text
stringlengths
199
386k
id
stringlengths
18
18
domain
stringclasses
25 values
Internet Society hay ISOC là một tổ chức quốc tế hoạt động phi lợi nhuận, phi chính phủ và bao gồm các thành viên có trình độ chuyên ngành. Tổ chức này chú trọng đến: tiêu chuẩn, giáo dục và các vấn đề về chính sách. Với trên 145 tổ chức thành viên và 65.000 thành viên cá nhân, ISOC bao gồm những con người cụ thể trong cộng đồng Internet. Mọi chi tiết có thể tìm thấy tại website của ISOC. Internet Society nằm ở gần thủ đô Washington, DC, Hoa Kỳ và Geneva, Thụy Sĩ. Số hội viên của nó bao gồm hơn 145 tổ chức thành viên và hơn 65.000 cá nhân. Thành viên còn có thể tự lập một chi nhánh của tổ chức tùy theo vị trí hoặc sở thích. Hiện nay tổ chức có tới 90 chi nhánh trên toàn thế giới. Nhiệm vụ và mục đích hoạt động Bảo đảm, cổ vũ cho sự phát triển, mở rộng và sử dụng Internet được thuận lợi nhất cho mọi người trên toàn thế giới. Xem thêm Lịch sử Internet Tham khảo Liên kết ngoài ISOC Việt Nam IETF and the Internet Society - Về Internet Engineering Task Force và ISOC, bài của Vint Cerf 18/7/1995 L'Association Internationale de Lutte Contre la Cybercriminalité bản lưu Public Interest Registry Internet Tổ chức quốc tế Tổ chức phi lợi nhuận Tiêu chuẩn Internet Khởi đầu năm 1992 Quản lý Internet
VI_open-0000000000
Internet_and_Telecom
Tế bào là một đơn vị cấu trúc cơ bản có chức năng sinh học của sinh vật sống. Tế bào là đơn vị nhỏ nhất của sự sống có khả năng phân chia độc lập, và các tế bào thường được gọi là "những viên gạch đầu tiên cấu tạo nên sự sống". Bộ môn nghiên cứu về các tế bào được gọi là sinh học tế bào. Tế bào bao gồm tế bào chất bao quanh bởi màng tế bào, trong đó có nhiều phân tử sinh học như protein và axit nucleic. Các sinh vật sống có thể được phân thành đơn bào (có một tế bào, bao gồm vi khuẩn) hoặc đa bào (bao gồm cả thực vật và động vật). Trong khi số lượng tế bào trong các thực vật và động vật ở các loài là khác nhau, thì cơ thể con người lại có hơn 10 nghìn tỷ (1012) tế bào. Phần lớn tế bào động vật và thực vật chỉ có thể nhìn thấy dưới kính hiển vi, với kích thước từ 1 đến 100 micromét. Tế bào được phát hiện bởi Robert Hooke vào năm 1665, người đã đặt tên cho các đơn vị sinh học của nó. Học thuyết tế bào, lần đầu tiên được nghiên cứu vào năm 1839 của Matthias Jakob Schleiden và Theodor Schwann, phát biểu rằng tất cả các sinh vật sống được cấu tạo bởi một hay nhiều tế bào, rằng các tế bào là đơn vị cơ bản tạo nên cấu trúc và chức năng của các cơ quan, tổ chức sinh vật sống, rằng tất cả các tế bào đến từ các tế bào đã tồn tại trước đó, và các tế bào đều chứa thông tin di truyền cần thiết để điều hòa chức năng tế bào và truyền thông tin đến các thế hệ tế bào tiếp theo. Các tế bào xuất hiện trên trái Đất khoảng 4 tỷ năm trước. Tổng quan về tế bào Các đặc tính của tế bào Mỗi tế bào là một hệ thống mở, tự duy trì và tự sản xuất: tế bào có thể thu nhận chất dinh dưỡng, chuyển hóa các chất này thành năng lượng, tiến hành các chức năng chuyên biệt và sản sinh thế hệ tế bào mới nếu cần thiết. Mỗi tế bào chứa một bản mật mã riêng hướng dẫn các hoạt động trên. Mọi tế bào đều có một số khả năng sau: Sinh sản thông qua phân bào.(sinh sản vô tính ) Trao đổi chất tế bào bao gồm thu nhận các vật liệu thô, chế biến thành các thành phần cần thiết cho tế bào, sản xuất các phân tử mang năng lượng và các sản phẩm phụ. Để thực hiện được các chức năng của mình, tế bào cần phải hấp thu và sử dụng được nguồn năng lượng hóa học dự trữ trong các phân tử hữu cơ. Năng lượng này được giải phóng trong các con đường trao đổi chất. Tổng hợp các protein, đây là những phân tử đảm nhiệm những chức năng cơ bản của tế bào, ví dụ như enzyme. Một tế bào động vật thông thường chứa khoảng 10.000 loại protein khác nhau. Đáp ứng với các kích thích, hoặc thay đổi của môi trường bên trong và bên ngoài như những thay đổi về nhiệt độ, pH hoặc nguồn dinh dưỡng. Di chuyển các túi tiết. Các dạng tế bào Người ta có thể phân loại tế bào dựa vào khả năng có thể tồn tại độc lập hay là không. Các sinh vật có thể bao gồm chỉ một tế bào (gọi là sinh vật đơn bào) thường có khả năng sống độc lập mặc dù có thể hình thành các khuẩn lạc. Ngoài ra, sinh vật cũng có thể bao gồm nhiều tế bào (sinh vật đa bào) thì mỗi tế bào được biệt hóa và thường không thể sống sót khi bị tách rời. Trong cơ thể con người có đến 220 loại tế bào và mô khác nhau. Nếu xét về cấu trúc nội bào, các tế bào có thể chỉ làm 2 dạng chính. Tế bào sinh vật nhân sơ thường có cấu trúc đơn giản, chỉ thấy ở sinh vật đơn bào hoặc tập đoàn đơn bào. Trong hệ thống phân loại 3 giới, các sinh vật nhân sơ là thuộc giới cổ khuẩn và Eubacteria. Tế bào sinh vật nhân chuẩn thường chứa các bào quan có màng riêng. Sinh vật đơn bào nhân chuẩn cũng rất đa dạng nhưng chủ yếu là sinh vật đa bào. Tế bào eukyryote bào gồm các sinh vật là động vật, thực vật và nấm. Các thành phần tế bào Mọi tế bào (bất kể sinh vật nhân chuẩn hay nhân sơ) đều có màng tế bào hay màng sinh chất, dùng để bao bọc tế bào, cách biệt thành phần nội bào với môi trường xung quanh, điều khiển nghiêm ngặt sự vận chuyển vào và ra của các chất, duy trì điện thế màng và nồng độ các chất bên trong và bên ngoài màng. Bên trong màng là một khối tế bào chất đặc (dạng vật chất chiếm toàn bộ thể tích tế bào). Mọi tế bào đều có các phân tử DNA, vật liệu di truyền quan trọng và các phân tử RNA tham gia trực tiếp quá trình tổng hợp nên các loại protein khác nhau, trong đó có các enzyme. Bên trong tế bào, vào mỗi thời điểm nhất định tế bào tổng hợp nhiều loại phân tử sinh học khác nhau. Phần dưới đây sẽ miêu tả ngắn ngọn các thành phần cơ bản của tế bào cũng như chức năng của chúng. Màng tế bào - Tấm áo ngoài Bài chính: Màng tế bào Vỏ bọc bên ngoài của một tế bào sinh vật nhân chuẩn gọi là màng sinh chất. Màng này cũng có ở các tế bào sinh vật nhân sơ nhưng được gọi là màng tế bào. Màng có chức năng bao bọc và phân tách tế bào với môi trường xung quanh. Màng được cấu thành bởi một lớp lipid kép và các protein. Các phân tử protein hoạt động như các kênh vận chuyển và bơm được nằm khảm vào lớp lipid một cách linh động (có thể di chuyển tương đối). Bộ khung tế bào - Hệ vận động Bài chính: Bộ khung tế bào Bộ khung tế bào là một thành phần quan trọng, phức tạp và linh động của tế bào.nó là hệ thống mạng sợi và ống protein (vi ống, vi sợi, sợi trung gian đan chéo nhau). Nó cấu thành và duy trì hình dáng tế bào; là các điểm bám cho các bào quan; hỗ trợ quá trình thực bào (tế bào thu nhận các chất bên ngoài); và cử động các phần tế bào trong quá trình sinh trưởng và vận động. Các protein tham gia cấu thành bộ khung tế bào gồm nhiều loại và có chức năng đa dạng như định hướng, neo bám, phát sinh các tấm màng. Tế bào chất - Không gian thực hiện chức năng tế bào Bài chính: Tế bào chất Bên trong các tế bào là một không gian chứa đầy dịch thể gọi là tế bào chất (cytoplasm). Nó bao hàm cả hỗn hợp các ion, chất dịch bên trong tế bào và cả các bào quan. Các bào quan bên trong tế bào chất đều có hệ thống màng sinh học để phân tách với khối dung dịch này. Chất nguyên sinh (cytosol) là để chỉ riêng phân dịch thể, chứ không có các bào quan. Đối với các sinh vật nhân sơ, tế bào chất là một thành phần tương đối tự do. Tuy nhiên, tế bào chất trong tế bào sinh vật nhân chuẩn thường chứa rất nhiều bào quan và bộ khung tế bào. Chất nguyên sinh thường chứa các chất dinh dưỡng hòa tan, phân cắt các sản phẩm phế liệu, và dịch chuyển vật chất trong tế bào tạo nên hiện tượng dòng chất nguyên sinh. Nhân tế bào thường nằm bên trong tế bào chất và có hình dạng thay đổi khi tế bào di chuyển. Tế bào chất cũng chứa nhiều loại muối khác nhau, đây là dạng chất dẫn điện tuyệt vời để tạo môi trường thích hợp cho các hoạt động của tế bào. Môi trường tế bào chất và các bào quan trong nó là yếu tố sống còn của một tế bào. Vật liệu di truyền - Yếu tố duy trì thông tin giữa các thế hệ Vật liệu di truyền là các phân tử nucleic acid (DNA và rRNA). Hầu hết các sinh vật sử dụng DNA để lưu trữ dài hạn thông tin di truyền trong khi chỉ một vài virus dùng RNA cho mục đích này. Thông tin di truyền của sinh vật chính là mã di truyền quy định tất cả protein cần thiết cho mọi tế bào của cơ thể. Tuy nhiên, một nghiên cứu mới đây cho thấy có thể một số RNA cũng được sử dụng như là một bản lưu đối với một số gen đề phòng sai hỏng. Ở các sinh vật nhân sơ, vật liệu di truyền là một phân tử DNA dạng vòng đơn giản. Phân tử này nằm ở một vùng tế bào chất chuyên biệt gọi là vùng nhân. Tuy nhiên, đối với các sinh vật nhân chuẩn, phân tử DNA được bao bọc bởi các phân tử protein tạo thành cấu trúc nhiễm sắc thể, được lưu giữ trong nhân tế bào (với màng nhân bao bên ngoài). Mỗi tế bào thường chứa nhiều nhiễm sắc thể (số lượng nhiễm sắc thể trong mỗi tế bào là đặc trưng cho loài). Ngoài ra, các bào quan như ty thể và lục lạp đều có vật liệu di truyền riêng của mình (xem thêm thuyết nội cộng sinh). Ví dụ, một tế bào người gồm hai bộ gen riêng biệt là bộ gen của nhân và bộ gen của ty thể. Bộ gene nhân (là thể lưỡng bội) bao gồm 46 phân tử DNA mạch thẳng tạo thành các nhiễm sắc thể riêng biệt. Bộ gene ty thể là phân tử DNA mạch vòng, khá nhỏ và chỉ mã hóa cho một vài protein quan trọng. Các bào quan Bài chính: Bào quan Cơ thể con người cấu tạo từ nhiều cơ quan như tim, phổi, thận. Mỗi cơ quan đảm nhiệm một chức riêng. Các tế bào thường chứa những cơ quan nhỏ gọi là bào quan, được thích nghi và chuyên hóa cho một hoặc một vài chức năng sống nhất định. Các bào quan thường chỉ có ở các tế bào sinh vật nhân chuẩn và thường có màng bao bọc. Nhân tế bào - trung tâm tế bào: Nhân tế bào là bào quan tối quan trọng trong tế bào sinh vật nhân chuẩn. Nó chứa các nhiễm sắc thể của tế bào, là nơi diễn ra quá trình tự nhân đôi DNA và tổng hợp RNA. Nhân tế bào có dạng hình cầu và được bao bọc bởi một lớp màng kép gọi là màng nhân. Màng nhân dùng để bao ngoài và bảo vệ DNA của tế bào trước những phân tử có thể gây tổn thương đến cấu trúc hoặc ảnh hưởng đến hoạt động của DNA. Trong quá trình hoạt động, phân tử DNA được phiên mã để tổng hợp các phân tử RNA chuyên biệt, gọi là RNA thông tin (mRNA). Các RNA thông tin được vận chuyển ra ngoài nhân, để trực tiếp tham gia quá trình tổng hợp các protein đặc thù. Ở các loài sinh vật nhân sơ, các hoạt động của DNA tiến hành ngay tại tế bào chất (chính xác hơn là tại vùng nhân). Ribosome - bộ máy sản xuất protein: Ribosome có cả trong tế bào sinh vật nhân chuẩn và sinh vật nhân sơ. Ribosome được cấu tạo từ các phân tử protein và RNA ribosome (rRNA). Đây là nơi thực hiện quá trình sinh tổng hợp protein từ các phân tử RNA thông tin. Quá trình này còn được gọi là dịch mã vì thông tin di truyền mã hóa trong trình tự phân tử DNA truyền qua trình tự RNA để quyết định trình tự amino acid của phân tử protein. Quá trình này cực kỳ quan trọng đối với tất cả mọi tế bào, do đó một tế bào thường chứa rất nhiều phân tử ribosome—thường hàng trăm thậm chí hàng nghìn phân tử. Ty thể và lục lạp - các trung tâm năng lượng: Ty thể là bào quan trong tế bào sinh vật nhân chuẩn có hình dạng, kích thước và số lượng đa dạng và có khả năng tự nhân đôi. Ty thể có bộ gene riêng, độc lập với bộ gene trong nhân tế bào. Ty thể có vai trò cung cấp năng lượng cho mọi quá trình trao đổi chất của tế bào. Lục lạp cũng tương tự như ty thể nhưng kích thước lớn hơn, chúng tham gia chuyển hóa năng lượng mặt trời thành các chất hữu cơ (trong quá trình quang hợp). Lục lạp chỉ có ở các tế bào thực vật. Mạng lưới nội chất và bộ máy Golgi - nhà phân phối và xử lý các đại phân tử:: Mạng lưới nội chất (ER) là hệ thống mạng vận chuyển các phân tử nhất định đến các địa chỉ cần thiết để cải biến hoặc thực hiện chức năng, trong khi các phân tử khác thì trôi nổi tự do trong tế bào chất. ER được chia làm hai loại: ER hạt (rám) và ER trơn (nhẵn). ER hạt là do các ribosome bám lên bề mặt ngoài của nó, trong khi ER trơn thì không có ribosome. Quá trình dịch mã trên các ribosome của ER hạt thường để tổng hợp các protein tiết (protein xuất khẩu). Các protein tiết thường được vận chuyển đến phức hệ Golgi để thực hiện một số cải biến, đóng gói và vận chuyển đến các vị trí khác nhau trong tế bào. ER trơn là nơi tổng hợp lipid, giải độc và bể chứa calcium. Lysosome và peroxisome - hệ tiêu hóa của tế bào: Lysosome và peroxisome thường được ví như hệ thống xử lý rác thải của tế bào. Hai bào quan này đều dạng cầu, màng đơn và chứa nhiều enzyme tiêu hóa. Ví dụ, lysosome có thể chứa vài chục enzyme phân huỷ protein, nucleic acid và polysacharide mà không gây hại cho các quá trình khác của tế bào khi được bao bọc bởi lớp màng tế bào. Giải phẫu tế bào Tế bào sinh vật nhân sơ Sinh vật nhân sơ là nhóm tế bào không có màng nhân. Đây là đặc điểm chính để phân biệt với các tế bào sinh vật nhân chuẩn. Sinh vật nhân sơ cũng không có các bào quan và cấu trúc nội bào điển hình của tế bào sinh vật nhân chuẩn. Hầu hết các chức năng của các bào quan như ty thể, lục lạp, bộ máy Golgi được tiến hành trên màng sinh chất. Tế bào sinh vật nhân sơ có 3 vùng cấu trúc chính là: 1. Tiên mao (flagella), tiêm mao, hay lông nhung (pili) - các protein bám trên bề mặt tế bào; 2. Vỏ tế bào bao gồm capsule, thành tế bào và màng sinh chất; 3. Vùng tế bào chất có chứa Bộ gene, các ribosome và các thể vẩn (inclusion body). Các đặc trưng: Tế bào chất của sinh vật nhân sơ là phần dịch lỏng chiếm hầu hết thể tích tế bào, khuếch tán vật chất và chứa các hạt ribosome nằm tự do trong tế bào. Màng sinh chất là lớp phospholipid kép phân tách phần tế bào chất với môi trường xung quanh. Màng sinh học này có tính bán thấm, hay còn gọi là thấm có chọn lọc. Hầu hết các tế bào sinh vật nhân sơ đều có thành tế bào (trừ Mycoplasma, Thermoplasma (archae), và Planctomycetales. Chúng được cấu tạo từ peptidoglycan và hoạt động như một rào cản phụ để chọn lọc những chất vào ra tế bào. Thành tế bào cũng giúp vi khuẩn giữ nguyên hình dạng và không bị tác động của áp suất thẩm thấu trong môi trường nhược trương. Nhiễm sắc thể của tế bào sinh vật nhân sơ thường là một phân tử DNA dạng vòng (trừ vi khuẩn Borrelia burgdorferi gây bệnh Lyme). Mặc dù không phải có cấu trúc nhân hoàn chỉnh, DNA được cô đặc trong hạch nhân. Tế bào sinh vật nhân sơ còn chứa những cấu trúc DNA ngoài nhiễm sắc thể gọi là plasmid, nó cũng có dạng vòng nhưng nhỏ hơn DNA nhiễm sắc thể. Trên các plasmid thường chứa các gene có chức năng bổ sung, ví dụ kháng sinh. Tế bào sinh vật nhân sơ mang các tiên mao giúp tế bào di chuyển chủ động trong môi trường. Tế bào sinh vật nhân