại, cùng với búa, mâu Khuất Lư và kiếm Bộ Quang để mừng bộ đội Quí quốc. Ngô vương bằng lòng lắm, đem chuyện nói lại với Tử Cống: Vua Việt muốn đích thân theo quả nhân đi đánh Tề, có nên cho theo không? Không nên! Dùng hết quân, dân của người ta, làm cho nước người ta rỗng không, không còn bộ đội, lại còn bắt luôn vua của người ta theo mình, như thế bất nghĩa lắm. Xin Đại vương nhận lấy đồ biếu, cho phép quân lính của họ được theo ta, nhưng khước từ đừng để cho vua họ đi cùng. Ngô vương bằng lòng theo lời Tử Cống, sai người từ tạ Việt vương. Rồi dốc hết quân chín quận đi đánh Tề. Tử Cống bèn thừa dịp đi sang nước Tấn, nói với vua Tấn rằng: Tôi nghe “kế hoạch chẳng định trước, để nước đến chân mới nhảy thì nguy; binh sĩ chẳng sắp đặt trước thì không thể đánh bại được quân địch”. Hiện hai nước Tề và Ngô sắp sửa đánh nhau, Ngô mà không thắng Tề thì Việt tất sẽ nhảy vào làm cho Ngô rối loạn. Ngô mà thắng Tề thì tất đem quân xăm lăng Tấn. Vua Tấn nghe Tử Cống nói, sợ quá, hỏi: Thế thì phải làm sao bây giờ? Xin Đại vương nên luyện quân rồi nghỉ ngơi mà đợi họ. |
Vua Tấn bằng lòng làm theo lời Tử Cống. Tử Cống rời nước Tấn trở về nước Lỗ. Quả nhiên Ngô vương đánh nhau với Tề ở Ngải Lăng; quân Ngô đại thắng, bắt sạch binh sĩ của bảy tướng Tề rồi mà chẳng chịu triệt thoái, cứ thế tiến sang nước Tấn thật. Quân Ngô và quân Tấn gặp nhau ở Hoàng Trì. Đôi bên giành nhau ưu thế, rồi quân Tấn đại phá quân Ngô. Việt vương hay tin, kéo quân vượt sông Tiền Đường đánh úp nước Ngô, quân đóng cách kinh đô Ngô chỉ có bảy dặm. Hay tin đó, Ngô vương vội vả rời đất Tấn trở về, giao chiến với quân Việt ở Ngũ Hồ, luôn ba trận không thắng. Cổng thành của Ngô bị chọc thủng, quân Việt ồ ạt vào vây chặt cung Ngô, giết chết Ngô vương Phù Sai cùng với một viên tể tướng. Ba năm sau khi phá xong Ngô, nước Việt hướng về đông mà xưng bá. Cho hay, Tử Cống chỉ một lần ra đi mà nước Lỗ được bảo tồn, nước Tề bị rối loạn, nước Ngô bị đánh phá, nước Tấn được cường thịnh, nước Việt dựng nên nghiệp bá; Tử Cống chỉ một phen đi sứ mà làm cho các thế lực công phá lẫn nhau, trong vòng mười năm, cả năm nước Lỗ, Tề, Ngô, Tấn, Việt đều thay đổi cục diện. (Trích Sử Trung Quốc) Từ cuối Xuân Thu đến cuối thời Chiến Quốc, xã hội Trung Quốc biến chuyển mạnh, mà phong trào lập thuyết để cứu đời phát triển bồng bột, người đời sau gọi là thời “trăm nhà đua tiếng” (bách gia tranh minh). Người đầu tiên mở đường cho phong trào là Khổng Khâu (Trọng Ni) và ta có thể nói rằng bình minh triết học Trung Hoa |
xuất hiện ở nước Lỗ (Sơn Đông ngày nay), một nước nhỏ thôi, nhưng còn giữ được ít nhiều sự giáo hóa của Chu Công. Triết gia đầu tiên của Trung Quốc đó lại chính là tư tưởng gia phong phú nhất (bàn về chính trị, mà bàn cả về đạo đức, cách tu thân, để tề gia, trị nước); ảnh hưởng lớn nhất, lâu bền nhất, non 2.500 năm rồi ở cả miền Đông Á; ông vừa là chính trị gia, lại vừa là nhà giáo dục đại tài, được đời sau gọi là “vạn thế sư biểu”, có nhiều học trò nhất từ xưa tới nay; hơn nữa, ông còn là một văn sĩ, một sử gia và một nghệ sĩ: nghiên cứu Kinh Thi, phổ nhạc nhiều bài thơ trong bộ đó. Tư cách của ông siêu quần: nghiêm trang mà ôn hòa, khoáng đạt, cương quyết mà đa cảm (học trò ông là Nhan Hồi chết, ông thương tiếc, khóc tới nỗi các môn sinh khác phải can), học không chán, dạy người không mỏi, khiêm tốn, mà vui tính, đôi khi nói đùa với các môn sinh, rất nhiệt tâm cứu đời: biết rằng việc rất khó thành những vẫn cứ tận lực làm. Ông thuộc dòng dõi quí tộc nhưng sa sút, thời trẻ phải làm những chức lại nhỏ, rồi mở trường tư dạy học, nổi tiếng là học rộng, mãi đến 51 tuổi mới được vua Lỗ dùng làm chức Trung đô tể (chức quan cai trị kinh đô như chức Thừa Thiên phủ doãn đời Nguyễn), rồi thăng chức Đại tư khấu (thượng thư bộ Hình), trong ba bốn năm cầm quyền đó, ông làm cho Lỗ hưởng cảnh thái bình, không cướp bóc, dân chúng biết trọng lễ, pháp luật; nhưng rồi thấy vua Lỗ bỏ bê việc nước, ông chán ngán, rời Lỗ, |
cùng với một số môn sinh bôn ba các nước Vệ, Trần. tìm một minh quân để thực hiện đạo của mình (thời đó chưa có người quan niệm trung quân hẹp hòi: trung thần bất sự nhị quân), nhưng không ông vua nào chịu nghe ông cả. Năm 68 tuổi, ông mới về Lỗ dạy học, sắp đặt lại Kinh Thi, soạn Kinh Xuân Thu, chép sử nước Lỗ (coi ở sau). Những Kinh Thư (cũng gọi là Thượng Thư, chép sự ba đời Hạ, Thương, Chu), Lễ, Nhạc, Dịch (bói) không chắc của ông san định hoặc giải thích. Thời ông, chế độ phong kiến đã suy, thiên tử nhà Chu không còn quyền hành gì cả mà đất đai lại rất hẹp, các nước chư hầu lớn như Tề, Tống, Tần, Tấn, Sở. uy hiếp các nước nhỏ, tranh giành nhau đất đai, để làm bá chủ. Nhưng vì Trung Hoa chưa có sắt, canh nông chưa phát triển, đất đai chưa được khai phá nhiều, nước nghèo, dân ít; khí giới thô sơ, chiến thuật lạc hậu, vẫn dùng chiến xa, chưa có kị binh; dù một nước thắng được một hai nước khác thì cũng không đủ binh để chiếm, đủ quan lại để cai trị, nên chưa nước nào có thể thôn tính hết các nước khác mà thống nhất Trung Quốc, lập chế độ quân chủ chuyên chế, phải ba thế kỉ sau chế độ này mới thực hiện được. Ở vào thời đó, muốn trừ loạn, Khổng Tử cũng như Mặc Tử non một thế kỉ sau, chỉ có mỗi một giải pháp là duy tân chế độ phong kiến do Chu Công đã qui định, mà cải thiện nó thôi. Ngày nay người ta trách ông là thủ cựu, sao không dẹp chế |
độ phong kiến đi, như vậy là không hiểu chút gì về thời đại của ông cả. Ông giữ chế độ phong kiến – ông nói ông “tòng Chu” (theo Chu) là nghĩa vậy – nhưng ông không tôn Chu, không thờ Chu, không trung với Chu, cho nên trong thời ông bôn ba các nước, không lần nào ông ghé Chu cả; ông cũng không trung với cả Lỗ nên mới bỏ Lỗ mà đi. Ông biết rằng Chu và Lỗ không theo được đạo của ông. Đạo đó là đạo “quân quân, thần thần”, “người trên (vua) phải làm tròn nhiệm vụ, có tư cách của người trên, thì người dưới mới làm tròn nhiệm vụ, có tư cách của người dưới”. Nếu người trên (vua) không làm tròn nhiệm vụ của người trên, không yêu dân, trọng ý dân, lo hạnh phúc cho dân, giáo dục dân. mà bóc lột, hiếp đáp, làm hại dân. thì không đáng gọi là vua nữa. Đó là thuyết Chính Danh của Khổng Tử, một thuyết có lẽ không mới mẻ lắm nhưng táo bạo ở đương thời vì chấp nhận thuyết đó thì qui kết tất là phải làm cách mạng. Như trường họp Khoái, Quí và Xuất Công Triếp nước Vệ, cha con tranh ngôi nhau, cha không ra cha, con không ra con, không đáng làm vua, ông bảo phải lựa người khác để thay (Luận ngữ VII 14)[353]. Vì theo thuyết Chính Danh đó mà một thế kỉ sau Mạnh Tử bảo giết một bạo chúa như Kiệt, Trụ không phải là giết vua mà là giết một kẻ thất phu. Mạnh có giọng gay gắt hơn Khổng chỉ vì thời của Mạnh khác, chế độ phong kiến sắp tàn rồi, còn tư tưởng thì chính là của Khổng. |
Hai nguyên tắc trị dân, theo Khổng Tử, là “phú, giáo”: làm cho dân giàu và dạy dân. Làm cho dân giàu là khiến cho họ đủ ăn, tài sản không được tập trung vào một số người, mà phải được phân phối quân bình (“quân vô bần”). Dạy dân bằng lễ, nhạc: lễ để dân biết điều phải mà làm, trọng người trên; nhạc là để hòa nhịp trên dưới. Và dạy dân thì trước hết người trên phải làm gương cho dân: nếu người trên tốt thì người dưới đều theo mà thành tốt, như cỏ nằm rạp theo chiều gió thổi. Vì trọng sự dạy dân, cho tư cách của nhà cầm quyền là cần nhất, nên ông mở tư thục, dạy đủ các hạng người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, hi vọng đào tạo được một số môn sinh có phẩm cách, có tài năng để giúp các vua chúa đương thời, và theo truyền thuyết, ông có 3.000 đệ tử mà 72 người vào hạng hiền. Ông bảo mỗi người, từ vua tới thứ dân, đều phải tu thân; trong cuốn Đại Học ông chỉ cách tu thân: “Đời xưa, muốn làm sáng đức trong thiên hạ thì trước hết phải trị nước mình [nghĩa là làm cho nước mình được trị]; muốn trị nước mình thì trước hết phải tề nhà mình; muốn tề nhà mình thì trước hết phải chính cái tâm của mình; muốn chính cái tâm của mình thì trước hết phải tinh thành cái ý của mình, muốn làm cho tinh thành cái ý của mình thì trước hết phải có tri thức xác đáng; tri thức xác đáng ở chỗ xét kĩ mọi sự vật” [354]. Đoạn đó là một trang bất hủ trong lịch sử triết học, ngang với |
đoạn giảng về bát chính đạo của đạo Phật. Không triết gia nào coi trọng sự tu thân bằng ông; ông cho rằng phải cải thiện cá nhân rồi mới cải thiện được xã hội. Trong việc tu thân ông chú trọng đến đủ cả ba đức: nhân, trí, dũng. Ki Tô chỉ chú trọng tới nhân (charité), Socrate chỉ chú trọng tới trí, Nietzsche chỉ chú trọng tới dũng. Ông luyện đủ cả tình cảm, lí trí và nghị lực cho ta. Trong những sách, tài liệu viết trước ông, chúng ta không thấy nói hoặc nói rất ít đến đức nhân, tới bộ Luận Ngữ mới thường gặp đức đó. Vậy nếu ông không phát minh ra quan niệm nhân thì ít nhất cũng đã có công bổ túc nó, đưa nó lên hàng đầu các đức. Ông đặt trí gần ngang hàng với nhân, nghĩa. Ông cho rằng bất kì đức nào, nhân, nghĩa, lễ, dũng, hiếu, đễ, trung tín. cũng phải có trí giúp, nghĩa là phải sáng suốt. Ví dụ đức nhân mà không có trí thì không phân biệt được người xấu, người tốt, không biết phải giúp người ra sao, trong hoàn cảnh nào; đức dũng mà không có trí thì sẽ làm bậy, nguy cho mình, cho người. Do trọng trí mà luân lí của ông có tính cách tự nhiên: con người phải giữ đạo vì nó là lẽ phải, chứ không phải vì một vị thần thánh hay Thượng Đế bắt ta phải giữ. Chính vì điểm đó mà các triết gia Pháp ở “thế kỉ ánh sáng” (thế kỉ 18) như Diderot, Voltaire trọng ông và rất khen văn minh Trung Quốc. Phải có trí mới biết xứ sự hợp với đạo lí, không thái quá, không bất cập, mới hợp với thời thế, cảnh ngộ, nghĩa là mới giữ |
