id
stringlengths 1
8
| revid
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 37
44
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 1
259k
|
---|---|---|---|---|
19847586 | 153657 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847586 | Mikhail Dmitriyevich Skobelev | Mikhail Dmitriyevich Skobelev (tiếng Nga: Михаи́л Дми́триевич Ско́белев; 29 tháng 9 năm 1843 – 7 tháng 7 năm 1882), một vị tướng Nga, nổi tiếng nhờ cuộc chinh phục Trung Á và chủ nghĩa anh hùng trong Chiến tranh Nga - Thổ Nhĩ Kỳ 1877–1878.
Skobelev sinh năm 1843 tại Sankt-Peterburg. Cha là tướng Dmitry Ivanovich Skobelev, mẹ là nhà từ thiện Olga Skobeleva. Ông được đào tạo thành sĩ quan tham mưu tại Học viện Bộ Tổng tham mưu (Đế quốc Nga)
Ông đã tham gia các chiến dịch quân sự lớn như: Khởi nghĩa Tháng giêng, Chiến dịch Khivan năm 1873, Trận Makhram, các trận Bảo vệ Shipka, Trận Harmanli, Trận Svistov, Cuộc vây hãm Plevna, trận Lovcha trong Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ, trận vây hãm Geok Tepe trong Cuộc thám hiểm Akhal Tekke. Mặc bộ quân phục màu trắng và cưỡi trên một con ngựa trắng, và luôn ở trong tình trạng căng thẳng nhất trong cuộc chiến, ông được binh lính của mình biết đến và tôn sùng với biệt danh "Tướng Trắng" (và được người Thổ Nhĩ Kỳ gọi là "Pasha Trắng"). Trong một chiến dịch ở Khiva, các đối thủ người Turk của ông gọi ông là "goz ganly" hay "Đôi mắt Máu".
Cuối đời, ông còn hoạt động chính trị tích cực và theo chủ nghĩa dân tộc Nga và chủ nghĩa quân phiệt Đại Slavơ - những xu hướng chính trị nổi lên ở Nga sau này được Sa hoàng Aleksandr Đệ tam theo đuổi. Ông là một những người tiên phong của chủ trương "nước Nga là của người Nga"
Ông qua đời ngày 7 tháng 7 năm 1882 tại Moskva khi mới 38 tuổi. Việc Skobelev qua đời sớm khiến cho Nga mất đi một nhà lãnh đạo quân sự tài ba và điều này đã được chứng minh trong Chiến tranh Nga – Nhật đầu thế kỷ XX.
Thống chế Anh Bernard Montgomery đánh giá Skobelev là "chỉ huy giỏi nhất" thế giới từ năm 1870 đến năm 1914 và viết về khả năng lãnh đạo "khéo léo và đầy cảm hứng" của ông.Francis Vinton Greene cũng đánh giá cao Skobelev. Victor Kamenir đánh giá Skobelev là một trong bốn tướng lĩnh "bất tử" của Nga. Tạp chí Russia Beyond xếp Skobelev vào hàng mười danh tướng mọi thời đại của Nga. |
19847589 | 558710 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847589 | Nhật Thành Lâu | Nhật Thành lâu (chữ Hán: 日成樓) Nhật Thành Lâu là kiến trúc lầu hai tầng nằm ở phía đông điện Càn Thành, phía nam Thái Bình lâu. Trước đây là vị trí của điện Minh Thận. Theo một số tác giả, ngôi lầu nầy là Phật điện của vua trong Tử Cấm Thành. Lối lên lầu cũng được làm hành lang che. Nhật Thành lâu bị tàn phá trong các năm 1947 và 1968, chỉ còn lại nền lầu. Năm 2018, lầu đã được phục dựng lại trên nền cũ.
Lịch sử.
Công trình này được xây dựng vào năm 1841 dưới thời vua Thiệu Trị, kiến trúc lầu gồm có 2 tầng, là Phật điện của nhà vua trong Tử Cấm Thành. Vào thời kỳ cuối nhà Nguyễn, đây là nơi mà đức Từ Cung (mẹ vua Bảo Đại) và các bà trong nội cung thường lui tới để đọc kinh, niệm Phật, cầu an…
Lầu Nhật Thành bị tàn phá trong các năm 1947 và năm 1968, chỉ còn lại phần nền của công trình.
Năm 2018, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã cho phục dựng lại công trình này. |
19847590 | 892184 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847590 | Mũ 2 | __ĐỔI_HƯỚNG_NHẤT_ĐỊNH__ |
19847591 | 892184 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847591 | ^2 | __ĐỔI_HƯỚNG_NHẤT_ĐỊNH__ |
19847592 | 892184 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847592 | GTA 3 | __ĐỔI_HƯỚNG_NHẤT_ĐỊNH__ |
19847593 | 892184 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847593 | GTA III | __ĐỔI_HƯỚNG_NHẤT_ĐỊNH__ |
19847597 | 855455 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847597 | Liên kết hỏng | Liên kết hỏng là hiện tượng các siêu liên kết bị mất khả năng trỏ đến các tập tin đích đến, trang web hoặc máy chủ sau một thời gian do tài nguyên đó đã bị chuyển sang địa chỉ truy cập mới hoặc trở nên không khả dụng vĩnh viễn (thường là do bị xóa). Liên kết ("link") mà không còn trỏ đến đối tượng chỉ định còn được gọi là "link hỏng", "link chết". Thuật ngữ gốc bên tiếng Anh là "link rot" hoặc "broken link".
Giới học thuật và nghiên cứu đã lựa chọn khảo sát tỷ lệ liên kết hỏng do tính chất quan trọng và tác động tiêu cực của hiện tượng này đối với việc chia sẻ và bảo toàn thông tin trên mạng Internet. Kết quả ước tính cho thấy có sự chênh lệch số liệu tỷ lệ đáng kể giữa các bài nghiên cứu. Nhiều chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã lên tiếng cảnh báo rằng hiện tượng liên kết hỏng có thể gây mất những dữ liệu quan trọng, làm ảnh hưởng đến hệ thống luật pháp và nhu cầu học thuật.
Liên kết hỏng xảy ra ở nhiều nguyên nhân khác nhau, chẳng hạn như di dời, xóa bỏ tệp đích, lỗi máy chủ, hết hạn tên miền gây báo lỗi HTTP 404. Giải pháp ngăn chặn liên kết hỏng chủ yếu là tạo URL cố định, di dời nội dung sang nơi tồn tại lâu hơn, tạo liên kết ít bị hỏng, dùng dịch vụ lưu trữ liên kết sẵn có, hoặc sửa chữa liên kết hỏng.
Nghiên cứu.
Vì tính chất quan trọng và sức ảnh hưởng của hiện tượng liên kết hỏng đối với việc tra cứu và lưu trữ thông tin, nhiều cuộc nghiên cứu đã tiến hành thu thập và truy tìm số liệu liên quan đến hiện tượng trong hệ thống mạng lưới toàn cầu World Wide Web, trong các tài liệu học thuật sử dụng URL để trích dẫn nguồn nội dung từ web, và trong thư viện số.
Một bài nghiên cứu năm 2002 cho biết rằng hiện tượng liên kết hỏng ở thư viện số xảy ra chậm hơn ở trên web, và nhận thấy cứ một năm thì có khoảng 3% đối tượng không còn truy cập được (tương đương với chu kỳ bán rã gần 23 năm). Tiếp đến, một bài nghiên cứu năm 2003 đã nhận thấy rằng, cứ 200 liên kết thì sẽ có 1 liên kết bị hỏng mỗi tuần, ứng với chu kỳ bán rã 138 tuần. Tỷ lệ này lại một lần nữa được xác nhận trong bài nghiên cứu năm 2016–2017 về liên kết ở Yahoo! Directory (vốn dĩ trang này đã ngưng cập nhật vào năm 2014 sau 21 năm vận hành và phát triển) và nhận thấy chu kỳ bán rã của các liên kết thư mục là 2 năm.
Một nghiên cứu năm 2004 đã chứng minh các tập hợp con của các liên kết trang web (chẳng hạn như các liên kết trỏ đến đến các loại tập tin cụ thể hoặc các liên kết được các tổ chức học thuật lưu trữ) có thể có chu kỳ bán rã khác nhau rõ rệt. Các URL liên quan đến xuất bản (báo chí, học thuật...) dường như có tuổi thọ cao hơn URL bình thường. Nhằm củng cố, một nghiên cứu năm 2015 của Weblock đã phân tích hơn 180.000 liên kết đến từ các tài liệu tham khảo trong tập hợp toàn văn của 3 nhà xuất bản truy cập mở lớn và cho biết, chu kỳ bán rã rơi vào khoảng 14 năm. Đây ngầm chứng minh một nghiên cứu năm 2005 đó chính là phân nửa số URL đến từ các bài viết bên "D-Lib Magazine" vẫn còn hoạt động sau 10 năm.
Những bài khác thì cho rằng tỷ lệ xảy ra hiện tượng liên kết hỏng ở các tài liệu học thuật cao hơn, với mức chu kỳ bán rã được đề xuất thông thường rơi vào 4 năm hoặc hơn. Bài nghiên cứu năm 2013 bên "BMC Bioinformatics" phân tích gần 15.000 liên kết chỉ mục trích dẫn Web of Science của Thomson Reuters và nhận thấy tuổi thọ trung bình của các trang web đạt 9,3 năm và chỉ có 62% trang là được lưu trữ. Kế đến vào năm 2021, một nghiên cứu về các liên kết bên ngoài trên các bài báo "New York Times" được xuất bản từ năm 1996 đến năm 2019 cho thấy chu kỳ bán rã rơi vào khoảng 15 năm (nhưng lại khác biệt đáng kể, tùy thuộc vào chủ đề nội dung). Bài nghiên cứu còn cho biết thêm, 13% liên kết tuy vẫn còn hoạt động nhưng không còn cung cấp nội dung ban đầu nữa. Hiện tượng này được gọi là "trôi dạt nội dung" (content drift).
Quan trọng hơn, một bài báo cáo vào năm 2013 cho biết, có tới 49% là liên kết hỏng trên tổng số liên kết được dẫn trong các quyết định của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Một nghiên cứu năm 2023 đã theo dõi các trang tổng quan về đại dịch COVID-19 tại Hoa Kỳ và nhận thấy rằng: 23% số URL trang tổng quát của tiểu bang đã bị thay đổi vào tháng 4 năm 2023, so với thời điểm tháng 2 năm 2021.
Nguyên nhân và hậu quả.
Liên kết hỏng xảy ra ở nhiều nguyên nhân khác nhau: Đối tượng mà trang web trỏ đến bị xóa mất, máy chủ lưu trữ trang đích ngừng hoạt động, bị gỡ bỏ khỏi dịch vụ cung cấp lưu trữ hoặc bị chuyển sang một tên miền mới. Từ năm 1999, các chuyên gia đã lưu ý về vấn đề lưu trữ lượng lớn tài liệu trên ổ cứng rằng, "một lỗi ổ đĩa có thể giống như đi đốt thư viện ở Alexandria." Ngoài ra, hoạt động đăng ký tên miền có thể sẽ hết hạn hoặc được sang nhượng cho bên khác, cũng là nguyên nhân gây ra hiện tượng liên kết hỏng.
Một số lý do:
Hậu quả của hiện tượng liên kết hỏng đó chính là không tìm được tập tin đích và trả về mã lỗi như HTTP 404 (404 Không thể tìm thấy). Hoặc là, khiến cho liên kết bị "trôi dạt" và chuyển sang cung cấp nội dung khác so với dự định ban đầu của tác giả liên kết gốc. Do đó, liên kết hỏng có khả năng gây mất dữ liệu cũng như nguồn tham chiếu, làm ảnh hưởng đến chất lượng nghiên cứu hệ thống luật pháp và tính toàn vẹn trong học thuật.
Giải pháp và nhận diện.
Phương pháp cơ bản để tránh hiện tượng hỏng liên kết đó chính là tạo các URL cố định không thay đổi theo thời gian. Tim Berners-Lee và những người tiên phong phát triển web khác đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lên kế hoạch ngăn chặn URL hỏng.
Bên cạnh đó, giải pháp có thể kể đến gồm có: liên kết đến các nguồn chính chứ không phải nguồn thứ cấp và ưu tiên các trang web ổn định; hạn chế sử dụng liên kết trỏ đến tài nguyên trên trang cá nhân của nhà nghiên cứu; sử dụng URL sạch hoặc chuẩn hóa URI; sử dụng liên kết cố định hoặc mã nhận diện thường trực như ARK, DOI, tham khảo Handle System, PURL, hoặc CAS. Người dùng Internet cần phải tránh liên kết đến các tài liệu không phải là trang web hoặc deep linking, và thường xuyên lưu trữ nội dung dự phòng vào các trang lưu trữ web chẳng hạn như Internet Archive, WebCite, archive.today, Perma.cc, Amber, hoặc Arweave.
Một số chiến lược xử lý các liên kết được đề xuất như: sử dụng cơ chế chuyển hướng chẳng hạn như HTTP 301 để tự động đưa trình duyệt và trình thu thập thông tin tới nội dung được di chuyển sang nơi khác; sử dụng hệ thống quản lý nội dung trang web có thể tự động cập nhật liên kết khi nội dung trong cùng một trang web được di chuyển hoặc tự động thay thế liên kết bằng URL chuẩn và tích hợp tìm kiếm các tài nguyên vào trang HTTP 404.
Người ta có thể phát hiện các liên kết bị hỏng bằng thủ công hoặc tự động. Các phương pháp tự động có thể kể đến gồm có plug-in dành cho hệ thống quản lý nội dung cũng như các trình kiểm tra liên kết bị hỏng độc lập như Xenu's Link Sleuth. Tuy nhiên, trình kiểm tra tự động có thể không nhận diện ra được các liên kết trả về mã lỗi 404 mềm hoặc các liên kết tuy trả về phản hồi 200 OK nhưng lại trỏ đến nội dung đã bị thay đổi. |
19847598 | 71058638 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847598 | Thờ sinh thực khí | Thờ sinh thực khí hay tín ngưỡng phồn thực là việc thờ cúng cơ quan sinh sản, sinh sản, quan hệ tình dục... Thờ cúng sinh thực khí là một phần của tín ngưỡng dân gian của nhân loại, thờ cúng thiên nhiên. Nó đã xuất hiện từ thời xã hội nguyên thủy của con người, và vẫn có thể được nhìn thấy trong các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau cho đến hiện tại.
Bởi vì con người cổ đại không thể hiểu được hành vi tình dục và hiện tượng sinh sản của chính họ, cho nên tạo cảm giác bí ẩn và kinh ngạc. Từ những khám phá khảo cổ học hiện đại, các hình thức thờ cúng sinh thực khí khác nhau có thể được tìm thấy trong các bức tượng, hình vẽ về các vị thần và nữ thần còn sót lại từ các nền văn hóa cổ đại khác nhau. Thờ sinh thực khí là một biểu tượng của sự sống và sáng tạo, và có thể được chia thành ba loại: thờ cúng khả năng sinh sản, thờ cúng bộ phận sinh dục và thờ cúng quan hệ tình dục. |
19847599 | 71069991 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847599 | Tục thờ ếch | Tục thờ ếch hay tín ngưỡng thờ ếch là hình thức thờ cúng con ếch được cho xuất phát từ nền văn hoá của người Bách Việt. Theo sử sách ghi lại thì người Bách Việt chủ yếu sống bằng nghề nông từng sinh sống ở phía nam Trung Quốc như khu vực Quảng Đông, Phúc Kiến, khu vực người choang của Quảng Tây, khu vực dân tộc Lê ở Lương Sơn của tỉnh Tứ Xuyên, Hồ Nam, Hải Nam. Do khả năng sinh sản mạnh mẽ của con ếch nên việc thờ cúng ếch cũng được cho là tín ngưỡng thờ sinh thực khí. Một số tác phẩm nghệ thuật được tìm thấy của nhà nước Nam Việt đã phản ánh sự kết hợp giữa văn hóa đồng bằng Trung Bộ và tín ngưỡng thờ ếch. |
19847600 | 330596 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847600 | Trần Sở Sinh | Trần Sở Sinh (sinh ngày 25 tháng 7 năm 1981) là một ca sĩ, nghệ sĩ guitar Trung Quốc.
Đời tư.
Trần Sở Sinh sinh ra ở Tam Á, Hải Nam. Gia đình anh gốc ở Phổ Ninh, Quảng Đông. Từ nhỏ, anh đã thích chơi guitar và ca hát. Anh ấy cũng giỏi các môn thể thao như Kungfu, bóng đá và câu cá. Thời trung học, anh chơi và hát ở quán bar gần đó vào cuối tuần. Năm 2000, ở tuổi 19, Trần Sở Sinh chuyển đến Thâm Quyến để khám phá các cơ hội. Bắt đầu với công việc trong một nhà hàng do người thân điều hành, anh sớm tập trung phát triển sự nghiệp ca hát - gặp gỡ các nhạc sĩ cùng thời và biểu diễn cho các câu lạc bộ trong thành phố.
Sự nghiệp.
Với các kỹ năng ca hát được phát triển, Trần Sở Sinh đã có cơ hội tham gia vào một số chương trình và cuộc thi âm nhạc, và được khán giả đánh giá cao. Năm 2001, Trần Sở Sinh đã giành được giải thưởng tiềm năng nhất tại Giải thưởng MTV Asia, được tổ chức tại Thượng Hải. Năm 2003, anh đã được trao tặng danh hiệu quán quân của cuộc thi ca sĩ quán rượu quốc gia, được tổ chức tại Trường Sa, Hồ Nam, và ký hợp đồng với EMI. Năm 2007, anh được trao cúp quán quân "Super Boy" và ký hợp đồng với E.E. Media. Tuy nhiên, anh đã được hủy hợp đồng vào tháng 1 năm 2009 với lý do cá nhân"."
"Có ai nói với em rằng" 《有没有人告诉你》.
E.E. Media phát hành 1 album vào tháng 7 2007, "13", với 13 người đứng đầu của chương trình "Super Boy" năm đó, bao gồm single đầu tiên của Trần Sở Sinh "Có ai nói với em rằng"《有没有人告诉你》.
"Thì ra tôi không bao giờ cô đơn 《原来我一直都不孤单》".
Tháng 11 2007, EP đầu tiên Thì ra tôi không bao giờ cô đơn《原来我一直都不孤单》được phát hành, bao gồm các bản chính thức Thì ra tôi không bao giờ cô đơn, Có ai nói với em rằng《有没有人告诉你》 và Kiếm tìm《寻找》, vào thêm vào một số bài mới "La La La"《啦啦啦》 và một cover "Sing" của ban nhạc Anh quốc "Travis".
Từ thiện.
Một bộ phim ngắn thúc đẩy các hoạt động từ thiện ở Quý Châu, được sản xuất bởi SZTV vào năm 2009, anh đã hát bài hát chủ đề Trẻ em trên núi'《大山的孩子》. |
19847608 | 845147 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847608 | Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2015 | Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2015 được tổ chức tại Sân vận động Khúc côn cầu Sengkang, Singapore từ ngày 6 đến 13 tháng 6 năm 2015. Huy chương được trao tại giải đấu dành cho cả nam và nữ.
Quốc gia tham dự.
Tổng cộng có 144 vận động viên đến từ 5 quốc gia sẽ tranh tài ở môn khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2015:
Lịch thi đấu.
Sau đây là lịch thi đấu của giải đấu khúc côn cầu trên cỏ: |
19847610 | 935915 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847610 | Hệ thống băng tải | Hệ thống băng tải là thiết bị vận chuyển cơ khí phổ biến, dùng để di chuyển vật liệu từ nơi này đến nơi khác. Băng tải đặc biệt hữu ích cho vật liệu nặng/cồng kềnh, nhanh chóng, hiệu quả, ứng dụng rộng rãi trong sản xuất, tiêu dùng. |
19847619 | 935915 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847619 | Băng tải xích | Băng tải xích là một loại hệ thống băng tải dùng để vận chuyển vật liệu trên các dây chuyền sản xuất. Băng tải xích bao gồm các mắt xích nối nhau, chạy trên các rãnh kín, dùng để kéo vật liệu di chuyển liên tục. Băng tải xích có thể được phân loại thành hai loại chính là băng tải xích lưới và băng tải xích tấm.
Hoạt động.
Băng tải xích là thiết bị vận chuyển vật liệu phổ biến trong các nhà máy, xí nghiệp. Nguyên lý hoạt động của băng tải xích dựa trên một chuỗi xích khép kín, vừa truyền động vừa kéo vật liệu đi qua máng. Vật liệu có thể được đẩy trực tiếp bởi xích hoặc qua các bộ phận gắn trên xích. Hai đầu máng có bánh xích để dẫn hướng. Băng tải xích có thể được sử dụng để vận chuyển vật liệu trong khoảng cách lên đến 90 mét (300ft), tuy nhiên thông thường là dưới 30 mét (98ft).
Băng tải xích là một hệ thống vận chuyển vật liệu sử dụng xích chạy liên tục và được dẫn động bằng động cơ. Trên xích có gắn các giá treo riêng lẻ để treo vật liệu. Băng tải xích được sử dụng rộng rãi trong các dây chuyền lắp ráp, nhà máy sản xuất, và kho bãi để di chuyển sản phẩm theo một tuyến cố định hoặc khắp cơ sở. |
19847620 | 912979 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847620 | Batang Quiapo (phim truyền hình) | FPJ's Batang Quiapo () là một bộ phim truyền hình chính kịch hành động-hài của Philippines được phát sóng bởi Kapamilya Channel. Được đạo diễn bởi Malu L. Sevilla, Darnel Joy R. Villaflor và Coco Martin, bộ phim có sự tham gia của Martin trong vai nhân vật chính. Nó dựa trên bộ phim hành động-hài cùng tên năm 1986 với sự tham gia của Fernando Poe Jr. và Maricel Soriano. Bộ phim được công chiếu lần đầu trên khối buổi tối "Primetime Bida" của mạng và trên toàn thế giới thông qua The Filipino Channel vào ngày 13 tháng 2 năm 2023, thay thế "Mars Ravelo's Darna".
Bộ truyện cũng có sẵn để phát trực tuyến qua iWantTFC trên toàn thế giới.
Kịch bản.