chuẩn Tế bào sinh vật nhân chuẩn thường lớn gấp 10 lần (về kích thước) so với tế bào sinh vật nhân sơ do đó gấp khoảng 1000 lần về thể tích. Điểm khác biệt quan trọng giữa sinh vật nhân sơ và sinh vật nhân chuẩn là tế bào sinh vật nhân chuẩn có các xoang tế bào được chia nhỏ do các lớp màng tế bào để thực hiện các hoạt động trao đổi chất riêng biệt. Trong đó, điều tiến bộ nhất là việc hình thành nhân tế bào có hệ thống màng riêng để bảo vệ các phân tử DNA của tế bào. Eukyryote là chữ Latin có nghĩa là có nhân thật sự. Tế bào sinh vật nhân chuẩn thường có những cấu trúc chuyên biệt để tiến hành các chức năng nhất định, gọi là các bào quan. Các đặc trưng gồm: Tế bào chất của sinh vật nhân chuẩn thường không nhìn thấy những thể hạt như ở sinh vật nhân sơ vì rằng phần lớn ribosome của chúng được bám trên mạng lưới nội chất. Màng tế bào cũng có cấu trúc tương tự như ở sinh vật nhân sơ tuy nhiên thành phần cấu tạo chi tiết lại khác nhau một vài điểm nhỏ. Chỉ một số tế bào sinh vật nhân chuẩn có thành tế bào. Vật chất di truyền trong tế bào sinh vật nhân chuẩn thường gồm một hoặc một số phân tử DNA mạch thẳng, được cô đặc bởi các protein histone tạo nên cấu trúc nhiễm sắc thể. Mọi phân tử DNA được lưu giữ trong nhân tế bào với một lớp màng nhân bao bọc. Một số bào quan của sinh vật nhân chuẩn có chứa DNA riêng. Một vài tế bào sinh vật nhân chuẩn có thể di chuyển nhờ tiêm mao hoặc tiên mao. Những tiên mao thường có cấu trúc phức tạp hơn so với sinh vật nhân sơ. Các quá trình chức năng của tế bào Sinh trưởng và trao đổi chất của tế bào Giữa những lần phân bào, các tế bào thực hiện hàng loạt quá trình trao đổi chất nội bào nhằm duy trì sự tồn tại cũng như sinh trưởng của mình. Trao đổi chất là các quá trình mà tế bào xử lý hay chế biến các phân tử dinh dưỡng theo cách riêng của nó. Các quá trình trao đổi chất được chia làm 2 nhóm lớn: 1) Quá trình dị hóa (catabolism) nhằm phân huỷ các phân tử hữu cơ phức tạp để thu nhận năng lượng (dưới dạng ATP) và lực khử; 2) Quá trình đồng hóa (anabolism) sử dụng năng lượng và lực khử để xây dựng các phân tử hữu cơ phức tạp, đặc thù và cần thiết. Một trong các con đường trao đổi chất quan trọng là đường phân (glycolysis), con đường này không cần oxy. Mỗi một phân tử glucose trải qua con đường này sẽ tạo thành 4 phân tử ATP và đây là phương thức thu nhận năng lượng chính của các vi khuẩn kị khí. Đối với các sinh vật hiếu khí, các phân tử pyruvat, sản phẩm của đường phân, sẽ tham gia vào chu trình Kreb (hay còn gọi là chu trình TCA) để phân huỷ hoàn toàn thành CO2, đồng thời thu nhận thêm nhiều ATP. Ở sinh vật nhân chuẩn, chu trình TCA tiến hành trong ty thể trong khi sinh vật nhân sơ lại tiến hành ở ngay tế bào chất. Hình thành các tế bào mới Bài chính: Phân bào Phân bào là quá trình sinh sản từ một tế bào (gọi là tế bào mẹ) phân chia thành hai tế bào non. Đây là cơ chế chính của quá trình sinh trưởng của sinh vật đa bào và là hình thức sinh sản của sinh vật đơn bào. Những tế bào sinh vật nhân sơ phân chia bằng hình thức phân cắt hoặc nảy chồi (budding). Tế bào sinh vật nhân chuẩn thì sử dụng hình thức phân bào là nguyên phân (mitosis) (một hình thức phân bào có tơ). Những tế bào lưỡng bội thì có thể tiến hành giảm phân để tạo ra tế bào đơn bội. Những tế bào đơn bội đóng vai trò giao tử trong quá trình thụ tinh để hình thành hợp tử (lưỡng bội). Trong phân bào, quá trình tự nhân đôi DNA (dẫn đến nhân đôi nhiễm sắc thể) đóng vai trò cực kỳ quan trọng và thường diễn ra tại kỳ trung gian giữa các lần phân chia. Sinh tổng hợp protein Bài chính: Sinh tổng hợp protein Sinh tổng hợp protein là quá trình tế bào tổng hợp những phân tử protein đặc trưng và cần thiết cho hoạt động sống của mình. Quá trình phiên mã là quá trình tổng hợp những phân tử RNA thông tin dựa trên trình tự khuôn của DNA. Trên khuôn RNA thông tin mới được tạo ra, một phân tử protein sẽ được tạo thành nhờ quá trình dịch mã. Bộ máy tế bào chịu trách nhiệm thực hiện quá trình tổng hợp protein là những ribosome. Ribosome được cấu từ những phân tử RNA ribosome và khoảng 80 loại protein khác nhau. Khi các tiểu đơn vị ribosome liên kết với phân tử RNA thông tin thì quá trình dịch mã được tiến hành. Khi đó, ribosome sẽ cho phép một phân tử RNA vận chuyển (tRNA) mang một loại amino acid đặc trưng đi vào. RNA vận chuyển này bắt buộc phải có bộ ba đối mã có trình tự bổ sung với bộ ba mã sao trên RNA thông tin. Các amino acid lần lượt tương ứng với trình tự các bộ ba nucleotide trên RNA thông tin sẽ liên kết với nhau để tạo thành một chuỗi polypeptide. Nguồn gốc tế bào Bài chính: Nguồn gốc sự sống Nguồn gốc tế bào cũng chính là nguồn gốc sự sống, và là những bước quan trọng nhất trong quá trình tiến hóa sự sống. Sự xuất hiện tế bào chính là bước đánh dấu chuyển biến từ thế giới hóa học vô sinh để bắt đầu sự sống sinh vật. Tế bào đầu tiên Sự xuất hiện tế bào đầu tiên (giọt coaseva) được đánh dấu bởi việc hình thành lớp màng tế bào bao quanh những phân tử nucleic acid. Điều này tạo ra hai lợi thế chọn lọc là: Bảo vệ nguyên sinh chất bên trong Sử dụng các thành quả từ các hoạt động hóa sinh do các protein/enzyme do nucleic acid mã hóa Lịch sử 1632-1723: Antony van Leeuwenhoek tự mình tìm cách mài các thấu kính để sáng tạo ra kính hiển vi. Ông đã vẽ lại các protozoa như Vorticella trong nước mưa cũng như vi khuẩn trong miệng mình. 1665: Robert Hooke đã phát hiện các tế bào trong nút bấc, và sau đó là trong các mô thực vật sống bằng kính hiển vi. ... Tôi có thể nhận ra một cách rõ ràng là tất cả đều đục lỗ và xốp, giống như một tổ ong... những lỗ chân lông hoặc tế bào này, không sâu lắm, nhưng bao gồm rất nhiều hộp nhỏ... – Hooke miêu tả những quan sát của mình đối với tiêu bản nút bấc. 1839: Theodor Schwann và Matthias Jakob Schleiden phát biểu nguyên lý rằng các thực vật và động vật được cấu thành từ tế bào, chứng tỏ các tế bào là đơn vị cấu trúc và phát triển của sinh vật, từ đó mà người ta xây dựng nên Học thuyết Tế bào. Giả định cho rằng sự sống có thể bắt nguồn một cách tự phát (generatio spontanea) đã bị bác bỏ hoàn toàn qua chứng minh thực nghiệm của Louis Pasteur (1822-1895). Rudolph Virchow phát biểu rằng các tế bào chỉ có thể được tạo ra do phân bào (omnis cellula ex cellula). 1931: Ernst Ruska lần đầu tiên thiết kế kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM) tại Đại học Berlin. Đến năm 1953 ông đã phát minh kính hiển vi điện tử (EM) với độ phân giải gấp đôi kính hiển vi quang học, từ đó phát hiện ra các bào quan. 1953: Watson và Crick đã đề xuất mô hình cấu trúc xoắn kép của phân tử DNA vào ngày 28 tháng Hai. 1981: Lynn Margulis công bố ấn phẩm Symbiosis in Cell Evolution (Sự Cộng sinh trong Tiến hóa Tế bào) xem chi tiết tại thuyết nội cộng sinh. Xem thêm So sánh tế bào động vật và thực vật So sánh tế bào Eukaryota và Prokaryota Độc học tế bào Tế bào thực vật Tế bào gốc Sinh vật nhân chuẩn Liên kết ngoài Hướng dẫn về các hoạt động sống của tế bào Tế bào - một thành phố sinh học. Hình động của tế bào Journal of Cell Biology Ghi chú Tham khảo Interactive Visual of Different Types of Cells Inside the Cell Virtual Cell's Educational Animations The Inner Life of A Cell , a flash video showing what happens inside of a cell The Virtual Cell Cells Alive! Journal of Cell Biology The Biology Project > Cell Biology Centre of the Cell online The Image & Video Library of The American Society for Cell Biology , a collection of peer-reviewed still images, video clips and digital books that illustrate the structure, function and biology of the cell. Gall JG, McIntosh JR, eds (2001). Landmark Papers in Cell Biology . Bethesda, MD and Cold Spring Harbor, NY: The American Society for Cell Biology and Cold Spring Harbor Laboratory Press; 2001. Commentaries and links to original research papers published in the ASCB Image & Video Library Sách giáo khoa Chú thích Sinh học tế bào
VI_open-0000000001
Science
Quẻ Phong Thiên Tiểu Súcđồ hình |||:|| còn gọi là quẻ Tiểu Súc (小畜 xiảo chũ), là quẻ thứ 09 trong Kinh Dịch. Nội quái là ☰ (||| 乾 qiàn) Càn hay Trời (天). Ngoại quái là ☴ (:|| 巽 xũn) Tốn hay Gió (風). Văn Vương viết thoán từ: Tiểu Súc: Hanh. Mật vân bất vũ, tự ngã tây giao (小畜: 亨. 密雲不雨. 自我西郊). Chu Công viết hào từ: Sơ cửu: Phục tự đạo, hà kỳ cữu? Cát. Cửu nhị: khiên phục, cát. Cửu tam: Dư thoát bức, phu thê phản mục. Lục tứ: hữu phu, huyết khứ, dịch xuất, vô cữu. Cửu ngũ: Hữu phu, luyên như, phú dĩ kỳ lân. Thượng cửu: Ký vũ, ký xử, thượng đức tái. Phụ trinh lệ. Nguyệt cơ vọng, quân tử chinh hung. Giải nghĩa: Tắc dã. Dị đồng. Lúc bế tắc, không đồng ý nhau, cô quả, súc oán, chứa mọi oán giận, có ý trái lại, không hòa hợp, nhỏ nhen. Cầm sắt bất điệu chi tượng: tiếng đàn không hòa điệu. Tham khảo Quẻ Kinh Dịch en:List of I Ching hexagrams 1-32
VI_open-0000000002
Books_and_Literature
Google LLC () là một công ty công nghệ đa quốc gia của Mỹ, chuyên về các dịch vụ và sản phẩm liên quan đến Internet, bao gồm các công nghệ quảng cáo trực tuyến, công cụ tìm kiếm, điện toán đám mây, phần mềm và phần cứng. Đây được coi là một trong những công ty công nghệ Big Four, cùng với Amazon, Apple và Facebook. Google được thành lập vào năm 1998 bởi Larry Page và Sergey Brin trong khi họ là nghiên cứu sinh đã có bằng tiến sĩ tại Đại học Stanford ở California. Họ cùng nhau sở hữu khoảng 14% cổ phần và kiểm soát 56% quyền biểu quyết của cổ đông thông qua cổ phiếu ưu đãi. Họ đã hợp nhất Google thành một công ty tư nhân vào ngày 4 tháng 9 năm 1998. Một đợt chào bán công khai lần đầu (IPO) diễn ra vào ngày 19 tháng 8 năm 2004 và Google chuyển đến trụ sở chính tại Mountain View, California với tên Googleplex. Vào tháng 8 năm 2015, Google đã công bố kế hoạch tổ chức lại công ty với tư cách là một tập đoàn có tên là Alphabet Inc. Google là công ty con hàng đầu của Alphabet và sẽ tiếp tục là công ty ô dù vì lợi ích Internet của Alphabet. Sundar Pichai được bổ nhiệm làm CEO của Google, thay thế Larry Page trở thành CEO của Alphabet. Sự phát triển nhanh chóng của công ty kể từ khi thành lập đã kích hoạt một chuỗi các sản phẩm, mua lại để sáp nhập và hợp tác ngoài công cụ tìm kiếm cốt lõi của Google (Google Tìm kiếm). Nó cung cấp các dịch vụ được thiết kế cho công việc và năng suất (Google Docs, Google Sheets và Google Slides), email (Gmail/Inbox), lập lịch và quản lý thời gian (Lịch Google), lưu trữ đám mây (Google Drive), mạng xã hội (Google+), nhắn tin và trò chuyện video trực tiếp (Google Allo, Duo, Hangouts), dịch ngôn ngữ (Google Dịch), lập bản đồ và điều hướng (Google Maps, Waze, Google Earth, Chế độ xem phố), chia sẻ video (YouTube), ghi chú (Google Keep) và tổ chức và chỉnh sửa ảnh (Google Ảnh). Công ty dẫn đầu sự phát triển của hệ điều hành di động Android, trình duyệt web Google Chrome và Chrome OS, một hệ điều hành nhẹ dựa trên trình duyệt Chrome. Google đã ngày càng chuyển sang phần cứng; từ năm 2010 đến 2015, nó hợp tác với các nhà sản xuất điện tử lớn trong việc sản xuất các thiết bị Nexus của mình và đã phát hành nhiều sản phẩm phần cứng vào tháng 10 năm 2016, bao gồm điện thoại thông minh Google Pixel, loa thông minh Google Home, bộ định tuyến không dây Google Wifi và Daydream-tai nghe thực tế ảo. Google cũng đã thử nghiệm trở thành nhà cung cấp dịch vụ Internet (Google Fiber, Project Fi và Google Station). Google và YouTube là hai trang web được truy cập nhiều nhất trên thế giới, tiếp theo là Facebook và Google X cũng là công cụ tìm kiếm, ứng dụng bản đồ và định vị, nhà cung cấp email, bộ ứng dụng văn phòng, nền tảng chia sẻ video, nhà cung cấp bộ nhớ đám mây và ảnh, hệ điều hành di động, trình duyệt web, ML framework và nhà cung cấp trợ lý ảo AI lớn nhất thế giới khi đo lường theo thị phần. Trên danh sách các thương hiệu có giá trị nhất, Google được Forbes xếp hạng thứ hai và Interbrand xếp hạng thứ tư. Lịch sử Những năm đầu thế=|trái|nhỏ|Larry Page và Sergey Brin năm 2003 Google bắt đầu vào tháng 1 năm 1996 như một dự án nghiên cứu của Larry Page và Sergey Brin khi họ đều là những nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học Stanford ở California. Dự án ban đầu có sự tham gia của một "người đồng sáng lập thứ ba" không chính thức, Scott Hassan, là lập trình viên chính ban đầu đã viết phần lớn mã cho công cụ tìm kiếm Google Search ban đầu, nhưng ông đã rời đi trước khi Google được thành lập chính thức như một công ty; Hassan tiếp tục theo đuổi sự nghiệp robot và thành lập công ty Willow Garage vào năm 2006. Trong khi các công cụ tìm kiếm thông thường xếp hạng kết quả bằng cách đếm số lần các cụm từ tìm kiếm xuất hiện trên trang, họ đã đưa ra giả thuyết về một hệ thống tốt hơn có thể phân tích mối quan hệ giữa các trang web. Họ gọi thuật toán này là PageRank; nó xác định mức độ liên quan của một trang web bằng số lượng trang và tầm quan trọng của các trang đó liên kết ngược với trang web ban đầu. Page đã nói về ý tưởng của mình với Hassan, người bắt đầu viết mã để thực hiện ý tưởng của Page. Ban đầu Larry Page và Sergey Brin đặt biệt hiệu cho công cụ tìm kiếm mới là "BackRub", bởi vì hệ thống kiểm tra các liên kết ngược để ước tính tầm quan trọng của một trang web. Scott Hassan và Alan Steremberg được Page và Brin trích dẫn là những người đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển Google. Rajeev Motwani và Terry Winograd sau đó đã đồng tác giả với Page và Brin trong bài báo đầu tiên về dự án, mô tả PageRank và nguyên mẫu ban đầu của công cụ tìm kiếm Google, được xuất bản vào năm 1998. Héctor García-Molina và Jeff Ullman cũng được trích dẫn là những người đóng góp cho dự án. PageRank chịu ảnh hưởng của một thuật toán xếp hạng trang và xếp hạng trang tương tự trước đây được sử dụng cho RankDex, được phát triển bởi Robin Li vào năm 1996, với bằng sáng chế PageRank của Larry Page bao gồm trích dẫn bằng sáng chế RankDex trước đó của Li; Li sau đó tiếp tục tạo ra công cụ tìm kiếm Baidu của Trung Quốc. Cuối cùng, họ đã đổi tên thành Google; tên của công cụ tìm kiếm là một lỗi đánh máy của từ googol, một số rất lớn được viết là 10100được chọn để biểu thị rằng công cụ tìm kiếm được dự định cung cấp một lượng lớn thông tin. thế=Google's homepage in 1998|nhỏ|Trang chủ ban đầu của Google có thiết kế đơn giản vì những người sáng lập công ty có ít kinh nghiệm trong HTML, ngôn ngữ đánh dấu được sử dụng để thiết kế các trang web. Google ban đầu được tài trợ bởi khoản đầu tư 100.000 đô la vào tháng 8 năm 1998 từ Andy Bechtolsheim, đồng sáng lập Sun Microsystems. Khoản đầu tư ban đầu này đã trở thành động lực để thành lập công ty để có thể sử dụng