được đạo trung dung, tùy thời. Đây cũng là một điểm đặc biệt của Khổng Tử. Tôi chưa thấy triết gia nào để ý tới đạo đó, mà ông thì rất coi trọng nó. Nhờ nó mà ông có tinh thần “vô khả, vô bất khả”, và người phương Tây gọi ông là “sage” (minh triết). Giáo lí của ông đầy đủ nhất. Đọc bộ Luận Ngữ gồm 20 thiên, khoảng 500 bài, đại đa số chỉ có 4 5 hàng trở xuống, chép những lời ông dạy môn sinh và đối đáp với mọi hạng người, chúng ta thấy không có vấn đề gì ông không bàn tới, từ vấn đề tu thân đến vấn đề tề gia, trị quốc; cách khuyên can cha mẹ, cách dạy học, cách học, cách đọc sách, cách tế lễ, cách đối đãi với môn sinh, với bè bạn, với kẻ trên người dưới, cả với người mù, người có tang; lối sinh hoạt của ông ở triều đình, ở nhà, ở làng xóm, cả cách ăn mặc nữa; cách xét người, giúp người, khi ngồi xe thì ra sao, khi vào triều nên ra sao, khi tiếp đãi sứ thần nên ra sao, thái độ khi câu cá, khi bắn chim. Riêng hạng trị dân, ông buộc họ phải có hai đức cần thiết này: thương dân và giữ chữ tín với dân. Chả trách nhà Nho ta hồi xưa, chỉ thuộc lòng bộ đó và ráng áp dụng vào đời sống mà đủ cho xã hội trọng vọng. Một nhà Trung Hoa học, Etiemble, bảo ông mang ơn Khổng Tử cũng bằng mang ơn Montaigne của nước ông, một triết gia Pháp sống sau Khổng Tử khoảng 2.000 năm. Đối với môn sinh, Khổng Tử tuy nghiêm mà ôn hòa, thân mật. Ông bắt họ phải gắng sức (học như bất cập) phải suy nghĩ, |
tìm hiểu (nếu ông vén cho một góc mà không tự tìm ra ba góc kia thì ông không dạy cho nữa), phải tổng hợp thành một mối, tìm điều căn bản mà khái quát, chứ không cần nhớ nhiều; điều gì biết thì nói là biết, điều gì không biết thì nói là không biết; phải nhớ bốn điều này: “vô ý”, xét việc gì thì đừng đem ý riêng (hoặc tư duy của mình) vào; “vô tất”, đừng quyết rằng điều đó tất đúng; “vô cố”, không cố chấp; “ vô ngã”, không để cho cái “ta” làm mờ ám (nghĩa là phải chí công vô tư). Ông tập cho họ gặp việc cũng phải suy nghĩ, tìm một lối xử sự hợp tình, hợp lí, hợp thời. Ở trên tôi đã nói ông đào tạo cho Trung Hoa một giới đặc biệt mà 2.000 năm sau chưa dân tộc nào có, tức giới sĩ để thay giới quí tộc thiếu đức thiếu tài. Trong bộ Luận Ngữ có cả trăm câu làm châm ngôn cho đời sau. Nhưng phải là người từng trải, năm chục tuổi trở lên mới thấy được cái thâm thúy và quí tinh thần nhân bản trong tư tưởng của ông. Có người hỏi ông nên lấy đức báo oán không, ông đáp: “Thế thì lấy gì báo đức? Cứ chính trực mà báo oán và lấy đức mà báo đức”. Sự minh triết của ông ở đó. Lấy đức báo oán thì đại độ thật, nhưng luôn luôn theo qui tắc đó thì xã hội sẽ loạn mất. Một tư tưởng mới mẻ nhưng phải hợp tình hợp lí, thiết thực, có ích cho nhân quần thì mới đáng quí; còn nói cho sướng miệng mình, sướng tai người nghe mà không dùng được thì có khi chỉ là ngụy biện, không khó gì cả. |
Khổng Tử mất năm 73 tuổi. Môn sinh để tang ông ba năm, một số cất nhà ở bên mộ ông suốt thời gian cư tang. Sau dân chúng tụ lại đó trồng cây, dựng nhà thành lập một làng. Vinh dự đó tôi chưa thấy triết gia nào được. Một môn sinh, Tăng Sâm, chép lại lời ông mà viết cuốn Đại Học; một cháu nội của ông, Tử Tư, cũng chép lại lời ông trong cuốn Trung Dung. Học trò của Tử Tư, Mạnh Kha, để lại cuốn Mạnh Tử – Ba cuốn đó với cuốn Luận Ngữ gọi chung là Tứ Thư, từ đời Đường trở đi, cũng với Ngũ kinh (Thi, Thư, Lễ, Xuân Thu, Dịch) được đem dạy ở khắp các trường trong nước; mà kì thi tuyển nhân tài nào cũng dùng những lời trong cuốn đó làm đề thi. Trước đó, từ đời Hán, Khổng giáo đã được coi là quốc giáo rồi. Có thể nói rằng lịch sử Trung Quốc với lịch sử ảnh hưởng của Khổng giáo là một. [1] Trong bài III. 5, bài VI.12… chữ “vong” cũng được đọc và hiểu là “vô”. Tương tự, trong bài I.1, V.5… chữ “thuyết” 說 đọc là “duyệt” 悅; bài II.17, III.6… chữ “nữ” 女 đọc là “nhữ” 汝; bài III.15, III.23… chữ “đại” 大 đọc là “thái” 太. [2] Bắt đầu từ trang ngu.html. [3] Các bạn có thể xem bài Tựa của cuốn Cổ văn Trung Quốc này trong ebook 8 bài tựa đắc ý (tải tại trang thuvien.com/forums/showthread.php?t=43474). [4] NXB Văn Hoá in năm 1994. (BT). [5] NXB Văn Hoá in năm 1993 (in lần thứ tư). (BT). [6] Nguyên văn: 憲問恥。子曰:“邦有道,谷;邦無道,谷,恥也. (Goldfish). [7] Đoan Mộc Tứ (端木賜): chữ “Tứ” này và hai chữ “Tứ” tiếp theo, ebook nguồn đều chép là “tử”. Về sau, những chỗ in sai, |
nếu biết, tôi cũng sửa lại, nhưng để khỏi rườm, tôi chỉ ghi chú thích nếu thấy cần. (Goldfish). [8] Ý nói năm 436 trước Tây lịch. (Goldfish). [9] Thơ Tiểu nhã, thiên Ngã hành kì dã. (Goldfish). [10] Nguyên văn: 其斯之謂與?. Chữ “dư”, ebook nguồn chép sai thành “du”. (Goldfish). [11] Ngờ sai. (Goldfish). [12] Nguyên văn: 孟武伯問孝,子曰:父母唯其疾之憂. Chữ “tật”, ebook nguồn chép là “bệnh”. (Goldfish). [13] Ebook nguồn chép là: “cho chữ kì chỉ cha mẹ hai cách trên, chữ kì chỉ con”. (Goldfish). [14] Nhiễm Cầu: tức Nhiễm Hữu nói ở trên. Ông họ Nhiễm, tên Cầu, tự Hữu. (Goldfish). [15] Thời Chiến Quốc (403 221) trước Công nguyên. [16] Thiên Học nhi, tức thiên I, bắt đầu bằng mấy chữ “Tử viết: Học nhi thời tập chi” (子曰:學而時習之); thiên Ung dã, tức thiên VI, bắt đầu bằng mấy chữ “Tử viết: Ung dã khả sử nam diện” (子曰:雍也可使南面); thiên Tử hãn, tức thiên IX, bắt đầu bằng mấy chữ “Tử hãn ngôn lợi dữ mệnh dữ nhân” (子罕言利與命與仁). [17] Xem tiết Luận ngữ trong phần Phụ lục. (Goldfish). [18] Nguyễn Thiên Thụ, trong sách đã dẫn, cũng gom hai bài làm một. (Goldfish). [19] Chữ “nhân” này do tôi ghi thêm, trong ebook nguồn chỉ có một dấu ngoặc kép! (Goldfish). [20] I.1: Trong ebook nguồn chỉ ghi số “1” (số Ả Rập – chỉ số thứ tự của bài), để tiện việc tìm kiếm, tôi ghi thêm “I.” (số La Mã – chỉ số thứ tự của chương); các bài sau cũng vậy. (Goldfish). [21] Duyệt: nguyên văn chữ Hán là “thuyết” 說 có nghĩa là “nói”, ở đây và trong một số bài ở sau đọc là “duyệt” như chữ 悅 (duyệt: vui vẻ, hài lòng). (Goldfish). [22] Bằng: có sách hiểu là “học trò” ở xa lại xin học, và câu này nghĩa như lời Mạnh tử: “Được kẻ anh tài trong thiên hạ để dạy |
dỗ, đó là một trong ba cái vui của người quân tử”. Như vậy câu đầu: Học nhi thời tập… trỏ thái độ “học bất yếm” (học không chán); câu sau trỏ thái độ “giáo nhân bất quyện” (dạy người không mỏi) của Khổng tử. Cả ba giai đoạn học trong bài này là: học để thành kỉ (câu đầu), rồi tới thành nhân (câu nhì), sau cùng thành đức (câu cuối). Chúng tôi cho hiểu như vậy là hơi gò ép. Nên hiểu theo Chu Hi như chúng tôi dịch ở trên. [23] Quân tử: mới đầu trỏ hạng quí tộc cầm quyền, trị dân. Tiểu nhân là dân thường. (coi cuốn Khổng tử chương VII). Khổng tử cho rằng người cầm quyền phải có đức, do đó mà quân tử còn có nghĩa là người có đức dù cầm quyền, hay không (như trong bài này). Chữ tiểu nhân cũng vậy, có hai nghĩa: dân thường, hoặc người cầm quyền thiếu đức. Đọc Luận ngữ, chúng ta phải tuỳ chỗ mà hiểu theo nghĩa này hay nghĩa khác. [24] Tăng tử, họ Tăng, tên Sâm, tự là Tử Dư, người nước Lỗ, học trò nhỏ tuổi nhất của Khổng tử, kém Khổng tử 46 tuổi, sau dạy cháu nội của Khổng tử là Khổng Cấp (Tử Tư), ông rất có hiếu; thân phụ là Tăng Tích cũng là học trò của Khổng tử. [25] Phiếm ái chúng: nguyên văn chữ Hán, trong cuốn Nhà giáo họ Khổng, cụ Nguyễn Hiến Lê chép là: 汎愛眾; bản Nguyễn Thiên Thụ chép là “phàm ái chúng” 凡愛眾 và dịch là: “thương mọi người”. Trong Trang tử , thiên Thiên hạ, hai chữ “phiếm ái” trong câu “Phiếm ái vạn vật thiên địa nhất thể dã”, cụ Nguyễn Hiến Lê cũng dịch là “yêu khắp”. Hai chữ đó, trên mạng có bản |
chép là: 泛愛, có bản lại chép là: 氾爱. (Goldfish). [26] Tử Hạ họ Bốc, tên Thương, học trò của Khổng tử, nhỏ hơn thầy 44 tuổi, không rõ quê quán ở đâu, về già làm thầy Nguỵ Văn Hầu. [27] Chữ [易], đa số học giả đọc là dịch, nghĩa là đổi, và giảng là: tôn trọng người hiền mà đổi lòng hiếu sắc đi (Chu Hi), hoặc: đem lòng hiếu sắc đổi làm tôn trọng người hiền (Khổng An Quốc). Nham Sư Cổ đọc là dị, giảng là coi thường. Hai cách đều được cả. Chúng tôi theo họ Nham vì như vậy là hai ý (tôn trọng người hiền và coi thường sắc đẹp) đối nhau. Nhưng có điều thắc mắc: khuyên coi thường sắc đẹp, điều đó có liên quan gì tới đạo thờ cha mẹ, thờ vua, và giao thiệp với bạn bè? Trần Tổ Phạm và Tống Tường Phượng giảng: Hiền hiền dĩ sắc là nói về đạo vợ chồng (chồng đối với vợ, nên trọng đức của vợ mà coi thường sắc đẹp); đạo vợ chồng đứng đầu nhân luân nên Tử Hạ đưa lên trước, rồi mới nói đến đạo cha con, vua tôi, bạn bè. Giảng như vậy cũng có lí. Nhưng chúng tôi vẫn tồn nghi. [Chữ 易 đặt trong dấu ngoặc đứng là do tôi ghi thêm, về sau, nếu cần, tôi cũng ghi như vậy nhưng sẽ không chú thích. (Goldfish)]. [28] Lời dịch, bản nguồn bỏ sót, tôi chép theo cuốn Khổng tử. [29] Tử Cầm, họ Trần, tên Cang, cũng là học trò của Khổng tử, coi bài XVI.13. [30] Tử Cống, họ Đoan Mộc, tên Tứ, người nước Vệ, là học trò của Khổng tử. [31] Trình tử: tức Trình Điều, là một danh Nho thời nhà Tống. |