Một chàng trai trẻ tên Tanggol (Coco Martin) trở thành một trong những kẻ ngoài vòng pháp luật lớn nhất trong khu phố trong khi anh tìm đường sống để tồn tại ở Quiapo, Manila. Với hy vọng giành được tình cảm của cha mẹ, chiến công của anh đã đưa anh đến gần hơn với sự thật về danh tính của mình. |
19847627 | 780814 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847627 | Friedrich I xứ Württemberg | Frederick I ( ; 6 tháng 11 năm 1754 – 30 tháng 10 năm 1816) là nhà cai trị Württemberg từ năm 1797 cho đến khi qua đời. Ông là công tước cuối cùng của Württemberg từ năm 1797 đến năm 1803, sau đó là Tuyển đế hầu đầu tiên và duy nhất của Württemberg từ năm 1803 đến năm 1806, trước khi Württemberg nâng lên thành một vương quốc vào năm 1806 với sự chấp thuận của Napoléon I. Ông được biết đến với thân hình to lớn của mình, cao khoảng và nặng . |
19847631 | 780814 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847631 | Wilhelm I của Württemberg | William I ( ; 27 tháng 9 năm 178125 tháng 6 năm 1864) là vua của Württemberg từ ngày 30 tháng 10 năm 1816 cho đến khi ông qua đời. |
19847638 | 780814 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847638 | Friedrich Eugen, Công tước xứ Württemberg | Friedrich Eugen (21 tháng 1 năm 1732 – 23 tháng 12 năm 1797) là Công tước Württemberg từ năm 1795 đến năm 1797. Sinh ra ở Stuttgart, ông là con trai thứ tư của Karl Alexander, Công tước xứ Württemberg với Maria Augusta xứ Thurn và Taxis. |
19847648 | 944080 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847648 | Hwasal-2 | Hwasal-2 (Tiếng Hàn: 《화살-2》형; Hanja: 화살-2型; phiên âm Hán-Việt: "Mũi Tên-2") là một loại tên lửa hành trình chiến lược tầm trung (LACM) do Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên chế tạo, xuất hiện lần đầu tiên vào năm 2023. Nó được cho là một phiên bản cải tiến từ tên lửa hành trình trước đó là Hwasal-1 với tầm bắn xa hơn. Hwasal-2 có thể mang theo đầu đạn hạt nhân chiến thuật Hwasan-31.
Giới thiệu.
Tên lửa Hwasal-1 xuất hiện lần đầu tiên trong triển lãm quốc phòng "Tự vệ-2021" tổ chức tại Bình Nhưỡng. Ngày 13 tháng 9 năm 2021, Hãng thông tấn Trung ương Triều Tiên KCNA tuyên bố nước này đã bắn thử thành công tên lửa hành trình chiến lược đầu tiên. Tên lửa đạt tầm bắn 1,500 km sau 7,580 giây và đã đánh trúng mục tiêu. Đây là loại tên lửa hành trình đầu tiên trong lịch sử của Triều Tiên có tầm bắn xa hơn 300 km.
Ngày 25 tháng 1 năm 2022, Triều Tiên bắn thử tên lửa hành trình Hwasal-1 lần thứ 2 từ xe mang phóng tự hành tại bờ biển tỉnh Hamgyong Nam. Tên lửa đã bay xa 1,800 km trong thời gian 9,137 giây. Vụ phóng này diễn ra cùng thời điểm với vụ phóng một loạt các tên lửa đạn đạo chiến thuật kiểu mới của Triều Tiên, loại vũ khí được cho là có tính năng tương đương với loại Iskander của Nga.
Ngày 23 tháng 2 năm 2023, Triều Tiên tuyên bố phóng thử thành công 4 tên lửa hành trình Hwasal-1 và Hwasal-2 từ tỉnh Hamgyong Nam. Các hình ảnh do KCNA cung cấp sau đó cho thấy tên lửa bay với độ cao thấp ở sát mặt đất, gợi ý khả năng nó sử dụng công nghệ dẫn đường kết hợp đường viền địa hình () tương tự các tên lửa hành trình hiện đại khác như Kh-101 của Nga hay BGM-109 Tomahawk của Hoa Kỳ. Bản tin của KCNA cho biết vụ phóng nằm trong khuôn khổ cuộc diễn tập tấn công hạt nhân chiến thuật của quân đội Triều Tiên. Sau đó vào ngày 21 tháng 8 năm 2023 , nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un đã theo dõi một vụ phóng tên lửa Hwasal-2 từ tàu hộ vệ số hiệu 661 lớp Amnok thuộc biên chế Hạm đội biển Đông của Hải quân Nhân dân Triều Tiên. Ngày 6 tháng 9 cùng năm, ông Kim lại tới dự buổi lễ hạ thủy tàu ngầm mang tên lửa chiến lược số hiệu 841. Các hình ảnh được KCNA đăng tải về buổi lễ cho thấy tàu có 10 silo phóng thẳng đứng, trong đó có 4 silo lớn có lẽ để triển khai tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm Pukguksong-5 , còn lại là các silo để triển khai tên lửa hành trình Hwasal-2.
Xem thêm.
Vũ khí có tính năng tương đương: |
19847649 | 780814 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847649 | Ludwig Eugen, Công tước xứ Württemberg | Ludwig Eugen (6 tháng 1 năm 1731 – 20 tháng 5 năm 1795) là công tước cai trị Württemberg từ năm 1793 cho đến khi ông qua đời năm 1795. |
19847651 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847651 | Karl Christian Erdmann, Công tước xứ Württemberg-Oels | Karl Christian Erdmann của Württemberg-Oels (26 tháng 10 năm 1716 tại Wilhelminenort gần Bernstadt – 14 tháng 12 năm 1792 tại Oels) là công tước cai trị xứ Württemberg-Oels và Bernstadt. |
19847652 | 780814 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847652 | Karl Eugen, Công tước xứ Württemberg | Karl Eugene (tiếng Đức: "Carl Eugen" ; 11 tháng 2 năm 1728 – 24 tháng 10 năm 1793) là Công tước cai trị xứ Württemberg. Ông là con trai cả và là người kế vị của Charles Alexander với Marie Auguste xứ Thurn và Taxis. |
19847655 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847655 | Carl Rudolf, Công tước xứ Württemberg-Neuenstadt | Carl Rudolf (29 tháng 5 năm 1667, tại Neuenstadt am Kocher – 17 tháng 11 năm 1742, tại Neuenstadt am Kocher ) là Công tước cuối cùng cai trị xứ Württemberg-Neuenstad. Ông cũng là chỉ huy quân đội Đan Mạch và thống chế của Thánh chế La Mã. |
19847657 | 648222 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847657 | Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2013 | Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2013 được tổ chức trong khoảng thời gian chín ngày bắt đầu từ ngày 13 tháng 12 đến ngày 21 tháng 12 năm 2013. All games were held at Sân vận động Khúc côn cầu Theinphyu, Yangon.
Giải đấu Nam.
"Tất cả các giờ đều là Giờ Myanmar – ."
Giải đấu Nữ.
"Tất cả các giờ đều là Giờ Myanmar – ." |
19847660 | 303202 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847660 | Cầu Rama VII | Cầu Rama VII (, , ) là một cầu bắc qua sông Chao Phraya ở Băng Cốc và Nonthaburi, Thái Lan, nối Bang Sue và Bang Phlat. Làn đường kép với 3 làn đường mỗi bên. Cây cầu được đặt tên để vinh danh Vua Prajadhipok. Cây cầu được xây dựng với mục đích tăng hạ tầng và giảm lưu lượng xe tại nút giao cầu Rama VI. |
19847678 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847678 | Madam Web (phim) | Madame Web là phim điện ảnh siêu anh hùng Mỹ sắp ra mắt tháng 2 năm 2024, dựa trên nhân vật cùng tên trong truyện tranh Marvel Comics. Phim do Columbia Pictures, Di Bonaventura Pictures, Marvel Entertainment sản xuất và sẽ được hãng Sony Pictures Releasing phát hành. Đây sẽ là phim thứ tư trong Vũ trụ Người Nhện của Sony. Đạo diễn phim là S. J. Clarkson, đồng viết kịch bản với Claire Parker, Matt Sazama và Burk Sharpless, phát triển trên nội dung của Kerem Sanga, Sazama và Sharpless. Dàn diễn viên trong phim gồm có Dakota Johnson thủ vai chính Madam Web, Sydney Sweeney, Celeste O'Connor, Isabela Merced và Tahar Rahim.
Từ tháng 9 năm 2019, phim đã được Sony thực hiện với phần kịch bản do Sazama và Sharpless xây dựng trên bản nháp mà Sanga đã tạo trước đó. Clarkson bắt đầu tham gia dự án từ tháng 5 năm 2020, đánh dấu phim điện ảnh đầu tiên mà cô làm đạo diễn. Đầu năm 2022, nữ diễn viên Dakota Johnson được chọn đóng vai chính. Quá trình ghi hình bắt đầu từ giữa tháng 7 đến tháng 9 cùng năm ở Boston và Massachusetts, sau đó di chuyển tới thành phố New York từ giữa tháng 10 tới hết năm.
Madam Web dự kiến được phát hành vào ngày lễ tình nhân 14 tháng 2 năm 2014.
Phân vai.
Ngoài ra, Mike Epps, Emma Roberts, Adam Scott và Zosia Mamet cũng sẽ góp mặt trong phim.
Phát hành.
"Madame Web" sẽ được ra mắt vào ngày 14 tháng 2 năm 2024 ở định dạng IMAX. Lịch công chiếu ban đầu của phim là ngày 7 tháng 7 năm 2023, sau đó được lùi tới ngày 6 tháng 10 và 16 tháng 2 năm 2024. |
19847684 | 872953 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847684 | Tsurui, Hokkaidō | là một ngôi làng thuộc huyện Akan, phó tỉnh Kushiro, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính ngôi làng là 2.558 người và mật độ dân số là 4,5 người/km2. Tổng diện tích ngôi làng là 571,84 km2. |
19847686 | 721305 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847686 | Zucchini | Zucchini là một cuốn tiểu thuyết thiếu nhi năm 1982 của Barbara Dana, do Eileen Christelow vẽ hình minh họa. Tập tiếp theo của cuốn sách có tên "Zucchini Out West".
Nội dung.
Cuốn sách kể về một cậu bé người New York, tên là Billy, cùng với chú chồn sương của cậu, tên là Zucchini. Trong cuốn sách có những chi tiết không chính xác về chồn, chẳng hạn như chúng là loài gặm nhấm ăn cỏ.
Giải thưởng.
Cuốn sách đã giành được Giải thưởng Maud Hart Lovelace năm 1986 và Giải thưởng Sách thiếu nhi Land of Enchantment 1986-1987.
Chuyển thể.
Cuốn tiểu thuyết đã được chuyển thể thành một tập của CBS Storybreak in 1985. |
19847688 | 872953 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847688 | Nhà tù Pollsmoor | Nhà tù Pollsmoor , tên chính thức là Nhà tù An ninh Tối đa Pollsmoor , nằm ở ngoại ô Tokai của Cape Town ở Nam Phi. Pollsmoor là cơ sở hình sự có an ninh tối đa, nơi tiếp tục giam giữ một số tội phạm nguy hiểm nhất Nam Phi. Mặc dù nhà tù được thiết kế với sức chứa tối đa 4.336 phạm nhân với đội ngũ nhân viên là 1.278 người, nhưng số tù nhân hiện tại là hơn 7.000 người (con số dao động hàng ngày).
Cấu trúc của nhà tù
Kể từ khi được thành lập vào năm 1964, nhà tù đã được mở rộng một cách có hệ thống, do đó Pollsmoor ngày nay bao gồm năm nhà tù:
Nhà tù cũng có một số cơ sở hỗ trợ đào tạo tù nhân nhằm giảm thiểu tái phạm khi được thả, chẳng hạn như một nhà hàng mở cửa cho công chúng.
Trung tâm tuyển sinh
Trung tâm Tiếp nhận Pollsmoor (trước đây là "Nhà tù Tối đa" ) là nhà tù lớn nhất trong số năm nhà tù tạo nên Khu vực Quản lý Pollsmoor . Phần lớn trong số khoảng 3.200 tù nhân của nó (gần một nửa tổng số tù nhân của Pollsmoor) là những tù nhân đang chờ xét xử không bị tuyên án, hoặc những tù nhân bị kết án phải đối mặt với các tội danh khác. Là một nhà tù chờ xét xử (hoặc trung tâm tạm giam), dân số của nó liên tục thay đổi. Hàng ngày, khoảng 300 tù nhân được sắp xếp để hầu tòa tại nhiều tòa án khác nhau xung quanh Cape Town . Một số trở về với tư cách là tù nhân bị kết án, những người khác không hề trở lại, nhưng một số lớn quay trở lại phòng giam của họ để chờ ngày ra tòa trong tương lai, đôi khi xa đến tận sáu tháng sau.
Trung tâm Tiếp nhận Pollsmoor tiếp nhận các tù nhân do tòa án gửi đến. Nó quá đông đúc, giam giữ số lượng tù nhân nhiều hơn gấp đôi so với thiết kế. Cho đến nay phần lớn tù nhân sống trong các phòng giam chung, trong đó có tới 40 tù nhân ngủ trên giường đôi và giường ba. Ngay cả những phòng giam nhỏ xíu (2,5 x 2 mét) cũng có một hoặc ba tù nhân chiếm giữ. |
19847695 | 942324 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847695 | Nô lệ tiền lương | Nô lệ tiền lương là một thuật ngữ dùng để chỉ tình trạng người lao động bị doanh nghiệp bóc lột sức lao động. Nó xảy ra khi người lao động phải làm việc vất vả với mức lương thấp, không đủ trang trải cuộc sống. Tình trạng này đặc biệt nghiêm trọng khi người lao động còn phải chịu điều kiện làm việc tồi tệ và không có cơ hội thăng tiến.
Sự tương đồng giữa lao động hưởng lương và chế độ nô lệ đã được ghi nhận từ thời cổ đại. Với sự ra đời của Cách mạng Công nghiệp, các nhà tư tưởng như Proudhon và Marx đã phát triển sự so sánh này, đồng thời phê phán công việc và sự phi nhân tính do máy móc mang lại. Việc giới thiệu lao động hưởng lương vào thế kỷ 18 ở Anh đã vấp phải sự phản kháng, dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa công đoàn và chủ nghĩa vô chính phủ.
Trước Nội chiến Mỹ, những người ủng hộ chế độ nô lệ ở miền Nam so sánh nô lệ với công nhân ở miền Bắc để biện minh cho chế độ nô lệ. Tuy nhiên, sau Nội chiến, những nhà hoạt động công đoàn ở miền Bắc lại sử dụng khái niệm "nô lệ tiền lương" để phản đối điều kiện lao động của công nhân. |
19847696 | 851565 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847696 | Ẩm thực Liechtenstein | Ẩm thực Liechtenstein là một nền ẩm thực đa dạng và phong phú, chịu ảnh hưởng từ các quốc gia láng giềng như Thụy Sĩ và Áo. Pho mát và xúp là những phần không thể thiếu trong ẩm thực Liechtenstein. Các chế phẩm sữa cũng rất phổ biến bởi sự mở rộng của chúng. Bên cạnh đó, rau xanh, khoai tây và bắp cải là các loại rau phổ biến ở đất nước này. Các loại thịt được tiêu thụ rộng rãi bao gồm thịt bò, gà và lợn. Việc ăn 3 bữa một ngày là phổ biến và các bữa ăn thường được bày biện một cách thịnh soạn. |
19847698 | 872953 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847698 | Động đất Qeshm 2008 | Động đất Qeshm 2008 () là trận động đất xảy ra vào lúc 06:30 (theo giờ địa phương), ngày 10 tháng 9 năm 2008. Trận động đất có cường độ 5.9 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 8 km. Hậu quả trận động đất đã làm 7 ngườ chết, 45 người bị thương. |
19847699 | 925838 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847699 | Chủ tịch Thượng viện (Anh) | Chủ tịch Thượng viện là chủ tịch và là người có thẩm quyền cao nhất của Thượng viện trong Quốc hội Anh. Chức vụ này có vai trò tương đồng như Chủ tịch Hạ viện. Chủ tịch Thượng viện được bầu nên bởi các thành viên của Thượng viện với mong muốn trở thành một người công bình trong chức vụ và các quyền hạn.
Cho đến tháng Bảy năm 2006, chức vụ Chủ tịch Thượng viện được đảm nhận bởi Đại Chưởng ấn Anh. Theo Đạo luật Cải cách Hiến pháp năm 2005, chức vụ chủ tịch Thượng viện (như được gọi trong Đạo luật) đã trở thành một chức vụ riêng biệt, và có thể được trao cho một cá nhân khác ngoài Đại Chưởng ấn. Tuy nhiên, Đại Chưởng ấn tiếp tục đóng vai trò là người phát ngôn, chủ tịch của Thượng viện trong một thời gian ngắn sau khi Đạo luật được thông qua khi Thượng viện xem xét các thỏa thuận mới chức vụ Chủ tịch Thượng viện.
Chủ tịch Thượng viện đương nhiệm là John McFall, Nam tước McFall của Alcluith.
Lịch sử.
Năm 2003, sau quyết bãi bỏ hoàn toàn chức vụ, vai trò của Đại Chưởng ấn của Thủ tướng Blair, một ủy ban của Thượng viện đã xem xét về vấn đề Chủ tịch Thượng viện, bao gồm cả tước hiệu của người được bầu làm Chủ tịch Thượng viện. Cũng theo đề xuất của ủy ban này, chức vị mới này sẽ có cái tên như chúng ta đã biết ngày nay - Chủ tịch Thượng viện, và từ 25 phó Chủ tịch đã giảm xuống còn 12. Cái tên "Chủ tịch Thượng viện" được chọn một phần vì nó đã được sử dụng bởi Ủy ban thường trực của Hoàng gia.
Vai trò (Đang dịch).
Vai trò chính của Chủ tịch Thượng viện là tham gia, đồng thời góp ý vào các cuộc tranh luận của Thượng viện về những quy tắc và thủ tục, đồng thời chịu trách nhiệm chính thức về an ninh tại các khu vực của Điện Westminster do Thượng viện quản lý, phát ngôn cho Thượng viện trong các dịp lễ và sự kiện, cũng như đại diện cho Thượng viện và các Đại sứ quán Anh ở nước ngoài.
Chức vụ này có đôi phần ít quyền hạn hơn so với Chủ tịch Hạ viện. Thượng viện phần lớn tự quản, và Chủ tịch Thượng viện cũng đóng một vai trò kém linh hoạt, chủ động hơn trong các cuộc tranh luận so với Chủ tịch Hạ viện. Ví dụ, khác với Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Thượng viện không thể yêu cầu các nghị sĩ trật tự, đề ra người phát biểu trước khi có nhiều luồng ý song song kiến được đưa ra cùng lúc, khai trừ các thành viên vi phạm các điều khoản Luật của Thượng viện, hoặc chọn các sửa đổi đối với dự luật—tất cả các chức năng này đều được thực hiện bởi toàn bộ Thượng viện, không đến từ cá nhân chủ tịch Thượng viện. Tương tự, trong khi các bài phát biểu tại Hạ viện được gửi trực tiếp tới Chủ tịch Thượng viện thì cũng là đang được gửi tới toàn thể Hạ viện; ..., và những bài phát biểu được bắt đầu với "Thưa lãnh quan" thay vì "Thưa Chủ tịch Thượng viện". Trên thực tế, nhiệm vụ duy nhất của Chủ tịch Thượng viện là chính thức đặt câu hỏi trước các cuộc bỏ phiếu, công bố kết quả của bất kỳ cuộc bỏ phiếu nào và đưa ra một số thông báo nhất định cho Thượng viện. (ví dụ như thông báo về cái chết của một nghị sĩ). Đồng thời,Chủ tịch Thượng viện có thể chấm dứt việc hoãn các cuộc họp Thượng viện trong những trường hợp khẩn cấp.
Chủ tịch Thượng viện đã đảm nhận hầu hết các nhiệm vụ mà Đại Chưởng ấn từng đảm nhiệm liên quan đến những vai trò nghị viện của chức vụ này. Tuy nhiên, Đại Chưởng ấn vẫn tiếp tục được thay mặt cho toàn thể Quốc hội đọc những bài phát biểu trước Nhà vua trong phần Lễ khai mạc của một buổi họp Quốc hội.
The debate was renewed with proposals put forward by a Leader's Group (an "ad hoc" committee) led by Alastair Goodlad. The proposals include allowing the Lord Speaker, during Question Time and ministerial statements, to take on the role of advising the House which party should speak next when there is a dispute. The Leader of the House of Lords, a Government minister, currently handles this task. The decision of who should speak would ultimately remain with the House. A similar proposal was made by the committee that initially discussed the new office. A further option would allow the Speaker even more power during Question Time, but it was not recommended by the Leader's Group. The Group's report has yet to be approved.
Like the Speaker of the House of Commons, but unlike the Lord Chancellor (who was also a judge and a government minister), the Lord Speaker is expected to remain non-partisan whilst in office. On election, the Lord Speaker resigns the party whip or crossbench group and certain outside interests to concentrate on being an impartial presiding officer.
Bầu cử (Đang dịch).
The Lord Speaker is elected for a maximum term of five years, and may serve a maximum of two terms. The election is conducted using the alternative vote method. Under amendments made on 3 May 2011, elections must be held by 15 July of the final year of a term, with the new term beginning on 1 September. When Helene Hayman, Baroness Hayman, was elected the first Lord Speaker, the Clerk of the Parliaments (the chief clerk of the House of Lords) announced the result, and the Lord Chamberlain announced the Queen's confirmation of the choice. The Lord Speaker thus elected then replaced the Lord Chancellor on the Woolsack.
Quyền lợi và nghĩa vụ (Đang dịch).
By Royal Warrant on 4 July 2006, the Queen declared that the Lord Speaker would have rank and precedence immediately after the Speaker of the House of Commons. The Lord Speaker earns a salary of £104,360, less than the Speaker of the House of Commons, though the Speaker of the House of Commons' salary includes £81,932 paid for being an MP. The Lord Speaker, like the Speaker of the House of Commons, is entitled to a grace and favour apartment in the Parliamentary Estate.
Like the Lord Chancellor, the Lord Speaker wears court dress with a plain black silk gown while presiding over the House and a black silk damask and gold lace ceremonial gown on state occasions. To date holders of the office have chosen not to wear a wig, as the Lord Chancellor previously did, though they do have the option. When presiding over debates, the Lord Speaker sits on the Woolsack.
Before each day's sitting of the House of Lords, the Lord Speaker forms part of a procession that marches from the Lord Speaker's residence to the Lords Chamber. The Lord Speaker is preceded by the Deputy Serjeant-at-Arms or Principal Doorkeeper of the House (who bears the Mace). The procession is joined by the Gentleman Usher of the Black Rod in the Prince's Chamber. Together, they move through the Not-content Lobby, entering the Chamber below the bar, and finish by walking up the Temporal (opposition) side toward the Woolsack. The Mace is placed on the Woolsack, where the Lord Speaker sits after a bishop has led the House in prayers.
When the Sovereign appoints Lords Commissioners to perform certain actions on his or her behalf (for example, to open or prorogue Parliament, or formally declare Royal Assent), the Lord Speaker is one of them. The other Lords Commissioners, by convention, are the Leader of the House (who has acted as the principal Commissioner since the Lord Chancellor's functions were transferred to the Lord Speaker), the leaders of the other two major parties in the Lords, and the Convenor of the Crossbenches.