số tiền đó. PPage và Brin ban đầu đã tiếp cận David Cheriton để xin lời khuyên vì ông có một văn phòng gần đó ở Stanford, và họ biết ông có kinh nghiệm khởi nghiệp, gần đây đã bán công ty ông đồng sáng lập, Granite Systems, cho Cisco với giá 220 triệu USD. David đã sắp xếp một cuộc gặp mặt giữa Page và Brin và đồng sáng lập Granite của ông là Andy Bechtolsheim. Cuộc họp được ấn định lúc 8 giờ sáng tại hiên nhà trước nhà của David ở Palo Alto và phải ngắn gọn vì Andy có cuộc họp khác tại Cisco, nơi ông hiện làm việc sau khi mua lại, lúc 9 giờ sáng. Andy đã nhanh chóng thử nghiệm bản demo của trang web, thích những gì ông thấy và sau đó quay lại xe của mình để lấy tấm séc. David Cheriton sau đó cũng tham gia với khoản đầu tư 250.000 USD. Google đã nhận được tiền từ hai nhà đầu tư thiên thần khác vào năm 1998: Jeff Bezos, người sáng lập Amazon.com, và Ram Shriram, một doanh nhân. Page và Brin lần đầu tiên tiếp cận Shriram, một nhà đầu tư mạo hiểm, để xin tài trợ và tư vấn, và Shriram đã đầu tư 250.000 USD vào Google vào tháng 2 năm 1998. Shriram biết Bezos vì Amazon đã mua lại Junglee, nơi Shriram là chủ tịch. Chính Shriram là người giới thiệu Google cho Bezos. Bezos đã yêu cầu Shriram sắp xếp một cuộc gặp mặt với những người sáng lập Google và họ đã gặp nhau sáu tháng sau khi Shriram đầu tư vào Google, khi Bezos và vợ đang trong chuyến du lịch đến Bay Area. Vòng gọi vốn ban đầu của Google đã chính thức đóng lại, nhưng vị thế CEO của Amazon của Bezos đã đủ để thuyết phục Page và Brin mở rộng vòng gọi vốn và chấp nhận khoản đầu tư của ông. Với sự tài trợ từ những nhà đầu tư ban đầu, bạn bè và gia đình, Google đã huy động được khoảng 1 triệu đô la Mỹ, cho phép họ mở văn phòng đầu tiên ở Menlo Park, California. Craig Silverstein, một nghiên cứu sinh tiến sĩ khác tại Stanford, được thuê làm nhân viên đầu tiên. Sau một số khoản đầu tư nhỏ bổ sung vào cuối năm 1998 và đầu năm 1999, một vòng gọi vốn mới trị giá 25 triệu đô la Mỹ đã được công bố vào ngày 7 tháng 6 năm 1999, với các nhà đầu tư lớn bao gồm các công ty đầu tư mạo hiểm Kleiner Perkins và Sequoia Capital. Ban đầu, cả hai công ty đều do dự về việc đầu tư chung vào Google, vì mỗi công ty đều muốn nắm giữ tỷ lệ kiểm soát lớn hơn đối với công ty. Tuy nhiên, Larry và Sergey đã khăng khăng nhận đầu tư từ cả hai. Cuối cùng, cả hai công ty đầu tư đều đồng ý đầu tư chung 12,5 triệu đô la Mỹ mỗi công ty do họ tin vào tiềm năng lớn của Google và nhờ sự trung gian của các nhà đầu tư thiên thần trước đó là Ron Conway và Ram Shriram, những người có mối quan hệ với các công ty đầu tư. Sự phát triển Vào tháng 3 năm 1999, công ty chuyển văn phòng đến Palo Alto, California, nơi có trụ sở của một số công ty khởi nghiệp công nghệ nổi bật ở Silicon Valley. Năm sau, Google bắt đầu bán quảng cáo liên quan đến các từ khóa tìm kiếm, trái ngược với quan điểm ban đầu của Page và Brin về một công cụ tìm kiếm được tài trợ bởi quảng cáo. Để duy trì thiết kế trang gọn gàng, quảng cáo chỉ dựa trên văn bản. Vào tháng 6 năm 2000, Google được thông báo sẽ trở thành nhà cung cấp công cụ tìm kiếm mặc định cho Yahoo!, một trong những trang web phổ biến nhất thời bấy giờ, thay thế Inktomi. thế=Google's first servers, showing lots of exposed wiring and circuit boards|nhỏ|Máy chủ sản xuất đầu tiên của Google Năm 2003, sau khi đã phát triển vượt quá hai địa điểm khác, Google đã thuê lại một khu phức hợp văn phòng từ Silicon Graphics tại 1600 Amphitheatre Parkway ở Mountain View, California. Khu phức hợp này được biết đến với cái tên Googleplex, một từ ghép của từ googolplex, con số một theo sau bởi một googol số không. Ba năm sau, Google đã mua lại tài sản này từ SGI với giá 319 triệu USD. Đến thời điểm đó, tên "Google" đã trở thành một phần của ngôn ngữ hàng ngày, khiến động từ "google" được thêm vào Từ điển Merriam-Webster Collegiate và Từ điển Oxford English, với nghĩa là: "sử dụng công cụ tìm kiếm Google để tìm kiếm thông tin trên Internet". Lần đầu tiên động từ này được sử dụng trên truyền hình là trong tập phim Buffy the Vampire Slayer vào tháng 10 năm 2002. Ngoài ra, vào năm 2001, các nhà đầu tư của Google cảm thấy cần có một bộ máy quản lý nội bộ mạnh mẽ và họ đã đồng ý thuê Eric Schmidt làm chủ tịch kiêm CEO của Google. Eric được đề xuất bởi John Doerr từ Kleiner Perkins. Ông đã cố gắng tìm kiếm một CEO mà Sergey và Larry sẽ chấp nhận trong vài tháng, nhưng họ đã từ chối một số ứng viên vì họ muốn giữ quyền kiểm soát công ty. Michael Moritz từ Sequoia Capital thậm chí còn đe dọa yêu cầu Google ngay lập tức trả lại khoản đầu tư 12,5 triệu đô la Mỹ của Sequoia nếu họ không thực hiện lời hứa thuê một giám đốc điều hành, điều đã được thực hiện bằng miệng trong các cuộc đàm phán đầu tư. Eric ban đầu cũng không hào hứng tham gia Google, vì tiềm năng đầy đủ của công ty vẫn chưa được công nhận rộng rãi vào thời điểm đó và vì ông đang bận rộn với trách nhiệm của mình tại Novell, nơi ông là CEO. Khi tham gia, Eric đã đồng ý mua 1 triệu đô la cổ phiếu ưu đãi của Google như một cách thể hiện sự cam kết của mình và cung cấp nguồn vốn mà Google cần. Đợt chào bán công khai ban đầu (IPO) Vào ngày 19 tháng 8 năm 2004, Google đã trở thành một công ty đại chúng thông qua đợt Phát hành công khai lần đầu (IPO). Tại thời điểm đó, Larry Page, Sergey Brin và Eric Schmidt đã đồng ý làm việc cùng nhau tại Google trong 20 năm, cho đến năm 2024. Công ty đã chào bán 19.605.052 cổ phiếu với giá 85 USD/cổ phiếu. Cổ phiếu được bán theo định dạng đấu giá trực tuyến sử dụng hệ thống được xây dựng bởi Morgan Stanley và Credit Suisse, các nhà bảo lãnh cho thương vụ này. Việc bán được 1,67 tỷ USD đã mang lại cho Google giá trị vốn hóa thị trường hơn 23 tỷ USD. trái|nhỏ|Eric Schmidt, CEO của Google từ năm 2001 đến năm 2011 Vào ngày 13 tháng 11 năm 2006, Google đã mua lại YouTube với giá 1,65 tỷ USD cổ phiếu Google, Vào ngày 11 tháng 3 năm 2008, Google đã mua lại DoubleClick với giá 3,1 tỷ USD, mang lại cho Google các mối quan hệ có giá trị mà DoubleClick có với các nhà xuất bản web và các công ty quảng cáo. Đến năm 2011, Google đang xử lý khoảng 3 tỷ lượt tìm kiếm mỗi ngày. Để xử lý khối lượng công việc này, Google đã xây dựng 11 trung tâm dữ liệu trên toàn thế giới với hàng nghìn máy chủ trong mỗi trung tâm. Các trung tâm dữ liệu này cho phép Google xử lý khối lượng công việc thay đổi liên tục một cách hiệu quả hơn. Vào tháng 5 năm 2011, số lượng khách truy cập duy nhất hàng tháng đến Google lần đầu tiên vượt quá một tỷ. Vào tháng 5 năm 2012, Google đã mua lại Motorola Mobility với giá 12,5 tỷ USD, trong thương vụ mua lại lớn nhất của mình cho đến nay. Việc mua lại này được thực hiện một phần để giúp Google có được danh mục bằng sáng chế đáng kể của Motorola về điện thoại di động và công nghệ không dây, để giúp bảo vệ Google trong các tranh chấp bằng sáng chế đang diễn ra với các công ty khác, chủ yếu là Apple và Microsoft, và để cho phép Google tiếp tục cung cấp Android miễn phí. 2012 trở đi Tháng 6 năm 2013, Google đã mua lại Waze với giá 966 triệu USD. Mặc dù Waze vẫn là một thực thể độc lập, nhưng các tính năng xã hội của nó, chẳng hạn như nền tảng vị trí do người dùng đóng góp, được cho là những sự tích hợp có giá trị giữa Waze và Google Maps, dịch vụ lập bản đồ của riêng Google. Google công bố ra mắt một công ty mới tên là Calico vào ngày 19 tháng 9 năm 2013, do Arthur Levinson, chủ tịch của Apple Inc. lãnh đạo. Trong tuyên bố công khai chính thức, Page giải thích rằng công ty "sức khỏe và hạnh phúc" này sẽ tập trung vào "thách thức của lão hóa và các bệnh liên quan". thế=|nhỏ|Lối vào tòa nhà nơi đặt trụ sở của Google và công ty con Deep Mind tại số 6 Quảng trường Pancras, London Vào ngày 26 tháng 1 năm 2014, Google thông báo đã đồng ý mua lại DeepMind Technologies, một công ty tư nhân về trí tuệ nhân tạo có trụ sở tại London. Trang web tin tức công nghệ Recode cho biết công ty đã được mua với giá 400 triệu USD, nhưng không tiết lộ nguồn tin. Người phát ngôn của Google từ chối bình luận về giá cả. Việc mua lại DeepMind góp phần vào sự phát triển gần đây của Google trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo và robot. Năm 2015, AlphaGo của DeepMind đã trở thành chương trình máy tính đầu tiên đánh bại một kỳ thủ chuyên nghiệp hàng đầu thế giới ở môn cờ vây. Theo báo cáo thường niên Best Global Brands của Interbrand, Google là thương hiệu có giá trị thứ hai trên thế giới (sau Apple Inc.) trong các năm 2013, 2014, 2015, và 2016, với giá trị được định giá 133 tỷ USD. Vào ngày 10 tháng 8 năm 2015, Google thông báo kế hoạch tái cơ cấu các lợi ích khác nhau của mình thành một tập đoàn có tên Alphabet Inc. Google trở thành công ty con lớn nhất của Alphabet và là công ty mẹ của các lợi ích Internet của Alphabet. Sau khi hoàn thành việc tái cơ cấu, Sundar Pichai trở thành CEO của Google, thay thế Larry Page, người trở thành CEO của Alphabet. nhỏ|Giám đốc điều hành hiện tại của Google, Sundar Pichai, với Thủ tướng Ấn Độ, Narendra Modi. Vào ngày 8 tháng 8 năm 2017, Google đã sa thải nhân viên James Damore sau khi anh ta phân phối một bản ghi nhớ khắp công ty, trong đó lập luận rằng thiên vị và "buồng vọng ý thức hệ của Google" đã làm mờ suy nghĩ của họ về sự đa dạng và hòa nhập, và rằng đó cũng là các yếu tố sinh học, không chỉ phân biệt đối xử, khiến cho phụ nữ trung bình ít quan tâm hơn nam giới ở các vị trí kỹ thuật. CEO Sundar Pichai của Google đã cáo buộc Damore vi phạm chính sách của công ty bằng cách "khuyến khích các định kiến giới tính có hại tại nơi làm việc của chúng tôi", và anh ta đã bị sa thải vào cùng ngày. Từ năm 2018 đến năm 2019, căng thẳng giữa lãnh đạo công ty và nhân viên Google đã leo thang khi nhân viên phản đối các quyết định của công ty về quấy rối tình dục nội bộ, Dragonfly (một công cụ tìm kiếm của Trung Quốc bị kiểm duyệt) và Dự án Maven (trí tuệ nhân tạo máy bay không người lái quân sự), được coi là lĩnh vực tăng trưởng doanh thu cho công ty. Vào ngày 25 tháng 10 năm 2018, The New York Times đã công bố bài báo phơi bày "Google đã bảo vệ Andy Rubin, 'Cha đẻ của Android' như thế nào". Sau đó, công ty thông báo rằng "48 nhân viên đã bị sa thải trong hai năm qua" vì quấy rối tình dục. Vào ngày 1 tháng 11 năm 2018, hơn 20.000 nhân viên và nhà thầu của Google đã tổ chức một cuộc đình công toàn cầu để phản đối cách xử lý các khiếu nại quấy rối tình dục của công ty. Giám đốc điều hành Sundar Pichai được cho là ủng hộ các cuộc biểu tình. Sau đó vào năm 2019, một số công nhân đã cáo buộc công ty trả thù các nhà hoạt động nội bộ. Vào ngày 19 tháng 3 năm 2019, Google tuyên bố sẽ tham gia thị trường trò chơi điện tử bằng việc ra mắt một nền tảng chơi game đám mây có tên là Google Stadia. Vào ngày 3 tháng 6 năm 2019, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ thông báo rằng họ sẽ điều tra Google về vi phạm luật chống độc quyền. Điều này dẫn đến việc đệ đơn kiện chống độc quyền vào tháng 10 năm 2020, với lý do công ty đã lạm dụng vị thế độc quyền trong thị trường tìm kiếm và quảng cáo tìm kiếm. Tháng 12 năm 2019, cựu giám đốc điều hành của PayPal, Bill Ready, trở thành giám đốc thương mại mới của Google. Vai trò của Ready sẽ không liên quan trực tiếp đến Google Pay. Vào tháng 4 năm 2020, do đại dịch COVID-19, Google đã thông báo một số biện pháp cắt giảm chi phí. Các biện pháp này bao gồm giảm tốc độ tuyển dụng trong phần còn lại của năm 2020, ngoại trừ một số lĩnh vực chiến lược, điều chỉnh lại trọng tâm và tốc độ đầu tư vào các lĩnh vực như trung tâm dữ liệu và máy móc, cũng như tiếp thị và đi lại không cần thiết cho doanh nghiệp. Hầu hết nhân viên cũng đang làm việc tại nhà do đại dịch COVID-19 và thành công của nó thậm chí đã dẫn đến việc Google thông báo rằng họ sẽ chuyển đổi vĩnh viễn một số công việc của họ sang làm việc tại nhà. Các sự cố mất điện của dịch vụ Google năm 2020 đã gián đoạn các dịch vụ của Google: một sự cố vào tháng 8 đã ảnh hưởng đến Google Drive cùng một số dịch vụ khác, một sự cố khác vào tháng 11 ảnh hưởng đến YouTube và sự cố thứ ba vào tháng 12 ảnh hưởng đến toàn bộ bộ ứng dụng Google. Tất cả ba sự cố đã được giải quyết trong vòng vài giờ. Năm 2021, Công đoàn Công nhân Alphabet được thành lập, bao gồm chủ yếu là nhân viên của Google. Vào tháng 1 năm 2021, Chính phủ Úc đã đề xuất luật pháp yêu cầu Google và Facebook phải trả tiền cho các công ty truyền thông để có quyền sử dụng nội dung của họ. Đáp lại, Google đã đe dọa đóng cửa quyền truy cập vào công cụ tìm kiếm của mình ở Úc. Vào tháng 3 năm 2021, Google được cho là đã trả 20 triệu đô la cho các cổng Ubisoft trên Google Stadia. Google đã chi "hàng chục triệu đô la" để có được các nhà phát hành lớn như Ubisoft và Take-Two mang một số trò chơi lớn nhất của họ lên Stadia. Vào tháng 4 năm 2021, The Wall Street Journal đưa tin rằng Google đã chạy một chương trình kéo dài nhiều năm có tên là "Project Bernanke", sử dụng dữ liệu từ các cuộc đấu thầu quảng cáo trước đây để giành lợi thế so với các dịch vụ quảng cáo cạnh tranh. Điều này được tiết lộ trong các tài liệu liên quan đến vụ kiện chống độc quyền được đệ trình bởi 10 tiểu bang Hoa Kỳ chống lại Google vào tháng 12. Vào tháng 9 năm 2021, chính phủ Úc tuyên bố kế hoạch hạn chế khả năng bán quảng cáo mục tiêu của Google, với cáo buộc rằng công ty này có vị thế độc quyền trên thị trường, gây hại cho các nhà xuất bản, nhà quảng cáo và người tiêu dùng. Năm 2022, Google bắt đầu chấp nhận các yêu cầu xóa số điện thoại, địa chỉ vật lý và địa chỉ email khỏi kết quả tìm kiếm của mình. Trước đó, công ty chỉ chấp nhận các yêu cầu xóa dữ liệu mật, chẳng hạn như số An sinh xã hội, số tài khoản ngân hàng và số thẻ tín dụng, chữ ký cá nhân và hồ sơ y tế. Ngay cả với chính sách mới, Google cũng chỉ có thể xóa thông tin khỏi một số nhưng không phải tất cả các truy vấn tìm kiếm. Công ty sẽ không xóa nội dung "có ích rộng rãi", chẳng hạn như các bài báo tin tức hoặc đã là một phần của hồ sơ công khai. Vào tháng 5 năm 2022, Google thông báo rằng công ty đã mua lại Raxium, một công ty khởi nghiệp phát triển và sản xuất công nghệ màn hình MicroLED có trụ sở tại California. Raxium sẽ tham gia nhóm Thiết bị và Dịch vụ của Google để hỗ trợ phát triển quang học vi mô, tích hợp monolithic và tích hợp hệ thống. Vào đầu năm 2023, sau thành công của ChatGPT và lo ngại rằng Google đang tụt hậu trong cuộc đua AI, ban quản lý cấp cao của Google đã phát ra "code red" và "chỉ thị rằng tất cả các sản phẩm quan trọng nhất của mình - những sản phẩm có hơn một tỷ người dùng - phải kết hợp AI tổng hợp trong