[32] Tư vô tà: trong Đại cương văn học sử Trung Quốc , cụ Nguyễn Hiến Lê dịch là: “Không nghĩ bậy”. (Goldfish). [33] Theo trang thì chữ “cách” 格 có hai cách giải thích: một là dùng như chữ “chí” 至, hai là dùng như chữ “chính” 正 (cụ Nguyễn Hiến Lê dịch theo cách hiểu thứ hai này). (Goldfish). [34] Trên trang “nhĩ” (耳) nghĩa là “dĩ” (已), và câu “lục thập nhi nhĩ thuận” (六十 而耳順) nên hiểu là “lục thập nhi dĩ thuận” (六十而已順). [35] Vi: nguyên văn chữ Hán là 違, nghĩa là trái (chứ không phải chữ 爲 có nghĩa là làm). (Goldfish). [36] Dĩ: nguyên văn chữ Hán là 已, bản Nguyễn Văn Thụ chép là “kỉ” 己 và dịch bốn chữ “tư hại dã kỉ” là: “có hại cho mình”. [37] Nhữ: Nguyên văn chữ Hán là 女, ở đây đọc là “nhữ” và có nghĩa như chữ 汝 (nhữ). (Goldfish). [38] Mấy chữ “thì để đó, đừng làm, những điều còn lại (tin được)” là do tôi ghi thêm. (Goldfish). [39] Khuyến: nguyên văn chữ Hán là “khuyến” (勸); có bản chép là “cần” (勤). (Goldfish). [40] Kinh Thư có nhiều bản, chưa rõ bản nào. [41] Câu “Nhà Chu theo “lễ” của nhà Ân, thêm bớt cái gì, ta có thể biết được” là do tôi ghi thêm. (Goldfish). [42] Quỉ là người đã chết. [43] Lâm Phỏng: Theo lời chú giải trang tử. (Goldfish). [44] Vô: Nguyên văn chữ Hán là 亡 (vong), ở đây đọc là “vô” và có nghĩa như chữ 無 (vô). (Goldfish). [45] Nhữ: Nguyên văn chữ Hán là 女 (xem chú thích trong bài II.19 ở trên). (Goldfish). [46] Thương: Thương là tên của Tử Hạ, Khổng tử gọi học trò bằng tên (tương tự như trong bài I.15: Khổng tử gọi Tử Cống là |
Tứ; trong bài II.17: gọi Tử Lộ là Do). (Goldfish). [47] Hai câu này trong thiên Thạc nhân, Vệ phong. [48] Câu cuối cùng này không biết ở đâu. [49] Chúng tôi thêm chữ “nhân” là theo ý trong bài III.3. [50] Câu này là lời môn sinh chép thái độ của Khổng tử khi tế, chứ không phải là lời của Khổng tử. [51] Lâm Ngữ Đường hiểu là “nếu ta không chú ý hết vào”. [52] Đoạn sau đây là do tôi chép thêm: Tử nhập thái miếu, mỗi sự vấn. Hoặc viết: “Thục vị Trâu nhân chi tử tri lễ hồ, nhập thái miếu, mỗi sự vấn”. Nguyên văn chữ Hán: 子入大廟,每事問。或 曰:“孰謂鄹人之子知禮乎?入大廟,每事問。” (Chữ 大 ở đây đọc là “thái” và có nghĩa như chữ 泰. (Goldfish). [53] Thư cưu: Nhiều bản trên mạng chép là “Quan thư” (關雎). Có người gọi thiên bắt đầu bằng câu: “Quan quan thư cưu” (關 關雎鳩) là thiên Quan thư. (Goldfish). [54] Đoạn này, ebook nguồn không có lời dịch. Nguyễn Thiên Thụ dịch như sau: Đức Khổng Tử nghe nói thì quở trách: “Việc đã thành thì không nói đi nói lại. Việc đã xong, can gián cũng vô ích. Chuyện đã qua, không trách làm chi nữa!” (Goldfish). [55] Đàn xã để thờ thần đất, bên đàn trồng một thứ cây nào đó hợp với khí hậu, địa chất, vì vậy mỗi thời trồng một loại cây. (Cũng có thuyết cho rằng bài vị thờ thần mỗi thời làm bằng một thứ gỗ đặc biệt: gỗ tùng, bách hay lật). [56] Nhà Chu trồng cây “lật”, chữ lật này với chữ lật là run sợ đọc như nhau, dùng thay nhau được. Tể Ngã nhân đó, giảng bậy như trên, khiến Ai công hoá ra hiếu sát. Khổng tử chê Tể Ngã nói bậy, nhưng việc đã qua rồi, không trách nữa, và có ý khuyên Tể Ngã lần sau phải thận trọng trong |
lời nói. [57] Quản Trọng, tên Di Ngô, làm tướng quốc Tề Hoàn công thời Xuân Thu, có tài, làm cho Tề thành một nước giàu mạnh, bá chủ chư hầu. Khổng tử chê Quản Trọng không có hoài bão viễn đại, chỉ thực hành được bá đạo thôi. [58] Tam qui : có rất nhiều thuyết, đều khó tin. Các sách thường giảng là đài tam qui, cất đài được tức là giàu lắm, xa xỉ lắm. Triệu Thống cho tam qui là thuế chợ. Thuế chợ từ trước đều nộp vô kho nhà nước. Tề Hoàn công từ khi làm bá, thưởng công Quản Trọng, cho thu thuế chợ, cho nên Quản Trọng giàu lắm, hoá xa xỉ. Chúng tôi tạm theo thuyết ấy. [59] Phản điếm: cái kỉ đắp bằng đất, để khi các chư hầu uống rượu xong, đặt chén lên đó. Thời đó chỉ có vua chư hầu mới dùng “tắc môn” (bình phong che cửa) và “phản điếm”. Quản Trọng dùng hai cái đó là tiếm vị, trái lễ, vì vậy mà Khổng tử chê là không biết lễ, khí lượng nhỏ nhen. [60] Thái: nguyên văn chữ Hán là 大. (xem chú thích trong bài III.16). (Goldfish) [61] “Bất dĩ kì đạo đắc chí” có thể hiểu là không đáng được mà được, không đáng bị mà bị. Có sách chấm câu: “…bất dĩ kì đạo, đắc chi bất xử dã… bất dĩ kì đạo, đắc chi bất xử dã”, nghĩa đại khái cũng như vậy. [62] Tiểu nhân hoài thổ (小人懷土): Có lẽ cụ Nguyễn Hiến Lê cho chữ “thổ”, tương tự với cách giải thích trên trang có nghĩa là “an dật chi xứ” 安逸之處. Có người hiểu “thổ” là “địa lợi”, cũng có người hiểu “thổ” là “hương thổ”. (Goldfish). |
[63] Trung là làm hết sức mình; thứ là suy lòng mình mà biết lòng người, mình không muốn điều gì thì người cũng không muốn điều đó. [Trong cuốn Khổng tử, cụ Nguyễn Hiến Lê bảo: “…nhân [tức đức nhân] có hai phần: tích cực và tiêu cực. Tích cực là “kỉ dục lập nhi nhập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân (đó là đức trung, yêu người, hết lòng với người); tiêu cực là “kỉ sở bất dục vật thi ư nhân” (đây là đức thứ. Chữ thứ gồm chữ như ở trên, chữ tâm ở dưới [tức 恕], nghĩa là suy lòng mình mà biết được lòng người, mình muốn cái gì thì người cũng muốn cái đó, vậy nên làm cho người những cái mà mình muốn và đừng làm cho người những cái mà mình không muốn). Nhân là trung, thứ, tức là đạo đối với người, nhưng đồng thời cũng là đạo đối với mình nữa: kỉ dục lập, kỉ dục đạt; mình phải muốn lập thân, thành công thì mới có thể giúp người lập thân, thành công được. Nhân vừa là tu thân vừa là ái nhân, vừa là xử kỉ vừa là tiếp vật”. (Goldfish)]. [64] Nam Dung (Sử kí của Tư Mã Thiên chép là Nam Cung Quát, họ Nam Cung, tự là Tử Dung) là học trò Khổng tử. Coi thêm bài XI.5. [65] Công Dã Tràng, họ Công Dã, tên Tràng, tự là Tử Tràng, người Tề, học trò Khổng tử. [66] Tử Tiện, họ Mật, tên là Bất Tề, tự là Tử Tiện, học trò Khổng tử. [67] Ung là tên, Nhiễm là họ, tự là Trọng Cung, học trò Khổng tử. [68] Bốn Hán tôi ghi thêm ở trên dựa theo lời giải thích trên trang |
[69] Phú chính nghĩa là thuế ruộng để nuôi binh, rồi sau dùng để chỉ binh lính. [70] Mạnh Võ Bá chính là Mạnh Vũ Bá trong bài II.6. (Goldfish). [71] Xích là tên, Công Tây là họ, Tử Hoa là tự; cũng gọi là Công Tây Hoa, người Lỗ, học trò Khổng tử có vẻ uy nghi. [72] Câu này trong bài XII.2 ở sau. (Goldfish). [73] Khổng Văn tử là một đại phu nước Vệ, tên Ngữ, Văn là tên thuỵ, tức tên đặt cho người chết, theo hình vi của người đó lúc còn sống. [74] Tử Sản tên là Công Tôn Kiều, một đại phu có tài đức của nước Trịnh (sinh trước Khổng tử ít năm), cầm quyền nước Trịnh 22 năm. [75] Án Bình Trọng, họ Án, tên Anh, tự là Trọng, tên thuỵ là Bình, làm một đại phu có tài đức của nước Tề. Có người bảo chữ chi [之] ở cuối bài trỏ Án Bình Trọng: lâu ngày mà vẫn được bạn kính nể. Thuyết đó ít người theo. [76] Thôi tử tên là Trữ, đại phu nước Tề, giết Tề Trang công. Trần Văn tử tên là Tu Vô cũng làm đại phu nước Tề. [77] Phùng Hữu Lan trong Trung Quốc triết học sử đọc chữ tri [知] là trí và giảng Trần Văn tử, chưa là người trí (sao được là người nhân). [78] Vi Sinh Cao là người nước Lỗ. Giấm là vật thường dùng, có thì cho, không có thì thôi, hà tất phải xin của người khác để cho, như vậy không tự nhiên, cầu được tiếng tốt, nên Khổng tử chê. Có người cho rằng chính là Vi Sinh Cao, con người trọng chữ tín đến nỗi hẹn với một người con gái ở dưới cầu, người đó |
không tới, nước thuỷ triều dâng lên, Vi cứ ôm chặt cột cầu mà chịu chết! Thuyết đó e không đúng. [79] Tả Khâu Minh làm quan Thái sử (chép sử) nước Lỗ. Sử kí của Tư Mã Thiên cho ông là tác giả bộ Tả truyện và Quốc ngữ, thuyết đó chưa đáng tin, vì theo nay thì Tả Khâu Minh hoặc sinh trước hoặc đồng thời với Khổng tử, mà Tả truyện viết thời Chiến Quốc, sau khi Khổng tử mất. [80] Lâm Ngữ Đường hiểu là: ta muốn người trẻ yêu người lớn (?). [81] Câu “Tử viết: ‘Ung chi ngôn nhiên’” là do tôi chép thêm. Nguyên văn chữ Hán: 子曰:雍之言然. (Goldfish). [82] Thời đó, vua chúa quay mặt về hướng Nam mỗi khi họp triều nên “nam diện” có nghĩa là vua. [83] Giản ở đây có nghĩa là không dùng chính lệnh phiền hà, từ ngữ đó còn có nghĩa là khoan dung nữa. Tử Tang Bá tử giản dị thái quá, có khi sỗ sàng, không mặc áo, không đội mũ, thiếu đức cung kính, uy nghi của một ông vua, nên Nhiễm Ung chê, và Khổng tử nhận Nhiễm Ung có lí. Bốn chữ “Cư kính hành giản” trong bài này tóm tắt tư cách ông vua và chính sách trị dân của đạo Khổng. [84] Vô: Trong Nhà giáo họ Không chép là 無 (vô), nhiều bản trên mạng chép là 亡 (vong) và chú là dùng như chữ 無 (vô). [85] Tử Hoa, tức Công Tây Xích, coi bài V.7, học trò Khổng tử. [86] Nhiễm tử, tức Nhiễm Hữu, coi bài III.6. Nguyên Tư họ Nguyên, tên Hiến, tự là Tử Dư, người Lỗ, học trò Khổng tử. Trong truyện trên (Tử Hoa đi sứ Tề), có lẽ Nhiễm Hữu là gia thần quản kí việc nhà của Quí Thị, mà Quí Thị cầm quyền ở Lỗ; |