New peers, upon being introduced in the House of Lords, shake hands with the Lord Speaker after taking the oath (or making affirmation). |
19847705 | 780814 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847705 | Christian Ulrich II, Công tước xứ Württemberg-Wilhelminenort | Christian Ulrich II (27 tháng 1 năm 1691 tại lâu đài Vielguth gần Oleśnica – 7 tháng 2 năm 1734 tại Stuttgart) là Công tước cai trị xứ Württemberg-Wilhelminenort. |
19847711 | 780814 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847711 | Karl Friedrich II, Công tước xứ Württemberg-Oels | Karl Friedrich II của Württemberg-Oels (7 tháng 2 năm 1690 tại Merseburg – 14 tháng 12 năm 1761 tại Oleśnica) là công tước cai trị xứ Oels-Württemberg và nhiếp chính của Công quốc Württemberg. |
19847722 | 738385 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847722 | Jonny Kim | Jonathan Yong Kim (sinh ngày 5 tháng 2 năm 1984) là một thiếu tá hải quân, cựu đặc nhiệm SEAL, phi công hải quân, bác sĩ và phi hành gia NASA người Mỹ gốc Hàn.
Sinh ra và lớn lên tại California, Kim đã gia nhập Hải quân Hoa Kỳ vào đầu những năm 2000 trước khi nhận tấm Huân chương Sao bạc danh giá. Trong thời gian làm thủy thủ, Kim còn nhận bằng Cử nhân Nghệ thuật về toán học loại giỏi, đạt danh hiệu Tiến sĩ y khoa, và được chấp nhận vào Nhóm phi hành gia NASA 22 vào năm 2017. Anh đã hoàn thành khóa đào tạo phi hành gia vào năm 2020 và đang chờ chỉ định nhiệm vụ bay với chương trình Artemis.
Cuộc đời và giáo dục.
Jonathan Yong Kim chào đời ngày 5 tháng 2 năm 1984 ở Los Angeles, California. Bố mẹ anh đã di cư từ Hàn Quốc đến Hoa Kỳ vào những năm đầu thập niên 1980, và cha anh vẫn chưa hoàn thành chương trình giáo dục trung học. Gia đình Kim mở một cửa hàng rượu ở South Los Angeles, còn mẹ anh làm giáo viên dạy thay ở một trường tiểu học trong khi nuôi nấng Kim cùng em trai. Năm 2018, trong một cuộc phỏng vấn với tập san "Annals of Emergency Medicine", Kim mô tả bản thân là "điển hình của một đứa trẻ trầm tính và cực kỳ thiếu tự tin". Năm 2020, tờ "Chosun Ilbo" đưa tin rằng Kim từng là nạn nhân của bạo lực gia đình dưới bàn tay của cha mình; vào tháng 2 năm 2002, sau khi dùng súng đe dọa cả nhà, cha của Kim đã bị cảnh sát bắn chết trên gác mái.
Tại trường cấp ba Santa Monica, Kim đã nhận được điểm cao trong các môn học, bao gồm nhiều môn thuộc các khóa đào tạo Advanced Placement. Ngoài thời gian lên lớp, anh còn tham gia bơi lội và chơi bóng nước. Anh tốt nghiệp cấp ba vào năm 2002. Năm 2012, Kim nhận bằng Cử nhân Nghệ thuật hạng ưu về toán học của Đại học San Diego, và sau đó là bằng Tiến sĩ y khoa của Trường Y Harvard vào năm 2016. Anh là một trong số những người được chọn trở thành "Tillman Scholar" (tạm dịch: Học giả Tillman) của Quỹ Pat Tillman. Năm 2017, anh hoàn thành khóa thực tập y khoa về cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts và Bệnh viện Brigham and Women.
, Kim đã kết hôn và có ba người con.
Sự nghiệp.
Hải quân Hoa Kỳ.
Kim đã tìm hiểu và quyết định trở thành đặc nhiệm SEAL ở tuổi 16. Anh đầu tư những năm trung học còn lại của mình để rèn luyện thể chất cho sự khắc nghiệt của quá trình huấn luyện Chiến tranh Đặc biệt. Về quyết định này, Kim nói, "Gia nhập Hải quân là quyết định đúng đắn nhất mà tôi từng đưa ra trong đời vì nó đã biến đổi tôi hoàn toàn từ cậu bé sợ hãi, không có ước mơ nào thành một người bắt đầu tin tưởng vào bản thân mình."
Sau khi gia nhập Hải quân Hoa Kỳ vào năm 2002 với tư cách là thủy thủ nhập ngũ, Kim tốt nghiệp lớp 247 của khóa huấn luyện BUD/S và được bổ nhiệm vào SEAL Team 3 với quân hàm Special Warfare Operator. Anh đã hai lần được triển khai đến Trung Đông và tham gia hơn 100 nhiệm vụ chiến đấu với tư cách là lính cứu thương, lính bắn tỉa, hoa tiêu và lính trinh sát. Trong thời gian làm đặc nhiệm SEAL, Kim đã phục vụ cùng với các hạ sĩ bậc hai Marc Alan Lee và Michael A. Monsoor. Năm 2009, Kim được nhận vào chương trình STA-21. Sau khi tốt nghiệp Đại học San Diego vào năm 2012 và rời Quân đoàn Huấn luyện Sĩ quan Dự bị Hải quân, anh đã gia nhập Quân đoàn Y tá.
Ngày 6 tháng 6 năm 2022, Kim đã hoàn thành chuyến bay đơn đầu tiên trên chiếc Beechcraft T-6 Texan II ở Bộ tư lệnh Huấn luyện Không lực Hải quân, là một phần trong chế độ huấn luyện chung cho các phi hành gia NASA thuộc Hải quân Hoa Kỳ chưa có kinh nghiệm phi công quân sự trước đó. Sau khi được đào tạo thêm trên trực thăng Northrop T-38 Talon và TH-57, Kim đã chính thức hoàn thành khóa huấn luyện bay vào tháng 3 năm 2023 tại Trạm Không quân Hải quân Whiting Field, khiến anh trở thành nhân vật hiếm hoi đồng thời đủ tiêu chuẩn bác sĩ phẫu thuật bay và phi công hải quân.
Trong sự nghiệp Hải quân của mình, Kim đã được trao Huân chương Sao bạc, Huân chương Sao đồng (với chữ "V" in), Huân chương Tuyên dương của Hải quân và Thủy quân lục chiến (với chữ "V" in), và Ruy băng Hành động Chiến đấu. Theo Jocko Willink, Kim được trao tặng Ngôi sao Bạc vì đã có công giải cứu nhiều binh sĩ Iraq bị thương trước hỏa lực của kẻ thù. , Kim vẫn được xem là lính SEAL với cấp bậc thiếu tá hải quân.
NASA.
Khi đang theo học tại Trường Y Havard, Kim đã gặp gỡ và được truyền cảm hứng bởi nhà du hành vũ trụ–bác sĩ Scott E. Parazynski để đăng ký làm ứng viên phi hành gia. Ngày 7 tháng 6 năm 2017, Kim là một trong 12 người được chọn từ hơn 18.300 ứng viên ban đầu để gia nhập Nhóm phi hành gia NASA 22. Anh báo cáo tại Trung tâm vũ trụ Johnson vào ngày 21 tháng 8 năm 2017, và tốt nghiệp khóa huấn luyện vào ngày 10 tháng 1 năm 2020.
Theo NASA, Kim sẽ làm việc tại Văn phòng Phi hành gia trong thời gian chờ đợi chỉ định nhiệm vụ bay. Ngày 9 tháng 12 năm 2020, NASA chính thức thông báo rằng Kim sẽ cùng 17 phi hành gia khác tham gia quá trình huấn luyện cho cuộc đổ bộ lên Mặt Trăng vào năm 2024. |
19847728 | 780814 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847728 | Karl Alexander, Công tước xứ Württemberg | Karl Alexander của Württemberg (24 tháng 1 năm 1684 – 12 tháng 3 năm 1737) là Công tước xứ Württemberg từ năm 1698 cho đến khi qua đời, người cai trị Vương quốc Serbia với tư cách nhiếp chính từ năm 1720 đến năm 1733. |
19847731 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847731 | Kết luận tư vấn của Tòa án Quốc tế về tính hợp pháp của việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân | Tính hợp pháp của việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân [1996 ICJ 3] là một vấn đề pháp luật quốc tế bước ngoặc. Tòa án Quốc tế có kết luận tư vấn rằng tuy thông thường sẽ vi phạm luật nhân đạo quốc tế nhưng không thể xác định việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân có hợp pháp hay không trong trường hợp sự tồn vong của một nhà nước đang lâm nguy. Tòa án Quốc tế kết luận rằng không có một nguồn của pháp luật quốc tế cho phép hoặc cấm việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân nhưng phải phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc và các nguyên tắc của luật nhân đạo quốc tế. Tòa án Quốc tế cũng kết luận các nước có nghĩa vụ thực hiện giải trừ hạt nhân.
Ngày 3 tháng 9 năm 1993, Tổ chức Y tế Thế giới yêu cầu Tòa án Quốc tế có một kết luận tư vấn về vấn đề này nhưng bị từ chối vì đã vượt quyền hạn của tổ chức. Tháng 12 năm 1994, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc yêu cầu một kết luận tư vấn và được Tòa án Quốc tế thụ lý đơn vào tháng 1 năm 1995.
Khả năng cấm sử dụng vũ khí hạt nhân trong xung đột vũ trang được , đại diện Hà Lan trong Ủy ban Pháp luật Quốc tế, đề cập lần đầu tiên vào ngày 30 tháng 6 năm 1950. Ngoài ra, chính phủ Ba Lan đề nghị Ủy ban Pháp luật Quốc tế xem xét việc sử dụng vũ khí hạt nhân có phải là một tội ác chống lại hòa bình hay không.
Yêu cầu của Tổ chức Y tế Thế giới.
Ngày 3 tháng 9 năm 1993, Tổ chức Y tế Thế giới có yêu cầu một kết luận tư vấn như sau:
Tòa án Quốc tế xem xét yêu cầu của Tổ chức Y tế Thế giới từ năm 1993 đến năm 1996. Ban đầu Tòa án Quốc tế ấn định ngày 10 tháng 6 năm 1994 là hạn chót để đệ trình bản báo cáo bằng văn bản nhưng gia hạn đến ngày 20 tháng 9 năm 1994. Ngày 8 tháng 7 năm 1996, Tòa án Quốc tế biểu quyết bác đơn của Tổ chức Y tế Thế giới với 11 phiếu thuận, 3 phiếu chống, lấy lý do vấn đề vũ khí hạt nhân nằm ngoài nhiệm vụ, quyền hạn của Tổ chức Y tế Thế giới.
Yêu cầu của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc.
Ngày 15 tháng 12 năm 1994, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua Nghị quyết A/RES/49/75K, yêu cầu Tòa án Quốc tế có kết luận tư vấn về vấn đề sau:
Nghị quyết được thông qua với 78 nước biểu quyết thuận, 43 nước biểu quyết chống, 38 nước biểu quyết trắng và 26 nước không tham gia biểu quyết. Yêu cầu được trình Tòa án Quốc tế vào ngày 19 tháng 12.
Ngay từ mùa thu năm 1993, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc đã cân nhắc yêu cầu một kết luận tư vấn từ Tòa án Quốc tế theo đề nghị của Phong trào không liên kết. Sau khi một số nước sở hữu vũ khí hạt nhân trình bày quan điểm phản đối đơn của Tổ chức Y tế Thế giới thì Phong trào quyết định ra Tòa án Quốc tế. Tòa án Quốc tế ấn định ngày 20 tháng 6 năm 1995 làm ngày đệ trình các bản báo cáo bằng văn bản của các nước.
Tổng cộng 42 nước đệ trình các bản cáo bằng văn bản, là số lượng quốc gia tham gia tố tụng lớn nhất trước Tòa án Quốc tế. Trong năm thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, chỉ Trung Quốc không tham gia vụ việc. Trong ba nước có tiềm năng sở hữu vũ khí hạt nhân, chỉ Ấn Độ tham gia vụ việc. Nhiều nước đệ trình bản báo cáo là nước đang phát triển, thể hiện sự quan tâm, chú ý quốc tế chưa hề có đối với vấn đề vũ khí hạt nhân và sự sốt sắng tham gia tố tụng quốc tế của các nước đang phát triển trong thời kỳ hậu thuộc địa.
Từ ngày 30 tháng 10 đến ngày 15 tháng 11 năm 1995, Tòa án Quốc tế cho phép đệ trình các bản báo cáo bằng lời nói. 20 nước đệ trình bản báo cáo: Úc, Ai Cập, Pháp, Đức, Indonesia, México, Iran, Ý, Malaysia, New Zealand, Philippines, Qatar, Nga, San Marino, Samoa, Quần đảo Marshall, Quần đảo Solomon, Costa Rica, Anh, Hoa Kỳ, Zimbabwe và Tổ chức Y tế Thế giới. Ban Thư ký Liên Hợp Quốc nộp hồ sơ về quá trình soạn thảo, thông qua Nghị quyết 49/75K. Mỗi quốc gia, tổ chức có 90 phút để trình bày quan điểm về vụ việc. Ngày 8 tháng 7 năm 1996, Tòa án Quốc tế ra quyết định.
Quyết định của Tòa án Quốc tế.
Thành phần.
Tòa án Quốc tế gồm 15 thẩm phán do Đại Hội đồng và Hội đồng Bảo an bầu ra. Nhiệm kỳ của thẩm phán Tòa án Quốc tế là chín năm. Tòa án Quốc tế có thể có những kết luận tư vấn theo yêu cầu của một cơ quan Liên Hợp Quốc. Kết luận tư vấn không cấu thành một án lệ.
Phân tích của Tòa án Quốc tế.
Răn đe và "đe dọa".
Tòa án Quốc tế xem xét việc đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân trong những trường hợp nhất định với mục đích răn đe có hợp pháp hay không. Tòa án Quốc tế quyết định rằng nếu việc đe dọa tấn công hạt nhân trả đũa là cần thiết và cân xứng về mặt quân sự thì không nhất thiết là vi phạm pháp luật quốc tế.
Tính hợp pháp của việc sở hữu vũ khí hạt nhân.
Tòa án Quốc tế xem xét tính hợp pháp của việc sở hữu vũ khí hạt nhân. Sau khi nghiên cứu các điều ước quốc tế, bao gồm Hiến chương Liên Hợp Quốc, Tòa án Quốc tế kết luận không có một điều ước quốc tế nào dứt khoát cấm sở hữu vũ khí hạt nhân
Tính hợp pháp của việc đe dọa hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân.
Tòa án Quốc tế xem xét việc sử dụng vũ khí hạt nhân có hợp pháp hay không dưới những điều khoản của Hiến chương Liên Hợp Quốc về việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực. Tòa án Quốc tế kết luận Hiến chương Liên Hợp Quốc không cấm hoặc cho phép sử dụng bất kỳ vũ khí cụ thể nào, bao gồm vũ khí hạt nhân. Một thứ vũ khí đã bị điều ước hoặc tập quán quốc tế cấm không thể trở thành hợp pháp chỉ vì được sử dụng vì một mục đích chính đáng theo Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Tòa án Quốc tế xem xét các điều khoản, quy định của các điều ước quốc tế và tập quán quốc tế về vũ khí hạt nhân. Tòa án Quốc tế kết luận rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân không bị cấm theo những điều khoản của các công ước Den Haag 1889 và 1907 về vũ khí vi khuẩn hoặc hóa học.
Đối với những điều ước quốc tế về việc mua, sản xuất, sở hữu, triển khai và thử nghiệm vũ khí hạt nhân, Tòa án Quốc tế lưu ý rằng những điều ước này thể hiện sự quan tâm, lo ngại quốc tế đối với vũ khí hạt nhân và có thể được coi là báo hiệu khả năng cấm vũ khí hạt nhân trong tương lai nhưng tự bản thân nó không phải là một lệnh cấm. Đối với những điều ước quốc tế khu vực, Tòa án Quốc tế lưu ý rằng tuy thể hiện sự nhận thức của cộng đồng quốc tế về nguy cơ của vũ khí hạt nhân nhưng những điều ước này không cấu thành một tập quán quốc tế phổ biến cấm việc sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân.
Tập quán quốc tế cũng không cung cấp đủ cơ sở để xác định việc sở hữu vũ khí hạt nhân được công nhận là bất hợp pháp.
Sau cùng, Tòa án Quốc tế kết luận không có một sự xác tín pháp lý rằng việc sở hữu vũ khí hạt nhân là bất hợp pháp. Tuy vũ khí hạt nhân đã không được sử dụng trong chiến tranh từ năm 1945 và đã có vô số nghị quyết Liên Hợp Quốc lên án việc sử dụng vũ khí hạt nhân nhưng Tòa án Quốc tế kết luận những sự kiện này không cấu thành một tập quán quốc tế mới tuyệt đối cấm vũ khí hạt nhân.
Tuy nhiên, có nhiều luật nhân đạo quốc tế được áp dụng trong chiến tranh. Ví dụ: nước tham chiến không được tấn công thường dân và một số loại vũ khí sát thương không phân biệt bị cấm. Tòa án Quốc tế kết luận rằng những luật nhân đạo quốc tế này được áp dụng đối với việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Tòa án Quốc tế không có kết luận về việc sử dụng vũ khí hạt nhân có hợp pháp hay không như một phương sách cuối cùng trong trường hợp sự tồn vong của một nhà nước đang lâm nguy.
Quyết định.
Tòa án Quốc tế biểu quyết thông qua bảy kết luận:
Kết quả biểu quyết như sau:
Kết luận thứ sáu.
Đối với kết luận thứ sáu, bảy thẩm phán Tòa án Quốc tế biểu quyết chống. Tuy nhiên, ba trong số bảy thẩm phán (Thẩm phán Shahabuddeen, Weeramantry và Koroma) giải thích rằng sở dĩ biểu quyết chống là vì họ cho rằng không có ngoại lệ cho nguyên tắc việc sử dụng vũ khí hạt nhân là bất hợp pháp (kể cả trường hợp sự tồn vong của một nhà nước đang lâm nguy). Thẩm phán Oda biểu quyết chống vì cho rằng Tòa án Quốc tế ngay từ đầu không nên thụ lý đơn yêu cầu kết luận tư vấn.
Trong ý kiến phản đối của mình, Phó Chủ tịch Schwebel lập luận rằng:
Và Thẩm phán Higgins lưu ý rằng bà không |
19847733 | 780814 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847733 | Friedrich August, Công tước xứ Württemberg-Neuenstadt | Frederick Augustus của Württemberg-Neuenstadt (12 tháng 3 năm 1654, tại Neuenstadt am Kocher – 6 tháng 8 năm 1716, tại Gochsheim ) là Công tước xứ Württemberg và cũng là Công tước xứ Württemberg-Neuenstadt. |
19847734 | 641111 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847734 | Chữ Lai Tay | Chữ Lai Tay là chữ viết được sử dụng bởi người Tay Dọ ở huyện Quỳ Châu, Nghệ An, Việt Nam.
Tên gọi.
Tên "Lai Tay" có nghĩa là "chữ viết của người Thái" trong tiếng Tay Dọ. Nó còn được gọi bằng nhiều tên khác chẳng hạn như "chữ Tay Dọ", "chữ Thái Nghệ An", "chữ Thái Lai Tay", "chữ thái Quỳ Châu".
Nguồn gốc.
Chữ Lai Tay được phân loại là một chữ viết thuộc hệ chữ Khmer bởi nhà ngôn ngữ học Ferlus, và được chia làm hai nhóm:
Ferlus cho rằng các sắc tộc Thái đều áp dụng cùng một mẫu chữ viết đầu tiên được vay mượn từ chữ Khmer, bằng cách tiếp xúc đơn giản trong quá trình trao đổi, không có sự học hỏi thích hợp. Sau đó người Thái nhập cư và chiếm lĩnh phần lớn Đông Nam Á. Các chữ viết ngoại biên vẫn giữ nhiều đặc điểm chữ viết nguyên thủy gốc Khmer, chẳng hạn như giá trị ngữ âm tiền Angkor của một số chữ cái, thiếu thứ tự chữ cái và chữ số. Các chữ viết dân tộc Thái được truyền bá sang Việt Nam sớm nhất là vào thế kỉ XVI.
Đặc điểm.
Chữ Lai Tay có 29 phụ âm (trong đó có 8 phụ âm được đặt ở vị trí cuối âm tiết) và 13 ký tự nguyên âm (nhiều nguyên âm được đặt dưới phụ âm, số khác đặt bên phải). Khác với các chữ viết Thái khác, chữ viết này vẫn là chữ abugida thật sự, và phụ âm viết không có ký tự nguyên âm được phát âm bằng nguyên âm <o> ([ɔ]). Chữ viết có 9 chữ ghép cho các tổ hợp nguyên âm và phụ âm cuối.
Chữ viết này được viết dọc từ trên xuống dưới và từ phải sang trái theo mô hình chữ viết Trung Quốc. Sự đổi mới này là duy nhất ở Đông Nam Á và được giải thích rất rõ ràng bởi ảnh hưởng của chữ viết Trung Quốc; Các học giả Thái thấy thuận tiện hơn khi biên dịch từ chữ Thái sang chữ Trung để áp dụng hướng viết chung cho cả hai chữ viết. Bố cục của chữ viết này khác biệt rõ rệt so với các chữ viết lân cận và loại cũ dùng làm mô hình cho loại dọc không còn được xác định nữa.
Chữ viết không có ký hiệu thanh điệu và chủ yếu được viết không có dấu câu (trong một số bản viết tay giống hệt như các dấu câu Trung Quốc). Chữ viết không có chữ số và được đánh vần ra theo truyền thống.
Mức sử dụng chữ viết.
Chữ Lai Tay không còn được sử dụng phổ biến nữa, nhưng có đủ bản viết tay cho phép nghiên cứu ngôn ngữ (một số học giả Tay Dọ già vẫn có thể đọc chúng). Các bản viết tay được bảo tồn trong cả bộ sưu tập riêng tư và cá nhân. Hiện nay chữ viết được giảng dạy và nghiên cứu trong các cộng đồng Tay Dọ, với sự giúp đỡ của UBND huyện và giáo viên.
Unicode.
Chữ viết này đã được đề xuất để mã hóa vào Unicode. |
19847744 | 159216 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847744 | Dưa Bạch Lan | Dưa Bạch Lan () là một loại dưa nổi tiếng ở địa phương được trồng gần Lan Châu, tỉnh Cam Túc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đây là một loại dưa lê, hình cầu đến gần giống dạng cầu và thường có vỏ màu trắng với thịt ngọt, màu trắng hoặc xanh nhạt. Trong các bức ảnh, quả dưa có màu vàng nhạt, cam hoặc trắng, với thịt màu xanh nhạt hoặc vàng mơ, khiến nó có hình dáng tương tự như các loại dưa khác trong nhóm trồng dưa thật. Nó cũng nặng do mật độ của thịt bên trong quả. Giống như các loại dưa lê khác, dưa Bạch Lan rất giàu Vitamin C và protein.
Theo nguồn tài liệu của phía Trung Quốc, loại dưa này được Phó Tổng thống Hoa Kỳ Henry A. Wallace giới thiệu đến Trung Quốc, chính ông đã tặng hạt dưa cho người dân địa phương khi đến thăm vào thập niên 1940. Wallace có nền tảng về nông nghiệp và đã thành lập một công ty hạt giống lớn mang tên Pioneer Hi-Bred. Đây là lý do tại sao người Trung Quốc đôi khi gọi loại dưa này là "Hoa Lai Sĩ" (; phát âm phỏng theo tên "Wallace").