vòng vài tháng". Vào đầu tháng 5 năm 2023, Google đã công bố kế hoạch xây dựng thêm hai trung tâm dữ liệu ở Ohio. Các trung tâm này, sẽ được xây dựng tại Columbus và Lancaster, sẽ cung cấp năng lượng cho các công cụ của công ty, bao gồm công nghệ AI. Trung tâm dữ liệu này sẽ được bổ sung vào trung tâm đã hoạt động gần Columbus, nâng tổng số vốn đầu tư của Google vào Ohio lên hơn 2 tỷ USD. Sản phẩm và dịch vụ Công cụ tìm kiếm Google Search là công cụ tìm kiếm phổ biến nhất hiện nay. Google lập chỉ mục hàng tỷ trang web để cho phép người dùng tìm kiếm thông tin họ mong muốn thông qua việc sử dụng từ khóa và toán tử. Theo nghiên cứu thị trường của comScore từ tháng 11 năm 2009, Google Search là công cụ tìm kiếm thống trị thị trường Hoa Kỳ, với thị phần 65,6%. Tháng 5 năm 2017, Google đã kích hoạt tab "Personal" mới trong Google Search, cho phép người dùng tìm kiếm nội dung trong các dịch vụ khác nhau của tài khoản Google của họ, bao gồm email từ Gmail và ảnh từ Google Photos. Google đã ra mắt dịch vụ Google News vào năm 2002, một dịch vụ tự động tóm tắt các bài báo tin tức từ nhiều trang web khác nhau. Google cũng lưu trữ Google Books, một dịch vụ tìm kiếm văn bản có trong sách trong cơ sở dữ liệu của Google và hiển thị bản xem trước giới hạn hoặc toàn bộ sách khi được phép. Google đã mở rộng các dịch vụ tìm kiếm của mình để bao gồm mua sắm (ban đầu được ra mắt với tên Froogle vào năm 2002), tài chính (ra mắt năm 2006), và chuyến bay (ra mắt năm 2011). Quảng cáo Google kiếm tiền chủ yếu từ quảng cáo. Điều này bao gồm tiền bán ứng dụng, tiền mua hàng trong ứng dụng, tiền bán nội dung kỹ thuật số trên Google và YouTube, tiền cấp phép Android và tiền dịch vụ, bao gồm tiền sử dụng dịch vụ Google Cloud. Khoảng 46% lợi nhuận của Google đến từ việc người dùng nhấp vào quảng cáo (chi phí cho mỗi nhấp chuột), lên tới 109,652 tỷ USD vào năm 2017. Google có ba phương pháp quảng cáo chính là AdMob, AdSense và DoubleClick AdExchange. Ngoài các thuật toán của riêng mình để hiểu yêu cầu tìm kiếm, Google còn sử dụng công nghệ thu được từ DoubleClick để dự đoán sở thích của người dùng và hiển thị quảng cáo phù hợp với ngữ cảnh tìm kiếm và lịch sử của người dùng. Năm 2007, Google ra mắt "AdSense for Mobile", tận dụng lợi thế của thị trường quảng cáo di động đang nổi lên. Google Analytics cho phép chủ sở hữu trang web theo dõi nơi và cách mọi người sử dụng trang web của họ, chẳng hạn như bằng cách kiểm tra tỷ lệ nhấp chuột cho tất cả các liên kết trên trang. Quảng cáo Google có thể được đặt trên các trang web của bên thứ ba trong một chương trình hai phần. Google Ads cho phép các nhà quảng cáo hiển thị quảng cáo của họ trong mạng nội dung Google, thông qua chương trình trả tiền cho mỗi nhấp chuột. Dịch vụ chị em, Google AdSense, cho phép chủ sở hữu trang web hiển thị các quảng cáo này trên trang web của họ và kiếm tiền mỗi khi quảng cáo được nhấp vào. Dịch vụ tiêu dùng Trên nền tảng web Google cung cấp Gmail để gửi và nhận email, Google Calendar để quản lý thời gian và lịch trình, Google Maps để xem bản đồ, định vị và hình ảnh vệ tinh, Google Drive để lưu trữ tệp trên đám mây, Google Docs, Sheets và Slides để hỗ trợ năng suất làm việc, Google Photos để lưu trữ và chia sẻ ảnh, Google Keep để ghi chú, Google Translate để dịch ngôn ngữ, YouTube để xem và chia sẻ video, Google My Business để quản lý thông tin doanh nghiệp công khai, và Duo để tương tác xã hội. Vào tháng 3 năm 2019, Google đã ra mắt dịch vụ chơi trò chơi đám mây có tên Stadia. Google cũng có một sản phẩm tìm kiếm việc làm được tạo ra trước năm 2017, Google for Jobs là một tính năng tìm kiếm nâng cao tổng hợp các danh sách việc làm từ các trang web tìm kiếm việc làm và trang web tuyển dụng. Một số dịch vụ của Google không dựa trên web. Google Earth, được ra mắt vào năm 2005, cho phép người dùng xem các bức ảnh vệ tinh chất lượng cao từ khắp nơi trên thế giới miễn phí thông qua phần mềm khách được tải xuống máy tính của họ. Phần mềm Google phát triển hệ điều hành di động Android, cũng như đồng hồ thông minh, tivi, ô tô, và các biến thể thiết bị thông minh hỗ trợ Internet of Things. Google cũng phát triển trình duyệt web Google Chrome, và ChromeOS, một hệ điều hành dựa trên Chrome. Phần cứng Tháng 1 năm 2010, Google phát hành Nexus One, chiếc điện thoại Android đầu tiên mang thương hiệu riêng của mình. Nexus One đã mở đường cho một loạt điện thoại và máy tính bảng dưới thương hiệu "Nexus" cho đến khi ngừng sản xuất vào năm 2016 và được thay thế bằng một thương hiệu mới có tên Pixel. Năm 2011, Google giới thiệu Chromebook, chạy hệ điều hành ChromeOS. Tháng 7 năm 2013, Google giới thiệu dongle Chromecast, cho phép người dùng truyền nội dung từ điện thoại thông minh của họ lên TV. Tháng 6 năm 2014, Google công bố Google Cardboard, một kính xem VR đơn giản cho phép người dùng đặt điện thoại thông minh của họ vào một ngăn đặc biệt ở mặt trước để xem nội dung thực tế ảo (VR). Dịch vụ doanh nghiệp Google Workspace (trước đây là G Suite cho đến tháng 10 năm 2020) là dịch vụ đăng ký hàng tháng dành cho các tổ chức và doanh nghiệp để truy cập vào bộ sưu tập các dịch vụ của Google, bao gồm Gmail, Google Drive và Google Docs, Google Sheets và Google Slides, với các công cụ quản trị bổ sung, tên miền duy nhất và hỗ trợ 24/7. Vào ngày 24 tháng 9 năm 2012, Google đã ra mắt Google dành cho Doanh nhân, một vườn ươm doanh nghiệp phần lớn phi lợi nhuận cung cấp cho các công ty khởi nghiệp không gian làm việc chung được gọi là Khu học xá, với sự hỗ trợ dành cho những người sáng lập công ty khởi nghiệp có thể bao gồm các hội thảo, hội nghị và cố vấn. Hiện tại, có bảy địa điểm tại Berlin, London, Madrid, Seoul, São Paulo, Tel Aviv và Warsaw. Vào ngày 15 tháng 3 năm 2016, Google đã công bố ra mắt Google Analytics 360 Suite, "một bộ sản phẩm phân tích dữ liệu và tiếp thị tích hợp, được thiết kế đặc biệt cho nhu cầu của các nhà tiếp thị doanh nghiệp" có thể được tích hợp với BigQuery trên Nền tảng Google Cloud. Trong số những thứ khác, bộ sản phẩm được thiết kế để giúp "các nhà tiếp thị doanh nghiệp" "xem hành trình khách hàng hoàn chỉnh", tạo ra "những hiểu biết hữu ích" và "cung cấp trải nghiệm hấp dẫn cho đúng người". Jack Marshall củaThe Wall Street Journal đã viết rằng bộ sản phẩm này cạnh tranh với các dịch vụ đám mây tiếp thị hiện có của các công ty bao gồm Adobe, Oracle, Salesforce và IBM. Dịch vụ Internet Vào tháng 2 năm 2010, Google đã công bố dự án Google Fiber, với kế hoạch thử nghiệm xây dựng mạng băng thông rộng tốc độ cực cao cho 50.000 đến 500.000 khách hàng ở một hoặc nhiều thành phố của Mỹ. Sau khi Google tái cấu trúc doanh nghiệp để trở thành công ty mẹ của Alphabet Inc., Google Fiber đã được chuyển sang bộ phận Access của Alphabet. Vào tháng 4 năm 2015, Google đã công bố Project Fi, một nhà khai thác mạng ảo di động, kết hợp mạng Wi-Fi và mạng di động từ các nhà cung cấp viễn thông khác nhau để mang lại khả năng kết nối liền mạch và tín hiệu Internet nhanh. Các dịch vụ tài chính Vào tháng 8 năm 2023, Google trở thành công ty công nghệ lớn đầu tiên tham gia OpenWallet Foundation, được thành lập hồi đầu năm, với mục tiêu tạo ra phần mềm mã nguồn mở cho ví điện tử có khả năng tương tác. Những chỉ trích và tranh cãi nhỏ|Các nhà hoạt động ở San Francisco phản đối các xe buýt chở khách tư nhân vận chuyển nhân viên cho các công ty công nghệ như Google từ nhà của họ ở San Francisco và Oakland đến các khuôn viên công ty ở Silicon Valley. Google đã bị chỉ trích về các vấn đề như trốn tránh thuế tích cực, tính trung lập của tìm kiếm, bản quyền, kiểm duyệt kết quả tìm kiếm và nội dung, và quyền riêng tư. Các chỉ trích khác bao gồm việc bị cáo buộc sử dụng và thao túng kết quả tìm kiếm, sử dụng tài sản trí tuệ của người khác, lo ngại rằng việc thu thập dữ liệu của Google có thể vi phạm quyền riêng tư của mọi người và mức tiêu thụ năng lượng của máy chủ của Google, cũng như những lo ngại về các vấn đề kinh doanh truyền thống như độc quyền, hạn chế thương mại, hành vi chống cạnh tranh và vi phạm bằng sáng chế. Google trước đây đã tuân thủ các chính sách kiểm duyệt Internet của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, được thực thi bằng các bộ lọc được gọi là "Vạn Lý Tường lửa Trung Quốc", nhưng hiện không còn làm như vậy. Do đó, tất cả các dịch vụ của Google ngoại trừ Google Maps Trung Quốc đều bị chặn truy cập trong lãnh thổ Trung Quốc mà không có sự trợ giúp của mạng riêng ảo (VPN), máy chủ proxy hoặc các công nghệ tương tự khác. 2018 Vào tháng 7 năm 2018, quản lý chương trình của Mozilla, Chris Peterson, đã cáo buộc Google cố tình làm chậm hiệu suất của YouTube trên Firefox. Vào tháng 4 năm 2019, cựu giám đốc điều hành của Mozilla, Jonathan Nightingale, đã cáo buộc Google cố tình và có hệ thống phá hoại trình duyệt Firefox trong thập kỷ qua để thúc đẩy việc áp dụng Google Chrome. Vào tháng 8 năm 2018, The Intercept đưa tin rằng Google đang phát triển cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa một phiên bản kiểm duyệt của công cụ tìm kiếm của mình (được gọi là Dragonfly) "sẽ chặn các trang web và thuật ngữ tìm kiếm về nhân quyền, dân chủ, tôn giáo và phản đối ôn hòa". Tuy nhiên, dự án đã bị tạm dừng do lo ngại về quyền riêng tư. 2019 Vào năm 2019, một trung tâm dành cho những người chỉ trích Google được thành lập trên cộng đồng trực tuyến Reddit /r/degoogle, với mục đích kêu gọi người dùng từ bỏ việc sử dụng các sản phẩm của Google. Chiến dịch DeGoogle tiếp tục phát triển khi các nhà hoạt động bảo vệ quyền riêng tư công bố thông tin về các sản phẩm của Google và việc công ty xâm phạm quyền riêng tư cá nhân. Vào tháng 11 năm 2019, Văn phòng Quyền công dân thuộc Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ đã bắt đầu điều tra Dự án Nightingale để đánh giá xem việc "thu thập dữ liệu hồ sơ y tế của cá nhân" có tuân thủ Đạo luật Trách nhiệm Giải trình và Di động Bảo hiểm Y tế (HIPAA) hay không. Theo The Wall Street Journal, Google đã bí mật bắt đầu dự án này vào năm 2018 với công ty chăm sóc sức khỏe Ascension có trụ sở tại St. Louis. 2022 Theo một phán quyết của Hội đồng Quan hệ Lao động Quốc gia vào năm 2022, các tài liệu của tòa án cho thấy Google đã tài trợ cho một dự án bí mật—Project Vivian—để tư vấn cho nhân viên và ngăn chặn họ thành lập công đoàn. 2023 Vào ngày 1 tháng 5 năm 2023, Google đã đặt một quảng cáo phản đối Dự luật số 2630 của Quốc hội Brazil, dự luật chống thông tin sai lệch sắp được thông qua, trên trang chủ tìm kiếm của mình tại Brazil, kêu gọi người dùng yêu cầu đại diện quốc hội phản đối dự luật này. Chính phủ và ngành tư pháp của Brazil cáo buộc công ty can thiệp không đáng có vào cuộc tranh luận tại Quốc hội, cho rằng đây có thể là hành vi lạm dụng sức mạnh kinh tế và yêu cầu công ty thay đổi quảng cáo trong vòng hai giờ sau khi thông báo hoặc sẽ phải đối mặt với khoản tiền phạt 1 triệu reais (năm 2023) (185.528,76 đô la Mỹ) cho mỗi giờ không tuân thủ. Sau đó, công ty đã nhanh chóng gỡ bỏ quảng cáo. Theo dõi nhắm vào chủng tộc Google đã hỗ trợ các chính phủ gây tranh cãi trong các dự án theo dõi hàng loạt, chia sẻ với cảnh sát và quân đội danh tính của những người biểu tình chống lại bất công về chủng tộc. Năm 2020, họ đã chia sẻ với FBI thông tin được thu thập từ tất cả người dùng Android tham gia biểu tình Black Lives Matter ở Seattle, bao gồm cả những người đã chọn không thu thập dữ liệu vị trí. Google cũng là một phần của Dự án Nimbus, một thỏa thuận trị giá 1,2 tỷ đô la trong đó các công ty công nghệ Google và Amazon sẽ cung cấp cho Israel và quân đội của họ các dịch vụ trí tuệ nhân tạo, học máy và các dịch vụ điện toán đám mây khác, bao gồm việc xây dựng các trang web điện toán đám mây tại chỗ sẽ "giữ thông tin trong biên giới của Israel theo các nguyên tắc an ninh nghiêm ngặt." Hợp đồng đã bị các cổ đông cũng như nhân viên của họ chỉ trích vì lo ngại rằng dự án sẽ dẫn đến thêm nhiều lạm dụng quyền con người của người Palestine trong bối cảnh việc chiếm đóng bất hợp pháp đang diễn ra và cuộc xung đột Israel-Palestine. Ariel Koren, cựu giám đốc quảng cáo cho các sản phẩm giáo dục của Google và là người phê phán dự án này, đã viết rằng Google "hệ thống hóa việc im lặng các tiếng nói của người Palestine, người Do Thái, người Ả Rập và người Hồi giáo quan tâm đến sự đồng lõa của Google trong việc vi phạm quyền con người của người Palestine - đến mức trả đũa chính thức đối với công nhân và tạo ra một môi trường sợ hãi," phản ánh quan điểm của cô rằng lời đe dọa cuối cùng đã đến như một hình thức trả đũa cho sự phản đối và tổ chức chống lại dự án của mình. Chống độc quyền, quyền riêng tư và các vụ kiện tụng khác nhỏ|Ủy ban Châu Âu, cơ quan đã phạt Google ba lần vào các năm 2017, 2018 và 2019. Tiền phạt và kiện tụng Liên minh Châu Âu Vào ngày 27 tháng 6 năm 2017, công ty đã nhận được khoản tiền phạt kỷ lục 2,42 tỷ euro từ Liên minh Châu Âu vì "đưa dịch vụ so sánh mua sắm của riêng mình lên đầu kết quả tìm kiếm". Vào ngày 18 tháng 7 năm 2018, Ủy ban Châu Âu đã phạt Google 4,34 tỷ euro vì vi phạm các quy tắc chống độc quyền của EU. Việc lạm dụng vị thế thống lĩnh thị trường đã được quy cho việc Google hạn chế các nhà sản xuất thiết bị Android và nhà khai thác mạng để đảm bảo rằng lưu lượng truy cập trên thiết bị Android sẽ đến công cụ tìm kiếm của Google. Vào ngày 9 tháng 10 năm 2018, Google đã xác nhận rằng họ đã kháng cáo khoản tiền phạt lên Tòa án sơ thẩm của Liên minh Châu Âu. Vào ngày 8 tháng 10 năm 2018, một vụ kiện tập thể đã được đệ trình chống lại Google và Alphabet do dữ liệu tài khoản Google+ "không công khai" bị lộ do lỗi cho phép các nhà phát triển ứng dụng truy cập vào thông tin cá nhân của người dùng. Vụ kiện đã được dàn xếp vào tháng 7 năm 2020 với giá 7,5 triệu đô la Mỹ, với khoản thanh toán cho các nguyên đơn ít nhất 5 đô la mỗi người, tối đa là 12 đô la mỗi người. Vào ngày 20 tháng 3 năm 2019, Ủy ban Châu Âu đã phạt Google 1,49 tỷ euro (1,69 tỷ đô la Mỹ) vì ngăn chặn các đối thủ cạnh tranh "cạnh tranh và đổi mới công bằng" trên thị trường quảng cáo trực tuyến. Ủy viên cạnh tranh của Liên minh Châu Âu, Margrethe Vestager, cho biết Google đã vi phạm các quy tắc chống độc quyền của EU bằng cách "áp đặt các hạn chế hợp đồng chống cạnh tranh đối với các trang web của bên thứ ba" yêu cầu họ loại bỏ kết quả tìm kiếm từ các đối thủ của Google. Vào ngày 14 tháng 9 năm 2022, Google đã thua kháng cáo về khoản tiền phạt 4,125 tỷ euro (3,5 tỷ bảng Anh), vốn được yêu cầu phải trả sau khi Ủy ban Châu Âu chứng minh được rằng Google đã buộc