còn Khổng tử làm tư không, hay tư khấu, phái Tử Hoa đi sứ Tề. Trong truyện dưới, Nguyên Tư làm gia thần của Khổng tử, mà Khổng tử làm tư khấu, có quyền dùng gia thần quản lí việc nhà cho nên cứ theo lệ mà cấp cho Nguyên Tư. Nguyên Tư vốn nghèo mà thanh liêm, thấy bổng lộc nhiều quá, từ chối. Khổng tử khuyên có dư thì phát cho người nghèo. Hai truyện trên đó cho ta biết cách dùng tiền của Khổng tử; chu cấp thì cho người nghèo chứ không cho người giàu; phát lương thì theo lệ nhà nước. [87] Có sách chép là ngũ (năm). [88] Trọng Cung, tức Nhiễm Ung là người hiền, nhưng cha hèn hạ lại làm việc ác. Khổng tử ví Trọng Cung với con bò lang: Không nên vì lỗi lầm của cha mà không dùng con. [89] Lê ngưu: có sách giảng là bò cày, thời đó người ta không dùng bò cày mà bỏ nuôi riêng để cúng quỉ thần. [90] Mẫn Tử Khiên, tên Tổn là học trò Khổng tử, chê họ Quí tiếm lễ, loạn chính, không chịu làm quan cho họ Quí. Phí là ấp của họ Quí. Vấn là con sông ranh giới giữa Tề và Lỗ. [91] Bá Ngưu, họ Nhiễm, tên Canh, người Lỗ, một học trò có đức hạnh của Khổng tử. Các học giả thời xưa cho chữ “tật” là “ác tật” và bảo Bá Ngưu bị bệnh cùi, nhưng không có chứng cứ gì cả. Khổng tử đứng ở ngoài cửa sổ mà không vô nhà, Chu Hi giảng như vầy: “Theo Lễ, người bệnh nằm ở cửa sổ phía Bắc, vua tới thăm thì rời sang cửa sổ phía Nam, để vua nhìn sang phía Nam mà hỏi thăm (vua thì “nam diện” – coi chú thích bài |
VI.1). Nhà Bá Ngưu muốn dùng lễ ấy để tỏ lòng tôn kính Khổng tử. Khổng tử không nhận, nên không vô nhà, đó chỉ là một cách giảng (Coi cách Khổng tử (đau) nằm tiếp vua khi vua lại thăm, bài X.13). Có thể Khổng tử mới tới, chưa kịp vô, thấy Bá Ngưu nằm đó, đã hỏi thăm liền. [92] Chữ [亡], nhiều sách đọc là vong, giảng là: “chết mất!”, không qua khỏi được. Chúng tôi theo cách đọc là iang [?] của Lưu Bảo Nam, do Triệu Thông dẫn trong “Luận ngữ dịch chú”. [93] Câu “Tư nhân dã nhi hữu tư tật dã!” ( 斯人也而有斯疾也!) nhiều bản chữ Hán trên mạng chép hai lần. (Goldfish). [94] Võ Thành: một ấp nhỏ của nước Lỗ. Đam Đài Diệt Minh: họ Đam Đài, tên Diệt Minh, tự Tử Võ, người ấp Võ Thành (theo [95] Mạnh Chi Phản, tên Trắc, tự Phản, một đại phu nước Lỗ. Trong một trận Tề đánh Lỗ, Lỗ thua. Công của Mạnh Chi Phản là ở lại phía sau, ngăn quân Tề truy kích quân Lỗ. [96] Chúc Đà là viên quan coi tôn miếu (chúc) nước Vệ, tên Đà. Công tử Triều nước Tống lúc đó làm quan đại phu ở Vệ. Khổng tử than thói đời ưa nịnh. [97] Nhân (人): Nhiều bản chép là “dân” (民), cũng có bản chép cả “dân” lẫn “nhân”: 民(人). (Goldfish). [98] Cô vốn là cái bình đựng rượu có cạnh góc, tới đời Khổng tử người ta biến đổi nó, bỏ góc cạnh đi, nhưng vẫn giữ tên cũ. Khổng tử chỉ trích thói đương thời hữu danh vô thực, nhất là chính trị. [99] Chữ nhân [仁] này nên sửa là chữ nhân [人] (là người). Câu cuối trong bài nghĩa cũng như câu: “Quân tử khả thi dĩ kì phương, nạn võng dĩ phi kì đạo” của Mạnh tử. Chữ khi [欺] là gạt một cách hợp lí, chữ võng [罔] là gạt một cách vô lí. Nhưng |
có người giảng võng [罔] là ngu muội và dịch là: người quân tử không thể ngu muội làm điều vô lí. Có thể Tể Ngã thấy Khổng tử gấp cứu đời quá mà hại đến thân, nên hỏi như vậy để Khổng tử nghĩ lại mà đề phòng. [Câu “Chữ nhân [仁] này nên sửa là chữ nhân [人] (là người)” là để giải thích chữ “nhân” trong câu “Tỉnh hữu nhân yên” (井有仁焉). (Goldfish)]. [100] Thỉ thỉ: các bản trên mạng chép là: 夭夭. Chữ 夭, Thiều Chửu đọc là “yêu”. (Goldfish). [101] Chu Công tên là Đán, là con vua Chu Văn vương, em vua Chu Võ vương. Khi Võ vương chết, ông phụ tá Thành vương (con Võ vương), giúp nhà Chu thịnh trị, định lễ, nhạc. Khổng tử rất phục Chu Công, vẫn mong được địa vị của Chu Công để hành đạo như Chu Công, nên thường mộng thấy Chu Công. [102] Tử Lộ hiếu dũng, rất tận tuỵ với thầy (coi bài V.6) thấy khen Nhan Hồi, cũng muốn thầy nhắc tới mình, nên hỏi như trên. Khổng tử chê là hiếu dũng, nóng nảy, không biết thận trọng, hỏng việc. [103] Có lẽ là: “chân không mà lội qua sông” hoặc “không dùng thuyền mà lội qua sông”. (Goldfish). [104] Năm chữ Hán ở trên, tôi chép theo cuốn Kinh Dịch – Đạo của người quân tử của Nguyễn Hiến Lê, Nxb Văn học, năm 1994, 44. (Xem thêm [105] Ý nói chữ 行 có thể đọc là “hành” hoặc “hạnh”. (Goldfish). [106] Theo lễ nhà Chu, người cùng họ không được cưới gã nhau. Ngô Mạnh tử nghĩa là tiểu thư lớn nước Ngô. Đáng lẽ phải gọi là Ngô Cơ, Ngô là tên nước, Cơ là tên họ. Người con gái đó cùng |
họ Cơ với vua Lỗ (?). Cách cư xử của Khổng tử đáng phục, không thể chê vua mình trước mặt viên quan nước ngoài và nhận lỗi về mình. Lời đáp Vu Nhã Kì nhã nhặn làm sao. [107] Thủ: các bản trên mạng chép là: 敢. Chữ 敢 này, trong cuốn Mặc học, cụ Nguyễn Hiến Lê đọc là “cảm” (Thiều Chửu cũng đọc là “cảm”). (Goldfish). [108] Chữ tam này, có người hiểu là quyết tâm. Không nên hiểu là ba. Thái Bá là con trưởng của Chu Thái vương. Thái vương muốn truyền ngôi cho con út là Quí Lịch vì Quí Lịch có một người con trai tên là Xương có tài đức, như vậy Quí Lịch chết thì Xương sẽ làm vua. Thái Bá hiểu ý cha, rủ người em kế là Trọng Ung ra khỏi nước, về phương Nam. Trong khi ấy Thái vương truyền ngôi cho Quí Lịch rồi Quí Lịch truyền ngôi cho Xương, tức vua Văn vương, sau vua Văn vương truyền ngôi cho Võ vương, Võ vương diệt Trụ nhà Thương mà dựng thiên hạ nhà Chu. [109] Húc: các bản trên mạng chép là: 恤 (Thiều Chửu đọc là “tuất”). (Goldfish). [110] Tuy vi chúng: nguyên văn chữ Hán là 雖違衆. Bản Nguyễn Thụ chép là: “Tuy viễn chúng” 雖遠衆 và dịch là: trái với đại chúng. (Goldfish). [111] Phù: nguyên văn chữ Hán là 夫; có bản chép là 乎 (hồ). [112] Không hiểu: cái gì lâu? Có sách giảng là: ta mê man lâu nhỉ. Có thể hiểu đó chỉ là lời trách Tử Lộ. Tử Lộ lớn tuổi hơn vả, vì quí thầy mà đề xướng vụ đó. [113] Theo lệ thới đó, hễ làm đại phu thì có gia thần, cai quản mọi việc trong nhà. Có hồi Khổng tử làm đại phu, có gia thần, nhưng hồi này không còn làm đại phu nữa. Tử Lộ muốn dùng lễ |
đại phu để chôn cất thầy nên bảo anh em đồng môn làm gia thần. Bài này cảm động, lời trách rất đúng, tuy nghiêm mà nhiều tình cảm, tư cách thanh cao. [114] Đoạn “mà làm như có gia thần… chết dọc đường dọc xá ư?” là do tôi tạm ghi thêm, ebook nguồn không có. (Goldfish). [115] Chữ cổ [賈] này có người đọc là giá: cầu được giá mà bán. [116] Tiến: nguyên văn chữ Hán là 進; có bản chép là 往 (vãng). [117] Bốn chữ “thí như bình địa” có người dịch là: “Ví như lấp một vực sâu cho thành đất bằng…”. Hiểu cách nào thì đại ý bài này cũng là khuyên ta đừng bỏ lỡ công việc học tập mà công trước mất hết; thành hay bại chỉ tại ta mà thôi. Nhưng hiểu như chúng tôi dịch thì sự so sánh có ý mạnh hơn: cùng là việc đắp núi, gần thành công rồi bỏ, với việc mới bắt đầu mà vững chí tiếp tục, là do ta hết. Đưa ví dụ lấp vực sâu vào đây, ý hơi loãng đi. [118] Nguyên văn bài IX.24 này là: Tử viết: “Chủ trung tín, vô hữu bất như kỉ giả, quá tắc vật cải”; nguyên văn bài I.8, dài hơn: Tử viết: “Quân tử bất trọng tắc bất uy, học tắc bất cố; chủ trung tín, vô hữu bất như kỉ giả, quá tắc vật đạn cải”. (Goldfish). [119] Con lạc là một loài giống con chồn. Áo làm bằng da con chồn và con lạc vừa nhẹ vừa ấm, nên rất quí. [120] Có nhiều bản chia bài này ra làm hai, tới đây là hết bài trên. Nhưng ý nghĩa là hai đoạn liên quan với nhau, nên gom làm một. |
[121] Câu này trong Kinh Thi, Vệ phong, thiên Hùng trĩ. Chữ 忮 (đố kị) chúng tôi phiên âm là chí, có người đọc là kĩ. Có nhà cho rằng Khổng tử dẫn câu đó để khen Tử Lộ. Như vậy có vẻ Khổng tử mâu thuẫn: chính ông dẫn câu đó, sao dưới lại bảo: “Có gì (hoàn toàn) tốt?” Cho nên chúng tôi đoán Tử Lộ nhớ Kinh Thi, tự phụ rằng mình đã theo đúng lời khuyên trong Kinh Thi, nên ngâm hoài. Khổng tử thấy vậy, nén lòng tự phụ đó xuống. [122] Trong Kinh Thi hiện nay lưu hành không có bốn câu thơ đó. Hai câu đầu thể hứng, (nhân thấy hoa đường lệ mà có hứng), nghĩa không liên quan gì tới hai câu sau. Khổng tử muốn khuyên người học đạo: nếu thực ham đạo thì không ngại khó. [123] Tru: nguyên văn chữ Hán là 緅 (Thiều Chửu đọc là “tưu”). [124] Câu “Tất hữu tẩm y, trường nhất thân hữu bán ” là do tôi ghi thêm, nguyên văn chữ Hán: 必有寢衣,長一身有半. (Goldfish). [125] Cát nguyệt: ebook nguồn chép là: “tốt”. (Goldfish). [126] Tất tế (必祭), có bản chép là “qua tế” (瓜祭). (Goldfish). [127] Ebook nguồn chép: “Vấn ư như tha bang”. (Goldfish). [128] Theo Nguyễn Thiên Thụ thì “đông thủ” (東首) có nghĩa là: “day đầu phía Đông, mặt ngó cửa sổ Bắc” ( phía Nam, để vua nhìn sang phía Nam mà hỏi thăm (theo chú thích trong bài VI.8), giảng [129] Nguyên văn bài III.18: Tử nhập thái miếu, mỗi sự vấn. Hoặc viết: “Thục vị Trâu nhân chi tử tri lễ hồ, nhập thái miếu, mỗi sự vấn”. Tử văn chi, viết: “Thị lễ dã”. Bài X.14 này chỉ có câu: Nhập thái miếu, mỗi sự vấn. (Goldfish). |