Dưỡng chất.
Giống như một loại dưa, dưa Bạch Lan chứa các hợp chất hoạt tính sinh học (BC) như polyphenol, carotenoid và axit béo. Dưa được coi là phương pháp chữa bệnh tự nhiên có vai trò phòng ngừa các bệnh mãn tính. |
19847748 | 621552 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847748 | Drita Ziri | Drita Ziri (sinh ngày 15 tháng 6 năm 2005) là một hoa hậu, người mẫu và MC đến từ Albania. Cô đăng quang Hoa hậu Trái Đất 2023 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam và trở thành người Albania đầu tiên đăng quang tại Tứ đại Hoa hậu. Cô cũng là người trẻ tuổi nhất ở thời điểm chiến thắng cuộc thi.
Các cuộc thi sắc đẹp.
Hoa hậu Shqipëria 2022.
Ziri tham gia và đăng quang Hoa hậu Shqipëria 2022 vào ngày 3 tháng 7 tại Himarë. Cô được trao vương miện bởi người tiền nhiệm là Anxhela Peristeri, giành quyền đại diện Albania tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn cầu 2022.
Hoa hậu Hoàn cầu 2022.
Ziri tham gia cuộc thi và giành danh hiệu Á hậu 2, đồng thời thắng hai giải thưởng phụ là "Trình diễn áo tắm đẹp nhất" và "Hoa hậu Ảnh".
Hoa hậu Trái Đất 2023.
Ziri được chỉ định tiếp tục trở thành đại diện cho Albania tại cuộc thi Hoa hậu Trái Đất 2023 tại Việt Nam và xuất sắc giành ngôi vị cao nhất. Đăng quang ở tuổi 18, cô trở thành người trẻ tuổi nhất giành chiến thắng trong lịch sử cuộc thi, phá kỷ lục của Hoa hậu Trái Đất 2001 Catharina Svensson đến từ Đan Mạch đăng quang lúc 19 tuổi. |
19847757 | 845147 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847757 | Lịch sử phiên bản iPadOS | iPadOS là hệ điều hành di động dành cho máy tính bảng được phát triển bởi Apple Inc. Nó được phát hành lần đầu tiên dưới dạng bản tinh chỉnh và sửa đổi của iOS bắt đầu từ phiên bản 13.1 vào ngày 24 tháng 9 năm 2019. Trước khi phát hành iPadOS, iPad được phát hành cùng với hệ điều hành của iPhone, sau này được đổi tên thành iOS. Các phiên bản iPadOS mới được phát hành hàng năm, hầu hết đồng bộ với iOS, tvOS và watchOS.
Phát hành.
iPadOS 13.
iPadOS 13 là bản phát hành chính đầu tiên của iPadOS, một nhánh của iOS dành riêng cho iPad nhằm chú trọng vào các tính năng đa nhiệm và các tính năng riêng biệt dành cho máy tính bảng. Nó đã được xuất hiện tại WWDC 2019 của Apple với bản xem trước và được phát hành vào ngày 24 tháng 9 năm 2019 với phiên bản 13.1.
Phiên bản này đã thêm chế độ tối cho giao diện và hỗ trợ Memoji cho iPad được trang bị chip Apple A9 hoặc các chip mới hơn. Các tùy chọn đa nhiệm mới đã được thêm vào để có thể hiển thị nhiều ứng dụng cùng lúc, bao gồm Split View và Slide Over. Các ứng dụng đã nhận được hỗ trợ về tính năng đa cửa sổ. Các cửa sổ này có thể được điều hướng bằng giao diện tương tự như trên macOS. Safari đã có các phím tắt mới và trình quản lý tải xuống, đồng thời được đặt để hiển thị phiên bản trang web dành cho máy tính để bàn theo mặc định, thay vì phiên bản dành cho thiết bị di động. Một tính năng mới, Sidecar, cho phép iPad hoạt động như một màn hình thứ hai cho máy Mac, cho phép sử dụng Apple Pencil với các ứng dụng của máy Mac. Ứng dụng Tệp đã được hỗ trợ đối với các ổ đĩa ngoài, có thể kết nối với iPad bằng USB-C hoặc thông qua Bộ kết nối Camera Lightning dành cho iPad có cổng Lightning. Hỗ trợ sơ bộ cho "chuột" và "bàn di chuột" đã được thêm vào iPadOS 13, và nhận được sự hỗ trợ đầy đủ trong phiên bản iPadOS 13.4.
iPadOS 14.
iPadOS 14 được phát hành vào ngày 16 tháng 9 năm 2020. Bản cập nhật này đã thêm các tiện ích mới trong Chế độ xem Hôm nay, một kệ ở bên trái màn hình chính đầu tiên. Giao diện hệ thống được tiêu chuẩn hóa cho Siri và các ứng dụng gọi thoại như Skype đã được thu nhỏ lại kích thước của thông báo để cho phép người dùng tiếp tục tương tác với ứng dụng đang mở. Spotlight đã được nhận các đề xuất tìm kiếm được cải thiện và kết quả tìm kiếm trên web chi tiết hơn. iPadOS 14 cũng bổ sung hỗ trợ gắn ổ cứng ngoài có hệ thống APFS được mã hóa. |
19847776 | 719515 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847776 | Jorge Lorenzo | Jorge Lorenzo Guerrero (sinh ngày 4 tháng 5 năm 1987) là một cựu tay đua mô tô người Tây Ban Nha. Jorge Lorenzo từng 3 lần giành chức vô địch giải đua xe MotoGP các năm 2010, 2012 và 2015.
Sau khi giải nghệ, Jorge Lorenzo được ban tổ chức MotoGP tặng danh hiệu 'Huyền thoại MotoGP'. Trước đó, vào năm 2013, trường đua Jerez đã vinh danh Jorge Lorenzo bằng cách sử dụng tên của anh đặt tên cho góc cua số 13 của trường đua này.
Sự nghiệp.
2002-2004: 125cc.
Jorge Lorenzo bắt đầu đua xe chuyên nghiệp từ năm 2002, từ giải đua 125cc vô địch thế giới. Trong giai đoạn này anh sử dụng xe Derbi với số xe 48.
Lorenzo giành được chiến thắng thể thức 125cc đầu tiên ở chặng đua MotoGP Brazil 2003. Sang năm 2004 Lorenzo giành được thêm 3 chiến thắng để xếp hạng 4 chung cuộc, là thứ hạng cao nhất trong 3 năm anh thi đấu ở giải 125cc.
2005-2007: 250cc.
Ở mùa giải 250cc đầu tiên (2005) thì Jorge Lorenzo sử dụng xe Honda. Anh có 6 lần lên podium nhưng không giành được chiến thắng nào.
Lorenzo thành công hơn sau khi chuyển sang sử dụng xe Aprilia RSW 250, đã liên tiếp giành được 2 chức vô địch các năm 2006 và 2007.
2008-2019: MotoGP.
2008-2010: Lần đầu làm đồng đội với Valentino Rossi ở Yamaha.
Năm 2008 Jorge Lorenzo được đội đua Yamaha chọn làm tay đua chính, làm đồng đội với tay đua nổi tiếng nhất thời kỳ này là Valentino Rossi.
Ra mắt sân chơi MotoGP, Lorenzo ngay lập tức đã tạo ấn tượng mạnh bằng việc giành được vị trí xuất phát đầu tiên (pole) ở 3 chặng đua đầu tiên của mùa giải 2008 và đã giành chiến thắng MotoGP đầu tiên ở chặng đua MotoGP Bồ Đào Nha. Chiến thắng này giúp cho Lorenzo chiếm được ngôi đầu trên bảng xếp hạng tổng. Tuy nhiên Lorenzo đã không giữ được phong độ đó trong phần còn lại của mùa giải, dần bị tụt xuống vị trí thứ 4 chung cuộc.
Năm 2009 Lorenzo đổi sang số xe 99. Anh cũng thi đấu ổn định hơn, giành được 4 chiến thắng chặng, để giành chức Á quân.
Mùa giải 2010, trong bối cảnh Valentino Rossi phải nghỉ thi đấu nhiều chặng đua ở giai đoạn giữa mùa giải thì Jorge Lorenzo đã vươn lên trở thành chủ lực của đội đua Yamaha. Đây là mùa giải mà Lorenzo giành được nhiều chiến thắng thể thức MotoGP nhất (9 chiến thắng) và đã giành được chức vô địch trước 3 chặng đua sau khi về đích thứ 3 ở chặng đua MotoGP Malaysia. Có thể nói chính Lorenzo là người đã chấm dứt kỷ nguyên thống trị MotoGP của Valentino Rossi.
2011-2012: Trở thành tay đua số 1 của Yamaha.
Trong hai mùa giải 2011 và 2012 thì Jorge Lorenzo có đồng đội mới là tay đua người Mỹ Ben Spies. Ben Spies không tạo được những áp lực như Valentino Rossi nên Jorge Lorenzo giữ được danh hiệu tay đua số 1 của Yamaha một cách khá dễ dàng. Ở trên đường đua thì Lorenzo chủ yếu phải cạnh tranh với các tay đua Repsol Honda.
Mùa giải 2011 Lorenzo sử dụng số xe 01 để bảo vệ danh hiệu vô địch. Đầu mùa giải Lorenzo có phần lép vế hơn Casey Stoner. Đến cuối mùa giải Lorenzo lại bị chấn thương ở chặng đua MotoGP Úc, phải nghỉ 3 chặng đua cuối cùng.
Sang mùa giải 2012, Lorenzo phải đua với một tay đua Repsol Honda khác là Dani Pedrosa. Mặc dù dành được ít chiến thắng chặng hơn Pedrosa (6 so với 7) nhưng Lorenzo có kết quả cao hơn đối thủ ở các chặng đua còn lại. Ngoại trừ 2 chặng đua phải bỏ cuộc ở Assen và Valencia ra thì Lorenzo luôn cán đích ở 2 vị trí đầu tiên. Nhờ thế mà anh đã giành lại được chức vô địch sau chặng đua MotoGP Úc.
2013-2016: Lần thứ hai làm đồng đội với Valentino Rossi ở Yamaha.
Năm 2013 Jorge Lorenzo tái hợp với Valentino Rossi. Hai tay đua Yamaha không chỉ cạnh tranh với nhau mà còn phải vất vả đối phó với thế lực mới nổi Marc Marquez của đội đua Repsol Honda.
Lorenzo vẫn là chủ công của Yamaha ở mùa giải 2013, anh đã giành được tới 8 chiến thắng chặng, tức là nhiều hơn 2 chiến thắng so với Marc Marquez nhưng vẫn phải nhường chức vô địch cho đối thủ với chỉ 4 điểm ít hơn. Lý do chính là việc Lorenzo phải nghỉ chặng đua ở Đức vì chấn thương, đó cũng là chặng đua duy nhất trong mùa giải 2013 mà Lorenzo không có điểm số nào.
Mùa giải 2014 chứng kiến sự thống trị tuyệt đối của Marc Marquez. Phải chờ đến giai đoạn cuối mùa giải thì các tay đua Yamaha mới giành được chiến thắng. Với Lorenzo là những chiến thắng ở Aragon và Nhật Bản. Kết thúc mùa giải Lorenzo lần đầu xếp sau người đồng đội của mình kể từ năm 2009.
Mùa giải 2015 mặc dù giành được nhiều chiến thắng chặng hơn nhưng tính về điểm số thì Jorge Lorenzo mới là người phải đuổi theo Valentino Rossi trong cuộc đua vô địch. Chặng đua áp chót ở Malaysia xảy ra tình huống Valentino Rossi đạp ngã Marc Marquez. Vì lỗi này mà Rossi bị phạt phải xuất phát cuối cùng ở chặng đua cuối cùng của mùa giải ở Valencia. Jorge Lorenzo đã tận dụng tối đa cơ hội để giành chiến thắng và đoạt luôn chức vô địch, ghi được nhiều hơn Rossi 5 điểm.
Mùa giải 2016 là mùa giải cuối cùng Jorge Lorenzo thi đấu cho Yamaha. Anh giành được thêm 4 chiến thắng, xếp thứ 3 chung cuộc sau Marquez và Rossi.
2017-2018: Ducati.
Năm 2017 Jorge Lorenzo chuyển sang thi đấu cho đội đua Ducati Corse. Việc chuyển từ chiếc xe động cơ Inline4 (Yamaha) sang chiếc xe động cơ V4 khiến cho Lorenzo gặp nhiều khó khăn ở mùa giải đầu tiên. Kết quả tốt nhất trong mùa giải 2017 của Lorenzo chỉ là 1 lần về đích ở vị trí thứ 2, đạt được ở chặng đua MotoGP Malaysia vào cuối mùa.
Phải mất hơn 1 năm làm quen với chiếc xe thì Lorenzo mới tìm lại hương vị chiến thắng ở mùa giải 2018, bắt đầu bằng chiến thắng chặng đua MotoGP Ý và ngay sau đó là chặng đua MotoGP Catalunya. Song đây cũng là thời điểm mà Lorenzo quyết định rời Ducati để chuyển sang Repsol Honda.
Cuối mùa giải 2018, Lorenzo bị chấn thương chân ở chặng đua MotoGP Aragon sau pha va chạm với Marc Marquez. Chấn thương này không những khiến anh phải nghỉ thi đấu nhiều chặng đua cuối mùa mà còn ảnh hưởng đến phong độ trong năm 2019.
2019: Honda.
Năm 2019 Jorge Lorenzo chuyển sang thi đấu cho đội đua Repsol Honda theo bản hợp đồng có thời hạn 2 năm. Nhưng do bị nhiều chấn thương nên Lorenzo đã không có được thành tích tốt, hoàn toàn lép vế trước người đồng đội Marc Marquez.
Lorenzo và Honda đã thống nhất chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Đến cuối mùa giải 2019 Lorenzo thông báo giải nghệ. |
19847780 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847780 | Phạm Như Phương | Phạm Như Phương (sinh ngày 25 tháng 11 năm 2003) là một vận động viên thể dục dụng cụ người Việt Nam. Cô đại diện cho Việt Nam tại Thế vận hội Trẻ Mùa hè 2018 và là thành viên của đội giành huy chương vàng nội dung đồng đội hỗn hợp đa môn.
Đầu đời.
Như Phương sinh ở Hà Nội vào năm 2003.
Sự nghiệp thể dục dụng cụ.
2017–18.
Phạm Như Phương thi đấu tại Olympic Hopes Cup 2017 và đứng thứ 34 nội dung toàn năng.
Tại Giải vô địch trẻ châu Á, Phương đứng thứ 9 ở nội dung toàn năng. Cô được chọn để đại diện Việt Nam tại Thế vận hội Trẻ Mùa hè 2018. Cô là thành viên đội hỗn hợp đa môn có tên vận động viên thể dục dụng cụ người Mỹ Simone Biles; đội đó đã giành huy chương vàng.
2022.
Phạm Như Phương tham dự Đại hội Thể thao Đông Nam Á lần thứ 31. Cô đã cùng đội Việt Nam giành vị trí thứ hai nội dung đồng đội, ngoài ra cô giành huy chương bạc nội dung xà lệch và hai huy chương đồng ở nội dung cầu thăng bằng và thể dục tự do.
Giải nghệ.
Tháng 1 năm 2024, Phạm Như Phương chia sẻ với báo "Dân trí" về việc giải nghệ.
Theo Như Phương, trước khi đi Mỹ hồi tháng 12 năm 2023 cô đã gửi đơn đến huấn luyện viên Nguyễn Hà Thanh và xin phép huấn luyện viên Nguyễn Thùy Dương, là hai huấn luyện viên trực tiếp quản lý của cô. Cả hai đã đồng ý. Tuy nhiên khi về Việt Nam, Phạm Như Phương mới biết mình đã bị loại khỏi danh sách tập huấn đội tuyển thể dục dụng cụ quốc gia năm 2024 vì đi nước ngoài không xin phép. Ngoài ra cô cũng cho rằng mình phải nộp lại tiền cho huấn luyện viên 10% tiền thưởng huy chương, 30-50% tiền thưởng nóng và khoản "quỹ lạ" 300.000 đồng mỗi tháng.
Ngày 15-1, Cục Thể dục thể thao cho biết đã nắm được và đang phối hợp với Liên đoàn Thể dục Việt Nam và Trung tâm huấn luyện thể thao quốc gia Hà Nội (nơi Như Phương từng tập luyện) để rà soát, xem xét, xử lý theo quy định, nếu có vi phạm. Trong khi đó, ông Bùi Trung Thiện - trưởng bộ môn thể dục Cục Thể dục thể thao - trả lời báo Tuổi trẻ về lý do Phạm Như Phương bị loại trong danh sách tập huấn: "Tháng 12, Như Phương xin nghỉ nhưng chưa có sự đồng ý từ ban huấn luyện lẫn bên trung tâm. [...] Về phía đội tuyển quốc gia, đầu năm 2024 bắt đầu tuyển chọn VĐV lên tập trung nhưng bạn ấy chưa từ nước ngoài về. VĐV không lên tập luyện thì không thể nào cho lên tập trung đội tuyển quốc gia được." và khẳng định vấn đề ăn chặn tiền thưởng "[...] của riêng địa phương. Ở đội tuyển quốc gia bao nhiêu năm qua không có việc này".
Trong khi đó, nhiều cựu vận động viên khác của đội tuyển thể dục dụng cụ quốc gia cũng đã tố cáo về việc phải nộp lại tiền thưởng huy chương, tiền thưởng nóng và đóng quỹ cho huấn luyện viên. |
19847782 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847782 | Todome no Ichigeki (bài hát) | feat. Cory Wong là một bài hát của ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Nhật Bản Vaundy. Bài hát được phát hành dưới dạng đĩa đơn độc quyền vào ngày 8 tháng 10 năm 2023 từ / Sony Music Labels.
Tổng quan.
Bài hát được phát hành sau tác phẩm trước đó là "ZERO" vào 9 ngày sau. Là bài hát chủ đề kết thúc của bộ anime truyền hình "SPY×FAMILY" mùa 2. Cory Wong tham gia với tư cách là nghệ sĩ chơi guitar.
Cô xuất hiện lần đầu tiên trên chương trình "" được phát sóng vào ngày 1/12/2023 và biểu diễn ba ca khúc, trong đó có ca khúc này.
Video ca nhạc.
Bài hát được phát hành trên YouTube cùng thời điểm với việc phát sóng bộ hoạt hình. Nữ diễn viên Nagasawa Masami thủ vai chính, và câu chuyện lấy bối cảnh trên một con tàu du lịch sang trọng đang chìm, được mô tả bằng hình ảnh đen trắng. Video này được đạo diễn bởi Yuichi Kodama. |
19847786 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847786 | Cơ quan cứu hỏa | Cơ quan cứu hỏa, còn gọi là đội cứu hỏa hay đội phòng cháy và chữa cháy là một tổ chức chuyên cung cấp các dịch vụ phòng cháy chữa cháy và cứu hộ.
Cơ quan cứu hỏa là tổ chức thuộc nhà nước, có nhiệm vụ phòng cháy chữa cháy và cứu hộ trong một khu vực địa phương, như thành phố, quận, huyện, tỉnh, quốc gia hoặc khu vực đặc biệt. Ngoài ra, cũng có các tổ chức cứu hỏa tư nhân và chuyên biệt, chẳng hạn như tổ chức cứu hỏa máy bay. Mỗi cơ quan cứu hỏa có một hoặc nhiều trạm cứu hỏa. Nhân viên của các trạm cứu hỏa có thể là lính cứu hỏa chuyên nghiệp, tình nguyện, nghĩa vụ quân sự hoặc trực ban. Một số cơ quan cứu hỏa kết hợp sử dụng cả lính cứu hỏa chuyên nghiệp và tình nguyện. Ở một số quốc gia, các cơ quan cứu hỏa cũng có thể điều hành dịch vụ xe cứu thương. |
19847794 | 780814 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847794 | Friedrich, Công tước xứ Württemberg-Neuenstadt | Friedrich của Württemberg-Neuenstadt (19 tháng 12 năm 1615, tại Stuttgart – 24 tháng 3 năm 1682, tại Neuenstadt am Kocher) là Công tước cai trị xứ Württemberg.
Cuộc đời.
Friedrich là con trai thứ ba của Johann Friedrich, Công tước thứ 7 của Württemberg và Barbara Sophie xứ Brandenburg. Khi cha ông qua đời năm 1628, anh trai ông Eberhard III trở thành Công tước xứ Württemberg.
Friedrich theo học ở Tübingen năm 13 tuổi. Năm 1630, ông tham gia Grand Tour đi qua Strasbourg, Basel và Montpellier nhưng phải dừng lại ở Lyon do bị sốt nặng.
Năm 1638, anh trai ông là Eberhard III được Hoàng đế La Mã Thần thánh Ferdinand III trao lại một số phần đã mất của công quốc Württemberg trong khi Frederick bị lôi kéo vào phục vụ quân đội. Sau hòa ước Westphalia, dẫn đến việc Württemberg phục hồi nguyên vẹn lãnh thổ, Eberhard đã ký kết "Fürstbrüderlicher Vergleich" - một thỏa thuận chung được thực hiện giữa các anh em công tước. Công tước Eberhard III để lại cho anh trai Friedrich quyền sở hữu Neuenstadt, Möckmühl và Weinsberg, mặc dù vùng này không có chủ quyền và vẫn thuộc về Eberhard.
Friedrich đã phục dựng lâu đài Neuenstadt sau khi nó bị hư hại trong Chiến tranh Ba mươi năm và đến sống ở đó vào năm 1652. Ngày 7 tháng 6 năm 1653, ông kết hôn với Clara Augusta, con gái của Augustus the Younger xứ Brunswick. |
19847797 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847797 | Silvius I Nimrod, Công tước xứ Württemberg-Oels | Silvius I Nimrod (2 tháng 5 năm 1622, Weiltingen – 24 tháng 4 năm 1664, Brzezinka ở Silesia) là Công tước đầu tiên của xứ Oels-Württemberg. |
19847798 | 780814 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847798 | Eberhard III, Công tước xứ Württemberg |
Eberhard III, Công tước xứ Württemberg (16 tháng 12 năm 1614, tại Stuttgart – 2 tháng 7 năm 1674, tại Stuttgart) là Công tước cai trị xứ Württemberg từ năm 1628 cho đến khi ông qua đời năm 1674. |
19847799 | 780814 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847799 | Julius Friedrich, Công tước xứ Württemberg-Weiltingen | Julius Friedrich (3 tháng 6 năm 1588 tại Montbéliard – 25 tháng 4 năm 1635 tại Strasbourg) là công tước đầu tiên của xứ Württemberg-Weiltingen. |
19847802 | 940399 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847802 | Diane de France | Diane de France, Nữ Công tước xứ Angoulême (25 tháng 7 năm 1538 – 11 tháng 1 năm 1619) là con ngoại hôn của Henri II của Pháp và nhân tình người Ý Filippa Duci. Diane đóng một vai trò chính trị quan trọng trong Chiến tranh Tôn giáo Pháp và là người cho xây dựng Hôtel d'Angoulême ở Paris.