các nhà sản xuất điện thoại Android phải cài đặt các ứng dụng tìm kiếm và trình duyệt web của Google. Kể từ cáo buộc ban đầu, Google đã thay đổi chính sách của mình. Pháp Vào ngày 21 tháng 1 năm 2019, cơ quan quản lý dữ liệu của Pháp CNIL đã phạt Google mức kỷ lục 50 triệu euro vì vi phạm Quy định chung về bảo vệ dữ liệu của Liên minh Châu Âu. Phán quyết cho rằng Google đã không thông báo đầy đủ cho người dùng về các phương pháp thu thập dữ liệu để cá nhân hóa quảng cáo. Google đã đưa ra một tuyên bố cho biết họ "cam kết sâu sắc" đối với tính minh bạch và đang "nghiên cứu quyết định" trước khi đưa ra phản hồi. Vào ngày 6 tháng 1 năm 2022, cơ quan quản lý quyền riêng tư dữ liệu của Pháp CNIL đã phạt Google của Alphabet 150 triệu euro (169 triệu đô la Mỹ) vì không cho phép người dùng Internet của mình dễ dàng từ chối Cookie cùng với Facebook. Hoa Kỳ Sau các phiên điều trần của Quốc hội Hoa Kỳ vào tháng 7 năm 2020, avà báo cáo từ Tiểu ban Chống độc quyền của Hạ viện Hoa Kỳ được công bố vào đầu tháng 10 Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã đệ đơn kiện chống độc quyền đối với Google vào ngày 20 tháng 10 năm 2020, khẳng định rằng Google đã duy trì vị thế độc quyền của mình một cách bất hợp pháp trong tìm kiếm web và quảng cáo tìm kiếm. Đơn kiện cáo buộc Google đã tham gia vào hành vi chống cạnh tranh bằng cách trả cho Apple từ 8 tỷ đến 12 tỷ đô la để trở thành công cụ tìm kiếm mặc định trên iPhone. Cuối tháng đó, cả Facebook và Alphabet đều đồng ý "hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau" trước cuộc điều tra về hoạt động quảng cáo trực tuyến của họ. Một vụ kiện khác đã được đệ trình chống lại Google vào năm 2023 vì độc quyền trái phép thị trường công nghệ quảng cáo. Vụ kiện về chế độ duyệt web riêng tư Vào đầu tháng 6 năm 2020, một nhóm người tiêu dùng đã đệ đơn kiện tập thể trị giá 5 tỷ đô la Mỹ chống lại Google, cáo buộc rằng chế độ duyệt web Ẩn danh của Chrome vẫn thu thập lịch sử người dùng của họ. Vụ kiện được biết đến vào tháng 3 năm 2021 khi một thẩm phán liên bang bác bỏ yêu cầu của Google về việc bác bỏ vụ kiện, phán quyết rằng họ phải đối mặt với các cáo buộc của nhóm. Reuters đưa tin rằng vụ kiện cáo buộc CEO Sundar Pichai của Google đã cố gắng che giấu vấn đề này với người dùng. Vụ kiện phân biệt đối xử giới tính Vào năm 2017, ba phụ nữ đã kiện Google, cáo buộc công ty vi phạm Đạo luật Bình đẳng Tiền lương của California bằng cách trả lương thấp hơn cho nhân viên nữ. Vụ kiện cho biết khoảng cách tiền lương là khoảng 17.000 đô la và Google đã nhốt phụ nữ vào các con đường sự nghiệp thấp hơn, dẫn đến mức lương và tiền thưởng thấp hơn. Vào tháng 6 năm 2022, Google đã đồng ý trả khoản tiền dàn xếp 118 triệu đô la cho 15.550 nhân viên nữ làm việc ở California kể từ năm 2013. Là một phần của thỏa thuận dàn xếp, Google cũng đồng ý thuê một bên thứ ba để phân tích các hoạt động tuyển dụng và trả lương của mình. Hợp đồng với chính phủ Hoa Kỳ Sau các báo cáo của giới truyền thông về PRISM, chương trình giám sát điện tử quy mô lớn của NSA, vào tháng 6 năm 2013, một số công ty công nghệ đã được xác định là những người tham gia, bao gồm Google. Theo các nguồn tin không được tiết lộ, Google đã tham gia chương trình PRISM vào năm 2009, còn YouTube tham gia vào năm 2010. Google đã hợp tác với Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ về phần mềm máy bay không người lái thông qua Dự án Maven 2017, có thể được sử dụng để cải thiện độ chính xác của các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái. Vào tháng 4 năm 2018, hàng nghìn nhân viên của Google, bao gồm cả các kỹ sư cấp cao, đã ký một lá thư kêu gọi CEO Sundar Pichai của Google chấm dứt hợp đồng gây tranh cãi này với Lầu Năm Góc. Cơ sở hạ tầng Google có các trung tâm dữ liệu ở Bắc và Nam Mỹ, Châu Á và Châu Âu. Không có dữ liệu chính thức về số lượng máy chủ trong các trung tâm dữ liệu của Google; tuy nhiên, công ty nghiên cứu và tư vấn Gartner ước tính trong một báo cáo tháng 7 năm 2016 rằng Google khi đó có 2,5 triệu máy chủ. Theo truyền thống, Google dựa vào việc tính toán song song trên phần cứng thương mại như máy tính x86 thông thường (tương tự như PC gia đình) để giữ chi phí cho mỗi truy vấn ở mức thấp. Năm 2005, công ty bắt đầu phát triển các thiết kế của riêng mình, chỉ được tiết lộ vào năm 2009. Google đã xây dựng hệ thống cáp quang biển tư nhân của riêng mình. Cáp đầu tiên, có tên là Curie, nối California với Chile và được hoàn thành vào ngày 15 tháng 11 năm 2019. Cáp biển thứ hai hoàn toàn thuộc sở hữu của Google, có tên là Dunant, nối Hoa Kỳ với Pháp và dự kiến bắt đầu hoạt động vào năm 2020. Cáp biển thứ ba của Google, Equiano, sẽ nối Lisbon, Bồ Đào Nha với Lagos, Nigeria và Cape Town, Nam Phi. Cáp thứ tư của công ty, có tên là Grace Hopper, nối các điểm cập bến ở New York (Hoa Kỳ) Bude (Vương quốc Anh) và Bilbao (Tây Ban Nha) và dự kiến hoạt động vào năm 2022. Môi trường Vào tháng 10 năm 2006, Google đã công bố kế hoạch lắp đặt hàng nghìn tấm pin mặt trời để cung cấp tới 1,6 Megawatt điện, đủ để đáp ứng khoảng 30% nhu cầu năng lượng của công ty. Hệ thống này là nhà máy điện quang điện trên mái nhà lớn nhất được xây dựng trên một khu công nghiệp của Hoa Kỳ và là một trong những nhà máy lớn nhất trên bất kỳ khu công nghiệp nào trên thế giới. Kể từ năm 2007, Google đã đặt mục tiêu đạt được mức trung hòa carbon đối với các hoạt động của mình. Google tiết lộ vào tháng 9 năm 2011 rằng công ty "liên tục sử dụng đủ điện năng để cung cấp năng lượng cho 200.000 hộ gia đình", gần 260 triệu watt hoặc khoảng một phần tư sản lượng của một nhà máy điện hạt nhân. Tổng lượng khí thải carbon cho năm 2010 chỉ dưới 1,5 triệu tấn, chủ yếu do nhiên liệu hóa thạch cung cấp điện cho các trung tâm dữ liệu. Google cho biết 25% năng lượng của họ được cung cấp bởi nhiên liệu tái tạo vào năm 2010. Một lượt tìm kiếm trung bình chỉ sử dụng 0,3 watt-giờ điện, vì vậy tất cả các lượt tìm kiếm trên toàn cầu chỉ có 12,5 triệu watt hoặc 5% tổng lượng điện năng tiêu thụ của Google. Năm 2010, Google Energy đã thực hiện khoản đầu tư đầu tiên vào một dự án năng lượng tái tạo, rót 38,8 triệu USD vào hai trang trại gió ở North Dakota. Công ty đã thông báo rằng hai địa điểm này sẽ tạo ra 169,5 megawatt điện, đủ để cung cấp cho 55.000 hộ gia đình. Vào tháng 2 năm 2010, Ủy ban Điều tiết Năng lượng Liên bang đã cấp cho Google giấy phép mua và bán năng lượng với giá thị trường. Tập đoàn đã thực hiện giấy phép này vào tháng 9 năm 2013 khi thông báo sẽ mua toàn bộ điện năng được sản xuất bởi trang trại gió Happy Hereford 240 megawatt chưa được xây dựng. Vào tháng 7 năm 2010, Google đã ký một hợp đồng với một trang trại gió ở Iowa để mua 114 megawatt điện trong 20 năm. Vào tháng 12 năm 2016, Google đã thông báo rằng bắt đầu từ năm 2017, công ty sẽ mua đủ năng lượng tái tạo để đáp ứng 100% nhu cầu năng lượng của các trung tâm dữ liệu và văn phòng của mình. Cam kết này sẽ biến Google trở thành "công ty mua năng lượng tái tạo lớn nhất thế giới, với các cam kết đạt 2,6 gigawatt (2.600 megawatt) năng lượng gió và mặt trời". Vào tháng 11 năm 2017, Google đã mua 536 megawatt điện gió. Việc mua bán này giúp công ty đạt được 100% năng lượng tái tạo. Năng lượng gió đến từ hai nhà máy điện ở Nam Dakota, một nhà máy ở Iowa và một nhà máy ở Oklahoma. Vào tháng 9 năm 2019, CEO của Google đã công bố kế hoạch đầu tư 2 tỷ USD vào năng lượng gió và mặt trời, đây là thương vụ năng lượng tái tạo lớn nhất trong lịch sử doanh nghiệp. Công ty cho biết, điều này sẽ tăng trưởng 40% hồ sơ năng lượng xanh của họ, cung cấp thêm cho họ 1,6 gigawatt năng lượng sạch. Vào tháng 9 năm 2020, Google thông báo rằng họ đã bù đắp được tất cả lượng khí thải carbon của mình kể từ khi thành lập công ty vào năm 1998. Công ty cũng cam kết vận hành các trung tâm dữ liệu và văn phòng của mình chỉ sử dụng năng lượng không carbon vào năm 2030. Vào tháng 10 năm 2020, công ty đã cam kết sẽ biến bao bì cho các sản phẩm phần cứng của mình thành 100% không nhựa và 100% có thể tái chế vào năm 2025. Công ty cũng cho biết rằng tất cả các địa điểm sản xuất lắp ráp cuối cùng của họ sẽ đạt được chứng nhận Zero Waste to Landfill UL 2799 vào năm 2022 bằng cách đảm bảo rằng phần lớn chất thải từ quá trình sản xuất được tái chế thay vì đưa vào bãi chôn lấp. Tham khảo Liên kết ngoài Trí tuệ nhân tạo Website Mỹ Tương tác người-máy tính Văn hóa sinh viên Phần mềm cho iOS Quảng cáo trực tuyến Chia sẻ ảnh Các ứng dụng Internet thành lập năm 1998 Công ty được niêm yết trên NASDAQ Công ty sản xuất điện thoại di động Công ty đa quốc gia có trụ sở tại Hoa Kỳ World Wide Web Công ty thành lập năm 1998 Công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Frankfurt
VI_open-0000000003
News
Nông thôn Việt Nam là một khái niệm chung dùng để chỉ những vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam, nơi người dân sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp. Ở Việt Nam, cho đến năm 2009, có đến 70,4% dân số sống ở vùng nông thôn, trong khi tỷ lệ này vào năm 1999 là 76,5%. Con số đó những năm trước còn lớn hơn nhiều. Chính vì thế cuộc sống và tổ chức nông thôn ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến toàn xã hội. Ngay cả những Việt kiều sống ở các nước văn minh, tiên tiến nhất thế giới, vẫn giữ nhiều nét đặc biệt của nông thôn Việt Nam. Tổ chức Xét về mặt tổ chức xã hội, làng xã và quốc gia Việt Nam là hai đối tượng quan trọng nhất đối với người Việt và được tổ chức chặt chẽ nhất. Chính vì thế mà người Việt thường nói làng với nước đi đôi với nhau. Các hệ thống trung gian như huyện, tỉnh không có vai trò quan trọng như thế. Thời trung và cận đại Theo huyết thống: gia đình và gia tộc Ở nông thôn Việt Nam, gia tộc đóng vai trò rất quan trọng. Nếu phương Tây coi trọng vai trò của cá nhân thì phương Đông coi trọng vai trò của gia đình và gia tộc. Nhưng nếu xét ở phương Đông với nhau, Trung Quốc xem gia đình nặng hơn gia tộc thì ở Việt Nam gia tộc lại quan trọng hơn gia đình. Mỗi gia tộc đều có trưởng họ (hay còn gọi là tộc trưởng), nhà thờ họ, gia phả, giỗ họ,... Ở nhiều làng, hầu hết dân cư ở làng đó đều có quan hệ họ hàng với nhau. Việc đó còn lưu lại dấu ấn trong tên của rất nhiều làng hiện nay như: làng Đặng Xá (xá = nơi ở, Đặng Xá = nơi ở của họ Đặng), Châu Xá, Lê Xá,... Tương truyền Chử Đồng Tử sinh ra ở làng Chử Xá, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Ở Tây Nguyên còn phổ biến tình trạng các thế hệ của một gia tộc sống tập trung trong một mái nhà dài, bên trong nhà đó được chia thành từng ngăn nhỏ cho các gia đình. Một nhà như thế có thể chứa đến hơn trăm người. Còn ở phần lớn miền quê Việt Nam hiện nay vẫn có gia đình có đến ba (tam đại đồng đường) hay bốn (tứ đại đồng đường) thế hệ cùng chung sống. Vì gia tộc có vai trò quan trọng nên tôn ti của từng người cũng rất được coi trọng. Ở Việt Nam hệ thống tôn ti trong gia tộc được phân biệt rất chi li tới 9 thế hệ (gọi là cửu đại): Việc thờ cúng, lễ tết trong gia tộc cũng tuân thủ theo nguyên tắc cửu đại này. Nghĩa là khi người có vai "Tôi" còn sống thì người ở vai này có trách nhiệm tham gia thờ cúng (nếu người vai trên đã chết), lễ tết (nếu người vai trên còn sống) những người có vai từ "Kỵ" trở xuống đến người có vai "Cha". Những người có vai "Con", "Cháu", "Chắt", "Chút" của người đó vẫn có trách nhiệm phải tuân thủ. Người đàn ông lớn nhất trong gia đình chịu trách nhiệm thờ cúng tổ tiên (nếu người ở vai trên không còn sống), chỉ khi người này mất đi thì việc thờ cúng sẽ chuyển sang người con trai lớn (đích tôn). Trong trường hợp, người đàn ông không có con trai thì việc thờ cúng tổ tiên sẽ chuyển sang người chú kế cận và nguyên tắc trên lại áp dụng cho gia đình người chú. Trong khi đó ở các nước khác, ví dụ trong tiếng Anh, chỉ có từ cho ba đời, các đời trước và sau nữa chỉ thêm tiền tố vào một trong ba từ đó. Ngoài ra còn có những danh từ chỉ riêng những người họ hàng xa hơn như: "chú" (em trai của "bố"), "cậu" (em trai của "mẹ"), "cô" (em gái của "bố"), "dì" (em gái của "mẹ"), "thím" (vợ của "chú"), "mợ" (vợ của "cậu"), "bác" (anh hay chị của "bố" và của "mẹ"); một vài vùng có thể có cách gọi biến tướng đi như: anh của bố, mẹ đều gọi bằng "bác", còn chị của bố, mẹ lại vẫn gọi là "cô" - như ở Thanh Miện (Hải Dương), Kiến An (Hải Phòng) - hoặc anh, chị của bố gọi là "bá" còn anh, chị của mẹ gọi là "bác" hay ngược lại v.v. Tôn ti rất được tôn trọng, một người ít tuổi, xếp theo vai vế, có thể là "ông" của một người nhiều tuổi - Bé bằng củ khoai, cứ vai mà gọi (tục ngữ). Theo địa bàn cư trú: xóm và làng Nếu coi tổ chức nông thôn theo huyết thống là bước phát triển thứ nhất thì tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú là bước phát triển tiếp theo để hình thành nên làng và xóm, đơn vị tổ chức quan trọng nhất của nông thôn Việt Nam. Một làng gồm nhiều xóm gộp lại. Ở nông thôn Việt Nam, việc tổ chức thành làng là cần thiết vì các lý do sau đây: Đối phó với môi trường tự nhiên: trồng lúa nước là nghề mang tính thời vụ rất cao, chính vì thế mọi người trong làng có thể giúp đỡ nhau lúc cần thiết. Đối phó với môi trường xã hội: chống trộm, cướp,... Theo nghề nghiệp: phường và hội Trong một số làng, một số dân cư hoặc phần lớn dân cư có một nghề nghiệp khác ngoài nghề nông. Những người có cùng nghề này tập hợp với nhau để tạo thành phường. Có rất nhiều phường với các loại nghề nghiệp khác nhau như: phường gốm, phường chài, phường mộc, phường chèo, phường tuồng,... Bên cạnh phường, còn có hội, là tổ chức của những người có cùng sở thích, thú vui,... ví dụ: hội văn phả (các nhà Nho trong làng không ra làm quan), hội bô lão (các cụ ở trong làng), hội tổ tôm, hội vật,... Các phường nghề sau này chuyển thành các tổ chức phường của đô thị. Theo truyền thống nam giới: giáp Giáp là hình thức tổ chức dựa trên truyền thống nam giới, nó xuất hiện khá muộn vào đời Lý Thánh Tông (1041) với mục đích là để tiện cho việc thu thuế. Giáp có các đặc điểm sau: chỉ có đàn ông mới được tham gia vào giáp có tính cha truyền con nối, cha ở giáp nào, con ở giáp ấy. Đứng đầu có ông cai giáp (câu đương), giúp việc cho cai giáp có ba ông lềnh (lềnh nhất, lềnh hai, lềnh ba). Giáp được chia thành ba hạng: ty ấu: từ nhỏ đến 18 tuổi; đinh (hoặc tráng): 18 đến 59 tuổi; lão: 60 tuổi trở lên. Con trai, khi mới sinh được cha làm lễ để được vào giáp, lúc này nó thuộc hạng ty ấu. Vào giáp lúc này có quyền lợi là được chia phần khi làng có lễ hội. Đến 18 tuổi, người con trai phải làm lễ làng để lên đinh hoặc tráng (đinh = đứa, tráng = khỏe mạnh). Đinh, tráng