[130] Chữ dung [容] này, có nhà bảo là chữ khách [客], nghĩa là không khách khí, mà rất tự nhiên. [131] Củng: Các trang chữ Hán trên mạng chép là 共 (Thiều Chửu đọc là cộng, hoặc cung), trong đó có vài trang mạng bảo chữ 共 có nghĩa là 拱 “củng” (nghĩa là chắp tay). (Goldfish). [132] Đoạn “thích văn hơn chất, nên theo lễ nhạc của người xưa. Có thuyết cho rằng “tiên tiến” trỏ” là do tôi tạm chép thêm. Xin nói thêm là, theo thuyết đó, hai chữ “dã nhân” (野人) trỏ giới bình dân, hai chữ “quân tử” (君子) trỏ giới quí tộc cầm quyền. (Tham khảo: [133] Chữ “môn nhân” và chữ “môn nhân” sau, ebook nguồn chép là “môn sinh”. (Goldfish). [134] “Hoặc” (惑): có bản chép là “cảm” (感). (Goldfish). [135] Đoạn Thầy đáp: “Còn cha, anh…”; anh Cầu hỏi: “Nghe rồi thi hành liền sao?” là do tôi ghi thêm. (Goldfish). [136] Thẩn: nguyên văn chữ Hán là 哂. Trong cuốn Cổ văn Trung Quốc, cụ Nguyễn Hiến Lê phiên âm là “sẩn” (Thiều Chửu cũng phiên âm là “sẩn”). (Goldfish). [137] Đoạn sau đây là do tôi chép thêm: Tằng Tích hậu. Tằng Tích viết: “Phù tam tử giả chi ngôn hà như?” Tử viết: “Diệc các ngôn kì chí dã dĩ hĩ!” Viết: “Phu tử hà thẩn Do dã?” Viết: “Vi quốc dĩ lễ”. (Goldfish). [138] Lời nói nhũn. Trong số môn đệ đó, Tăng Tích (cha Tăng Sâm) chắc không nhỏ tuổi hơn Khổng tử bao nhiêu. [139] Tức một nước chư hầu trung bình không vào hạng nhỏ. [140] Tức một chư hầu nhỏ. [141] Một chức quan nhỏ coi việc lễ. [142] Nguyên văn: Kí thành, có sách giảng là “đã mặc xong”. [143] Nguyên văn: quán giả, nghĩa là người đã làm lễ đội mũ (lễ |
gia quan): thanh niên tới 20 tuổi thì làm lễ đó. [144] Sông Nghi ở Lỗ – Vũ Vu là một cái đàn để tế, cao trống, mát mẻ. [145] Đoạn: Đáp: “Người trị nước phải theo lễ, anh Do không biết nhún nhường, nên ta mỉm cười” là do tôi tạm ghi thêm. [146] Tăng Tích có ý cho Nhiễm Cầu và Công Tây Hoa cũng không khiêm tốn vì muốn trị nước. Nhưng Khổng tử chê thái độ của Tử Lộ, chứ không chê chí hướng của ai cả, mặc dù ông thích chí hướng của Tăng Tích hơn. – Bài này là bài dài nhất mà cũng là một bài hay nhất trong Luận ngữ. Chúng tôi đã phê bình trong cuốn Cổ văn Trung Quốc trang 24 25. Tao Đàn xuất bản – 1966. [147] Trọng Cung tức Nhiễm Ung đã được Khổng tử khen là có thể làm vua được. [148] Bài này cũng như bài XII.20 nói về chính trị. Chữ gia [家] này không phải là nhà của Trọng Cung mà là “nhà” của một đại phu. Các đại phu thời đó như ba họ Mạnh, Thúc, Quí ở Lỗ có ấp riêng, có thành trì, quân đội riêng, gần như có một triều đình riêng, quan lại của họ là gia thần của họ. Và ấp của họ gần như một nước nhỏ trong một nước lớn hơn là Lỗ. (Bài VI.1) Khổng tử giảng về nhân theo phương diện chính trị. Nhân ở đây là kính cẩn, thận trọng, nghĩ tới dân. [149] Cúc: nguyên văn chữ Hán là 棘. Chữ này trong Trang Tử và Nam Hoa Kinh, thiên Tiêu Dao Du, cụ Nguyễn Hiến Lê đọc là Cách (ông Cách) và chú giải: “chữ cức là gai ở đây đọc là cách”; còn cụ Nguyễn Duy Cần thì đọc là “Cấc”. (Goldfish). |
[150] Tỉ (徙), có bản chép là “đồ” (徒). (Goldfish). [151] Câu này cũng như câu “tiên nan nhi hậu hoạch” trong bài VI.20. Nên so sánh bài này với bài XII.10. [152] Thăng (勝): có bản chép là “dắng” (媵). (Goldfish). [153] Bài này chắc là của môn sinh Nhiễm Hữu chép, nên gọi là Nhiễm tử chứ không gọi là Nhiễm. Nhiễm Hữu lúc đó làm quan tể cho họ Quí, mà họ Quí chuyên quyền, không đem việc quốc chính (việc quan trọng trong nước) bàn ở triều đình Lỗ, mà đem bàn riêng với gia thần của mình. Có sách giảng: “chính” là việc quan trọng, còn “sự” là việc chấp hành hằng ngày. [154] Lúc này Khổng tử không cầm quyền ở nước Lỗ nhưng đã làm chức đại phu thì có quyền dự nghe việc quan trọng trong nước. [155] Ấp Cử Phủ thuộc nước Lỗ. (Goldfish). [156] Trực Cung, là anh Cung ngay thẳng (Cung là tên). Có sách cho trực cung chỉ có nghĩa là người ngay thẳng. [157] Chữ “chứng” [證] hồi xưa chỉ có nghĩa tố cáo (theo Thuyết văn); ngày nay mới có nghĩa là làm chứng. Khổng tử khuyên cha phải nhân từ, con phải hiếu; con tố cáo cha là bất hiếu, cho nên ông cho là không ngay thẳng, không hợp đạo. [158] Đoạn từ “Ngôn tất tín…” đến cuối bài, tôi lần lượt ghi thêm mấy chữ “nhiên tiểu nhân”, “chi tòng” và “nhân, hà” vào các chỗ mà ebook nguồn chép ba dấu chấm: “Ngôn tất tín, hành tất quả, khanh khanh… tai! Ức diệc khả dĩ vi thứ hĩ”. Viết: “Kim… chính giả hà như?” Tử viết: “Y! Đẩu sao chi… túc toán dã”. [159] Hạng: nguyên văn chữ Hán là 行; ebook nguồn chép là |
“hành”. (Goldfish). [160] Câu: “Bất hằng kì đức, hoặc thừa chi tu” trong Kinh Dịch, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch như sau: “Không thường giữ được cái đức của mình, có khi bị xấu hổ”. (Goldfish). [161] Chúng tôi thấy câu này khó hiểu, tạm dịch theo Triệu Thông và đoán vì tâm ý hay thay đổi thì coi quẻ rồi cũng không tin, mà rồi sẽ gặp việc hổ thẹn. Có người dịch là: Khổng tử nói: “Tại người ta không chiêm nghiệm đến lời nói ấy thôi”. Có người lại hiểu là: “Người quân tử đối với Kinh Dịch nếu nghiền ngẫm lời chiêm nghiệm thì biết được rằng thiếu đức hằng, tất sẽ phải hổ thẹn. Vậy sở dĩ không có đức hằng, làm việc mà không có đức hằng, chỉ vì không xem lời chiêm nghiệm mà thôi. [162] Hiến, tức Nguyên Hiến, tự Tử Tử, học trò của Khổng tử. [163] Câu này trong ebook nguồn không có lời dịch. Nguyễn Thiên Thụ dịch như sau: Đức Khổng Tử nói: “Người quân tử có khi là kẻ bất nhân chứ kẻ tiểu nhân chưa bao giờ làm được điều nhân”. (Goldfish). [164] Chữ 糾 này tôi chép theo bài đăng trên trang chép là: 紏 và giảng như sau: “(…) Một âm là “cưu” 九 họp, như “Hoàn Công cưu hợp chư hầu” 桓公九合諸侯 vua Hoàn Công tụ họp các chư hầu, cùng nghĩa với chữ “củ” 紏. (Goldfish). [165] Ý nói Quản Trọng có công chống Di, Địch. Coi tiểu sử Quản Trọng trong “ Gương danh nhân” của chúng tôi xuất bản năm 1959. [166] Xem lại bài V.14. (Goldfish). [167] Vi Sinh Mẫu: một ẩn sĩ ở nước Lỗ. (Goldfish). [168] Tị: nguyên văn chữ Hán của bốn chữ “tị” trong bài này là: 辟 (đọc là “tịch”, nghĩa là lánh ra, lánh đi). Theo trang |
thì chữ 辟 đồng nghĩa với chữ 避 (đọc là “tị”, nghĩa cũng tương tự). [169] Nguyên văn chữ Hán cả câu Kinh Thi đó là: 深則厲,淺則揭. Chữ “khê” 揭, Thiều Chửu đọc là “yết”. Trong bài thơ Phóng cuồng ngâm của Tuệ Trung thượng sĩ đời Đường có câu: 深則厲 兮淺則揭, nhiều nhà phiên âm là: “Thâm tắc lệ hề thiển tắc yết”, riêng thiền sư Vạn Hạnh trong bài Đạo Phật đi vào cuộc đời, phiên âm chữ 揭 là “kệ” [170] Chữ vũ [舞] ở đây là điệu múa. Có sách cho là chữ Thuấn [舜] in nhầm và giảng là nhạc Thiều của vua Thuấn. Có sách lại bảo chữ vũ đó dùng như chữ võ [武], và giảng là nhạc võ (của Võ vương nhà Chu). Lịch nhà Hạ lấy tháng dần làm tháng giêng như ngày nay; lịch nhà Ân lấy tháng sửu (tức tháng chạp âm lịch ngày nay); nhà Chu lấy tháng tí (tức tháng 11 ngày nay) làm tháng giêng. Theo lịch nhà Hạ thì tiện cho nhà nông hơn. Xe nhà Ân kiên cố, không hoa mĩ như xe nhà Chu. Mũ miện nhà Chu đẹp hơn. [171] Có lẽ ebook nguồn chép thiếu chữ “Người” (Người không lo xa…). (Goldfish). [172] Chi: các bản trên mạng chép là “dư” (與). (Goldfish). [173] Vị: nguyên văn chữ Hán là 位. Nhiều bản chép là “lập” (立). gushuyiyijuli2.htm thì hai chữ “vị” và “lập” đó là “đồng tự”. [174] Chữ “đạo” này và chữ “đạo” sau, trong ebook nguồn đều chép là “đạo đức”. Tôi theo cuốn Khổng tử mà bỏ hai chữ “đức” đó đi. (Goldfish). [175] Ebook nguồn không có hai chữ “dĩ tư”. (Goldfish). [176] Bản nguồn chép là “chí thú”, tôi sửa lại thành “chí hướng” theo một chú thích trong bài Bá Di liệt truyện trong cuốn Cổ văn Trung Quốc của cụ Nguyễn Hiến Lê. (Goldfish). |
[177] Tỉ: nguyên văn chữ Hán là 兕. Chữ này Thiều Chửu đọc là “huỷ”. (Goldfish). [178] Có người bảo nên sửa chữ quả thành chữ bần. [179] Chữ bần này nên sửa làm chữ quả như vậy mới hợp với “quân vô bần” ở sau. Rất có lí. Chúng tôi sẽ dịch theo như vậy. [180] Thời đó nước Lỗ chia làm bốn phần, họ Quí chiếm hai phần; họ Mạnh và Thúc, mỗi họ chiếm một phần, nay họ Quí muốn chiếm cả nước Chuyên Du về phần mình. [181] Chúng tôi theo hai chú thích ở trên, mặc dầu nguyên văn vẫn để như cũ. [182] Có lẽ tác giả muốn nói đến đoạn sau đây: “Bài đó là một trong những bài dài nhất mà hay nhất trong Luận ngữ, cho ta thấy một khía cạnh tính tình của Khổng tử. Ông vốn ít nói, hoặc nói chỉ vắn tắt vài lời (dư dục vô ngôn – Dương Hoá – 18); nhưng lần này ông thật hùng hồn, giọng gay gắt (chắc ông giận lắm), lí luận minh bạch, khéo dẫn lời cổ nhân, mà ý tưởng lại cao đẹp: câu “Hữu quốc hữu gia giả, bất hoạn quả nhi bất hoạn quân, bất hoạn bần nhi bất hoạn an” là một trong những câu bất hủ của ông, vào hàng sâu nhất trong tư tưởng nhân loại, hiện nay càng đáng làm châm ngôn cho các chính khách khắp thế giới”. (Goldfish). [183] Chữ “biền” này và chữ “biền” ở sau, nguyên văn chữ Hán là 便 (chữ này Thiều Chửu đọc là “tiện”). (Goldfish). [184] Cần xem lại ba chữ “đãng phóng tứ”. (Goldfish). [185] Hai câu này, ebook nguồn chép là: “ Lui về học kinh Lễ. Tôi chỉ nghe được điều đó”. Tôi tạm sửa lại như trên. (Goldfish). |