Diane được biết đến vì tri thức, trí thông minh cũng như là nhan sắc và tầm ảnh hưởng của mình dưới triều đại của Henri III và Henri IV của Pháp.
Thân thế.
Diane de France sinh ngày 25 tháng 7 năm 1538, là con gái ngoại hôn của Trữ quân Pháp 18 tuổi Henri và Filippa Duci (), con gái của một tiểu quý tộc vùng Fossano ở Piemonte. Bấy giờ cha của Diane đang ở Moncalieri, miền bắc nước Ý để tham gia một chiến dịch quân sự. Không rõ Diane được sinh ra tại triều đình hay được đưa đến khi còn bé. Tại triều đình Pháp, việc chăm sóc và giáo dục Diane được giao cho tình nhân của Henri, Diane de Poitiers.
Henri đối xử rất tốt với con gái: hộ gia của Diane bao gồm một phó mẫu, các gia sư, thị nữ, hầu phòng và thậm chí cả một thợ may. Diane đã thể hiện khả năng học viết bằng tiếng Pháp một cách xuất sắc, điều này có thể thấy qua số lượng lớn các chữ viết vẫn còn tồn tại. Diane cũng được học tiếng Ý (ngôn ngữ thứ hai của triều đình), tiếng Tây Ban Nha và tiếng Latinh để phục vụ cho các nghi lễ tôn giáo. Việc giáo dục nghệ thuật của Diane cũng không bị bỏ qua: Diane cũng học chơi đàn lute và các nhạc cụ khác cũng như là học hát.
Diane không được hợp pháp hóa cho đến tận sau này, vào năm 1572 (không phải năm 1547 như niềm tin phổ biến trước đây).
Cuộc hôn nhân đầu tiên.
Ngày 13 tháng 2 năm 1552, khi Diane de France mới mười ba tuổi, một thỏa thuận hôn nhân được ký kết giữa Diane và Orazio Farnese, Công tước xứ Castro. Lễ cưới diễn ra vào ngày 15 tháng 2 năm 1553 với sự tham dự của anh trai Orazio, Hồng y Alessandro Farnese và bao gồm các vũ hội hóa trang và lễ hội hóa trang đường phố. Tuy nhiên, ngày 18 tháng 7 năm 1553, Diane trở thành góa phụ chỉ sau 5 tháng kết hôn, khi Orazio bị giết khi phục vụ trong lực lượng Pháp trong cuộc bao vây Hesdin. Diane trải qua thời gian để tang chồng tại Lâu đài Chantilly, quê hương của Anne de Montmorency, Đốc quân Pháp, sau đó trở lại triều đình để phục vụ cho Caterina de' Medici.
Cuộc hôn nhân thứ hai.
Diane kết hôn lần thứ hai với François de Montmorency, con trai cả của Anne de Montmorency thể theo thỏa thuận hôn nhân được ký kết ngày 3 tháng 5 năm 1557 và một buổi lễ diễn ra vào ngày 4 tháng 6 năm 1557 tại Lâu đài Villers-Cotterêts. Hai người có một con trai và đặt tên cho đứa trẻ là Anne theo tên ông nội, sinh vào cuối tháng 9 năm 1560 nhưng nhanh chóng qua đời trước ngày 15 tháng 10.
Ngày 22 tháng 6 năm 1563, sau cái chết của cha và sau đó là em trai cùng cha khác mẹ là François II, vị quốc vương mới, một người em trai cùng cha khác mẹ khác của Diane là Charles IX đã trao cho chị gái, thông qua Sắc lệnh bằng được ký kết tại Lâu đài Vincennes, Công quốc Châtellerault. Thu nhập khoảng 6.000 đồng livres hằng năm từ công quốc chính là khoản bù đắp cho món quà trị giá 50.000 đồng écu được hứa cho cuộc hôn nhân đầu tiên của Diane nhưng chưa bao giờ được ngân khố vương thất chi trả. Doanh thu từ công quốc này ít hơn nhiều so với số tiền Diane thiếu nợ. Sau cái chết của Charles X, Diane trở thành sủng thần của tân vương là Henri III. Vào tháng 2 năm 1576, Henri III ký trao cho chị gái các vùng đất và lãnh địa vùng Coucy và Folembray (cả hai đều thuộc tỉnh Aisne ngày nay), cũng như một số điền trang khác ở Bourbonnais.
Diane de France trở thành góa phụ lần thứ hai vào năm 1579, sau khi giúp chồng trở thành lãnh đạo của Politique, một nhóm tín hữu Công giáo ôn hòa ở Pháp, hoạt động vì hoà bình của vương quốc.
Cuộc sống sau này.
Tháng 8 năm 1582, Henri III trao cho Diane Công quốc Angoulême để đổi lấy Công quốc Châtellerault và phong Diane tước vị Công tước xứ Angoulême (chỉ khi Diane còn sống và không thể truyền thừa cho hậu duệ). Tước hiệu mới đi kèm với sự giàu có ngày càng tăng, vì vậy vào năm 1584, Diane bắt đầu xây dựng một dinh thự mới ở Paris, Hôtel d'Angoulême (nay là Hôtel Lamoignon). Việc xây dựng bị gián đoạn bởi cuộc Chiến tranh Tôn giáo và chỉ được hoàn thành ở giai đoạn xây dựng thứ hai vào năm 1611.
Diane cũng nhận được nhiều sự kính trọng tại triều đình của Henri IV của Pháp, và giám sát việc giáo dục của con trai Henri IV là Louis XIII.
Diane qua đời vào ngày 11 tháng 1 năm 1619 tại Paris. Thông qua những bức thư còn sót lại của Nữ Công tước, Diane được nhìn nhận là một người phụ nữ dũng cảm và có lòng bao dung tuyệt vời. |
19847806 | 808347 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847806 | Thanh âm của phép thuật | Thanh âm của phép thuật (tiếng Anh: The Sound of Magic, tiếng Hàn: 안나라수마나라; RR: Annarasumanara) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc năm 2022 dựa trên webtoon Naver Annarasumanara của Ha Il-kwon do Do Kim Seong-yoon làm đạo diễn và Kim Min-jeong viết kịch bản. Bộ phim có sự tham gia của Ji Chang-wook, Choi Sung-eun và Hwang In-youp. Phim kể về câu chuyện của một pháp sư bí ẩn, Ri Eul bất ngờ xuất hiện trước mặt cô gái đánh mất giấc mơ của mình, Yoon Ah-yi và chàng trai bị buộc phải mơ, Na Il-deung. Bộ phim được phát hành vào ngày 6 tháng 5 năm 2022, độc quyền bởi Netflix.
Tóm tắt.
Thanh âm của phép thuật là một bộ phim ca nhạc giàu cảm xúc xoay quanh Yoon Ah-yi, một học sinh nghèo theo học tại trường trung học Sewoon, người đã mất niềm tin vào phép thuật mà cô đam mê khi còn nhỏ. Trải qua nhiều bất hạnh, cô mong muốn được lớn nhanh hơn để trở thành người lớn, để có thể thoát khỏi những căng thẳng lớn và những khoản nợ đang đè nặng lên cô. Sau đó cô gặp Ri Eul, một pháp sư trưởng thành muốn tiếp tục được gọi là "đứa trẻ". Dưới sự khinh thường và nghi ngờ của cả xã hội, anh ta muốn khẳng định mình là một pháp sư thực sự, hỏi bất cứ ai anh gặp câu: "Bạn có tin vào phép thuật không?" Sau khi trở thành khách thường xuyên đến nơi ở của Ri Eul (nằm trong một công viên giải trí bị bỏ hoang kỳ lạ), Na Il-deung, bạn cùng bàn của Ah-yi, một sinh viên lạnh lùng và khá giả, bắt đầu nghe lén các bài học phép thuật của cô với pháp sư. Sớm bắt đầu tỏ ra thích cô ấy và chơi các trò ảo thuật. Sau cùng, cuộc sống của Ah-yi dần thay đổi khi cô trở thành tín đồ của Ri Eul, khiến bản thân một lần nữa trở thành người tin vào phép thuật và tiếp tục quyết định nghiêm túc theo đuổi ước mơ của mình. |
19847809 | 780814 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847809 | Ludwig Friedrich, Công tước xứ Württemberg-Mömpelgard | Ludwig Friedrich (29 tháng 1 năm 1586 – 26 tháng 1 năm 1631 tại Montbéliard) là Công tước cai trị xứ Württemberg-Mömpelgard.
Sinh ra tại Lâu đài Montbéliard, ông là người con thứ năm và là con trai thứ hai của Công tước Friedrich I xứ Württemberg với Sibylla xứ Anhalt. |
19847810 | 780814 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847810 | Friedrich Achilles, Công tước xứ Württemberg-Neuenstadt | Friedrich Achilles (5 tháng 5 năm 1591 – 30 tháng 12 năm 1631) là Công tước đầu tiên cai trị xứ Württemberg-Neuenstadt từ năm 1617 đến năm 1631.
Cuộc đời.
Công quốc Württemberg-Neuenstadt là một nhánh con phân chi từ nhà Württemberg trong giai đoạn thế kỷ 17, 18 và được đặt theo tên thị trấn Neuenstadt.
Friedrich Achilles là con trai nhỏ thứ hai của Công tước Friedrich I. Sau hiệp ước Fürstbrüderlicher Vergleich - một thỏa thuận chung được thực hiện giữa các anh em công tước vào ngày 7 tháng 6 năm 1617 (lịch Julian: 28 tháng 5), các con trai của Friedrich I đã chia quyền thừa kế để con trai cả, Johann Friedrich đảm nhận quyền cai trị Công quốc Württemberg trong khi những người anh em còn lại nắm giữ các vùng đất khác.
Theo phân chia thừa kế, Friedrich Achilles khi đó 26 tuổi, được nhận Lâu đài Neuenstadt và khoản vốn hàng năm là 10.000 guilder. Ông chưa bao giờ kết hôn nên sau khi qua đời vào năm 1631, lâu đài đã thuộc về nhánh thừa kế trưởng của công quốc, trước khi Công quốc Württemberg-Neuenstadt được tái lập vào năm 1649 dưới thời Công tước Frederick. |
19847811 | 780814 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847811 | Johann Friedrich, Công tước xứ Württemberg | Johann Friedrich (5 tháng 5 năm 1582, tại Montbéliard – 18 tháng 7 năm 1628) là Công tước cai trị Württemberg từ ngày 4 tháng 2 năm 1608 cho đến khi qua đời ngày 18 tháng 7 năm 1628.
Cuộc đời.
Johann Friedrich là con trai cả của Frederick I và Sibylla xứ Anhalt. Ông sinh ra tại lâu đài Montbéliard, nơi ông rời đi năm 4 tuổi khi gia đình chuyển đến ở Stuttgart.
John Friedrich kết hôn với Barbara Sophie xứ Brandenburg (16 tháng 11 năm 1584 – 13 tháng 2 năm 1636), con gái của Joachim Friedrich, Tuyển hầu xứ Brandenburg.
Ngày 28 tháng 5 năm 1617, John Friedrich đã ký một thỏa thuận với một số anh em của mình. Người em lớn nhất của ông, Ludwig Friedrich được nhận vùng Montbéliard - vẫn chưa hoàn toàn độc lập với Công quốc Württemberg. Người em kế tiếp, Julius Friedrich thừa kế chủ quyền đối với Brenz và Weiltingen, dẫn đến hai nhánh họ mới trong Công quốc: Württemberg-Mömpelgard (chấm dứt năm 1723) và Württemberg-Weiltingen (chấm dứt năm 1792). Những người em khác của ông, Frederick Achilles và Magnus lần lượt thừa kế các lâu đài Neuenstadt và Neuenbürg. Vì cả hai người em sau này đều không lập gia đình nên khi chết tài sản của họ sau đó thuộc trở lại nhánh họ chính của Công quốc. |
19847812 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847812 | Friedrich I, Công tước xứ Württemberg | Friedrich I (19 tháng 8 năm 1557 – 29 tháng 1 năm 1608) là Công tước cai trị xứ Württemberg. Ông con trai của George xứ Mömpelgard với Barbara xứ Hesse, con gái của Philip I xứ Hessen. |
19847813 | 784524 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847813 | Eugen Sänger | Eugen Sänger (22 tháng Chín năm 1905 – 10 tháng Hai năm 1964) là kỹ sư hàng không vũ trụ người Áo được biết đến nhiều nhất nhờ những nghiên cứu của ông về thân nâng và động cơ ramjet.
Khởi đầu.
Sänger sinh ra tại một thị trấn khai mỏ cũ Preßnitz (Přísečnice), gần Komotau vùng Bohemia, Đế quốc Áo-Hung. Ông học kỹ sư dân dụng tại Đại học Kỹ thuật Graz và Viên. Khi còn là sinh viên, ông đã được đọc cuốn sách của Hermann Oberth tựa đề "Die Rakete zu den Planetenräumen" ("Tiến vào không gian liên hành tinh bằng tên lửa"), cuốn sách đã thúc đẩy ông chuyển ngành học từ kỹ sư xây dựng sang ngành hàng không. Ông cũng tham gia hội tên lửa nghiệp dư tại Đức "Verein für Raumschiffahrt" (VfR – "Society for Space Travel") do Oberth thành lập.
Năm 1932 Sänger trở thành thành viên của SS và cũng là thành viên của Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa.
Sänger chế tạo phương tiện bay bằng tên lửa, làm luận văn của mình, nhưng trường Đại học không công nhận do nó phi thực tế.
Sänger được phép tốt nghiệp khi anh nộp một bài báo tầm thường hơn nhiều về trạng thái tĩnh của các giàn cánh. Sänger sau đó đã xuất bản luận án bị từ chối của mình với tựa đề "Raketenflugtechnik" ("Kỹ thuật bay tên lửa") vào năm 1933. Năm 1935 và 1936, ông xuất bản các bài báo về chuyến bay bằng tên lửa cho tạp chí "Flug" ("Chuyến bay") của Áo. Những bài báo của ông đã thu hút sự chú ý của (RLM, hay "Bộ Hàng không Đế chế") do coi ý tưởng của Sänger là phương thức chế tạo máy bay ném bom có khả năng tấn công đến nước Mỹ (dự án "Amerikabomber"). RLM cung cấp cho ôngvieenje nghiên cứu tiêng gần Braunschweig và cũng xây dựng nhà máy ô xy lỏng và một cơ sở thử nghiệm động cơ có lực đẩy 100 tấn. Vào thời điển này, việc tuyển dụng Sänger bị Wernher von Braun phản đối, coi ông là một mối đe dọa cho sự thống trị trong lĩnh vực nghiên cứu tên lửa của mình.
Máy bay ném bom dưới quỹ đạo.
Sänger đồng ý lãnh đạo một nhóm nghiên cứu tên lửa tại "Lüneburger Heide" năm 1936. Ông dần phát triển một loại máy bay ném bom cất cánh từ đường ray nhờ tên lửa đẩy khởi tốc, bản thân máy bay cũng sẽ có động cơ riêng giúp nó leo cao tới rìa khí quyển và sau đó trượt dọc theo tầng bình lưu. Máy bay sẽ không thực sự bay lên tới quỹ đạo, mà nó trượt trên tầng cao của bầu khí quyển giúp nó có khả năng bay ở khoảng cách xa dựa theo một chuỗi những lần trượt như vậy. Thiết kế này được gọi dưới cái tên "Silbervogel" và hoạt động chủ yếu dựa trên lực đẩy tác dụng lên thân của máy bay để có thể thực hiện chuyến bay dưới quỹ đạo. Sänger được hỗ trợ trong việc tính toán nhờ Irene Bredt, người mà sẽ làm vợ ông vào năm 1951. Sänger cũng thiết kế cả động cơ tên lửa mà sẽ sử dụng trên máy bay của mình, có khả năng tạo ra 1 MN lực đẩy. Trong thiết kế này, ông là một trong những người tiên phong đưa ra gợi ý sử dụng nhiên liệu của tên lửa làm nguội động cơ, nhờ cho nó chạy vòng xung quanh vòn phun trước khi nó được đốt trong buồng đốt.
Đến năm 1942, Bộ công nghiệp hàng không Phát xít Đức hủy bỏ dự án cùng với các thiết kế lý thuyết do tập trung vào các công nghệ đã chín muồi. Sänger được gửi tới làm tại "Deutsche Forschungsanstalt für Segelflug" (DFS, hay "German Gliding Research Institute"-"Viện nghiên cứu tàu lượn Đức"). Tại đây ông đã phát triển nhiều kỹ thuật quan trọng trên động cơ ramjet, và làm việc trên máy bay đánh chặn Skoda-Kauba Sk P.14, cho đến khi kết thúc World War II.
Sau chiến tranh.
Sau khi chiến tranh kết thúc, Sänger làm việc cho Chính phủ Pháp và vào năm 1949 thành lập "Fédération Astronautique". Trong khi còn làm việc ở Pháp, Sänger là đối tượng của tình báo Liên Xô. Joseph Stalin đã cử con trai là Vasily và nhà khoa học Grigori Tokaty đến để mời ông về làm việc cho Liên Xô, nhưng đã không thành công. Có thông tin cho rằng Stalin đã chỉ đạo NKVD bắt cóc ông.
Năm 1951, ông trở thành Chủ tịch đầu tiên của International Astronautical Federation. Cùng năm đó, ông cưới Tiến sĩ Irene Bredt, cũng là nhà khoa học tên lửa, người đã giúp đỡ ông trong thiết kế Silbervogel.
Năm 1954, Sänger quay trở lại Đức và ba năm sau trở thành Giám đốc viện nghiên cứu lực đẩy phản lực tại Stuttgart. Từ năm 1961 đến 1963 ông là cố vấn cho Junkers trong thiết kế tàu vũ trụ sử dụng động cơ ramjet, nhưng không có thiết kế nào được chế tạo thực tế. Năm 1963, ông trở thành giáo sư toàn phần tại Đại học Kỹ thuật Berlin, ông đã đảm nhận chức vụ này cho đến khi qua đời. Các khám phá lý thuyết của Sänger trong giai đoạn này đã khai phá khả năng sử dụng photon cho động cơ đẩy tàu vũ trụ du hành liên hành tinh trong các hệ thống đẩy laser và buồm mặt trời.
Năm 1960, ông đã giúp Cộng hòa Ả Rập Thống nhất phát triển tên lửa Al-Zafir.
Ông qua đời tại Berlin, năm 1964. Mộ của Sänger nằm tại nghĩa trang "Alter Friedhof" vùng Stuttgart-Vaihingen. Những nghiên cứu của ông trên máy bay "Silbervogel" đã là tiền đề cho việc phát triển X-15, X-20 Dyna-Soar, và Space Shuttle programs. |
19847820 | 71061643 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847820 | Quỷ Môn Quan (thần thoại) | Quỷ Môn Quan (tiếng Trung: 鬼門关) là cánh cổng dẫn đến địa ngục trong thần thoại Trung Hoa. Những người sau khi chết nếu linh hồn không được lên Thiên đàng thì sẽ phải đi qua cánh cổng này và chịu sự dẫn độ của các quỷ sai đưa xuống địa ngục để Diêm Vương phán xét và định đoạt. Theo quan niệm của người xưa cho rằng vào ngày rằm tháng 7 âm lịch (lễ Vu Lan) hàng năm, Quỷ Môn Quan sẽ mở cửa cho phép những linh hồn bị giam cầm hay bị đày đoạ trong địa ngục được phép đi lại trong dương gian đến hết tháng 7 âm lịch thì sẽ đóng cổng. Vậy nên người ta mới bảo rằng tháng 7 là tháng Cô hồn và tháng không tốt để làm những việc đại sự như cưới xin, mua nhà... |
19847827 | 845234 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847827 | Death's Game | Death's Game () là một bộ phim truyền hình dài tập trên web của Hàn Quốc do Ha Byung-hoon viết kịch bản và đạo diễn, với sự tham gia của Seo In-guk và Park So-dam. Dựa trên webtoon cùng tên của Lee Won-sik và Ggulchan được đăng nhiều kỳ trên Naver vào năm 2019, phim mô tả câu chuyện về một người, trong lúc tuyệt vọng, bắt đầu cuộc sống mới bằng cái chết. Đây là bộ phim truyền hình gốc của TVING và có sẵn để phát trực tuyến trên nền tảng của nó và trên Amazon Prime Video ở một số khu vực được chọn ngoại trừ Hàn Quốc và Trung Quốc.
Bộ phim được chia thành hai phần: Phần 1 phát hành vào ngày 15 tháng 12 năm 2023 và Phần 2 phát hành vào ngày 5 tháng 1 năm 2024, lúc 12:00 (KST).
Tóm tắt.
Bộ phim kể về Choi Yi-jae (Seo In-guk), người đang trên bờ vực rơi vào địa ngục, trải qua cái chết và tái sinh 12 lần do sự phán xét của Tử thần (Park So-dam).
Sản xuất.
Vai Choi Yi-jae lần đầu tiên được giao cho Kang Ha-neul.
Vào ngày 13 tháng 1 năm 2023, đạo diễn Ha Byung-hoon đã thông báo rằng quá trình sản xuất đang trong giai đoạn casting cuối cùng và việc quay phim sẽ bắt đầu sớm nhất là vào tháng 2 và sẽ kéo dài trong khoảng sáu tháng.
Vào ngày 8 tháng 2 năm 2023, Seo In-guk và Park So-dam được xác nhận là diễn viên chính của bộ phim. Vào ngày 21 tháng 2, "JoyNews24" đưa tin rằng các diễn viên đã tiến hành đọc kịch bản đầy đủ vào ngày 14 và Seo In-guk bắt đầu quay phim vào ngày 20. Bản thân bộ phim truyền hình dài tập này cũng đánh dấu sự trở lại của Park sau khi cô tạm dừng hai năm để hồi phục sau bệnh ung thư tuyến giáp thể nhú.
Vào ngày 31 tháng 5 năm 2023, Dexter Studios thông báo rằng họ sẽ đồng sản xuất VFX của loạt phim với tổng kinh phí là 3.3 tỷ Won.
Phát hành.
TVING xác nhận ngày phát hành "Death's Game" sẽ là 15 tháng 12 năm 2023.
Vào ngày 18 tháng 11 năm 2023, có thông báo rằng loạt phim này sẽ có sẵn để phát trực tuyến qua Amazon Prime Video ở 240 quốc gia và vùng lãnh thổ ngoại trừ Trung Quốc và Hàn Quốc.
Bộ phim được chia thành hai phần: Phần 1 được phát hành với bốn tập đầu tiên vào ngày 15 tháng 12 năm 2023, trong khi Phần 2 được phát hành với bốn tập còn lại vào ngày 5 tháng 1 năm 2024, lúc 12:00 (KST).
Phản hồi.
Đánh giá của chuyên gia.
"Kim Hyun-seung của Cine21" nói rằng "nhiều tác phẩm đề cập đến thế giới bên kia, nhưng thế giới quan được xây dựng bởi ["Death's Game"] khá mới lạ". Ông cũng trích dẫn rằng "["Death's Game"] đang nhận được những đánh giá tích cực về CG, điều hiếm thấy ở Hàn Quốc" và "hơi thất vọng vì tất cả các câu chuyện đều dựa vào hiệu ứng hình ảnh".
Lượng người xem.