có nghĩa vụ với làng (giúp đỡ trong các dịp lễ lạt, đình đám) và với nước (đóng sưu thuế, đi lính, đi phu). Về quyền lợi thì đinh, tráng được ngồi trên một chiếu nhất định trong kỳ họp hành, ăn uống, hoặc được nhận một phần ruộng công để cày, ngoài ra còn được thêm một phần hoa màu khi thu hoạch. Đến 60 tuổi (một số nơi còn hạ tuổi xuống còn 49, 50 hoặc 55), đàn ông được lên lão làng, đó là một vinh dự rất lớn, được mọi người nể trọng, xin ý kiến khi gặp khó khăn. Phần lớn các giáp được gọi tên theo vị trí, ví dụ: Thượng (trên), Hạ (dưới), Đông (phía đông), Đoài (phía tây). Theo mặt hành chính: thôn và xã Về mặt tổ chức hành chính thì nông thôn Việt Nam được chia thành các đơn vị cơ bản là xã, và thôn. Thông thường một xã gồm một làng nhưng cũng có xã gồm một vài làng. Mỗi thôn gồm một xóm, cũng có thôn gồm một vài xóm. Về dân cư thì một thôn có hai loại: dân chính cư (còn gọi là nội tịch), là dân gốc của thôn, dân chính cư được hưởng nhiều quyền lợi hơn dân ngụ cư rất nhiều. dân ngụ cư (còn gọi là ngoại tịch), là dân ở nơi khác đến, những người dân này chỉ được làm một số nghề mà dân chính cư không muốn làm như: làm thuê, làm mướn, làm mõ,... trong khi vẫn phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ như dân chính cư. Dân ngụ cư thường bị khinh rẻ, coi thường. Dân ngụ cư muốn thành dân chính cư thì phải: cư trú ở làng hơn ba đời, có một ít điền sản. Việc đối xử khắt khe đối với dân ngụ cư là một hình thức ngăn cản người ở làng này di chuyển sang làng khác nhằm duy trì sự ổn định của làng. Dân chính cư được chia làm 5 hạng: Chức sắc gồm những người đỗ đạt hoặc có phẩm hàm vua ban Chức dịch gồm những người đang giữ những chức vụ nhất định trong bộ máy hành chính Lão (xem ở trên) Đinh (xem ở trên) Ty ấu (xem ở trên) Ba hạng đầu gồm chức sắc, chức dịch và lão lập thành bộ phận quan viên hàng xã. Quan viên lại được chia thành ba nhóm theo lứa tuổi là kỳ mục, kỳ dịch, và kỳ lão: Kỳ mục là quan trọng nhất, có nhiệm vụ bàn bạc và quyết định các công việc của xã. Kỳ mục còn được gọi là hội đồng kỳ mục, do tiên chỉ và thứ chỉ đứng đầu; ở miền nam sau này, hội đồng kỳ mục được gọi là hội tề do hương cả đứng đầu. Kỳ lão gồm những người cao tuổi nhất, có vai trò làm tư vấn cho hội đồng kỳ mục. Kỳ dịch, hay còn gọi là lý dịch, thường do hội đồng kỳ mục cử ra, có nhiệm vụ thực thi quyết định của hội đồng kỳ mục. Đứng đầu nhóm lý dịch này là lý trưởng (còn gọi là xã trưởng); dưới đó có phó lý (giúp việc), hương trưởng (lo việc công ích), trương tuần (còn gọi là xã tuần, lo việc an ninh). Phương tiện quản lý chủ yếu là hai cuốn sổ là sổ đinh (quản lý nhân lực) và sổ điền (quản lý về kinh tế). Thời hiện đại Làng Việt Nam thời hiện đại đã có những sự thay đổi nhất định so với làng trung và cận đại. Có những đặc điểm của làng cổ còn giữ được, nhưng cũng có những đặc điểm ngày nay hầu như không thể tìm thấy. Truyền thống gia tộc tuy vẫn còn giữ được ảnh hưởng, nhưng do ngày nay, người dân nông thôn có xu hướng thoát li ra các thành phố lớn hoặc di cư đến những vùng khác có điều kiện sinh sống làm ăn thuận lợi hơn, nên vai trò của gia đình đã dần dần nổi trội hơn. Cũng do việc di cư mà thành phần dân cư của làng xã ngày nay đa dạng hơn, tính chất cùng huyết thống cũng đã bị giảm mạnh. Các khái niệm như giáp, đinh, tráng nay không còn nữa do nó hoàn toàn không phù hợp với nông thôn hiện đại. Các khái niệm dân chính cư hay dân ngụ cư tuy rằng vẫn có thể hiện diện ở một vài nơi, nhưng chắc chắn nó không còn là một đặc điểm đặc trưng của nông thôn ngày nay. Các chức sắc, chức dịch cũ (quan viên, kỳ mục, kỳ dịch v.v) nay đã bị xóa bỏ. Vai trò của chính quyền xã hiện nay được công nhận là nằm trong hệ thống quản lý nhà nước đã và đang dần dà làm mất đi vai trò của hệ thống chính quyền làng theo kiểu cũ. Ngày nay, người đứng đầu một làng là trưởng làng (thôn) hay trưởng bản (ở miền núi). Vai trò của họ thực ra không lớn lắm. Đặc tính Thời trung và cận đại Tính cộng đồng và tự trị Việc làng xã Việt Nam được tổ chức theo huyết thống, địa bàn cư trú, truyền thống nam giới và hành chính như ở phần trên làm cho làng có tính cộng đồng và tự trị rất cao. Tính cộng đồng làm cho các thành viên trong làng đều hướng tới nhau, đó là đặc trưng "hướng ngoại"; còn tính tự trị làm cho các làng trở lên biệt lập với nhau, đó là đặc trưng "hướng nội". Tính biệt lập ở các làng mạnh đến nỗi mỗi làng có thể được coi như một quốc gia thu nhỏ với một "luật pháp riêng" được gọi là hương ước (lệ làng được ghi bằng văn bản) và luật tục (lệ làng được quy định bằng lời nói); và một "triều đình riêng" với hội đồng kỳ mục là cơ quan lập pháp, lý dịch là cơ quan hành pháp. Nhiều làng còn bầu bốn cụ cao tuổi là tứ trụ. Sự can thiệp của nhà nước phong kiến, và sau này của thực dân không làm ảnh hưởng nhiều đến tổ chức của làng xã. "Phép vua thua lệ làng" là một truyền thống thể hiện mối quan hệ dân chủ đặc biệt của nhà nước phong kiến với làng xã Việt Nam. Cấu trúc làng Tính biệt lập còn được thể hiện ở lũy tre làng. Lũy tre làng bao trùm xung quanh làng. Đó là một thành lũy rất kiên cố, "đốt không cháy, trèo không được, đào không qua". Điều này khác hẳn với các nước khác trên thế giới là dùng thành quách bằng đất đá. Việc trao đổi với thế giới bên ngoài thông qua cổng làng. Gần cổng làng thường có một cây đa, khói hương nghi ngút, đó là nơi hội tụ của thánh thần. Bên trong của làng có một cái đình, đó là biểu tượng của làng về mọi phương diện. Đình làng là: trung tâm hành chính: mọi công việc quan trọng đều diễn ra ở đây, hội đồng kỳ mục, lý dịch làm việc ở đây; thu sưu thuế tại đây; xử tội người vi phạm lệ làng cũng ở đây,... trung tâm tôn giáo: là nơi thờ thành hoàng làng. trung tâm văn hóa: là nơi tổ chức các lễ hội văn hóa của làng như hội đấu vật, đánh cờ, hát chèo v.v...vào các dịp lễ, tết hay lúc công việc đồng ruộng đã hết, đình làng cũng là nơi con trai, con gái đến tuổi lập gia đình hò hẹn với nhau. Ban đầu đình làng là nơi tụ tập của tất cả mọi người, sau này đó chỉ là nơi tụ tập của nam giới (giáp) trong làng. Phụ nữ chuyển đến chùa làng và giếng nước. Nhiều nơi người ta còn trả thù nhau bằng cách đóng cọc vào giữa giếng làng, người ta tin rằng làm như thế thì gái làng đó sẽ không chồng mà chửa. Ưu nhược điểm của làng Việt Nam Do tính tự trị cao mà làng có xu hướng nhấn mạnh vào tính dị biệt của làng. Tính dị biệt dẫn đến các hệ quả sau: "tự cung tự cấp", mỗi làng cố gắng đáp ứng đầy đủ nhu cầu của làng; óc bè phái, cục bộ; gia trưởng, tôn ti,... Do tính cộng đồng cao mà làng Việt Nam có xu hướng nhấn mạnh vào tính đồng nhất, hệ quả của nó là: đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, tính tập thể cao, dân chủ địa phương,... nhưng lại thủ tiêu vai trò cá nhân, tạo ra thói dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể và cào bằng, đố kị không muốn ai hơn ai. Thời hiện đại Các hương ước và tục lệ ngày nay tuy còn có ảnh hưởng nhất định tới công việc của làng, nhưng luật pháp nhà nước mới là yếu tố quyết định chính trong quan hệ cộng đồng. Về mặt cấu trúc, làng ngày nay đã thưa dần hình ảnh của lũy tre làng, cổng làng, giếng làng. Đình làng không còn đóng vai trò quan trọng như trước đây, nó chỉ còn thuần túy là nơi để thờ cúng hay giao lưu, gặp gỡ trong những ngày lễ hội. Nông thôn là vùng sinh sống và làm việc chung của cộng đồng dân cư, hoạt động sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Cơ sở hình thành và trình độ tiếp cận thị trường,trình độ sản xuất hàng hóa còn thấp so với thành thị (diện tích rộng, mức đầu tư cho nông thôn không lớn). Trong một chừng mực nào đó thì tính dân chủ, tự do và công bằng xã hội thấp hơn thành thị. Thu nhập và đời sống của người dân còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo đói thì cao. Nông thôn trải dài trên địa bàn rộng lớn nên chịu nhiều ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên. Làng Nam Bộ Đến thời các chúa Nguyễn và sau này là nhà Nguyễn, việc khai phá đồng bằng Nam Bộ đã làm cho làng xã ở vùng này khác hẳn so với làng xã ở cùng đồng bằng Bắc Bộ. Sự khác biệt cơ bản nhất đó là tính mở ở các làng Nam Bộ cao hơn rất nhiều. Tính mở được thể hiện ở những điều sau đây: Làng không còn có lũy tre làng như là công cụ phân cách làng này với làng khác nữa. Làng không nhất thiết phải tồn tại mãi mãi, có làng được lập một cách nhanh chóng, những cũng có làng tan rã nhanh chóng. Giao thương buôn bán phát triển không còn bị gò bó ở tình trạng tự cung tự cấp. Những đặc điểm này ảnh hưởng đến tính tình người dân Nam Bộ cũng phóng khoáng hơn, dễ chấp nhận những ảnh hưởng từ bên ngoài, hội nhập, phát triển nhanh trong làm ăn kinh tế. Vai trò của vùng nông thôn Nông thôn là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm cho đời sống của người dân. Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu. Cung cấp hàng hóa cho xuất khẩu Cung cấp lao động cho công nghiệp và thành thị. Là thị trường rộng lớn để tiêu thụ những sản phẩm của công nghiệp và dịch vụ Phát triển nông thôn tạo điều kiện ổn định về mặt kinh tế – chính trị – xã hội. Nông thôn nằm trên địa bàn rộng lớn về các mặt tự nhiên – kinh tế – xã hội. Khó khăn của người dân địa phương Lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất nông nghiệp và các ngành công nghiệp địa phương thường thấp.Dẫn đến thu nhập của người dân nông thôn thấp. Người nông dân sông chủ yếu bằng nghề nông nghiệp nhưng thiếu đất để sản xuất.Đất sản xuất giảm do dân số tăng và quá trình đô thị hóa. Lực lượng lao động ở nông thôn rất lớn nhưng lại thiếu việc làm, thất nghiệp và bán thất nghiệp vẫn thường xuyên xảy ra. Thiếu các điều kiện và phương tiện thuận lợi cho giáo dục. Khoảng 70% nhà ở của người dân nông thôn có kết cấu kiên cố hoặc bán kiên cố. Thiếu các cơ sở phương tiện và điều kiện vui chơi,giải trí. Hàng tiêu dùng khan hiếm, giá cả đắt đỏ,người dân nông thôn khó có thể mua những thứ cần thiết phù hợp với thu nhập của họ. Trong văn hóa đại chúng Xem thêm Nông nghiệp Việt Nam Làng quê Việt Nam Kiến trúc làng Việt Nam Đình làng Tham khảo Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc Văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh 2001 Trần Ngọc Thêm, Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh 1994 Chú thích Xã hội Việt Nam
VI_open-0000000005
People_and_Society
Toán sinh học (tiếng Anh: mathematical biology hay biomathematics) là một lĩnh vực giao thoa (interdisciplinary) của nghiên cứu học thuật nhằm vào mô hình hoá các quá trình sinh học trong tự nhiên dùng kĩ thuật và công cụ toán học. Nó vừa mang tính ứng dụng vừa mang tính lý thuyết trong nghiên cứu sinh học. Nghiên cứu Dưới đây là một danh sách các lĩnh vực nghiên cứu trong toán sinh học và liên kết đến các dự án liên quan ở nhiều trường đại học khác nhau: Mô hình hóa bệnh về động mạch Mô hình hóa neuron và các chất gây ung thư (Modelling of neurons and carcinogen|carcinogenesis) Đặc tính cơ học của các mô sinh học (Mechanics of biological tissues ) Enzyme học lý thuyết và động học enzyme (Theoretical enzymology and enzyme kinetics ) Mô hình hóa cơ chế ung thư (Cancer modelling and simulation ) Những ví dụ này được đặc trưng bởi các cơ chế phức tạp, phi tuyến và mọi người đang ngày càng được nhận ra rằng kết quả của những sự tương tác đó chỉ có thể được hiểu thông qua các mô hình tính toán và toán học. Vì sự đa dạng của những kiến thức liên quan, nghiên cứu toán sinh học thường được thực hiện ở bởi sự liên kết giữa các nhà toán học, nhà vật lý học, nhà sinh học, nhà y khoa, nhà động vật học, nhà hoá học... Chú thích J.D. Murray, Mathematical Biology. Springer-Verlag, 3rd ed. in 2 vols.: Mathematical Biology: I. An Introduction, 2002 ISBN 0387952233; Mathematical Biology: II. Spatial Models and Biomedical Applications, 2003 ISBN 0387952284. L. Edelstein-Keshet, Mathematical Models in Biology. SIAM, 2004. ISBN 0075549506 L.A. Segel, Modeling dynamic phenomena in molecular and cellular biology. C.U.P., 1984. ISBN 052127477X F. Hoppensteadt, Mathematical theories of populations: demographics, genetics and epidemics. SIAM, Philadelphia, 1975 (reprinted 1993). ISBN 0898710170 S.I. Rubinow, Introduction to mathematical biology. John Wiley, 1975. ISBN 0471744468 A. Goldbeter, Biochemical oscillations and cellular rhythms. C.U.P., 1996. ISBN 0521599466 E. Renshaw, Modelling biological populations in space and time. C.U.P., 1991. ISBN 0521448557 P.G. Drazin, Nonlinear systems. C.U.P., 1992. ISBN 0521406684 D.W. Jordan and P. Smith, Nonlinear ordinary differential equations, 2nd ed. O.U.P., 1987. ISBN 0198565623 Tham khảo F. Hoppensteadt, Getting Started in Mathematical Biology. Notices of American Mathematical Society, Sept. 1995. M. C. Reed, Why Is Mathematical Biology So Hard? Notices of American Mathematical Society, March, 2004. R. M. May, Uses and Abuses of Mathematics in Biology. Science, ngày 6 tháng 2 năm 2004. J. D. Murray, How the leopard gets its spots? Scientific American, 258(3): 80-87, 1988. Xem thêm Tin sinh học Liên kết ngoài Society for Mathematical Biology European Society for Mathematical and Theoretical Biology Centre for Mathematical Biology at Oxford University Mathematical Biology at the National Institute for Medical Research Institute for Medical BioMathematics Mathematical Biology Systems of Differential Equations from EqWorld: The World of Mathematical Equations Toán học ứng dụng Tin sinh học Sinh học Dịch tễ học Lĩnh vực giao thoa Thống kê Hệ thống
VI_open-0000000008
Science