[186] Dương Hoá, có sách gọi là Dương Hổ, vì Hoá và Hổ phát thanh hơi giống nhau, là gia thần của họ Quí, có lần bắt giam Quí Hoàn tử để chuyên quyền nước Lỗ. Y cho đem heo sữa biếu Khổng tử là có ý bắt Khổng tử đến nhà y tạ ơn. Bốn chữ “dục kiến Khổng tử” có thể dịch là: “Muốn Khổng tử đến yết kiến mình”. [187] Chỗ này có sách chấm câu khác, cho “bất khả” (không gọi là nhân được) là lời đáp của Khổng tử. Rồi từ “Hiếu tòng sự” (muốn ta làm quan…) mới là lời của Dương Hoá. Câu dưới cũng vậy. Tôi chấm câu như trên, cho là lời Dương Hoá tự đáp để làm nổi bật tính hách dịch, nóng nảy của Dương Hoá và thái độ bình tĩnh, tự tín, cương quyết của Khổng tử. [188] Ebook nguồn không có câu: “huệ tắc túc dĩ sử nhân”. [189] Đoạn sau đây tôi theo cuốn Khổng tử mà ghi thêm, ebook nguồn không có: “thì mài cũng không mòn sao? Ta chẳng từng nói rằng”. (Goldfish). [190] Nghĩa cũng như câu “trực nhi vô lễ tắc giảo”, bài VIII.2. [191] Có người cho chữ “tiểu tử” ở đây trỏ cháu nội Khổng tử, tức Khổng Cấp, (Tử Tư), nhưng theo truyền thuyết Khổng Cấp là học trò của Tăng Tử. [192] Chiêu Nam: các bản chữ Hán trên mạng chép là 召南, Wikipedia tiếng Việt phiên “Thiệu Nam” trên được đọc là “triệu”, Từ điển Thiều Chửu cũng đọc là “triệu”. [193] Nguyên văn bài I.3 và XVII.7 đều là: Tử viết: “Xảo ngôn, lệnh sắc, tiển hĩ nhân”. Có bản Luận ngữ bỏ bài XVII.7 (lấy bài XVIII.8 làm bài XVII.7) mà không cho biết lí do. (Goldfish). |
[194] Vạn vật (萬物), có bản chép là “bách vật” (百物). (Goldfish). [195] Nhụ Bi: (trong phần dịch và chú thích ở sau chép là “Nhụ Bỉ”, tôi đã sửa lại vì trong cuốn Khổng tử chép là “Nhụ Bi”) nguyên văn chữ Hán là 孺悲, bản Nguyễn Thiên Thụ phiên âm là “Nhũ Bi”, trong cuốn Nhà giáo họ Khổng, cụ Nguyễn Hiến Lê cũng phiên âm là “Nhũ Bi”. (Goldfish). [196] Sắc: (nguyên văn chữ Hán là 瑟), ebook nguồn chép là “cầm”. (Goldfish). [197] Quĩ: các bản chữ Hán chép là 歸, chữ này Thiều Chửu đọc là “qui”. (Goldfish). [198] Bốn chữ “Phượng hề, phượng hề” (鳳兮,鳳兮), trong bộ Trang tử – Nam Hoa kinh , cụ Nguyễn Hiến Lê dịch là: “Con phượng kia, con phượng kia”. (Goldfish). [199] Trần: các bản trên mạng chép là “Thị” (是). (Goldfish). [200] Tị: chữ “ti” này (tị nhân) và chữ “tị” sau (tị thế), các bản trên mạng chép là 辟 (tịch). Có bản giảng chữ 辟 (tịch) “đồng” với chữ 避 (tị). (Goldfish). [201] Đoạn “Tử Lộ củng nhi lập… kiến kì nhị tử yên” là do tôi ghi thêm. (Goldfish). [202] Có một bản Luận ngữ đầu đời Tống in hai chữ “phản”. Tử ở đây, nghĩa là: (Tử Lộ) trở về. Khổng tử nói. Như vậy cả đoạn dưới là lời của Khổng tử nói với Tử Lộ. [203] Hai chữ “tên Võ” do tôi ghi thêm. (Goldfish). [204] Hai chữ “á phạn” này do tôi chép thêm. Á phạn là vị nhạc sư coi về việc tấu nhạc trong bữa ăn thứ hai. (Goldfish). [205] Chữ hoằng [弘] một số học giả gần đây cho là nghĩa như chữ cường [強] ngày nay. [206] [207] Chữ quyện [倦] ở đây tức chữ quyện trong “Hối nhân bất quyện”. Có người dịch khác: để đến sau mà dạy cho đến mệt mỏi. |
[208] Ngọn tức như vẩy nước, quét tước… gốc tức như chính tâm thành ý… Ý muốn nói: Dạy đạo lí ngay cho trẻ hoặc cho những kẻ kém thông minh thì họ không theo được. Đại ý của Tử Hạ là dạy học phải có tuần tự, tuỳ theo trình độ của mỗi người. Có người hiểu là: “Giảng ngọn mà biết đến gốc, chỉ bậc thánh nhân mới được như thế”. Lại có người hiểu là: “Đạo thánh nhân có chỗ nên dạy trước, có chỗ nên dạy sau, ta chẳng nên tuần tự mà dạy sao?” Bài này ý nghĩa không có gì cao xa mà lời không minh bạch, mỗi người hiểu mỗi khác. [209] Thời xưa, sang hèn gì cũng xưng là trẫm; từ thời Tần Thuỷ Hoàng, chỉ vua mới được tự xưng là trẫm. – Rồi nhà Thương suy, vua Trụ bạo ngược, bị chư hầu là Phát diệt mà lên ngôi, lập nhà Chu, (1122 256 hoặc 221), hiệu Võ vương. [Đoạn có nguyên văn là: “Trẫm cung hữu tội, vô dĩ vạn phương; vạn phương hữu tội, tội tại trẫm cung”, lời dịch trong ebook nguồn chỉ có ba chữ: “Bản thân trẫm”. Xin tạm bổ sung: “(…) có tội, không phải của dân; muôn dân mà có tội, tội đó là tại trẫm (vụng trị dân)”. (Goldfish). [210] Câu đầu này có người hiểu là: Võ vương đem của công phát cho dân, những người thiện được thưởng nhiều, nên hoá ra giàu có. Hiểu như vậy cũng có lí, nhưng không liên tiếp với mấy câu sau bằng hiểu như chúng tôi đã dịch. [211] Tề Thái công, tức Khương Tử Nha. (Goldfish). [212] Có sách chấm câu: “Sở trọng dân, thực, tang, tế” và dịch là: chú trọng đến việc của dân như lương thực, tang lễ, tế tự. |
[213] Ngờ sai. (Goldfish). [214] Ngờ sai. (Goldfish). [215] Ngờ sai. (Goldfish). [216] Trong các bài ở dưới, trong ebook nguồn không có bài nào được “gạch dưới”. (Goldfish). [217] Thiết nghĩ hai bài I.12 và II.5 nên sắp chung với các bài nói về lễ và nhạc ở dưới thì phải hơn. (Goldfish). [218] Nên kể thêm bài XV.10: Khổng tử chủ trương cấm Trịnh thanh vì Trịnh thanh dâm. (Goldfish). [219] Bài II.21 cũng có dẫn kinh Thư (nói về đạo hiếu). [220] Ngờ sai. (Goldfish). [221] Ngờ sai. (Goldfish). [222] Ebook nguồn không “in ngã”, tôi tạm sửa lại. (Goldfish). [223] Số 15 này do tôi ghi thêm. (Goldfish). [224] Ebook nguồn chép là: XX.22, 23. (Goldfish). [225] Trong bộ Nho giáo, cụ Trần Trọng Kim viết như sau: “Sự biến hoá của Trời như sự mở sự đóng, mà đạo Trời là cứ qua lại mãi: “Nhất hạp nhất tịch vị chi biến, vãng lai bất cùng vị chi đạo 一闔一闢謂之變,往來不窮謂之道: Một mở một đóng gọi là biến, qua lại không cùng gọi là đạo.” (Dịch: Hệ từ thượng)”. Nhưng trong bộ Chu Dịch, cụ Phan Bội Châu lại chép là: “Nhất cáp nhất tịch vị chi biến, vãng lai bất cùng vị chi thông 一閤一闢謂之變,往來不窮 謂之通”, và cụ giảng là: “Vì khí âm mà có khi khép, vì khí dương mà có khi mở; một đường vừa khép, mà một đường liền mở ngay; một phía vừa mở, mà một phía liền khép lại, khép khép mở mở thay đổi nhau hoài. Thế là gọi bằng biến 一閤一闢謂之變. Nhất cáp vừa vãng, liền có nhất tịch lai, nhất tịch vừa vãng, vừa có nhất cáp lai, vãng vãng lai lai chẳng bao giờ cùng tận, thời gọi bằng thông 往來不窮謂之通”. Trong bộ Kinh Dịch – Đạo của |
người quân tử, cụ Nguyễn Hiến Lê chép là: “Nhất hạp nhất tịch vị chi biến, vãng lai bất cùng vị chi thông”, và cụ dịch là: “Một lần đóng, một lần mở gọi là biến, qua lại không ngừng gọi là thông”. (Goldfish). [226] Chế độ phong kiến của châu Âu thời Trung cổ (thế kỉ thứ sáu tới thế kỉ 13 sau Công nguyên khác hẳn vậy, không do các vua thiết lập mà nó tự lần lần thành hình. Thời đó, Anh, Pháp, Ý… vì nạn xâm lấn của các rợ Germain, Visigoth, Normand, suy lần đi, triều đình không bảo vệ được các thành thị, che chở được các quý tộc; các công tước, hầu tước… phải về điền trang sống và tự bảo vệ lấy. Các nông dân qui tụ chung quanh họ, tặng họ ruộng đất, tự đặt dưới quyền họ để được họ che chơ, do đó họ tổ chức được quân đội, xây thành, đắp lũy, đào hào để chống với giặc, họ tự túc về kinh tế, họ tựa như các sứ quân của ta. Lần lần họ liên kết với nhau, mạnh lên, hơn triều đình, có khi che chở nhà vua, giáo hội và lựa người để đưa lên làm vua nữa. [227] (ngũ thập) theo thuyết đó là chữ (tốt) viết lầm, còn chữ (dịch) chính là (diệc), hai chữ đọc giống nhau. [228] Coi cuốn Kinh Dịch của tôi – chưa in. [229] Thời đó chỉ hạng quí tộc mới được đánh xe (điều khiển chiến xa). [230] Câu cuối này, Lâm Ngữ Đường dịch là: “Ông đừng chỉ coi mình là một người con hoặc một quan ở triều đình”, và theo Lâm, còn nhiều cách hiểu khác, đều không xuôi. [231] Nhan Trọc Châu: nguyên văn là: 顏濁鄒. Chữ 鄒, Thiều Chửu đọc là “trâu”. (Goldfish). |
[232] Túc Thận (bản nguồn chép là Túc Thân, ở dưới cũng vậy), nguyên văn là: 肅慎. (Goldfish). [233] Câu này tối nghĩa, chúng tôi hiểu theo Lâm Ngữ Đường, có người dịch là “Những người chúng ta phải đánh chẳng quá bốn năm kẻ”, vì đàn ông và đàn bà trong thành đều quyết chí theo vua Vệ. Vụ này không chép trong Luận ngữ, không rõ sự thực ra sao, nên tồn nghi. [234] Tư Mã Thiên hai lần chép lời than thở này, một lần ở trang ở trên, một lần ở đây; hai lần lời chỉ khác nhau ít chữ. Tôi bỏ lần ở trên, vì lần ở đây hợp với Luận ngữ hơn. Vả lại lần trên, Khổng tử chưa thực muốn về Lỗ, còn bôn ba thêm ít năm nữa. [235] Thành Phụ (bản nguồn chép là thành Phu): nguyên văn: 城 父. (Goldfish). [236] Lời trong sách Trung Dung. (Goldfish). [237] Có lẽ cụ Nguyễn Hiến Lê muốn nói nửa đầu tiết Tính tương cận trong chương IV: Tính (bản của Nxb Thanh Niên năm 2004, cuốn 2, tr.75 77. (Goldfish). [238] Tất cả những năm sanh này đều phỏng chừng, không chắc chắn lắm. [239] Coi hai bộ Mặc học và Tuân tử của chúng tôi, chưa in. [240] Trong Đại cương triết học Trung Quốc chú thích như sau: “Kinh Thi gồm ba phần: phong (các bài ca dao của bình dân), nhã (các bài hát dùng trong yến tiệc, tế lễ), tụng (các bài tụng đức các vua đời trước)”. (Goldfish). [241] Trong Đại cương triết học Trung Quốc chú thích như sau: “Sau vụ đốt sách ở đời Tần, tới đời Hán, các học giả theo những kinh của bọn bác sĩ nhà Tần truyền lại, gọi là Kim văn. Rồi Lỗ |