Amazon Prime Video đưa tin rằng bộ truyện này đã trở thành chủ đề nóng trên toàn thế giới kể từ khi Phần 1 được phát hành vào ngày 15. Đây là chương trình được xem nhiều nhất ở Indonesia và Thái Lan, đồng thời lọt vào Top 10 tại 43 quốc gia trên thế giới, bao gồm Úc, Brazil, Nhật Bản, Malaysia, Peru, Philippines, Singapore và Đài Loan vào tháng 12 năm 2023. |
19847833 | 71062759 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847833 | Bathygobius hongkongensis | Bathygobius hongkongensis là một loài cá biển thuộc chi "Bathygobius" trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1986.
Từ nguyên.
Từ định danh "hongkongensis" được đặt theo tên gọi của đảo Hồng Kông, nơi mà mẫu định danh của loài cá này được thu thập (–"ensis": hậu tố trong tiếng Latinh biểu thị nơi chốn).
Phân bố và môi trường sống.
"B. hongkongensis" có phân bố giới hạn ở Tây Thái Bình Dương, chỉ được ghi nhận ở đảo Hồng Kông và đảo Đài Loan; quần đảo Ryukyu (Nam Nhật Bản); đảo Jeju (Hàn Quốc); vịnh Nha Trang (Việt Nam). Một ghi nhận của loài này tại bờ biển Andaman thuộc Nam Thái Lan.
Mô tả.
Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở "B. hongkongensis" là 5 cm. Thân lốm đốm nâu sẫm ở lưng và trắng ở bụng. Vây lưng, vây đuôi và vây ngực có một số đốm nhỏ màu nâu. Tất cả các vây đều trong mờ, màu nâu nhạt.
Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 9–10; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 7–8; Số tia ở vây ngực: 20–22. |
19847835 | 71062756 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847835 | Valenciennea immaculata | Valenciennea immaculata là một loài cá biển thuộc chi "Valenciennea" trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1981.
Từ nguyên.
Tính từ định danh "immaculata" trong tiếng Latinh có nghĩa là “không có đốm”, hàm ý đề cập đến kiểu hình của loài cá này thiếu các sọc dọc như "Valenciennea muralis".
Phân bố và môi trường sống.
"V. immaculata" có phân bố rộng rãi ở khu vực Đông Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương, từ bờ nam Trung Quốc và đảo Đài Loan trải dài về phía nam đến Úc, phía đông đến đảo New Ireland. Ở Việt Nam, "V. immaculata" được ghi nhận tại bờ biển Ninh Thuận và khu vực vịnh Nha Trang–vịnh Vân Phong.
Quần thể ở Bắc Thái Bình Dương có nhiều khác biệt về kiểu hình so với quần thể ở Úc, và bản thân quần thể Úc lại có sự khác biệt giữa hai bờ tây-đông. Cần có nhiều nghiên cứu phân loại về loài này.
"V. immaculata" sống trên nền đáy mềm (cát, bùn) gần các rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 30 m.
Mô tả.
Chiều dài tổng lớn nhất được ghi nhận ở "V. immaculata" là 13 cm. Cá có màu trắng phớt vàng hoặc tím hồng nhạt với cặp sọc cam trên thân viền xanh lam từ má kéo dài dọc theo mặt dưới đến gốc vây đuôi. Vây đuôi có dải trắng gần rìa.
Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 13–17; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 13–16; Số tia ở vây ngực: 18–20.
Sinh thái.
"V. immaculata" thường sống thành đôi. Chúng rây từng ngụm cát để kiếm ăn và đào hang.
Thương mại.
"V. immaculata" là một thành phần trong ngành buôn bán cá cảnh. |
19847839 | 926547 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847839 | Trường Đại học Đại cương, Đại học Quốc gia Hà Nội | Trường Đại học Đại cương là một trường đại học thành viên thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội tồn tại từ năm 1996 đến năm 1998 với nhiệm vụ đào tạo kiến thức giáo dục đại cương trong quy trình đào tạo hai giai đoạn.
Lịch sử.
Năm 1995, Bộ Giáo dục tiến hành cải cách đào tạo đại học với mục tiêu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt là đào tạo nền tảng cơ bản cho sinh viên các trường đại học trong nước. Đến năm 1996, Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội - GS Nguyễn Văn Đạo ký quyết định thành lập 5 trường đại học trực thuộc bao gồm trường Đại học Đại cương và 4 trường đại học chuyên ngành: Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Ngoại ngữ, Trường Đại học Sư phạm. Thời điểm này PGS Đặng Trần Phách lúc đó đang là Phó Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội được bổ nhiệm làm hiệu trưởng trường Đại học Đại cương.
Trên cơ sở chương trình đào tạo đại học đại cương do Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng, trường Đại học Đại cương có nhiệm vụ đào tạo sinh viên trong thời gian 2 năm đầu, giúp sinh viên chuẩn bị kiến thức cơ sở để sau khi tốt nghiệp sinh viên theo học các chuyên ngành khác như y dược, kinh tài, sư phạm… theo nguyện vọng.
Thời gian đầu mới thành lập Trường Đại học Đại cương không có cơ sở vật chất, phải nhờ đất của Đại Học Sư Phạm (nay là Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội) để dựng nhà lợp mái tôn cho khu hiệu bộ; giảng viên, lớp học, thư viện, phòng thí nghiệm phải nhờ của các trường đại học thành viên còn lại. Do nỗ lực hết sức nên chỉ 6 tháng sau Trường đã có thể khai giảng khoá đầu tiên
Năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định về việc xóa bỏ Trường Đại học Đại cương. |
19847848 | 721305 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847848 | Ngày Thế giới về An toàn và Sức khỏe tại Nơi làm việc | Ngày thế giới về an toàn và sức khỏe tại nơi làm việc là ngày quốc tế được Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) chọn kỷ niệm vào ngày 28 tháng 4 hàng năm, lần đầu tiên được tổ chức vào năm 2003. Ngày này nhằm mục tiêu nâng cao nhận thức của mọi người về tầm quan trọng của công việc an toàn, cũng như các nguy cơ và hậu quả của tai nạn và bệnh tật liên quan đến công việc. |
19847854 | 940399 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847854 | Mary Tudor, Bá tước phu nhân xứ Derwentwater | Mary Tudor (16 tháng 10 năm 1673 – 5 tháng 11 năm 1726), Bá tước phu nhân xứ Derwentwater, là một nữ diễn viên và là con ngoại hôn của Charles II của Anh với tình nhân là Mary "Moll" Davis, một nữ diễn viên và ca sĩ.
Tiểu sử.
Cuộc sống ban đầu và tước hiệu.
Mary lớn lên trong một ngôi nhà nằm ở phía tây nam của Quảng trường Thánh James, gần Công viên St. James và Cung điện Whitehall, và ngay từ khi còn nhỏ, Mary đã được bao quanh bởi giới thượng lưu của theo chủ nghĩa Trung hưng quân chủ Anh. Mary theo bước mẹ và bắt đầu diễn xuất khi còn trẻ. Mary cũng tham gia nhiều buổi trình diễn được tổ chức tại triều đình của Quốc vương Charles II. Năm chín tuổi, Mary đã hát vai vị thần La Mã Cupid, đại diện cho ham muốn, tình yêu nhục cảm, sự hấp dẫn và tình cảm, cùng với mẹ, người đóng vai thần Venus, trong vở kịch "Venus và Adonis." Và trong một vũ hội triều đình, Mary được ca ngợi là một trong những người khiêu vũ giỏi nhất, bên cạnh Công tước phu nhân xứ Norfolk và Graftorn.
Ngày 10 tháng 12 năm 1680, khi Mary được bảy tuổi, để xác thực công nhận quan hệ cha con, Mary được ban cho họ Tudor (như một sự thừa nhận có huyết thống với Vương tộc Tudor) và được hưởng địa vị của con gái một Bá tước. Vào tháng 9 năm 1683, Mary được cấp một trợ cấp hàng năm trị giá 1500 bảng Anh (xấp xỉ £239,585 ở năm 2021), và năm tháng sau, vào ngày 21 tháng 2, Mary được hưởng địa vị của con gái Công tước.
Hôn nhân và con cái.
Ngày 18 tháng 8 năm 1687, khi được 14 tuổi, Công nương Mary Tudor kết hôn với Edward Radclyffe, Bá tước thứ 2 xứ Derwentwater (9 tháng 12 năm 1655 – 29 tháng 4 năm 1705) tại Little Parndon, Essex. Hai vợ chồng có bốn người con:
Mary sống tách biệt khỏi Bá tước xứ Derwentwater vào tháng 6 năm 1699 và một chứng thư xác nhận hai vợ chồng ly thân được xác nhận vào ngày 6 tháng 2 năm 1700. Có người cho rằng Edward là tín hữu Công giáo La Mã và Mary từ chối cải đạo theo chồng, số khác thì cho rằng là do Mary không chung thủy.
Ngày 23 tháng 5 năm 1705, ngay sau cái chết của chồng, Mary tái hôn với Henry Graham. Henry Graham qua đời vào ngày 7 tháng 1 năm 1707. Vài tháng sau, vào ngày 26 tháng 8, Mary kết hôn lần thứ ba với Thiếu tá James Rooke và có một con gái với James Rooke.
Qua đời.
Mary qua đời tại Paris vào ngày 5 tháng 11 năm 1726, thọ 53 tuổi. |
19847858 | 738385 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847858 | NGC 404 | NGC 404 là một thiên hà trường nằm trong chòm sao Tiên Nữ, cách Trái Đất khoảng 10 triệu năm ánh sáng. William Herschel là người đầu tiên phát hiện ra thiên hà này vào năm 1784, và chúng ta có thể quan sát được nó bằng kính thiên văn cỡ nhỏ. NGC 404 nằm ngay bên ngoài Nhóm Địa phương và dường như không bị ràng buộc hấp dẫn với nhóm này. Do chỉ nằm cách ngôi sao cấp hai Mirach trong phạm vi 7 phút cung, rất khó để quan sát hoặc chụp ảnh thiên hà này và vì vậy nó có biệt danh là "Bóng ma của Mirach".
Đặc trưng vật lý.
NGC 404 là một thiên hà lùn dạng thấu kính rất biệt lập, có độ sáng nhỉnh hơn một chút và kích thước bé hơn Đám Mây Magellan Nhỏ. Không giống như nhiều thiên hà sơ khai khác, NGC 404 rất giàu hydro trung tính, tập trung phần lớn ở cặp vành đai lớn xung quanh nó. Thiên hà này cũng tồn tại sự hình thành sao ở cả trung tâm và các vùng ngoài cùng, mặc dù ở mức độ thấp.
Đĩa khí bên ngoài và sự hình thành sao của NGC 404 được cho là do một hoặc một số vụ sáp nhập với các thiên hà nhỏ hơn khoảng 1 tỷ năm trước kích hoạt. Các nhà thiên văn học đề xuất rằng NGC 404 có thể từng là một thiên hà xoắn ốc trước khi biến đổi thành một thiên hà thấu kính do sự kiện hợp nhất đó.
Phát xạ LINER.
NGC 404 chứa một vùng vạch phát xạ hạt nhân ion hóa thấp (LINER), một loại vùng đặc trưng bởi sự phát xạ vạch quang phổ từ các nguyên tử bị ion hóa yếu. Ngoài ra, thiên hà này còn chứa một cụm sao hạt nhân và -có thể- một lỗ đen siêu lớn với khối lượng gấp vài chục nghìn lần khối lượng Mặt Trời.
Các phép đo khoảng cách.
Ít nhất hai kỹ thuật đã được sử dụng để đo khoảng cách tới NGC 404. Phương pháp đo dao động độ sáng bề mặt hồng ngoại ước tính khoảng cách đến các thiên hà xoắn ốc dựa trên độ hạt bề ngoài chỗ phình ra của chúng. Khoảng cách đo được tới NGC 404 bằng kỹ thuật này vào năm 2003 là 9,9 ± 0,5 Mly (3,03 ± 0,15 Mpc).
Tuy vậy, NGC 404 đủ gần để các sao siêu khổng lồ đỏ có thể được chụp lại dưới dạng các tinh cầu riêng lẻ. Ánh sáng từ những ngôi sao này và kiến thức về cách chúng so sánh với các ngôi sao gần đó trong Ngân Hà cho phép đo trực tiếp khoảng cách tới thiên hà. Phương pháp này được gọi là đỉnh của nhánh sao khổng lồ đỏ (TRGB), cho ra khoảng cách ước tính tới NGC 404 là 10,0 ± 1,2 Mly (3,1 ± 0,4 Mpc). Tính trung bình lại, hai phép đo này cho ra khoảng cách ước tính là 10,0 ± 0,7 Mly (3,07 ± 0,21 Mpc).
Vệ tinh tiềm năng.
Năm 2018, một vệ tinh tiềm năng của NGC 404, với định danh là Donatiello I, đã được phát hiện. Donatiello I là một thiên hà lùn hình cầu với rất ít sự hình thành sao. Khó khăn trong việc thiết lập khoảng cách chính xác tới thiên hà này khiến trạng thái vệ tinh của nó vẫn chưa được xác nhận. |
19847860 | 159216 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847860 | Cấp Cổ Các | Cấp Cổ Các () là thư viện tư nhân và cơ sở xuất bản do văn nhân thời Minh mạt Thanh sơ Mao Tấn sáng lập tại Giang Tô, với bộ sưu tập thư tịch lên tới 84.000 cuốn sách mà phần nhiều là những cuốn sách hay thời Tống, Nguyên, bản thân ông còn lấy Cấp Cổ Các làm tên cửa hiệu của mình. Theo quyển "Tô Châu phủ chí" (蘇州府志) thời Đồng Trị nhà Thanh, Cấp Cổ Các tọa lạc tại cầu Thất Lý bên ngoài cổng Nghênh Xuân, Thường Thục. Sau khi Mao Tấn qua đời, con trai thứ năm của ông là Mao Ỷ (hiệu là Cấp Cổ hậu nhân) kế thừa cơ nghiệp của cha mình. Cấp Cổ Các hiện nay không còn tồn tại và nền nhà này giờ đây thuộc về làng Tào Bang, thị trấn Sa Gia Bang, thành phố Thường Thục, tỉnh Giang Tô.
Lịch sử.
Mao Tấn sinh vào cuối thời Minh năm Vạn Lịch thứ 27 (1599), nhiều lần đi thi không đỗ, sau này được mẫu thân Qua thị truyền cảm hứng, lập chí khắc in sách. Năm Thiên Khải thứ 6 (1626), phụ thân qua đời và ông được thừa kế hàng nghìn khoảnh ruộng. Sau khi nhận được sự ủng hộ của mẫu thân, ông đã bán bớt ruộng đất của mình, bỏ tiền thuê hơn 20 thợ khắc và bắt đầu khắc in sách. Năm Sùng Trinh thứ 15 (1642), Mao Tấn đã nhờ thông gia Vương Hàm vẽ bức tranh "Ngu Sơn Mao thị Cấp Cổ Các đồ" (虞山毛氏汲古閣圖) trong đó có chín gian phòng ốc và hai cái ao, trên ao có đình Nhị Như và đình Lục Quân, Mao từng “phê duyệt trong suốt mười năm” tại đình Lục Quân. Một trong hai cái ao bị nước sông tràn vào, còn ao kia bị lấp để tạo đất nông nghiệp vào thập niên 1970.
Sách khắc in.
Những cuốn sách lớn hơn được khắc trong Cấp Cổ Các của Mao Tấn bao gồm "Thập tam kinh" (十三经), "Thập thất sử" (十七史), "Tân đãi bí thư" (津逮秘書) và "Lục thập chủng khúc" (六十種曲) cũng như nhiều cuốn sách quý hiếm và độc đáo khác nhau. Ông đã trả giá rất cao cho bộ sưu tập sách vở độc đáo của mình, từng dán trên cửa nhà đôi câu "Người khác trả giá một nghìn, chủ hiệu trả giá một nghìn hai trăm". Đến nỗi người dân địa phương có câu tục ngữ rằng: "Ba trăm lẻ sáu kế sinh nhai, chẳng thà bán sách cho họ Mao". Chi phí khắc in sách cũng rất cao, mỗi trang có giá ba lạng bạc. Giấy được sử dụng là giấy đặt làm từ Giang Tây, giấy mỏng có chữ Mao bên góc, giấy dày có chữ Mao đậm hơn, sách họ sao chép giống hệt sách gốc nên gọi là bản "Mao sao" (毛抄).
Sưu tầm.
Bản Cấp Cổ Các rất được giới sưu tầm sách và văn nhân đời sau yêu thích, Ngô Vĩ Nghiệp từng viết "Cấp Cổ Các ca" (汲古閣歌) khen ngợi thành tích này. Bản do Mao Tấn biên soạn ban đầu gồm có "Cấp Cổ Các giáo khắc thư mục" (汲古阁校刻书目) chép lại 534 loại sách. Hối Đạo nhân thời Thanh lại biên soạn phần bổ di, thêm vào 44 loại sách, nâng tổng số lên 578 loại sách. Đào Tương cuối thời Thanh thích sưu tầm bản Cấp Cổ Các và có tổng cộng 540 loại sách khắc in. "Minh Mao thị Cấp Cổ Các khắc thư mục lục" (明毛氏汲古阁刻书目录) 1 quyển do Đào Tương biên soạn thu thập 623 loại sách, trong đó có 75 loại ông không sưu tầm được. Lời bàn trong phần đề tựa của "Minh Mao thị Cấp Cổ Các khắc thư mục lục" nói rằng "Bào Phương Cốc có một tập sách viết về sự tồn vong của bản khắc in Cấp Cổ" đó chính là "Cấp Cổ Các khắc bản tồn vong khảo" (汲古阁刻板存亡考) của Hối Đạo nhân, nhưng trên thực tế Hối Đạo nhân không phải tên là Bào Phương Cốc mà là Trịnh Đức Mậu thời Thanh. |
19847862 | 529523 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847862 | Christian VI của Đan Mạch | Christian VI (30 tháng 11 năm 1699 – 6 tháng 8 năm 1746) là vua của Đan Mạch và Na Uy từ năm 1730 đến 1746. Là con trai cả của Frederik IV và Louise xứ Mecklenburg-Güstrow, ông là một chính trị gia tài giỏi, nổi tiếng với chế độ độc tài của mình. Ông là vị vua đầu tiên của Vương tộc Oldenburg không tham gia bất kỳ cuộc chiến nào. Khẩu hiệu của ông là " "Deo et populo" " (vì Chúa và dân chúng). |
19847865 | 872953 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847865 | Mori, Hokkaidō | là thị trấn thuộc huyện Kayabe, phó tỉnh Oshima, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 14.338 người và mật độ dân số là 39 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 368,27 km2. |
19847866 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847866 | Robin Hack | Robin Hack (; sinh ngày 27 tháng 8 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá người Đức hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ của Bundesliga là Borussia Mönchengladbach.
Sự nghiệp.
Tháng 6/2019, Hack kí hợp đồng với 1. FC Nürnberg từ 1899 Hoffenheim với chi phí không được tiết lộ.
Sau 2 mùa giải tại Nürnberg, Hack chuyển tới Arminia Bielefeld vào tháng 8/2021, với thời hạn hợp đồng tới năm 2025.
Tuy nhiên, vào ngày 26/6/2023, Hack đã kí hợp đồng với Borussia Mönchengladbach với bản hợp đồng có thời hạn 4 năm, khi hợp đồng với Arminia Bielefeld chưa kết thúc. |
19847867 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847867 | Frederik IV của Đan Mạch | Frederik IV của Đan Mạch ( tiếng Đan Mạch: "Frederik" ; 11 tháng 10 năm 1671 – 12 tháng 10 năm 1730) là vua của Đan Mạch và Na Uy từ năm 1699 cho đến khi qua đời. Ông là con trai của Christian V của Đan Mạch-Na Uy và Charlotte Amalie xứ Hessen-Kassel. |
19847868 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847868 | Julian Weigl | Julian Weigl (sinh ngày 8 tháng 9 năm 1995) là cầu thủ bóng đá hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ phòng ngự cho Borussia Mönchengladbach. Weigl cũng đang là thành viên của Đội tuyển bóng đá quốc gia Đức.
Danh hiệu.
Borussia Dortmund
Benfica
Cá nhân |
19847869 | 529523 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847869 | Christian V của Đan Mạch | Christian V (15 tháng 4 năm 164625 tháng 8 năm 1699) là Vua Đan Mạch và Na Uy từ năm 1670 cho đến khi qua đời năm 1699. |
19847870 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847870 | Luca Netz | Luca Netz (sinh ngày 15/5/2003) là cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đức hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cánh trái cho Borussia Mönchengladbach.
Danh hiệu.
Cá nhân |
19847871 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847871 | Alassane Pléa | Alassane Alexandre Pléa (sinh ngày 10 tháng 3 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện thi đấu cho câu lạc bộ Borussia Mönchengladbach ở Bundesliga. |
19847872 | 780814 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847872 | Manu Koné | Emmanuel "Manu" Kouadio Koné (sinh ngày 17 tháng 5 năm 2001) là cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện thi đấu ở vị trí tiền vệ trung tâm cho câu lạc bộ Borussia Mönchengladbach. |
19847873 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847873 | Rocco Reitz | Rocco Reitz (sinh ngày 29 tháng 5 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đức hiện thi đấu cho câu lạc bộ Borussia Mönchengladbach. |
19847877 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847877 | Frederik V của Đan Mạch | Frederik V của Đan Mạch (tiếng Đan Mạch và tiếng Na Uy: "Frederik V"; 31 tháng 3 năm 1723 – 14 tháng 1 năm 1766) là Quốc vương Đan Mạch và Na Uy và là Công tước xứ Schleswig-Holstein từ ngày 6 tháng 8 năm 1746 cho đến khi qua đời năm 1766. Là thành viên của Vương tộc Oldenburg, ông là con trai của Christian VI của Đan Mạch và Sophie Magdalene xứ Brandenburg-Kulmbach. |
19847884 | 872953 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847884 | Sửa chữa | sửa chữa
Nguồn.
https://vi.m.wiktionary.org/wiki/s%E1%BB%ADa_ch%E1%BB%AFa?searchToken=2d42n8slnk9oaetus4m4b66ns |
19847893 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847893 | Màu sắc quốc gia | Màu sắc quốc gia (tiếng Anh: "National color") thường là một phần của tập hợp các biểu tượng quốc gia của một đất nước. Nhiều bang và đất nước công nhận tập hợp các màu sắc làm "màu sắc quốc gia" của họ trong khi số khác lại có màu sắc quốc gia "trên thực tế" được sử dụng trở nên nổi tiếng. Màu sắc quốc gia thường xuất hiện trên nhiều phương tiện truyền thông, từ quốc kỳ cho đến những màu sắc được dùng trong thể thao. |
19847894 | 71062708 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847894 | E-Land Group | Tập đoàn E·Land (tiếng Hàn: 이랜드그룹) là một tập đoàn Hàn Quốc có trụ sở chính tại Changjeon-dong Mapo-gu Seoul, Hàn Quốc. Tập đoàn E-Land tham gia vào các trung tâm bán lẻ, nhà hàng, công viên giải trí, khách sạn và doanh nghiệp xây dựng cũng như nền tảng kinh doanh quần áo thời trang. Nó có hoạt động trên toàn thế giới thông qua công ty con E-Land World.