Encyclopædia Britannica hay Bách khoa toàn thư Britannica (tiếng Latinh của Bách khoa toàn thư Anh Quốc;) là một bách khoa toàn thư tiếng Anh tổng hợp có sẵn trong bộ sách, trên DVD, và trên Internet, do công ty Encyclopædia Britannica, Inc. biên soạn và xuất bản. Công ty này thuê vào khoảng 100 nhà biên soạn và nhận bài viết từ hơn 4.000 nhà chuyên môn để liên tục cập nhật và phát triển bách khoa toàn thư. Tác phẩm này được nhiều người cho là một trong những bách khoa toàn thư có thẩm quyền nhất. Tuy nhiên, một cuộc nghiên cứu gây xôn xao bởi Nature vào năm 2005 khi so sánh các bài viết về khoa học của Britannica và Wikipedia (kể cả bộ Britannica phiên bản web) thì kết quả cho thấy tỉ lệ lỗi sai của Wikipedia là 3,86 lỗi trên mỗi bài, còn của Britannica là 2,92 lỗi trên mỗi bài. Nội dung Lần in thứ 15 hiện tại có một cấu trúc ba thành phần đặc biệt: bộ Micropædia 12 quyển chỉ có bài ngắn (thường ít hơn 750 từ), bộ Macropædia 17 quyển có bài dài (mỗi bài là 2–310 trang), và một quyển Propædia để đặt hệ thống thứ bậc cho kiến thúc. Bộ Micropædia có mục đích tra cứu nhanh và định hướng sử dụng bộ Macropædia; những người đọc được khuyên nên đọc bài sơ lược trong Propædia để hiểu bối cảnh của một đề tài và tìm bài liên quan. Kích cỡ của Britannica không thay đổi nhiều trong thời gian hơn 70 năm qua với vào khoảng 40 triệu từ nói về nửa triệu đề tài. Tuy bách khoa toàn thư được xuất bản tại Chicago, Hoa Kỳ, từ 1901, nhưng Britannica vẫn giữ cách viết Anh, thí dụ "æ", chữ cổ nối "a" và "e", trong tên của tác phẩm. Lịch sử Bộ Britannica là bách khoa toàn thư tiếng Anh lâu đời nhất. Nó được in lần đầu tiên từ 1768 đến 1771 tại Edinburgh, Scotland, trong ba quyển. Bách khoa toàn thư từ từ phát triển lớn, cho tới 20 quyển vào lần in thứ 4 nổi tiếng (1801–1809). Tiếng tăm của nó thu hút những người đóng góp nổi tiếng, và các lần in thứ 9 (1875–1889) và thứ 11 (1911) được coi là cực điểm về nghiên cứu và văn chương trong bách khoa toàn thư. Bắt đầu với lần in thứ 11, bộ Britannica thu ngắn và đơn giản hóa các bài viết để mở rộng tập thể độc giả tại Bắc Mỹ. Năm 1933, bộ Britannica trở thành bách khoa toàn thư đầu tiên thực hiện mô hình "sửa lại liên tục", tức bách khoa toàn thư luôn được in lại và các bài được cập nhật theo đúng ngày. Tuy nhiên, mô hình này vẫn không kịp kỹ thuật mới. Ngày 13 tháng 3 năm 2012, nhà xuất bản tuyên bố ngừng phát hành bản in (chấm dứt việc ấn hành bản giấy) Encyclopædia Britannica sau 244 năm để tập trung phát triển bách khoa toàn thư trực tuyến. Britannica Concise Encyclopædia Britannica Concise Encyclopædia là Bách khoa toàn thư Britannica rút gọn, chỉ là một cuốn gồm 28.000 bài tóm tắt lại các bài trong bộ Britannica 32 cuốn. Cuốn này đã được dịch ra tiếng Việt thành một bộ hai cuốn có tên là Từ điển Bách khoa Britannica gồm 25 ngàn bài, tổng cộng là 3.000 trang, được bổ sung thêm gần 300 mục từ về Việt Nam. Dự án Việt hóa Từ điển bách khoa Britannica được thực hiện với sự tham gia của 54 dịch giả, chuyên gia trong nhiều lĩnh vực. Xem thêm Danh sách bách khoa toàn thư theo ngôn ngữ Bách khoa toàn thư lịch sử: L'Encyclopédie Cyclopaedia, or an Universal Dictionary of Arts and Sciences Bách khoa toàn thư in: Encyclopedia Americana World Book Encyclopedia Brockhaus Enzyklopädie Từ điển bách khoa Việt Nam Bách khoa toàn thư điện tử: Encarta Wikipedia tiếng Anh Nhân vật liên quan: Colin Macfarquhar Walter Yust Thomas Macall Fallow Chú thích Liên kết ngoài Website chính thức của số mới nhất của Encyclopædia Britannica Số Encyclopædia Britannica năm 1911 Encyclopædia Britannica Văn hóa Vương quốc Liên hiệp Anh Sách năm 1768 Bách khoa toàn thư trực tuyến
VI_open-0000000012
Computers_and_Electronics
1,4-Cyclohexadien là một cycloanken dễ bắt cháy, ở điều kiện tiêu chuẩn nó là một chất lỏng trong suốt không màu. 1,4-Cyclohexadien và các hợp chất có liên quan có thể điều chế từ benzen với sự tham gia của lithi hay natri trong amonia lỏng, quy trình này gọi là phản ứng khử Birch. Tuy nhiên 1,4-cyclohexadien rất dễ bị oxy hóa thành benzen. Sự chuyển hóa thành vòng thơm có thể được thực hiện trong phòng thí nghiệm với việc sử dụng anken chẳng hạn như styren, cùng với các chất chuyển hiđrô như paladi kim loại với sự có mặt của than củi. γ-Terpinen là dẫn xuất có nguồn gốc tự nhiên của 1,4-cyclohexadien, được tìm thấy trong các tinh dầu của rau mùi (Coriandrum sativum), chanh (Citrus × limon) và thì là Ai Cập (Cuminum cyminum). Xem thêm Benzen Cyclohexan 1,2-Cyclohexadien 1,3-Cyclohexadien Cyclohexen Tham khảo Cycloalken
VI_open-0000000013
Science
Ngày 1 tháng 1 là ngày thứ 1 trong lịch Gregory. Đây là ngày đầu tiên trong năm. Lịch sử Trong suốt thời Trung cổ dưới ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo Rôma, nhiều quốc gia ở Tây Âu đã bắt đầu năm mới với một trong những lễ hội quan trọng của người Cơ đốc giáo – 25 tháng 12 (Ngày Chúa Giêsu ra đời), ngày 1 tháng 3, ngày 25 tháng 3 (Ngày thiên sứ truyền tin cho Maria) và cả lễ Phục Sinh. Các quốc gia Đông Âu (hầu hết trong số họ có dân số đông thể hiện lòng trung thành với Chính thống giáo) đã bắt đầu năm thứ nhất vào ngày 1 tháng 9 từ khoảng 988. Hầu hết các nước Tây Âu đã thay đổi ngày đầu năm là ngày 1 tháng 1 trước khi họ chấp nhận lịch Gregorian. Ví dụ, Scotland đã thay đổi sự bắt đầu của năm mới Scotland đến ngày 1 tháng 1 năm 1600. Anh, Ireland và các thuộc địa Anh thay đổi đầu năm là ngày 1 tháng 1 năm 1752. Cuối năm đó vào tháng 9, lịch Gregorian được giới thiệu trên khắp nước Anh và thuộc địa của Anh. Hai cải cách này được thực hiện theo Đạo luật Lịch (Phong cách Mới) năm 1750. Ngày 1 tháng 1 đã trở thành sự khởi đầu chính thức của năm ở một số quốc gia từ: 1362 – Đại công quốc Litva 1522 – Cộng hòa Venezia 1544 – Đế quốc La Mã Thần thánh (Đức) 1556 – Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha 1559 – Phổ, Thụy Điển 1564 – Pháp 1576 – Nam Hà Lan 1579 – Công quốc Lorraine 1583 – Bắc Hà Lan 1600 – Scotland 1700 – Nga 1721 – Tuscany 1752 – Vương quốc Anh (trừ Scotland) và thuộc địa Sự kiện 153 TCN – Các quan chấp chính Đế quốc La Mã bắt đầu năm đảm nhiệm chức vụ của họ. 45 TCN – Lịch Julius lần đầu tiên có hiệu lực. 42 TCN – Viện nguyên lão Lã Mã truy thần hóa cho Julius Caesar. 69 – Lê dương La Mã tại Thượng Germania khước từ lời thề trung thành với Galba. Họ nổi dậy và tuyên bố Vitellius là hoàng đế. 193 – Viện nguyên lão chọn Pertinax làm Hoàng đế La Mã. 404 – Sau khi buộc Tấn An Đế phải thiện vị, Sở vương Hoàn Huyền lên ngôi hoàng đế, tức ngày Nhâm Thìn (3) tháng 12 năm Quý Mão. 417 – Hoàng đế Honorius ép Galla Placidia kết hôn với Constantius III, vị tướng nổi tiếng của ông. 896 – Đường Chiêu Tông ban cho quân phiệt người Sa Đà Lý Khắc Dụng tước Tấn vương, tức ngày Ất Mùi (13) tháng 12 năm Ất Mão. 976 – Quân Tống đánh chiếm kinh thành Kim Lăng của nước Nam Đường, Nam Đường Hậu Chủ Lý Dục phụng biểu nạp hàng, tức ngày Ất Mùi (27) tháng 11 năm Ất Hợi. 1001 – Giáo hoàng Silvestrô II phong Đại công tước István I là quốc vương đầu tiên của Hungary. 1068 – Được người nhiếp chính Eudokia Makrembolitissa xá tội âm mưu soán vị, Romanos IV Diogenes kết hôn với bà để trở thành hoàng đế của Đông La Mã. 1259 – Mikhael VIII Palaiologos được tuyên bố là đồng hoàng đế của Đế quốc Nicaea cùng với người bảo trợ của ông là John IV Laskaris. 1438 – Albert II của Habsburg được trao vương miện trở thành vua Hungary. 1502 – Người Bồ Đào Nha lần đầu thám hiểm khu vực nay là thành phố Rio de Janeiro, Brasil. 1515 – Quốc vương François I bắt đầu cai trị Pháp. 1527 – Các quý tộc Croatia bầu Ferdinand I của Áo làm quốc vương của Croatia. 1600 – Scotland bắt đầu năm mới từ 1 tháng 1 thay vì 25 tháng 3. 1651 – Charles II đăng quang quốc vương của Scotland. 1700 – Đế quốc Nga bắt đầu sử dụng kỷ nguyên Công Nguyên và không còn sử dụng Kỷ nguyên Thế giới của Đế quốc Đông La Mã. 1707 – João V được trao vương miện trở thành vua Bồ Đào Nha. 1739 – Nhà thám hiểm người Pháp Jean–Baptiste Charles Bouvet de Lozier phát hiện ra đảo Bouvet gần Nam Cực. 1772 – Tấm séc du lịch đầu tiên có thể được sử dụng ở các thành phố châu Âu do Công ty Tín dụng Luân Đôn cấp. 1773 – Bài thánh ca mà sau được gọi là "Ân điển diệu kỳ", khi đó có tên "1 Chronicles 17:16–17" được sử dụng lần đầu để đệm cho một bài giảng đạo của mục sư John Newton tại thị trấn Olney, Buckinghamshire, Anh. 1781 – Cách mạng Mỹ: Một ngàn năm trăm binh sĩ thuộc Trung đoàn Pennsylvania 6 dưới quyền chỉ huy của Tướng Anthony Wayne chống lại Lục quân Lục địa ở Morristown, New Jersey ở Pennsylvania Line Mutiny. 1788 – Ấn bản đầu tiên của The Times tại Luân Đôn được phát hành, khi đó mang tên The Daily Universal Register. 1800 – Công ty Đông Ấn Hà Lan bị giải thể. 1801 – Việc hợp nhất về pháp lý giữa Vương quốc Anh và Vương quốc Ireland hoàn thành, hình thành nên Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland. 1801 – Nhà thiên văn học người Ý Giuseppe Piazzi phát hiện ra hành tin lùn Ceres. 1803 – Hoàng đế Gia Long ra lệnh cho tất cả các đồ bằng đồng của nhà Tây Sơn được thu thập đem đi nung chảy thành chín khẩu pháo cho Kinh thành Huế, Việt Nam. 1804 – Haiti giành độc lập từ Pháp và trở thành nước cộng hòa đầu tiên của người da đen, là cuộc cách mạng nô lệ thành công duy nhất đến thời điểm đó. 1806 – Lịch cộng hòa tại Pháp bị bãi bỏ. 1806 – Vương quốc Bayern được thành lập. 1808 – Việc nhập khẩu nô lệ vào Hoa Kỳ bị cấm. 1833 – Anh Quốc tuyên bố chủ quyền đối với Quần đảo Falkland ở phía Nam Đại Tây Dương. 1861 – Porfirio Díaz chinh phục Thành phố México. 1863 – Nội chiến Hoa Kỳ: Tuyên ngôn giải phóng nô lệ có hiệu lực tại lãnh thổ Liên minh miền Nam. 1870 – Người đồng sáng lập nên kiến trúc hiện đại là Adolf Loos được rửa tội tại nhà thờ Thánh Tôma ở Brno, Đế quốc Áo–Hung. 1873 – Nhật Bản bắt đầu sử dụng Lịch Gregory. 1877 – Nữ vương Victoria của Anh Quốc được tuyên bố là hoàng đế của Ấn Độ. 1880 – Ferdinand de Lesseps bắt đầu công việc xây dựng Kênh đào Panama của người Pháp. 1890 – Chính phủ Ý hợp nhất Eritrea thành một thuộc địa. 1892 – Đảo Ellis được mở cửa để bắt đầu đón nhận người nhập cư vào Hoa Kỳ. 1899 – Sự cai trị của Tây Ban Nha đối với Cuba chấm dứt theo Hiệp định với Hoa Kỳ. 1901 – Nigeria trở thành một lãnh thổ bảo hộ của Anh Quốc. 1901 – Các thuộc địa New South Wales, Queensland, Victoria, Nam Úc, Tasmania và Tây Úc liên bang hóa thành Thịnh vượng chung Úc; Edmund Barton được bổ nhiệm làm Thủ tướng Úc đầu tiên. 1902 – Cuộc thi bóng bầu dục đại học đầu tiên của Mỹ giữa Michigan và Stanford, được tổ chức tại Pasadena, California. 1908 – Lần đầu tiên, một quả cầu pha lê hạ xuống tại Quảng trường Thời đại ở Thành phố New York để biểu thị sự bắt đầu của Năm mới lúc nửa đêm. 1910 – Thuyền trưởng David Beatty được thăng chức Đô đốc và trở thành đô đốc trẻ nhất trong Hải quân Hoàng gia Anh (trừ các thành viên gia đình Hoàng gia), kể từ Horatio Nelson. 1911 – Lãnh thổ Bắc Úc được tách khỏi bang Nam Úc và được chuyển cho chính phủ Thịnh vương chung Úc quản lý. 1912 –Trung Hoa Dân Quốc chính thức được thành lập, Tôn Trung Sơn tuyên thệ nhậm chức Đại Tổng thống lâm thời Trung Hoa Dân Quốc tại phủ tổng thống ở Nam Kinh. 1914 – Hãng hàng không SPT trở thành hãng hàng không có lịch trình bay đầu tiên trên thế giới sử dụng máy bay có cánh. 1916 – Quân đội Đức Quốc xã từ bỏ Jaunde và thuộc địa Cameroon cho quân Anh và bắt đầu cuộc hành quân kéo dài đến Guineé thuộc Tây Ban Nha. 1920 – Tổ chức cộng sản Belorussian được thành lập như một đảng riêng biệt. 1923 – Đường sắt của Anh gồm 4 khu trọng điểm: LNER, GWR, SR và LMS. 1927 – Cuộc chiến Cristero bắt đầu ở México. 1927 – Thổ Nhĩ Kỳ chấp thuận lịch Gregory: ngay sau ngày 18 tháng 12 năm 1926 (lịch Julius) là ngày 1 tháng 1 năm 1927 (lịch Gregory). 1929 – Các cụm đô thị ở Point Grey, British Columbia và South Vancouver, British Columbia thuộc Canada được hợp nhất thành Vancouver. 1932 – Cục Bưu điện Hoa Kỳ phát hành 12 bộ tem kỷ niệm 200 năm ngày sinh của George Washington. 1934 – Đảo Alcatraz trở thành một nhà tù liên bang của Hoa Kỳ. 1934 – Đức quốc xã thông qua "Luật phòng ngừa con cái bị bệnh di truyền". 1937 – Kính an toàn trong kính chắn gió xe là bắt buộc tại Vương quốc Anh. 1942 – Tuyên bố của Liên Hợp Quốc được ký kết bởi 26 quốc gia. 1945 – Chiến tranh thế giới lần thứ hai: Để trả thù cho vụ thảm sát Malmedy, quân đội Mỹ giết 60 tù binh Đức tại Chenogne. 1946 – Thiên hoàng Chiêu Hòa của Nhật Bản ban bố Tuyên ngôn nhân gian, tuyên bố rằng Thiên hoàng không phải là thần thánh. 1947 – Chiến tranh lạnh: Các khu vực chiếm đóng của Anh và Hoa Kỳ tại Đức được hợp nhất để hình thành Bizone. 1947 – Đạo luật công dân Canada năm 1946 có hiệu lực, tất cả những người Anh đang sinh sống trên đất nước Canada sẽ có quốc tịch Canada. Thủ tướng William Lyon Mackenzie King trở thành công dân Canada đầu tiên. 1948 – Ủy ban cách mạng Quốc dân đảng Trung Quốc được thành lập tại Hồng Kông. 1949 – Lệnh ngừng bắn của Liên Hợp Quốc có hiệu lực tại Kashmir trước nửa đêm. Chiến tranh giữa Ấn Độ và Pakistan bị tạm ngừng. 1956 – Sudan giành được độc lập từ Ai Cập và Anh Quốc. 1957 – George Town, Penang trở thành thành phố do sắc lệnh hoàng gia của nữ hoàng Elizabeth II. 1957 – Chính thức kết thúc sự bảo hộ của Pháp đối với Saarland, lãnh thổ này hợp nhất vào Tây Đức. 1958 – Cộng đồng Kinh tế châu Âu được thành lập. 1959 – Nhà độc tài người Cuba Fulgencio Batista bị lật đổ trong Cách mạng Cuba. 1960 – Cameroon giành được độc lập từ Pháp và Anh. 1962 – Samoa giành được độc lập từ New Zealand; đổi tên thành Nhà nước Độc lập Tây Samoa. 1964 – Liên bang Rhodesia và Nyasaland được chia thành các nước cộng hòa độc lập là Zambia và Malawi riêng khu vực Rhodesia do Anh kiểm soát. 1965 – Đảng Dân chủ Nhân dân Afghanistan được thành lập tại Kabul, Afghanistan. 1966 – Sau một cuộc đảo chính, Đại tá Jean–Bédel Bokassa trở thành tổng thống của Cộng hòa Trung Phi. 1971 – Quảng cáo thuốc lá bị cấm quảng cáo trên các kênh truyền hình tại Hoa Kỳ. 1973 – Đan Mạch, Anh Quốc và Ireland được nhận vào Cộng đồng Kinh tế châu Âu. 1978 – Chiếc máy bay Boeing 747 855 của hãng hàng không Ấn Độ rơi xuống biển Ấn Độ Dương, ngoài khơi bờ biển Bombay, Ấn Độ, do trục trặc của thiết bị và sự mất phương hướng của phi công, làm chết 213 người. 1979 – Chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. 1981 – Hy Lạp được nhận vào Cộng đồng châu Âu. 1981 – Palau giành được quyền tự trị từ Hoa Kỳ. 1982 – Javier Pérez de Cuéllar trở thành người Mỹ Latinh đầu tiên nắm giữ cương vị Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc. 1983 – ARPANET chính thức chuyển sang dùng IP, hình thành nên Internet. 1984 – Brunei giành được độc lập từ Anh Quốc. 1984 – Công ty Viễn thông Hoa Kỳ (AT&T) phải đóng cửa 22 công ty con do việc giải quyết vụ kiện chống độc quyền Bộ Tư pháp Hoa Kỳ chống lại AT&T. 1985 – DNS của Internet được hình thành. 1985 – Cuộc gọi điện thoại di động đầu tiên tại Anh được thực hiện bởi Michael Harrison với cha của ông là Sir Ernest Harrison, chủ tịch công ty Vodafone. 1986 – Aruba độc lập từ Antille thuộc Hà Lan, song vẫn duy trì liên kết tự do với Hà Lan. 1988 – Giáo hội Tin Lành Lutheran được hình thành, sau phát triển thành giáo hội Luther – giáo hội lớn nhất ở Hoa Kỳ. 1989 – Nghị định thư Montreal về các chất gây suy giảm tầng ôzôn có hiệu lực. 1990 – Rowan Atkinson (hay Mr. Bean) ra mắt trên kênh truyền hình Thames Television. 1990 – David Dinkins tuyên thệ nhậm chức thành thị trưởng đầu tiên của thành phố New York. 1990 – VTV2 chính thức được lên sóng 1992 – Liên bang Nga chính thức được thành lập sau khi Liên Xô giải thể. 1993 – Sự chia cắt Tiệp Khắc: Tiệp Khắc chia thành 2 nước Cộng Hòa Séc và Slovakia. 