Cung vương, con Cảnh đế, tìm thấy một bộ kinh Thư viết bằng cổ văn ở trong vách nhà cũ của Khổng tử, Khổng An Quốc, cháu 12 đời của Khổng tử, đem so với bộ kinh Thư kim văn mà soạn lại, thành ra thêm một phái nữa: phái Cổ văn. Đến cuối đời Tây Hán, bọn Lưu Hâm đặt ra Thi cổ văn, Lễ cổ văn, Xuân Thu cổ văn, nhưng người ta cho là giả dối, không đáng tin”. [242] Chương 20 sách Trung dung có một đoạn diễn ý đó: “Ai công hỏi về chính sự”. Khổng đáp: “Chính sự của vua Văn, vua Võ chép trong sách vở, hễ người khá còn thì chính sự ấy thi hành, người khá mất thì chính sự ấy úng tắt; đạo đức của người làm cho chính trị mau có kết quả (…) cho nên làm chính trị cốt ở người (… nhân đạo mẫn chính… cố vi chính tại nhân). Câu “nhân đạo mẫn chính” nghĩa cũng giống câu “nhân năng hoàng đạo” (người ta có thể làm cho đạo rộng lớn lên) trong bài XV.28 (Luận ngữ). [243] Hội vạn quốc sau Thế chiến thứ nhất cũng qui định số trọng tải các tàu chiến mà mỗi cường quốc như Mỹ, Anh, Pháp, Nhật… có quyền được đóng [244] Thời đó đại thần chưa có nghĩa là “cụ lớn” như ngày nay; cụ lớn hồi đó gọi là đại phu. [245] Coi Đại cương triết học Trung Quốc – Quyển hạ, tr.691. [246] Chúng tôi xin đính chính: do trời lựa – Chúng tôi đã dẫn chúng trong bộ Mặc học, phần II, chương VII (chưa in). [247] Không có cả nhạc. [248] Chương này chúng tôi đã dịch lại, không theo bản dịch năm 1966. |
[249] Những chữ trong dấu ngoặc này, chúng tôi thêm vô. [250] Trong Luận ngữ, còn bài XIX.1 của Tử Trương cũng nói về kẻ sĩ: “Thấy nguy không tiếc đến sinh mạng, được giàu sang thì nghĩ đến nghĩa lý, khi tế tự nghĩ đến kính, gặp việc tang nghĩ đến xót thương, kẻ sĩ được như vậy là khá rồi”. [251] Chúng tôi đã thêm bớt, sửa đổi một chút. [252] Coi bộ Luận ngữ của tôi. [253] Thái độ đó y hệt thái độ của Phật Thích ca. Kinh Majjhima Nikaya chép: “Có người hỏi Phật: Một đức Phật đã thành chính quả rồi, sau khi chết có còn nữa hay không? Phật đáp: Dù sao khi chết rồi, có còn Phật nữa hay không, không quan hệ gì. Chỉ có một điều rõ rệt là: có sinh, có tử và có những nỗi đau khổ; ta chỉ dạy cho biết cái căn nguyên làm cho đau khổ và trỏ con đường đi đến giải thoát… Ta không nói sau khi chết, Phật còn nữa hay không là bởi điều đó không quan hệ gì đến đạo ta dạy là đưa đến chỗ tiêu diệt hết tình dục mà làm cho được yên vui, đến được Niết bàn”. [254] Chúng ta nên nhớ thời đó tiếng quỉ trỏ người chết. [255] Đạo tam tòng chép trong sách Nghi lễ, đời Hán mới xuất hiện. [256] Coi bài Vài nét sơ lược về sách Luận ngữ của Giản Chi – Tạp chí Phương Đông số 10 tháng 4 năm 1972. [257] Cách đánh số bài trong cuốn Luận ngữ do cụ Nguyễn Hiến Lê giới thiệu và chú dịch cũng có vài chương (thiên) chỗ khác với cách đánh số bài trong cuốn Nhà giáo họ Khổng này. |
[258] Tức “học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện” (Học nhi – 2). [259] Xem Phần Đọc thêm ở cuối eBook. (Goldfish). [260] Làng Hỗ Hương (bản nguồn chép là “làng Hồ Hương”), nguyên văn chữ Hán là 互鄉. Hai chữ này, trong cuốn Luận ngữ, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch là: làng Hỗ. (Goldfish). [261] Như vậy mà ông không khi nào tới nước Chu thì cũng lạ thật! Có lẽ ông cho rằng thiên tử nhà Chu hoàn toàn bất lực, phải tìm một ông vua chư hầu để thay? Nếu quả vậy thì ông “cách mạng” lắm, trước Mạnh tử trên 150 năm. Mạnh tử bảo Lương Huệ vương: “Ai không thích giết người thì thống nhất được thiên hạ”, nghĩa là ai có đức nhân thì sẽ làm thiên tử, chứ không cần là hậu duệ nhà Chu. [262] Trong cuốn Luận ngữ, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch như sau: “Vua làm hết đạo vua, bề tôi hết đạo bề tôi, cha hết đạo cha, con hết đạo con”. (Nhan Uyên – 11). (Goldfish). [263] Rõ ở bài này có nghĩa là phân biệt phải trái. [264] Lời ông thật nhũn, so với lời Tử Lộ lại càng nổi bật lên. [265] Câu “tôi ao ước như vậy” là lời của cụ Nguyễn Hiến Lê. [266] Các học giả đời Thanh cho rằng bộ Luận ngữ xuất hiện khoảng một thế kỉ sau khi Khổng tử mất. [267] Trong cuốn Luận ngữ, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch như sau: “Khổng tử ôn hoà mà nghiêm trang, oai vệ mà không dữ dằn, cung kính mà thư thái”. (Goldfish). [268] Có sách giảng là không có tư dục. [269] Có sách giảng là không ích kỉ. [270] Nguyên văn: “Tiên hành kì ngôn, nhi hậu tòng chi”, trong Luận ngữ cụ Nguyễn Hiến Lê dịch như sau: “Làm trước điều mình muốn nói rồi hãy nói sau”. (Goldfish). |
[271] Bài Vệ Linh công – 40, trong cuốn Luận ngữ cụ Nguyễn Hiến Lê dịch là: “Lời cốt diễn đạt đủ ý thì thôi”. (Goldfish). [272] Nhũ Bi: chữ Hán là 孺悲, trong cuốn Luận ngữ, bài XVII.20, cụ Nguyễn Hiến Lê phiên âm là Nhụ Bỉ. (Goldfish). [273] Coi chú thích sau. [Trong cuốn Khổng tử cũng của cụ Nguyễn Hiến Lê (về sau gọi tắt là cuốn Khổng tử) có đoạn: “Theo Tư Mã Thiên (…) Khổng tử kêu Tử Lộ lại bảo: Kinh Thi có câu: “Chẳng phải con tê ngưu, chẳng phải con hổ mà lang thang ở đồng vắng” (Ông nghĩ tới cảnh của thầy trò lúc đó). Đạo của ta sai chăng, mà sao ta phải gặp cảnh này?”. [274]. Xin so sánh với đoạn sau đây trong cuốn Khổng tử: “Trong khi ông đứng một mình ở cửa Đông, có người trong thấy, đi báo cho Tử Cống: “Ở cửa Đông, có một người trán giống vua Nghiêu, cổ giống Cao Dao, vai giống Tử Sản, nhưng từ lưng trở xuống thì kém vua Vũ ba tấc, có vẻ băn khoăn lo lắng như con chó nhà có tang”. Tử Cống lại cửa Đông kiếm thầy, kể lại chuyện đó. Khổng tử bảo: “Hình dáng ta người nào đó tả không biết có đúng không, nhưng bảo ta giống con chó nhà có tang thì đúng quá”. (Truyện này không thấy chép trong Luận Ngữ)”. Con chó hoang: nguyên văn trong Sử Kí của Tư Mã Thiên, thiên Khổng Tử Thế Gia là: Tang (hoặc táng) gia chi cẩu 喪家之狗. Có lẽ ở đây cụ Nguyễn Hiến Lê đọc chữ 喪 là “táng”, có nghĩa là mất, nên dịch là “con chó hoang”; còn trong cuốn Khổng tử, có lẽ cụ đọc chữ 喪 là “tang” nên dịch “con chó nhà có tang” |
[275] Ba truyện này tôi nhớ chừng. [276] Trong cuốn Luận ngữ, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch như sau: “Làm được bực thánh với nhân thì ta đâu dám. Bất quá ta học làm (thánh, nhân) mà không chán, dạy người mà không mệt, chỉ có thể gọi được như vậy mà thôi”. (Goldfish). [277] Công Tây Hoa (公西华), họ là Công Tây, tên là Xích ( 赤), tự là Tử Hoa (子华), cũng xưng là Tây Hoa. Trong bản nguồn (và đoạn dẫn bài Thuật nhi 33 trong Khổng tử) chép là Công Tôn Hoa. (Goldfish). [278] Vô vi: chữ vi ở đây là 違, có nghĩa là trái, chứ không phải là 爲, có nghĩa là làm. (Goldfish). [279] Ngoài cách hiểu này, trong cuốn Luận ngữ, cụ Nguyễn Hiến Lê còn nêu thêm hai cách hiểu nữa: “ Người con có hiếu thì thận trọng mọi việc, không làm gì cho cha mẹ phải lo, duy có bệnh tật là không dễ phòng được (…). – Người con mà lo cho cha mẹ bệnh tật (…) là người con có hiếu”. (Goldfish). [280] Hiểu theo Phan Bội Châu – Các sách khác thường dịch như sau: “Nhưng chó, ngựa kia, người ta cũng nuôi vậy”: Chí ư khuyển mã, giai năng hữu dưỡng. [281] Các sách thường dịch là “hễ nghe được điều phải”, Phan Bội Châu thận trọng chỉ dịch sát như vậy. [282] Chẳng hạn những câu: Kì thân chính, bất lệnh nhi hành; kì thân bất chính, tuy lệnh bất tòng (Tử Lộ – 6); – Bất năng chính kì thân, như chính nhân hà? (Tử Lộ – 13). [283] Ngày nay các học giả Trung Hoa cho rằng Lão tử sinh sau Khổng tử. [284] Lin Yutang – The importance of living – Ch.IX. |
[285] Vô dĩ lập: Chu Hi giải thích là không được vững. [Trong cuốn Luận ngữ, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch là: “không biết cách đi đứng ở đời (có người dịch là: không biết dịch thân)”. [286] Gia thần là kẻ hạ sĩ giúp việc cho một đại phu. [287] Thời đó nước Lỗ chia làm bốn phần, họ Quí chiếm hai phần rồi, hai họ Mạnh và Thúc, cũng là quyền thần, chiếm mỗi nhà một phần, nay họ Quí tham lam muốn chiếm luôn của nước Chuyên Du về phần mình nữa. [288] Ý nói: ở người quản gia, chứ không phải ở chủ nhà. Vậy Nhiễm Hữu không thể đổ lỗi cho chủ được. [289] Mấy chữ “ít mà lo không” là do tôi ghi thêm dựa theo câu: Hữu quốc hữu gia giả, bất hoạn quả nhi bất hoạn quân, bất hoạn bần nhi bất hoạn an. Câu này, trong cuốn Luận ngữ, cụ Nguyễn Hiến Lê đã sửa lại – đổi chỗ chữ “quả” và chữ “bần” cho nhau – và dịch là: “Người có nước có nhà (tức ấp phong của đại phu) không lo nghèo thiếu mà lo sự phân phối không quân bình, không lo ít dân mà lo xã tắc không yên”. (Goldfish). [290] Vì Chuyên Du cũng thuộc về Lỗ. [291] Trong Luận ngữ, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch là: “Ta không muốn nói gì cả”. (Goldfish). [292] Vì bài Tiên Tiến 2, ông có nói Nhan Hồi có theo ông qua Trần, Thái. [293] Có sách nói Khổng Lí chết hồi 50 tuổi, nếu vậy thì khi Nhan Hồi chết, Khổng tử ít nhất cũng 70 tuổi, vì 19 tuổi ông mới có vợ. [Trong cuốn Luận ngữ, chương II, tiết: Về Lỗ – Những năm cuối (484 489), cụ Nguyễn Hiến Lê bảo: “Con ông, Bá Ngư (tức |
Khổng Lí) và học trò thân nhất của ông, Nhan Hồi, chết cách nhau ít năm trong khoảng này”. Trên mạng, nhiều trang ghi Nhan Hồi sinh năm 521 tr.T.L, mất năm 481 tr.T.L. Nếu vậy thì Nhan Hồi thọ 41 tuổi, năm Nhan Hồi mất, lúc đó Khổng tử đã 71 tuổi và đang sống ở Lỗ. (Goldfish)]. [294] Có sách giảng là: chỉ treo thôi, chứ có miệng mà không ăn sao? [295] Trong cuốn Khổng tử, cụ Nguyễn Hiến Lê bảo: “Theo tôi, trong số môn sinh, có ba người yêu quí ông nhất, mỗi người theo một cách”. Ba người đó là: Nhan Hồi, Tử Lộ và Tử Cống. [296] Trong cuốn Luận ngữ, cụ Nguyễn Hiến Lê bảo: “Có nhà cho rằng Khổng tử dẫn câu đó để khen Tử Lộ. Như vậy có vẻ Khổng ngâm hoài. Khổng tử thấy vậy, nén lòng tự phụ đó xuống”. [297] Trong cuốn Luận ngữ, cụ Nguyễn Hiến Lê chú giải hai chữ “trung thứ” đó như sau: “Trung là làm hết sức mình; thứ là suy lòng mình mà biết lòng người, mình không muốn điều gì thì người cũng không muốn điều đó”. Trong cuốn Khổng tử, cụ bảo rằng đức nhân gồm đức trung và đức thứ: “…Nhân là trung, thứ, tức là đạo đối với người, nhưng đồng thời cũng là đạo đối với mình nữa: kỉ dục lập, kỉ dục đạt; mình phải muốn lập thân, thành công thì mới có thể giúp người lập thân, thành công được. Nhân vừa là tu thân vừa là ái nhân, vừa là xử kỉ vừa là tiếp vật”. (Goldfish). [298] Đại ý của bài thơ đó: Chỗ tì vết của viên ngọc Khuê trắng có thể mài bỏ đi được, chứ chỗ xấu xa trong lời nói thì không sao sửa được. Cũng như câu: Nhất ngôn kí xuất, tứ mã nan truy. |