Lịch sử hình thành.
E-Land khởi đầu là một cửa hàng quần áo rộng 6 mét vuông trên con phố thời trang phía trước Đại học Ewha ở Sinchon vào năm 1980. Thương hiệu đầu tiên của E-Land có tên là "England", sau này đổi thành "E-Land" do những hạn chế về đăng ký nhãn hiệu hàng hóa.
Năm 1994, Tập đoàn E-Land giới thiệu cửa hàng đầu tiên tại thị trường Hàn Quốc bằng việc mở cửa hàng đầu tiên 2001 Outlet. Nó xuất hiện dưới hình thức các cửa hàng đại lý nhiều tầng với các cửa hàng tạp hóa, đồ gia dụng và quần áo.
Năm 2003, Tập đoàn E-Land mua 75% cổ phần của New Core, một cửa hàng bách hóa hoạt động tại 25 địa điểm khác nhau ở Hàn Quốc. Sau khi mua lại, New Core được chuyển đổi thành hai cửa hàng bách hóa và 15 cửa hàng thời trang cao cấp. [cần dẫn nguồn]
Năm 2005, Tập đoàn E-Land trở thành tập đoàn lớn thứ 37 tại Hàn Quốc (không bao gồm doanh nghiệp nhà nước) với tổng tài sản hơn 2 tỷ USD. Vào tháng 4 năm 2006, Tập đoàn E-Land đã mua lại toàn bộ hoạt động của Carrefour tại Hàn Quốc, nơi điều hành 32 cửa hàng giảm giá. Carrefour Korea, mặc dù có sự hiện diện toàn cầu và có kinh nghiệm ở nước ngoài, vẫn gặp khó khăn trong việc tìm hiểu văn hóa địa phương của Hàn Quốc. Carrefour đã được E-Land Group đổi tên thành Homever sau khi mua lại. Việc mua lại đã đưa Tập đoàn E-Land từ vị trí nhà khai thác cửa hàng/chiết khấu lớn thứ 6 lên thứ 2 về tổng số cửa hàng. Năm 2006, Tập đoàn E-Land là nhà bán lẻ lớn thứ hai ở Hàn Quốc dựa trên số lượng cửa hàng (Nguồn: Korea Rating). Vào ngày 14 tháng 5 năm 2008, tập đoàn bán lẻ Tesco của Anh, đã hoạt động tại Hàn Quốc, đã đồng ý mua 36 đại siêu thị với sự kết hợp giữa thực phẩm và phi thực phẩm từ E-Land với giá 1,9 tỷ USD (976 triệu bảng Anh) trong thương vụ mua lại lớn nhất của mình, đưa Tesco trở thành nhà bán lẻ lớn thứ hai trong nước. Phần lớn các cửa hàng E-Land trước đây thuộc về nhà bán lẻ Carrefour của Pháp trước năm 2006 và hầu hết các cửa hàng sẽ được chuyển đổi thành cửa hàng Tesco Homeplus. Chuỗi cửa hàng giảm giá Home Plus của Tesco tại Hàn Quốc hiện có 66 cửa hàng.
Vào ngày 16 tháng 12 năm 2011, E-Land mua chiếc nhẫn Kim cương Krupp của Elizabeth Taylor với giá 8.818.500 USD (bao gồm cả phí bảo hiểm của người mua). Họ dự định trưng bày nó tại công viên giải trí E-World ở Daegu.
Ngày 14 tháng 4 năm 2014, Tập đoàn E-Land thông báo sẽ thành lập câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở tại Seoul và Seoul E-Land FC đang thi đấu ở K League Challenge (Giải hạng hai) kể từ năm 2015.
Hoạt động kinh doanh.
Tập đoàn E-Land tập trung vào sản xuất và phân phối hàng tiêu dùng bao gồm quần áo, hàng tiêu dùng và đồ gia dụng. Sản phẩm được bán thông qua hai kênh khác nhau: khoảng 5.000 cửa hàng nhượng quyền và 59 cửa hàng thuộc sở hữu của E-Land. Hoạt động kinh doanh bán lẻ hiện tại của Tập đoàn bao gồm Kim's Club, NC Department Store, NewCore Outlet, 2001 Outlet và DongA Department Store. Danh mục sản phẩm của công ty bao gồm quần áo trẻ sơ sinh, quần áo trẻ em, quần áo phụ nữ, quần áo thể thao và đồ lót cùng vô số kênh như cửa hàng đại lý, cửa hàng bách hóa và siêu thị.
Tập đoàn E-Land sở hữu 60 thương hiệu tại Hàn Quốc.
Cửa hàng 2001
2001 Outlet (hangul:이천일 아울렛) là một nhà bán lẻ Hàn Quốc có trụ sở tại Seoul, Hàn Quốc. Nhượng quyền cửa hàng là một chi nhánh của Tập đoàn E-Land, tập đoàn này cũng đang điều hành một chuỗi cửa hàng khác, NewCore Outlet. Công ty vận hành các cửa hàng bán sản phẩm và chuỗi cửa hàng bán lẻ của các cửa hàng bách hóa Hàn Quốc. Ngoài các hoạt động tại Hàn Quốc, công ty còn điều hành các cơ sở kinh doanh tại Seoul, Incheon, Kyunggi-do và các chuỗi địa phương khác của Hàn Quốc.
Cửa hàng
Cửa hàng Junggye ở Nowon-gu, Seoul
Cửa hàng Guro ở Guro-gu, Seoul
Cửa hàng Cheonho ở Gangdong-gu, Seoul
Cửa hàng Bupyeong ở Bupyeong-gu, Seoul
Cửa hàng Anyang ở Manan-gu, Anyang, Kyunggi-do
Cửa hàng Bundang ở Bundang-gu, Seongnam, Kyunggi-do
Cửa hàng Suwon ở Paldal-gu, Suwon, Kyunggi-do
Cửa hàng Cheolsan ở Gwangmyeong, tỉnh Kyunggi-do
Tham khảo thêm.
Kinh tế Hàn Quốc
Danh sách các công ty Hàn Quốc
Seoul E-Land FC |
19847897 | 944720 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847897 | Tập đoàn E-Land | Tập đoàn E·Land (tiếng Hàn: 이랜드그룹) là một tập đoàn Hàn Quốc có trụ sở chính tại Changjeon-dong Mapo-gu, Seoul, Hàn Quốc. Tập đoàn E-Land tham gia vào các trung tâm bán lẻ, nhà hàng, công viên giải trí, khách sạn và doanh nghiệp xây dựng cũng như nền tảng kinh doanh quần áo thời trang. Nó có hoạt động trên toàn thế giới thông qua công ty con E-Land World.
Lịch sử hình thành.
E-Land khởi đầu là một cửa hàng quần áo rộng 6 mét vuông trên con phố thời trang phía trước Đại học Ewha ở Sinchon vào năm 1980. Thương hiệu đầu tiên của E-Land có tên là "England", sau này đổi thành "E-Land" do những hạn chế về đăng ký nhãn hiệu hàng hóa.
Năm 1994, Tập đoàn E-Land giới thiệu cửa hàng đầu tiên tại thị trường Hàn Quốc bằng việc mở cửa hàng đầu tiên 2001 Outlet. Nó xuất hiện dưới hình thức các cửa hàng đại lý nhiều tầng với các cửa hàng tạp hóa, đồ gia dụng và quần áo.
Năm 2003, Tập đoàn E-Land mua 75% cổ phần của New Core, một cửa hàng bách hóa hoạt động tại 25 địa điểm khác nhau ở Hàn Quốc. Sau khi mua lại, New Core được chuyển đổi thành hai cửa hàng bách hóa và 15 cửa hàng thời trang cao cấp. [cần dẫn nguồn]
Năm 2005, Tập đoàn E-Land trở thành tập đoàn lớn thứ 37 tại Hàn Quốc (không bao gồm doanh nghiệp nhà nước) với tổng tài sản hơn 2 tỷ USD. Vào tháng 4 năm 2006, Tập đoàn E-Land đã mua lại toàn bộ hoạt động của Carrefour tại Hàn Quốc, nơi điều hành 32 cửa hàng giảm giá. Carrefour Korea, mặc dù có sự hiện diện toàn cầu và có kinh nghiệm ở nước ngoài, vẫn gặp khó khăn trong việc tìm hiểu văn hóa địa phương của Hàn Quốc. Carrefour đã được E-Land Group đổi tên thành Homever sau khi mua lại. Việc mua lại đã đưa Tập đoàn E-Land từ vị trí nhà khai thác cửa hàng/chiết khấu lớn thứ 6 lên thứ 2 về tổng số cửa hàng. Năm 2006, Tập đoàn E-Land là nhà bán lẻ lớn thứ hai ở Hàn Quốc dựa trên số lượng cửa hàng (Nguồn: Korea Rating). Vào ngày 14 tháng 5 năm 2008, tập đoàn bán lẻ Tesco của Anh, đã hoạt động tại Hàn Quốc, đã đồng ý mua 36 đại siêu thị với sự kết hợp giữa thực phẩm và phi thực phẩm từ E-Land với giá 1,9 tỷ USD (976 triệu bảng Anh) trong thương vụ mua lại lớn nhất của mình, đưa Tesco trở thành nhà bán lẻ lớn thứ hai trong nước. Phần lớn các cửa hàng E-Land trước đây thuộc về nhà bán lẻ Carrefour của Pháp trước năm 2006 và hầu hết các cửa hàng sẽ được chuyển đổi thành cửa hàng Tesco Homeplus. Chuỗi cửa hàng giảm giá Home Plus của Tesco tại Hàn Quốc hiện có 66 cửa hàng.
Vào ngày 16 tháng 12 năm 2011, E-Land mua chiếc nhẫn Kim cương Krupp của Elizabeth Taylor với giá 8.818.500 USD (bao gồm cả phí bảo hiểm của người mua). Họ dự định trưng bày nó tại công viên giải trí E-World ở Daegu.
Ngày 14 tháng 4 năm 2014, Tập đoàn E-Land thông báo sẽ thành lập câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở tại Seoul và Seoul E-Land FC đang thi đấu ở K League Challenge (Giải hạng hai) kể từ năm 2015.
Hoạt động kinh doanh.
Tập đoàn E-Land tập trung vào sản xuất và phân phối hàng tiêu dùng bao gồm quần áo, hàng tiêu dùng và đồ gia dụng. Sản phẩm được bán thông qua hai kênh khác nhau: khoảng 5.000 cửa hàng nhượng quyền và 59 cửa hàng thuộc sở hữu của E-Land. Hoạt động kinh doanh bán lẻ hiện tại của Tập đoàn bao gồm Kim's Club, NC Department Store, NewCore Outlet, 2001 Outlet và DongA Department Store. Danh mục sản phẩm của công ty bao gồm quần áo trẻ sơ sinh, quần áo trẻ em, quần áo phụ nữ, quần áo thể thao và đồ lót cùng vô số kênh như cửa hàng đại lý, cửa hàng bách hóa và siêu thị.
Tập đoàn E-Land sở hữu 60 thương hiệu tại Hàn Quốc.
Cửa hàng 2001
2001 Outlet (hangul:이천일 아울렛) là một nhà bán lẻ Hàn Quốc có trụ sở tại Seoul, Hàn Quốc. Nhượng quyền cửa hàng là một chi nhánh của Tập đoàn E-Land, tập đoàn này cũng đang điều hành một chuỗi cửa hàng khác, NewCore Outlet. Công ty vận hành các cửa hàng bán sản phẩm và chuỗi cửa hàng bán lẻ của các cửa hàng bách hóa Hàn Quốc. Ngoài các hoạt động tại Hàn Quốc, công ty còn điều hành các cơ sở kinh doanh tại Seoul, Incheon, Kyunggi-do và các chuỗi địa phương khác của Hàn Quốc.
Cửa hàng
Cửa hàng Junggye ở Nowon-gu, Seoul
Cửa hàng Guro ở Guro-gu, Seoul
Cửa hàng Cheonho ở Gangdong-gu, Seoul
Cửa hàng Bupyeong ở Bupyeong-gu, Seoul
Cửa hàng Anyang ở Manan-gu, Anyang, Kyunggi-do
Cửa hàng Bundang ở Bundang-gu, Seongnam, Kyunggi-do
Cửa hàng Suwon ở Paldal-gu, Suwon, Kyunggi-do
Cửa hàng Cheolsan ở Gwangmyeong, tỉnh Kyunggi-do
Tham khảo thêm.
Kinh tế Hàn Quốc
Danh sách các công ty Hàn Quốc
Seoul E-Land FC |
19847899 | 940399 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847899 | Charlotte FitzRoy, Bá tước phu nhân xứ Lichfield | Charlotte Fitzroy, Bá tước phu nhân xứ Lichfield (5 tháng 9 năm 1664 – 17 tháng 2 năm 1718) là con ngoại hôn của Charles II của Anh với một trong những tình nhân nổi tiếng nhất của Quốc vương là Barbara Villiers, Công tước thứ 1 xứ Cleveland. Nổi tiếng với vẻ đẹp của mình, Charlotte kết hôn năm 12 tuổi với Edward Henry Lee, Bá tước thứ 1 xứ Lichfield, do đó trở thành Bá tước phu nhân xứ Lichfield.
Những năm đầu đời.
Charlotte Fitzroy sinh vào ngày 5 tháng 9 năm 1664, là người con thứ tư và con gái thứ hai của Barbara Palmer, Bá tước phu nhân xứ Castlemaine, người con duy nhất của chỉ huy phe Bảo hoàng William Villiers, Tử tước Grandison thứ 2. Charlotte được giao cho một phó mẫu ở Dinh Berkshire chăm sóc.
Mẹ của Charlotte đã ly thân với chồng là Roger Palmer, Bá tước thứ 1 xứ Castlemaine, nhưng vẫn duy trì quan hệ hôn nhân với Roger Palmer. Castlemaine không có bất kỳ đứa con nào với vợ; trên thực tế, Charlotte và các anh chị em đều là con ngoại hôn của Bà Bá tước với Quốc vương Charles II. Charles II thừa nhận con gái và ban cho Charlotte họ FitzRoy - tức là "con của Quốc vương".
Người viết nhật ký Samuel Pepys ghi nhận rằng Charlotte có thể sẽ có triển vọng hôn nhân tốt: "Phu nhân Castlemayne [Barbara Villiers] của tôi sẽ vui vẻ nói rằng con gái của bà (không quá một hoặc hai tuổi) sẽ là thiếu nữ đầu tiên trong Triều đình sẽ kết hôn…”
Charlotte là người cháu gái yêu thích của James, Công tước xứ York, em trai của Charles II, người sau này trị vì nước Anh với trị hiệu là James II. Nhà sử học John Heneage Jesse đã viết về Charlotte Fitzroy như sau: "Chúng ta biết rất ít về Charlotte ngoại trừ việc cô ấy xinh đẹp." Khi còn nhỏ, Charlotte đã được vẽ bởi họa sĩ cung đình Peter Lely, Họa sĩ chính Thường trực của Charles II, trong đó Công nương ngồi cùng với một nam hầu cận người Ấn Độ, tay cầm một chùm nho và mặc trang phục lụa màu hồng. Ngày nay, bức tranh được treo ở Triển lãm Nghệ thuật York.
Nhà sử học nghệ thuật Anna Brownell Jameson đã mô tả Charlotte Fitzroy là người "có sắc đẹp sánh ngang với mẹ, nhưng lại không giống mẹ ở mọi khía cạnh còn lại."
Có vẻ như Charles II là một người cha đầy yêu thương đối với Charlotte. Năm 1682, Quốc vương đã viết cho con gái rằng: "Cha phải nói với con rằng cha rất vui khi biết con đã mang thai, và cha hy vọng được gặp con sớm, để cha có thể cảm thấy hạnh phúc khi nói với con rằng cha thương con đến nhường nào, và là cha tốt của bon, Charles Quốc vương".
Hôn nhân và con cái.
Ngày 16 tháng 5 năm 1674, trước sinh nhật thứ mười, Công nương Charlotte đã ký thỏa thuận với Ngài Edward Lee, và hai ngườikết hôn vào ngày 6 tháng 2 năm 1677, vào năm Charlotte được mười ba tuổi. Khi Charles Stewart, Công tước thứ 6 xứ Lennox qua đời vào năm 1673, Edward được phong làm Bá tước xứ Lichfield. Của hồi môn của Charlotte được thỏa thuận là 18.000 bảng Anh và chồng Edward được nhận khoản trợ cấp 2.000 bảng Anh mỗi năm.
Hai vợ chồng có mười tám người con:
Qua đời và di sản.
Charlotte qua đời vào ngày 17 tháng 2 năm 1718, thọ 53 tuổi và được chôn cất tại Khu đất của Nhà thờ Các Thánh ở Spelsbury, Oxfordshire, Anh.
Một tòa nhà được xây dựng ngay bên cạnh ngôi nhà của Charlotte mà sau này được biết đến với cái tên là số 10 phố Downing. |
19847900 | 744923 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847900 | Viên Nhất Kỳ | Viên Nhất Kỳ (giản thể: 袁一琦, phồn thể: 袁一琦, bính âm: "Yuán Yī Qí"; sinh ngày 19 tháng 3 năm 2000) là một nữ ca sĩ và diễn viên người Trung Quốc trực thuộc công ty giải trí Shanghai STAR48 Culture Media Co., Ltd. Cô là thành viên thế hệ thứ 7 của nhóm nhạc nữ thần tượng SNH48 thuộc Team HII.
Sự nghiệp.
Ngày 15 tháng 9 năm 2016, cô trở thành thành viên thế hệ thứ 7 của SNH48 và gia nhập SNH48 Team HII. Ngày 27 tháng 9, SNH48 giành giải Nhóm nhạc xuất sắc nhất năm trên BXH Bài hát mới châu Á. Ngày 17 tháng 10, SNH48 phát hành EP "Princess Cloak" cho "SNH48's 3rd Annual Idol Popularity Finals Song Report". Ngày 5 tháng 11 cô tham gia "SNH48’s 2nd Annual Fashion Awards". Ngày 21 tháng 12, cô cùng SNH48 phát hành EP "“Khoảnh khắc đầu năm”".
Ngày 7 tháng 1 năm 2017, cô tham gia "3rd Annual Golden Melody Awards Concert" của SNH48 GROUP và bài hát "The Ringtone" cô trình diễn cùng Team HII SNH48 đã giành vị trí thứ 48. Ngày 17 tháng 3, cô phát hành EP "Tương lai của chúng ta" cùng SNH48. Ngày 19 tháng 5, cô cùng SNH48 phát hành EP "Summer Pirates". Ngày 29 tháng 7, cô tham gia "SNH48 GROUP 4th Annual Idol Popularity Finals Concert" với ca khúc "Trái tim bay lượn" với vị trí thứ 56. Ngày 18 tháng 10, album "Dawn of Naples" được phát hành cùng SNH48. Ngày 8 tháng 11, MV đĩa đơn "Uniform Faith" do cô tham gia ghi hình báo cáo nhóm tổng tuyển cử lần thứ 4 đã chính thức ra mắt. Ngày 18 tháng 11, cô tham gia "SNH48 GROUP×MINA 3rd Annual Fashion Awards". Ngày 20 tháng 12, cô phát hành EP "Sweet festival" cùng SNH48.
Ngày 3 tháng 2 năm 2018, cô tham gia "4th Annual Golden Melody Awards Concert" của SNH48 GROUP. Ca khúc "Một lần nữa yêu" do cô cùng Vương Vũ Huyên, Hoàng Ân Như, Thẩm Mộng Dao trình diễn giành vị trí thứ 9, và ca khúc "Hoa cùng lửa" cô biểu diễn cùng SNH48 Team HII cũng giành được vị trí thứ 49. Ngày 26 tháng 3, cô phát hành EP "Chương Nhạc Tương Lai" cùng SNH48. Ngày 7 tháng 4, cô lần đầu tiên tham gia "SNH48 Idol Games" và giành chức vô địch trong cuộc đua 25M * 8. Ngày 17 tháng 5, cô cùng SNH48 phát hành EP "Quy Luật Rừng Xanh". Ngày 28 tháng 7, cô tham gia "Chỉ Lệ Tiền Hành" "5th Annual Idol Popularity Finals Concert" của SNH48 GROUP. Ngày 19 tháng 8, cô cùng SNH48 giành giải Nhóm nhạc xuất sắc nhất 2018 tại "Asian New Song Chart." Ngày 27 tháng 10, cô tham gia "SNH48 GROUP x Mina 4th Annual Fashion Awards". Ngày 20 tháng 12, album "“Now and Forever”" được cô cùng SNH48 phát hành.
Ngày 19 tháng 1 năm 2019, cô tham gia "5th Annual Golden Melody Awards Concert" của SNH48 GROUP, cô cùng Từ Tử Hiên, Ngô Triết Hàm, Dương Băng Di, Trương Di, Trương Đan Tam và Trương Quỳnh Dư thành lập nhóm 7 người DeMOON. Ngày 22 tháng 3, SNH48 phát hành album báo cáo "Our Journey" cho "5th Golden Melody Awards". Ngày 13 tháng 4, cô tham gia "Idol Games lần thứ 2" của SNH48 GROUP và giành chức vô địch ở bộ môn nhảy cao. Ngày 25 tháng 5, SNH48 phát hành EP bình chọn độc quyền "Dream in a Summer" cho vòng chung kết lần thứ 6. Ngày 23 tháng 6, chương trình truyền hình "Thiên Thiên Hướng Thượng" của Đài truyền hình vệ tinh Hồ Nam do cô tham gia ghi hình đã được phát sóng. Ngày 27 tháng 7, trong tổng tuyển cử lần thứ 6 "New Journey" của SNH48 GROUP cô đã giành được vị trí thứ 21. Lần đầu xuất hiện tại buổi hòa nhạc cùng DeMOON, và trình diễn đĩa đơn chưa phát hành "Hồ Ly (Fox)". Ngày 23 tháng 8, với tư cách là thành viên của SNH48 GROUP TOP32, cô đã được mời tham dự "SOBA Korea Awards 2019" thay mặt cho SNH48 và giành được Giải thưởng Nghệ sĩ làn sóng Hàn Quốc mới ngoài nước. Ngày 15 tháng 9, DeMOON đã phát hành EP đầu tiên của nhóm mang tên "DeMOON". Ngày 17 tháng 9, EP "Bài Hát Thời Gian" được phát hành cùng SNH48. Ngày 22 tháng 10, ca khúc cô tham gia quay MV "Brave or Not" cho lần tổng tuyển cử thứ 6 chính thức ra mắt. Ngày 17 tháng 11, cô tham dự "Asian Music Festival 2019" cùng DeMOON và giành được Giải thưởng Nhóm nhạc nữ mới danh dự hàng năm. Ngày 21 tháng 12, cô tham gia "6th Annual Golden Melody Awards Concert" của SNH48 GROUP, ca khúc "Cuộc gọi nhỡ" do cô trình diễn cùng Lý Vũ Kỳ giành được vị trí thứ 7 trong nhóm Vân Khả.