[299] Nguyên văn là: 亡之. Chữ 亡, trong cuốn này, cụ Nguyễn Hiến Lê đọc là “vong” với nghĩa là: mất, chết, nên cụ dịch hai chữ “Vong chi” là: “Con khó sống được”; còn trong cuốn Luận ngữ, cụ đọc là “vô” với nghĩa như chữ “vô” 無 là không, nên cụ dịch hai chữ “Vô chi” là: “Vô lí!”. (Goldfish). [300] Có sách giảng là: người già được yên lòng vì ta, bạn bè tin ở ta, trẻ được an ủi ở ta. [301] Bản nguồn vẫn giữ cách viết địa danh theo lối “xưa”: Võ thành, Saigon, Tích thành, Khúc phụ, Sơn đông… Ngoài ra, chữ “thầy” đều viết là “thày”. (Goldfish). [302] Mỗi nhẫn là tám thước thời đó. [303] Trong cuốn Khổng tử, cụ Nguyễn Hiến Lê “giới thiệu thêm sáu môn sinh đã phát biểu những tư tưởng được ghi lại trong Luận ngữ”. Sáu người đó là: Tử Cống, Tử Trương, Tử Du, Hữu Nhược, Tử Hạ và Tăng Sâm. (Goldfish). [304] Trong cuốn Khổng tử, cụ Nguyễn Hiến Lê bảo: “[Đoạn này] Sử kí của Tư Mã Thiên chép – mà Luận ngữ thì không (…) Tôi không tin đoạn đó. Nó không hợp với tinh thần của Khổng tử: quân tử… hành kì nghĩa dã, đạo chi bất hành, dĩ tri chi hĩ (XIII.7). Một hiền triết như ông, làm trọn nhiệm vụ rồi chết là nghỉ, có gì đâu mà buồn”. Đoạn đó và đoạn sau đều trích trong Sử kí của Tư Mã Thiên (thiên Khổng tử thế gia). (Goldfish). [305] Các chữ khắc trên bia mộ là: Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương Mộ 大成至聖文宣王墓. (Goldfish). [306] Thái Bá – 14. [307] Phiếm ái 汎愛: chữ 汎 (phiếm), trên mạng có bản chép là 泛 (phiếm), có bản chép là 凡 (phàm). (Goldfish). |
[308] Nguyên văn là học văn. [309] Cả 5 bài ở trên: Học nhi 1, 6, 14, Vi chính 11, 15, đều bắt đầu bằng hai chữ Tử viết 子曰: Khổng tử nói. Phần lớn các bài ở dưới cũng vậy. (Goldfish). [310] Kiến 見: bản nguồn chép là văn 聞, tôi sửa lại theo lời dịch là nghe. (Goldfish). [311] Theo Chu Hi: có sách đọc là hành. Ý nghĩa cũng vậy. [312] 聇 (sỉ): các bản trên mạng chép là: 恥. (Goldfish). [313] Tên đặt cho một người khi đã chết, tuỳ theo hành vi lúc sinh tiền của người đó. [314] 無 (vô): nhiều bản trên mạng chép là 亡 (vong) và chú là dùng như chữ 無 (vô). (Goldfish). [315] Chữ văn 文 ở đây dịch là: lục nghệ (tức lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số), còn trong cuốn Luận ngữ cụ Nguyễn Hiến Lê dịch là: Thi, Thư. (Goldfish). [316] Câu này có sách dịch là “cho ta sống năm chục năm nữa để học thêm đạo Dịch”, nhưng các học giả cho là đã chép lộn chữ “tốt” ra “ngũ thập”, nên phải dịch như trên. Nhưng tôi không hiểu một chữ mà sao chép lầm thành hai chữ được? Mà có lầm thì dễ lầm ra “lục thập” hơn là “ngũ thập”. [Trong cuốn Luận ngữ, cụ Nguyễn Hiến Lê đã thay chữ “tốt” 卒 thành hai chữ “ngũ thập” 五十 và dịch lại như sau: “Cho ta sống thêm ít năm nữa, tới năm chục tuổi nghiên cứu Dịch (để biết lẽ tiến thoái) thì có thể không lầm lỗi lớn”. Cụ còn chú thêm: “Khổng tử nói câu đó chắc vào khoảng ngoài 40 tuổi (…) có người bảo (…) chữ dịch [易] chính là chữ diệc [亦] (cũng), và chấm câu như sau: “Gia ngã sổ niên tốt dĩ học, diệc khả dĩ vô đại quá hĩ”, dịch là: “Cho ta sống thêm ít năm nữa để học thì cũng có thể |
không lầm lỗi lớn”. (Goldfish)]. [317] Trong cuốn Luận ngữ, cụ Nguyễn Hiến Lê bảo bốn chữ “thí như bình địa” cũng có thể hiểu là bắt đầu đắp núi từ đất bằng, hiểu như vậy thì “sự so sánh có ý mạnh hơn: cùng là việc đắp núi, gần thành công rồi bỏ, với việc mới bắt đầu mà vững chí tiếp tục, là do ta hết”. (Goldfish). [318] Trong cuốn Luận ngữ, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch lại là: “Như vậy là làm hại con người (vì Tử Cao chưa học được bao, chưa làm quan được)”. Ý cụ muốn bảo người bị làm hại là Tử Cao chứ không phải dân đất Phí (giống với cách hiểu trên trang userid=1258464&lanmuid=9313523&contentID=2416211). [319] Trong cuốn Luận ngữ, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch lại như sau: “Sinh ra mà đã biết là bậc trên; học rồi mới biết, là bậc thứ; gặp cảnh khốn nạn rồi mới chịu học, lại còn thấp hơn nữa. Thấp nhất là gặp cảnh khốn nạn rồi mà vẫn không chịu học”; và chú thích: “Chữ khốn [困], có người dịch là dốt; chúng tôi nghĩ nên hiểu là gặp cảnh khốn nạn, chẳng hạn khi thất bại rồi, mà vẫn không chịu học để tránh thất bại sau thì mới là ngu nhất”. [320] Câu “Tôi chỉ nghe được hai điều đó” là do tôi ghi thêm (trong cuốn Luận ngữ không có chữ “hai”). (Goldfish). [321] Chữ dịch 易, trong cuốn Luận ngữ và cuốn Khổng tử, cụ Nguyễn Hiến Lê theo Nham Sư Cổ, đọc là dị; và bốn chữ “Hiền hiền dị sắc” được dịch lại như sau: “Tôn trọng người hiền, coi thường sắc đẹp”. (Goldfish). [322] Có sách giảng là: suy từ việc gần ra việc xa. [323] Nguyên văn: “Thục hậu quyện yên?”, có sách dịch là: “Cái gì phải bỏ lại sau”. |
[324] Lời của Tử Hạ, trong cuốn Luận ngữ, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch lại như sau: “Ngôn Du (Tử Du) nói sai rồi. Đạo của người quân tử, cái gì nên dạy trước? Cái gì để sau mà không dạy? Ví như cây cỏ, có nhiều loại khác nhau. Đạo của người quân tử đâu có thể vu hoặc được? (giấu điều chánh mà dạy điều phụ). Biết theo thứ tự, điều nào dạy trước, điều nào dạy sau, chứ nếu cùng dạy một lúc cả ngọn lẫn gốc thì chỉ thánh nhân mới theo được”. (Goldfish). [325] Phần Đọc thêm này là do tôi bổ sung. (Goldfish). [326] Tăng Tích là cha của Tăng Sâm (Tăng tử), cả hai đều là người hiền, nổi tiếng nhất là Tăng Sâm. [327] Lời nói nhũn. Trong số môn đệ đó, Tăng Tích chắc không nhỏ tuổi hơn Khổng tử bao nhiêu. [328] Ý nói: có tài mà không được dùng. [329] Các chư hầu thời đó chỉ được phép có ngàn cỗ chiến xa; Thiên Tử mới được có vạn cỗ. [330] Tức Nhiễm Hữu. [331] Tức là một nước rất nhỏ. [332] Nghĩa là bực tài giỏi hơn mình. [333] Tức Công Tây Hoa. [334] Áo Huyền đoan là lễ phục rộng, dài, màu huyền; chương phủ là mũ lễ của sĩ và đại phu. (Phan Bội Châu cho đoan là mũ miện của vua chư hầu và dịch là: có người đội mũ miện, đội mũ chương phủ thì Xích tôi xin làm một tiểu tướng). [335] Tướng là chức quan nhỏ coi việc lễ. Tiểu tướng là một vị tướng nhỏ. [336] Tức Tăng Tích. [337] Nguyên văn: quán giả, nghĩa là người tới tuổi làm lễ đội mũ (lễ gia quan): thanh niên tới 20 tuổi thì làm lễ đó. |
[338] Đồng tử là đứa trẻ con. [339] Nghi là tên một con sông ở Lỗ – Vũ Vu là một cái đàn để tế, nơi đó cao, trống nên mát mẻ. [340] 性相近也,習相遠也。 [341] 子曰:唯上知與下愚不移。 [342] Tức bài 2 và bài 3. (Goldfish). [343] Chúng tôi in chữ ngã. [344] 性相近也,習相遠也。 [345] 子曰:唯上知與下愚不移。 [346] Tức bài XVI.2 và bài XVII.3. (Goldfish). [347] Chúng tôi in chữ ngã. [348] Nguyên văn: Cương nhi kỉ chi, thống nhi lí chi. Nghĩa là: (người ươm tơ) gỡ kén ra thành sợi, đánh sợi lại thành lóng. [349] Tả Truyện chép là Trần Hằng. Trần Hằng cùng thờ Tề Giản công với Hám Chỉ. Được Giản công yêu, Hám Chỉ định tâm “tống khứ” Trần Hằng. Được Trần Báo cho biết ý định ấy, Trằn Hằng bèn giết Giản công mà đưa người khác lên ngôi, gọi là Bình công. [Tên nhân vậy đang xét, theo Ngữ chép là Trần Hằng 陳恒. Do cổ âm của Trần và Điền tương tự nên Trần Hằng còn viết là Điền Hằng 田恒; trong Sử kí, vì tránh dùng chữ Hằng (Hán Văn Đế là Lưu Hằng) nên cải tác thành Điền Thường 田常. (Goldfish)]. [350] Tử Thạch 子石: Trong cả ba cuốn Nhà giáo họ Khổng, Luận ngữ, Khổng tử, cụ Nguyễn Hiến Lê đều không nói đến nhân vật vật này. (Goldfish). [351] Mỗi quân nặng ba mươi cân. [352] Ngũ Tử Tư đã có lần can Ngô vương Phù Sai đừng đánh Tề mà phải diệt Việt. Ngô vương không nghe. Sau vì thái tể Phỉ gièm pha, Ngô vương bắt Ngũ Tử Tư phải tự sát, rồi cho đem thây trôi sông. [353] Khổng Tử không nói rõ ra, nhưng cứ xét nhưng điểm này: ông coi Nghiêu, Thuấn là những vị thánh, khen thời Nghiêu, Thuấn là hoàng kim thời đại; khen Nghiêu, Thuấn không truyền |
ngôi cho con mà cho người hiền; thì chúng ta biết rằng ông không ưa chế độ quân chủ truyền tử của nhà Chu mà mong có một chế độ truyền hiền, nhưng ở thời ông, không thể nào khuyên các ông vua bỏ chế độ truyền tử được, nên ông đành đưa thuyết Chính Danh ra, để sửa đổi được phần nào cái xấu của chế độ truyền tử. [354] Trong Lời nói đầu cuốn Khổng Tử, cụ Nguyễn Hiến Lê bảo: “…cuốn Đại học của Tăng Tử (một môn sinh được trực truyền), ngay trong đoạn đầu nói về việc tu thân để tề gia, trị quốc…, cũng đã có một ý tôi cho không phải là của Khổng tử mà của Tăng tử, tức “trí tri tại cách vật”, vì trong Luận ngữ ông không hề nói tới sự cách vật”. (Goldfish). Document Outline [325] |