Ngày 29 tháng 5 năm 2020, chương trình thi đấu nhóm nhạc của kênh Tencent Video "Chúng Ta Nhiệt Huyết" cô tham gia được phát sóng. Ngày 15 tháng 6, MV ca khúc chủ đề "Trời Trong Rồi" trong EP cùng tên trong tổng tuyển cử lần 7 của SNH48 GROUP được ra mắt. Ngày 15 tháng 8, cô tham gia tổng tuyển cử lần 7 và giành được vị trí thứ 12. Ngày 8 tháng 9, đĩa đơn "Goodbye" được phát hành. Ngày 23 tháng 10, EP "Bộ ba tăng trưởng F.L.Y" được ra mắt cùng SNH48. Ngày 5 tháng 11, MV báo cáo của nhóm Ánh Sao cho lần tổng tuyển cử thứ 7 "How are you" được chính thức đăng tải. Ngày 10 tháng 11, cô phát hành đĩa đơn "I Don't Wanna Be With You". Ngày 22 tháng 12, single mừng năm mới "Happy Wonder World" được phát hành cùng SNH48 FAMILY GROUP. Ngày 25 tháng 12, MV ca khúc “Happy Wonder World” được phát hành trực tuyến.
Ngày 16 tháng 1 năm 2021, cô tham gia "7th Annual Golden Melody Awards Concert" của SNH48 GROUP, cô cùng Đoàn Nghệ Tuyền giành được vị trí thứ 16 với ca khúc "9 to 9", và Team HII của cô cũng giành được Đội vinh quang của năm với ca khúc "Honor". Ngày 30 tháng 3, đĩa đơn "Can't See the Person Talking in the Mirror" được phát hành. Tháng 4, cô tham gia chương trình âm nhạc "Youth and melody" của kênh DRAGON TV với tư cách ca sĩ thuộc Siba Family Label, trong chương trình cô thể hiện ca khúc "Thiên Thiên". Ngày 26 tháng 5, EP "Flipped" được phát hành cùng SNH48. Ngày 28 tháng 6, đĩa đơn "Chỉ Một Lần Duy Nhất Của Chúng Ta" được ra mắt. Ngày 19 tháng 7, ca khúc "Youth Is a Blind Box" trong bộ phim "The Day We Lit up the Sky" được cô phát hành cùng Tôn Nhuế, Hứa Dương Ngọc Trác, Do Miểu và Trần Lâm. Ngày 7 tháng 8, cô tham gia tổng tuyển cử "48 Possibilities of the World" lần thứ 8 của SNH48 GROUP và giành được vị trí thứ hai.
Ngày 20 tháng 8 năm 2022 cô giành được vị trí thứ 3 trong tổng tuyển cử lần thứ 9 của SNH48 GROUP. Ngày 10 tháng 9, chương trình "50km Taohuawu" cô tham gia của kênh Tencent Video được phát sóng.
Ngày 15 tháng 1 năm 2023, cô tham gia chương trình "Kỳ ngộ tân niên dạ" của Truyền hình vệ tinh Hà Nam cùng SNH48, cả nhóm trình diễn ca khúc "Thực dục tân niên", và điệu nhảy chủ đề năm mới "Thỏ vũ tân niên". Ngày 20 tháng 1, cô tham gia chương trình "Gala Lễ hội mùa xuân truyền hình vệ tinh An Huy 2023". Ngày 5 tháng 2, cô tham gia "Dạ tiệc lễ hội đèn lồng truyền hình vệ tinh An Huy 2023" cùng nhóm và trình diễn ca khúc "honor". Ngày 5 tháng 8, khi tham gia "Annual Youth Ceremony 2023" của SNH48 GROUP và "Siba Family 10th Anniversary Concert", "Mười năm tuổi trẻ, những vì sao tỏa sáng", Viên Nhất Kỳ đã giành được Giải Vàng dành cho thành viên có ảnh hưởng của năm và danh hiệu QUEEN cho mức độ nổi tiếng cao nhất năm. |
19847910 | 872953 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847910 | Rausu, Hokkaidō | là thị trấn thuộc huyện Menashi, phó tỉnh Nemuro, Hokkaido, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 4.722 người và mật độ dân số là 12 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 397,88 km2. |
19847912 | 333700 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847912 | Catherine Darnley, Công tước phu nhân xứ Buckingham và Normanby | Catherine Darnley, Công tước phu nhân xứ Buckingham và Normanby (khoảng 1681 – 13 tháng 3 năm 1743), là người con ngoại hôn của James II của Anh, và đã kết hôn liên tiếp với hai nhà quý tộc người Anh.
Tiểu sử.
Công nương Catherine là con gái của James II của Anh và tình nhân là Catherine Sedley, Bá tước xứ Dorchester. Catherine được ban cho họ Darnley, thể hiện mối liên hệ giữa Catherine và tổ tiên là Henry Stuart, Lãnh chúa Darnley. Có một số nghi ngờ về quan hệ cha con giữa Catherine Darnley và James II vì mẹ của Công nương là Catherine Sedley được cho là có những người tình khác. Theo sắc lệnh của vương thất, Công nương Catherine Darnley được hưởng địa vị dành cho con gái của Công tước. Phù hiệu của Catherine được James II phong tặng ngày nay được kết hợp với phù hiệu của Hầu tước xứ Normanby, cho thấy rằng James II đã chấp nhận Catherine là con ruột của mình.
Người chồng đầu tiên của Catherine là James Annesley, Bá tước thứ 3 xứ Anglesey, kết hôn vào ngày 28 tháng 10 năm 1699 tại Tu viện Westminster. Cặp đôi ly thân vào năm 1701 theo Đạo luật Quốc hội, với lý do là vì bản tính tàn ác của bá tước, và Bà Bá tước cho rằng James Annesley đã cố giết chết mình. Catherine quyết rời bỏ chồng trong khi James đang có gắng giữ ghế trong Thượng Nghị viện thông qua địa vị của Catherine. James mắc bệnh lao và qua đời sớm vào năm 1702.
Catherine và James có một con gái là Catherine Annesley (khoảng 1700–1736), kết hôn lần thứ nhất với William Phipps và lần hứ hai với John Sheldon (hoặc Skelton).
Ngày 16 tháng 3 năm 1706, Thái Bá tước phu nhân Catherine kết hôn với tư cách là vợ thứ ba của John Sheffield, Công tước thứ 1 xứ Buckingham và Normanby. Đám cưới diễn ra tại Nhà thờ St Martin-in-the-Fields. Công tước xứ Buckingham và Normanby là một người ủng hộ nhiệt thành của Quốc vương James II, lớn hơn Catherine khoảng ba mươi tuổi và hai vợ chồng có ba người con, hai trong số đó đã qua đời khi còn nhỏ:
Những cuộc hôn nhân trước đây của ngài công tước được cho là không hạnh phúc, nhưng John lại rất yêu Catherine, và người bạn của hai vợ chồng là Alexander Pope tuyên bố rằng "bất cứ khi nào hai người họ có bất kỳ sự đối lập quan điểm nào... John sẽ không chờ đến giờ ăn tối... hay cho đến khi Catherine trở về phòng cậu ấy, nhưng luôn bỏ sổ sách hoặc công việc để đến bên vợ và nói: "Em à, em và anh không bao giờ nên bất hòa; và mặc dù anh vẫn nghĩ rằng mình đúng, em cứ làm mọi sự theo ý hướng của em." Khi John qua đời vào năm 1721, Catherine đã kêu gọi Giáo hoàng và Francis Atterbury cho sản xuất một ấn bản tưởng niệm các bài thơ và các tác phẩm khác của người chồng quá cố.
Vì tất cả những người con của Catherine đều đã qua đời trước Catherine, tước hiệu công tước đã bị tuyệt tự và các tước vị cũng như tài sản của người chồng quá cố của Catherine được kế thừa bởi đứa con ngoài giá thú của John là Ngài Charles Herbert Sheffield, Nam tước thứ nhất. Hậu duệ của con gái Catherine, Catherine Annesley gồm có Constantine Phipps, Nam tước Mulgrave thứ 1, Henry Phipps, Bá tước thứ 1 xứ Mulgrave, Sĩ quan Hải quân Vương thất Charles Phipps và Sĩ quan Quân đội Anh Edmund Phipps. |
19847915 | 15735 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847915 | Các địa điểm khảo cổ thung lũng Upano | Các địa điểm khảo cổ thung lũng Upano là một cụm các địa điểm khảo cổ trong rừng nhiệt đới Amazon. Các địa điểm này nằm ở thung lũng sông Upano ở phía đông Ecuador. Các địa điểm khảo cổ này bao gồm một số thành phố, mà các nhà khảo cổ cho rằng có khoảng 10.000 cư dân đã từng sinh sống tại đây, thời điểm hưng thịnh có thể đạt từ 15.000 - 30.000 dân từ năm 500 trước Công nguyên, là khu vực tập trung dân cư có trước bất kỳ xã hội Amazon nào từng được người ta biết đến hơn một thiên niên kỷ.
Lịch sử khai quật.
Bằng chứng sớm nhất về việc định cư thời tiền hiện đại ở vùng Thung lũng Upano được tìm thấy vào thập niên 1970. , một nhà khảo cổ học thuộc Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia của Pháp, đã bắt đầu khai quật trong khu vực vào thập niên 1990. Việc thăm dò các địa điểm được tăng tốc sau khi chính phủ Ecuador tài trợ cho cuộc khảo sát bằng LIDAR đối với thung lũng Upano vào năm 2015, tạo điều kiện cho việc phát hiện thêm nhiều khu định cư hơn những gì đã được phát hiện trước đó. Nhóm của Rostain đã công bố những phát hiện của họ từ cuộc khảo sát LIDAR trên "Science" vào tháng 1 năm 2024. |
19847916 | 872953 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847916 | Bihoro, Hokkaidō | là thị trấn thuộc huyện Abashiri, phó tỉnh Okhotsk, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 18.697 người và mật độ dân số là 43 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 438,36 km2. |
19847922 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847922 | Karoline Luise xứ Hessen-Darmstadt | Caroline Louise xứ Hessen-Darmstadt (tiếng Đức: "Karoline Luise von Hessen-Darmstadt"; 11 tháng 7 năm 1723 – 8 tháng 4 năm 1783), là người vợ đầu tiên của Karl Friedrich xứ Baden và là con gái của Ludwig VIII, nhà cai trị Bá quốc Hessen-Darmstadt và vợ Nữ bá tước Charlotte xứ Hanau-Lichtenberg. Bà có 2 hậu duệ trở thành Đại công tước xứ Baden, trước khi ngai vàng của Baden rơi vào tay hậu duệ của người vợ thứ 2 của Đại công tước Karl vì tuyệt tự dòng nam. Caroline được xem là một nghệ sĩ, một nhà khoa học, nhà sưu tập và chuyên gia thẩm mỹ.
Bà được mô tả là một người phụ nữ có học thức, nói được 5 thứ tiếng và góp phần đưa kinh đô Karlsruhe của Baden trở thành trung tâm văn hoá ở Đức. Bá kết giao với Voltaire, Johann Gottfried Herder, Johann Kaspar Lavater, Johann Wolfgang von Goethe, Friedrich Gottlieb Klopstock, Christoph Willibald Gluck và Christoph Martin Wieland. Bà là thành viên của dàn nhạc cung đình Markgräflich Baden và Học viện Mỹ thuật Đan Mạch, bà có một phòng thí nghiệm được thành lập trong cung điện Karlsruhe.
Cô tự nuôi sống bản thân từ thu nhập của mình và quản lý một nhà máy sản xuất xà phòng và nến. Sức khỏe của bà bị xuống cấp do một cú ngã vào năm 1779, và bà qua đời vì đột quỵ trong chuyến đi cùng con trai. Bộ sưu tập của bà là nền tảng của Staatliche Kunsthalle Karlsruhe và Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Bang Karlsruhe. |
19847929 | 153657 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847929 | Quân đoàn Donetsk số 1 | Quân đoàn Lục quân Donetsk số 1 (tiếng Nga: 1-й Донецкий армейский корпус) là một đơn vị của Lục quân Nga thuộc biên chế của Quân khu Nam, nhưng trước đây vốn là một đơn vị dân quân của Cộng hòa Nhân dân Donetsk. Đơn vị chính thức được nhập vào Nga vào ngày 31 tháng 12 năm 2022 sau khi Nga sáp nhập lãnh thổ Donetsk chiếm đóng được.
Cơ cấu.
Quân đoàn Lục quân Donetsk số 1 bao gồm khoảng sáu lữ đoàn bộ binh, một lữ đoàn pháo binh, một trung đoàn xe tăng: |
19847937 | 872953 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847937 | Engaru, Hokkaidō | là thị trấn thuộc huyện Monbetsu, phó tỉnh Okhotsk, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 19.241 người và mật độ dân số là 14 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 1.332,32 km2. |
19847938 | 71073001 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847938 | Egglestonichthys bombylios | Egglestonichthys bombylios là một loài cá biển thuộc chi "Egglestonichthys" trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1997.
Từ nguyên.
Từ định danh "bombylios" bắt nguồn từ "bómbūx" (βόμβυξ trong tiếng Hy Lạp cổ đại) nghĩa là “ong nghệ”, hàm ý đề cập đến kiểu hình của loài cá này giống với loài ong nghệ, cũng như cơ thể to chắc của nó.
Phân bố.
"E. bombylios" ban đầu được biết đến ở ngoài khơi Lãnh thổ Bắc Úc, sau này được ghi nhận thêm tại khu vực vịnh Nha Trang–vịnh Vân Phong (Việt Nam) và bờ đông Trung Quốc.
"E. bombylios" được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 29 m.
Mô tả.
Mẫu định danh của "E. bombylios" có chiều dài chuẩn lớn nhất là 4,5 cm. Mẫu vật thu thập từ Trung Quốc có chiều dài chuẩn là 5,4 cm.
Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 9–10; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 9–10; Số tia ở vây ngực: 20–22.
Phân loại.
"E. bombylios" có quan hệ chặt chẽ với "Larsonella pumilus" và chi "Priolepis". |
19847941 | 71063380 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847941 | Duat | Duat (tiếng Ai Cập cổ đại: "dwꜣt", phát âm "do-aht", Coptic: ⲧⲏ, còn xuất hiện như "Tuat", "Tuaut" hoặc "Akert", "Amenthes", "Amenti" hoặc "Neter-khertet") là thế giới ngầm trong thần thoại Ai Cập. Nó đã được thể hiện bằng chữ tượng hình như một ngôi sao trong vòng tròn: 𓇽. Thần Osiris được cho là chúa tể của thế giới ngầm. Ông là xác ướp đầu tiên được mô tả trong thần thoại Osiris và ông đã nhân cách hóa sự tái sinh và cuộc sống sau khi chết. Địa ngục cũng là nơi ở của nhiều vị thần khác cùng với Osiris.
Địa lý của "Duat" tương tự như phác thảo với thế giới mà người Ai Cập biết: Có những đặc điểm thực tế như sông, đảo, cánh đồng, hồ, gò đất và hang động, nhưng cũng có những hồ lửa tuyệt vời, những bức tường sắt và cây ngọc lam. Trong "cuốn sách Hai cách" (một văn bản quan tài) thậm chí còn có một hình ảnh giống như bản đồ của "Duat". |
19847958 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847958 | Christian II của Đan Mạch | Christian II (1 tháng 7 năm 1481 – 25 tháng 1 năm 1559) là một vị quân chủ Scandinavia thuộc Liên minh Kalmar, ông cai trị với tư cách là Vua Đan Mạch và Na Uy từ 1513 đến 1523, vua của Thụy Điển từ 1520 đến 1521. Từ năm 1513 đến năm 1523, ông đồng thời là Công tước Schleswig và Holstein cùng cai trị với chú Frederik. |
19847966 | 780814 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847966 | Frederik I của Đan Mạch | Frederik I (tiếng Đan Mạch và ; ; ; 7 tháng 10 năm 1471 – 10 tháng 4 năm 1533) là Vua Đan Mạch và Na Uy. Ông là vị vua Công giáo cuối cùng trị vì Đan Mạch và Na Uy, khi các vị vua tiếp theo theo đạo Luther sau cuộc Cải cách Tin lành. Với tư cách là vua của Na Uy, Frederick được biết đến là chưa bao giờ đến thăm đất nước này. Triều đại của ông bắt đầu truyền thống lâu đời là gọi tên các vị vua Đan Mạch bằng Christian và Frederik. |
19847974 | 739642 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847974 | Charles FitzRoy, Công tước thứ 2 xứ Cleveland | Charles Palmer, sau là Charles FitzRoy, Công tước thứ 2 xứ Cleveland, Công tước thứ 1 xứ Southampton, KG, (18 tháng 6 năm 1662 – 9 tháng 9 năm 1730), được gọi bằng tước hiệu nhã xưng là Nam tước Limerick trước năm 1670; Bá tước xứ Southampton từ năm 1670 đến năm 1675; và được biết đến là Công tước xứ Southampton từ năm 1675 cho đến năm 1709, khi Charles kế vị mẹ là Công tước xứ Cleveland.
Những năm đầu đời.
Charles Palmer, sau là "FitzRoy", sinh ngày 18 tháng 6 năm 1662, là con trai của Charles II của Anh và tình nhân là Barbara Villiers, Công tước thứ 1 xứ Cleveland. Ban đầu, Charles được Roger Palmer, Bá tước thứ 1 xứ Castlemaine, chồng của Barbara, tuyên bố là con trai và là người thừa kế của mình trước khi Quốc vương Charles II công khai thừa nhận Charles là con trai của nhà vua.
Charles là người con lớn thứ ba trong số các người con của Charles II với Barbara Villiers. Ban đầu, vì được coi là con trai của Bá tước xứ Castlemaine, ngay từ khi sinh ra Charles đã được gọi là "Lãnh chúa Limerick", gọi theo tước hiệu cao thứ hai của ngài Bá tước là Nam tước Limerick. Sự ra đời của Charles trùng vào lúc vọ chồng Bá tước ly thân. Ngài Castlemaine, một tín hữu Công giáo La Mã, đã rửa tội cho Charles theo đức tin Công giáo, nhưng sáu ngày sau, Quốc vương đã cho Charles rửa tội một lần nữa với tư cách là một tín hữu Anh giáo.
Cuộc sống cá nhân.
Năm 1670, khi tám tuổi, Charles đính hôn với Mary Wood, người con cũng như là người thừa kế duy nhất của Henry Wood, Tòng Nam tước thứ 1, nhưng với điều kiện là cuộc hôn nhân phải hoãn lại cho đến khi Mary được 16 tuổi. Sau cái chết của cha, Nữ Công tước xứ Cleveland ít nhiều đã ép buộc Mary ở với mình, với ý định nuôi dưỡng Mary cùng các con. Năm 1675, Charles FitzRoy được Vua cha Charles II phong tước hiệu Công tước xứ Southampton, cùng với các tước hiệu khác là Bá tước xứ Chichester và Nam tước Newbury. Charles kết hôn với Mary Wood vào năm 1679 nhưng cuộc hôn nhân chỉ kéo dài vài tháng vì Mary qua đời vì bệnh đậu mùa. Hai người cũng không có con chung.
Năm 1694, Charles tái hôn với Anne Pulteney, con gái của Ngài William Pulteney, ở Misterton, Leicestershire. Hai vợ chồng có sáu người con:
Sau cái chết của mẹ vào năm 1709, Charles trở thành Công tước thứ hai xứ Cleveland, thông qua điều khoản bổ sung đặc biệt cho phép Charles thừa kế tước hiệu bất chấp là con ngoại hôn.
Charles FitzRoy qua đời vào ngày 9 tháng 9 năm 1730 và được chôn cất tại Tu viện Westminster. Tước hiệu của Charles được truyền thừa cho người con trai cả là William FitzRoy (1698–1774), William qua đời mà không có hậu duệ, do đó tất cả các tước hiệu của Charles trở lại với Vương quyền. |
19847975 | 780814 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847975 | Frederik II của Đan Mạch | Frederick II (1 tháng 7 năm 1534 – 4 tháng 4 năm 1588) là Vua của Đan Mạch và Na Uy, Công tước xứ Schleswig và Holstein từ năm 1559 cho đến khi ông qua đời. |
19847981 | 780814 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847981 | Frederik III của Đan Mạch | Frederik III ( ; 18 tháng 3 năm 1609 – 9 tháng 2 năm 1670) là Vua của Đan Mạch và Na Uy từ năm 1648 cho đến khi qua đời vào năm 1670. |
19847998 | 912316 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847998 | Kristine Froseth | Kristine Froseth (sinh ngày 21 tháng 9 năm 1996) là một nữ diễn viên người Hoa Kỳ. Cô được biết đến với vai Kelly Aldrich trong loạt phim Netflix "The Society" và Alaska Young trong loạt phim Hulu "Looking for Alaska". Năm 2022, cô đóng vai chính trong loạt phim Showtime "The First Lady" trong vai Betty Ford thời trẻ.
Tiểu sử.
Froseth sinh ngày 21 tháng 9 năm 1995 tại Summit, New Jersey, với cha mẹ là người Na Uy. Tuổi thơ của cô trải qua những chuyến du lịch qua lại giữa Oslo và New Jersey do công việc của cha cô. |
19847999 | 872953 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19847999 | Danh sách năm tại Yemen | Đây là Danh sách năm tại Yemen. |
19848000 | 71073006 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848000 | Glossogobius circumspectus | <ns>0</ns>
<revision>
<parentid>71064017</parentid>
<timestamp>2024-01-20T10:08:37Z</timestamp>
<contributor>
<ip>2001:EE0:4F15:1DF0:D4C3:2B87:B8EF:8816</ip>
</contributor>
<model>wikitext</model>
<format>text/x-wiki</format>
Glossogobius circumspectus là một loài cá nước lợ thuộc chi "Glossogobius" trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1883.
Từ nguyên.
Tính từ định danh "circumspectus" trong tiếng Latinh có nghĩa là “thận trọng, kỹ lưỡng”, nhưng không có bằng chứng đề cập đến hàm ý của tên gọi.
Phân bố và môi trường sống.
"G. circumspectus" được ghi nhận từ tỉnh Kagoshima (Nam Nhật Bản) và đảo Đài Loan trải dài về phía nam đến bờ bắc Úc (), băng qua khu vực Đông Nam Á ở Tây Thái Bình Dương, phía đông đến đảo New Guinea và quần đảo Solomon. Ở Việt Nam, "G. circumspectus" được ghi nhận tại lưu vực sông Mê Kông và khu vực vịnh Nha Trang–vịnh Vân Phong.
"G. circumspectus" được tìm thấy trên nền bùn, cát, sỏi ở vùng hạ lưu của các dòng nước ngọt, cách đất liền không quá 10 km, nhưng gần như luôn thấy ở vùng cửa sông và rừng ngập mặn. "G. circumspectus" là loài duy nhất trong chi sống trong rừng ngập mặn, trong khi các loài "Glossogobius" còn lại đều sống ở vùng nước ngọt.
Mô tả.
Chiều dài tổng lớn nhất được ghi nhận ở "G. circumspectus" là 35 cm. |