1994 – Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) có hiệu lực. 1995 – Tổ chức Thương mại Thế giới bắt đầu hoạt động. 1995 – Phần Lan, Áo và Thụy Điển gia nhập Liên minh châu Âu. 1995 – Hội nghị An ninh và Hợp tác châu Âu trở thành Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu. 1995 – Phát hiện ra sóng Draupner trên vùng Biển Bắc thuộc Na Uy, xác nhận sự tồn tại của sóng độc. 1996 – Curaçao có được chính quyền giới hạn số lượng, mặc dù nó vẫn nằm trong Hiệp hội tự do với Hà Lan. 1997 – Nhà ngoại giao người Ghana Kofi Annan được bổ nhiệm làm Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. 1998 – Nga bắt đầu lưu thông đồng Rúp mới nhằm kiềm chế lạm phát và thúc đẩy lòng tin. 1998 – Ngân hàng Trung ương châu Âu được thành lập. 1999 – Bắt đầu bước thứ ba của Liên minh tiền tệ châu Âu, đồng Euro được đưa vào trong thanh toán chuyển khoản tại 11 quốc gia. 2002 – Đồng Euro trở thành tiền tệ hợp pháp tại 12 quốc gia thành viên Liên minh châu Âu. 2002 – Trung Hoa Dân Quốc chính thức gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) với tên gọi Lĩnh vực thuế quan cá biệt Đài–Bành–Kim–Mã, gọi tắt là Trung Hoa Đài Bắc. 2004 – Trong một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm, tướng Pervez Musharraf giành chiến thắng với số phiếu 658 trong tổng số 1.170 phiếu tại Đại hội bầu cử Pakistan và theo Điều 41 của Hiến pháp Pakistan thì ông được coi là Tổng thống và nhiệm kì cho đến tháng 10 năm 2007. 2004 – Ba Lan, Estonia, Latvia, Litva, Slovenia, Slovakia, Cộng hòa Síp, Malta và Cộng hòa Séc gia nhập Liên minh châu Âu. 2007 – România và Bulgaria gia nhập Liên minh châu Âu, Slovenia gia nhập khu vực đồng Euro (Eurozone). 2007 – Chuyến bay Adam Air 574 mất tích tại eo biển Sulawesi, Indonesia với 102 người trên chuyến bay. 2008 – Síp và Malta gia nhập Eurozone. 2009 – 66 người chết trong một vụ cháy hộp đêm ở Băng Cốc, Thái Lan. 2010 – Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc chính thức có hiệu lực. 2010 – Một vụ đánh bom xe tự sát xảy ra tại Lakki Marwat, Pakistan, khiến 105 người thiệt mạng và hơn 100 người bị thương. 2011 – Một quả bom phát nổ ở Alexandria, Ai Cập làm chết 23 người. 2011 – Estonia chính thức thông qua đồng Euro và trở thành quốc gia thứ 17 trong Eurozone. 2013 – Ít nhất 60 người thiệt mạng và 200 người bị thương sau khi ăn mừng tại lễ hội Félix Houphouët–Boigny ở Abidjan, Bờ Biển Ngà. 2015 – Liên minh kinh tế Á–Âu có hiệu lực, tạo ra một liên minh chính trị và kinh tế giữa Nga, Belarus, Armenia, Kazakhstan và Kyrgyzstan. 2016 – Một tòa tháp tại Downtown Dubai bùng cháy vào nửa đêm khi năm mới sắp đến. Ngọn lửa bắt đầu vào đêm giao thừa năm 2015, chưa xác định được nguyên nhân. Có một người tử vong. 2017 – Một cuộc tấn công vào một hộp đêm ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, trong dịp năm mới, giết chết ít nhất 39 người và làm bị thương hơn 60 người khác. 2021 - Quận 2, Quận 9, quận Thủ Đức giải thể để thành lập thành phố Thủ Đức 2023 - Việt Nam chính thức bỏ sổ hộ khẩu, sổ tạm trú. Sinh Việt Nam 1830 – Nguyễn Phúc Miên Ngung, tước phong An Quốc công, hoàng tử con vua Minh Mạng (m. 1853) 1897 – Phanxicô Trương Bửu Diệp, linh mục người Việt Nam (m. 1946) 1906 – Chu Bá Phượng, chính trị gia người Việt Nam (m. 1964) 1914 – Nguyễn Chí Thanh, tướng lĩnh quân đội người Việt Nam (m. 1967). 1917 – Đỗ Mậu, tướng lĩnh quân đội người Việt Nam (m. 2002) 1920 – Trần Quỳnh, chính trị gia người Việt Nam (m. 2005) 1923 – Tôn Thất Xứng, Thiếu tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa (m. 2018) 1923 – Nguyễn Đăng Bảy, nhà quay phim người Việt Nam (m. 2007) 1924 – Lê Hạnh, chính trị gia người Việt Nam (m. 2013) 1926 – Ngô Du, Trung tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa (m. 1987) 1927 – Lê Trung Tường, Chuẩn tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa (m. 2002) 1928 – Phạm Hữu Nhơn, Chuẩn tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa 1937 – Trần Kim Thạch, nhà địa chất học người Việt Nam (m. 2009) 1939 hoặc 1940 - Lê Gia Hội, là một nghệ sĩ ưu tú, ca sĩ opera người Việt Nam. (m. 2022) 1940 – Nguyễn Ánh 9, nhạc sĩ, nhạc công người Việt Nam (m. 2016) 1941 – Nguyễn Đăng Hưng, nhà cơ học người Việt Nam 1947 – Nhạc sĩ Hàn Châu 1979 – Phạm Thanh Thảo, ca sĩ người Việt Nam 1982 – Hòa Hiệp, diễn viên người Việt Nam 1984 – Dương Triệu Vũ, ca sĩ người Việt Nam 1992 – Mạc Hồng Quân, cầu thủ bóng đá người Việt Nam 1992 – Nguyễn Ngọc Kiều Khanh, người đẹp Việt kiều Đức Các quốc gia khác 377 – Arcadius, hoàng đế Byzantine (m. 408) 1431 – Giáo hoàng Alexanđê VI (m. 1503) 1449 – Lorenzo de 'Medici, chính khách người Ý (m. 1492) 1453 – Bernardin Frankopan, quý tộc, nhà ngoại giao người Croatia (m. 1529) 1465 – Lachlan Cattanach Maclean XI, trưởng bộ tộc Scotland (m. 1523) 1467 – Sigismund I, vua Ba Lan cũ (m. 1548) 1470 – Magnus I, Công tước xứ Saxe–Lauenburg (m. 1543) 1484 – Ulrich Zwingli, mục sư và nhà thần học người Thụy Sĩ (m. 1531) 1500 – Solomon Molcho, nhà huyền môn người Bồ Đào Nha (m. 1532) 1509 – Guillaume Le Testu, nhà thám hiểm người Pháp (m. 1573) 1515 – Johann Weyer, bác sĩ người Hà Lan (m. 1588) 1516 – Margaret Leijonhufvud, nữ hoàng của vua Gustav I của Thụy Điển (m. 1551) 1526 – Louis Bertrand, nhà truyền giáo Tây Ban Nha đến Mỹ Latinh, vị thánh bảo trợ của Colombia (m. 1581) 1530 – Thomas Bromley, Thủ tướng Anh (m. 1587) 1545 – Magnus Heinason, anh hùng hải quân người Faroe (m. 1589) 1548 – Giordano Bruno, nhà toán học, tu sĩ, triết gia, nhà thơ và nhà lý thuyết vũ trụ học người Ý (m. 1600) 1557 – Stephen Bocskay, Hoàng tử Transylvania (m. 1606) 1560 – Hugh Myddelton, doanh nhân xứ Wales (m. 1631) 1561 – Thomas Walsingham, người phát ngôn hoàng gia Anh (m. 1630) 1579 – Jacob Dircksz de Graeff, thị trưởng Hà Lan (m. 1638) 1584 – Charles de Lorme, bác sĩ người Pháp (m. 1678) 1586 – Pau Claris i Casademunt, Giáo hội Catalunya (m. 1641) 1600 – Friedrich Spanheim, nhà thần học và học giả người Hà Lan (m. 1649) 1600 – Trương Hiến Trung, lãnh tụ khởi nghĩa nông dân cuối đời nhà Minh, đồng thời với Lý Tự Thành 1628 – Christoph Bernhard, nhà soạn nhạc và nhà lý luận người Đức (m. 1692) 1638 – Thiên Hoàng Go–Sai của Nhật Bản (m. 1685) 1638 – Nicolas Steno, người tiên phong của Đan Mạch về giải phẫu học, nhà địa chất và giám mục (m. 1686) 1650 – George Rooke, đô đốc Hải quân Hoàng gia (m. 1709) 1655 – Christian Thomasius, nhà tư pháp và triết gia người Đức (m. 1728) 1684 – Arnold Drakenborch, học giả và nhà văn người Hà Lan (m. 1748) 1693 – Hiếu Thánh Hiến hoàng hậu, hoàng thái hậu của triều Thanh, tức 25 tháng 11 năm Nhâm Thân (m. 1777) 1704 – Soame Jenyns, nhà văn, nhà thơ và chính trị gia người Anh (m. 1787) 1714 – Giovanni Battista Mancini, nhà văn người Ý (m. 1800) 1714 – Kristijonas Donelaitis, mục sư và nhà thơ người Litva (m. 1780) 1735 – Paul Revere, thợ bạc và thợ khắc người Mỹ (m. 1818) 1745 – Anthony Wayne,chính trị gia người Mỹ (m. 1796) 1750 – Frederick Muhlenberg, Bộ trưởng và chính trị gia Hoa Kỳ, Chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ đầu tiên (m. 1801) 1752 – Betsy Ross, thợ may người Mỹ, được cho là người đã thiết kế quốc kì của Mỹ (m. 1836) 1768 – Maria Edgeworth, nhà văn người Anh gốc Ireland (m. 1849) 1769 – Jane Marcet, nhà khoa học người Anh (m. 1858) 1769 – Marie–Louise Lachapelle, bác sĩ sản khoa người Pháp (m. 1821) 1774 – André Marie Constant Duméril, nhà động vật học và học thuật người Pháp (m. 1860) 1803 – Edward Dickinson, chính khách Mỹ và là cha của nhà thơ Emily Dickinson (m. 1874) 1803 – Guglielmo Libri Carucci dalla Sommaja, nhà toán học và học thuật người Ý (m. 1869) 1806 – Lionel Kieseritzky, cầu thủ cờ tướng người Estonia (m. 1853) 1809 – Achille Guenée, luật sư và nhà côn trùng học người Pháp (m. 1880) 1813 – George Bliss, chính khách Mỹ (m. 1868) 1814 – Hồng Tú Toàn, thủ lĩnh nổi dậy người Trung Quốc, tức 10 tháng 12 năm Quý Dậu (m. 1864) 1814 – Hermann von Lüderitz, tướng lĩnh và chính trị gia người Đức (m. 1889) 1818 – William Gamble, tướng Mỹ (m. 1866) 1819 – Arthur Hugh Clough, nhà thơ và học giả người Anh gốc Ý (m. 1861) 1819 – George Foster Shepley, tướng Mỹ (m. 1878) 1823 – Sándor Petöfi, nhà thơ và nhà hoạt động chính trị người Hungary (m. 1849) 1833 – Robert Lawson, kiến ​​trúc sư người Scotland gốc New Zealand, người thiết kế trường trung học Otago Boys và nhà thờ Knox (m. 1902) 1834 – Ludovic Halévy, tác giả và nhà viết kịch người Pháp (m. 1908) 1839 – Ouida, tác giả và nhà hoạt động người Anh gốc Ý (m. 1908) 1848 – John W. Goff, luật sư và chính trị gia người Mỹ gốc Á (m. 1924) 1852 – Eugène–Anatole Demarçay, nhà hóa học và học thuật người Pháp (m. 1904) 1853 – Karl von Einem, tướng lĩnh quân đội người Đức (m. 1934) 1854 – James George Frazer, nhà nhân loại học người Scotland (m. 1941) 1854 – Thomas Waddell, chính trị gia người Ireland gốc Úc, Thủ hiến thứ 15 của bang New South Wales (m. 1940) 1857 – Tim Keefe, cầu thủ bóng chày người Mỹ (m. 1933) 1859 – Michael Joseph Owens, nhà phát minh người Mỹ (m. 1923) 1859 – Thibaw Min, vua Myanmar (Miến Điện) (m. 1916) 1860 – Dan Katchongva, nhà lãnh đạo bộ tộc người Mỹ (m. 1972) 1860 – Jan Vilímek, họa sĩ người Séc (m. 1938) 1860 – John Cassidy, nhà điêu khắc và họa sĩ người Ireland (m. 1939) 1860 – Michele Lega, Đức Hồng y (m. 1935) 1863 – Pierre de Coubertin, nhà sư phạm, nhà sử học người Pháp, người thành lập Ủy ban Olympic Quốc tế (m. 1937) 1864 – Tề Bạch Thạch, họa sĩ người Trung Quốc (m. 1957) 1864 – Alfred Stieglitz, nhiếp ảnh gia người Mỹ (m. 1946) 1867 – Mary Ackworth Evershed, nhà thiên văn học và học giả người Anh (m. 1949) 1870 – Louis Vauxcelles, nhà phê bình nghệ thuật người Do Thái tại Pháp (m. 1943) 1871 – Montagu Toller, tay chơi cricket và luật sư người Anh (m. 1948) 1874 – Frank Knox, chính trị gia người Mỹ, Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ thứ 46 (m. 1944) 1874 – Gustave Whitehead, phi công và kỹ sư người Mỹ gốc Đức (m. 1927) 1877 – Alexander von Staël–Holstein, nhà thần học người Đức (m. 1937) 1878 – Agner Krarup Erlang, nhà toán học, nhà thống kê và kỹ sư người Đan Mạch (m. 1929) 1879 – E. M. Forster, tác giả và nhà viết kịch người Anh (m. 1970) 1879 – William Fox, nhà biên kịch và nhà sản xuất người Mỹ gốc Hungary, thành lập Fox Film và Fox Theatres (m. 1952) 1880 – Vajiravudh (Rama VI), quốc vương Thái Lan (m. 1925) 1883 – Mary Forbes, nữ diễn viên người Anh (m. 1974) 1883 – William J. Donovan, tướng, luật sư và chính trị gia người Mỹ (m. 1959) 1884 – Chikuhei Nakajima, trung úy, kỹ sư và chính trị gia Nhật Bản, thành lập Công ty Máy bay Nakajima (m. 1949) 1884 – José Quirante, cầu thủ bóng đá, huấn luyện viên và quản lý người Tây Ban Nha (m. 1964) 1884 – Konstantinos Tsaldaris, chính trị gia người Ai Cập–Hy Lạp, Thủ tướng Hy Lạp (m. 1970) 1887 – Wilhelm Canaris, đô đốc Đức (m. 1945) 1888 – Georgios Stanotas, tướng Hy Lạp (m. 1965) 1888 – John Garand, kỹ sư người Mỹ gốc Canada, thiết kế súng trường M1 Garand (m. 1974) 1889 – Charles Bickford, diễn viên người Mỹ (m.1967) 1890 – Anton Melik, nhà địa lý và học thuật người Slovenia (m. 1966) 1891 – Sampurnanand, nhà giáo dục và chính trị gia Ấn Độ, Thống đốc thứ ba của Rajasthan (m. 1969) 1892 – Artur Rodziński, nhạc trưởng người Mỹ gốc Ba Lan (m. 1958) 1892 – Mahadev Desai, tác giả và nhà hoạt động người Ấn Độ (m. 1942) 1892 – Manuel Roxas, luật sư và chính khách Philippines, Tổng thống thứ năm của Philippines (m. 1948) 1893 – Mordechai Frizis, Đại tá Hy Lạp (m. 1940) 1894 – Satyendra Nath Bose, nhà vật lí và toán học người Ấn Độ (m. 1974) 1894 – Edward Joseph Hunkeler, mục sư người Mỹ (m. 1970) 1895 – J. Edgar Hoover, viên chức người Mỹ, giám đốc đầu tiên của FBI (m. 1972) 1900 – Sugihara Chiune, nhà ngoại giao người Nhật Bản (m. 1986) 1900 – Sam Berger, doanh nhân thể thao người Canada (m. 1992) 1900 – Shrikrishna Narayan Ratanjankar, học giả và giáo viên của nhạc cổ điển Hindustani Ấn Độ (m. 1974) 1900 – Xavier Cugat, ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ gốc Tây Ban Nha (m. 1990) 1902 – Buster Nupen, tay chơi cricket và luật sư người Nam Phi (m. 1977) 1902 – Hans von Dohnányi, luật sư Đức (m. 1945) 1903 – Dwight Taylor, nhà biên kịch và nhà văn người Mỹ (m. 1986) 1904 – Fazal Ilahi Chaudhry, luật sư và chính trị gia Pakistan, Tổng thống thứ năm của Pakistan (m. 1982) 1905 – Stanisław Mazur, nhà toán học người Do Thái–Ba Lan (m. 1981) 1907 – Kinue Hitomi, người chạy nước rút và nhảy xa người Nhật Bản (m. 1931) 1909 – Dana Andrews, diễn viên người Mỹ (m. 1992) 1909 – Dattaram Hindlekar, tay chơi cricket người Ấn Độ (m. 1949) 1909 – Stepan Bandera, lính và chính trị gia Ucraina (m. 1959) 1910 – Koesbini, nhà soạn nhạc người Indonesia (m. 1991) 1911 – Audrey Wurdemann, nhà thơ và nhà văn người Mỹ (m. 1960) 1911 – Basil Dearden, nhà sản xuất và biên kịch người Anh (m. 1971) 1911 – Hank Greenberg, cầu thủ bóng chày người Mỹ (m. 1986) 1911 – Roman Totenberg, nghệ sĩ vĩ cầm người Mỹ gốc Ba Lan (m. 2012) 1912 – Khertek Anchimaa–Toka, chính trị gia người Tuva–Liên Xô (m. 2008) 1912 – Boris Vladimirovich Gnedenko, nhà toán học và sử gia người Nga (m. 1995) 1912 – Kim Philby, gián điệp người Anh (m. 1988) 1912 – Nikiforos Vrettakos, nhà thơ và học giả Hy Lạp (m. 1991) 1917 – Shannon Bolin, nữ diễn viên và ca sĩ người Mỹ (m. 2016) 1918 – Ed Price, lính, phi công và chính trị gia người Mỹ (m. 2012) 1918 – Patrick Anthony Porteous, đại tá Scotland, người nhận giải Huân chương Chữ thập Victoria (m. 2000) 1918 – Willy den Ouden, vận động viên bơi lội Hà Lan (m. 1997) 1919 – J. D. Salinger, lính và nhà văn người Mỹ (m. 2010) 1919 – Rocky Graziano, võ sĩ và diễn viên người Mỹ (m. 1990) 1919 – Yoshio Tabata, ca sĩ kiêm nhạc sĩ Nhật Bản (m. 2013) 1920 – Mahmoud Zoufonoun, nghệ sĩ violin người Mỹ gốc Iran (m. 2013) 1920 – Osvaldo Cavandoli, người vẽ tranh biếm họa người Ý (m. 2007) 1921 – César Baldaccini, nhà điêu khắc và học thuật người Pháp (m. 1998) 1921 – Ismail al–Faruqi, nhà triết học và học giả người Palestine (m. 1986) 1921 – Regina Bianchi, nữ diễn viên người Ý (m. 2013) 1922 – Ernest Hollings, lính Mỹ và chính trị gia Hoa Kỳ, Thống đốc thứ 106 của bang Nam Carolina (m. 2019) 1922 – Jerry Robinson, họa sĩ người Mỹ (m. 2011) 1922 – Roz Howard, tay xe đua người Mỹ (m. 2013) 1923 – Daniel Gorenstein, nhà toán học và học thuật người Mỹ (m. 1992) 1923 – Milt Jackson, nhà soạn nhạc và nhà phổ nhạc người Mỹ (Modern Jazz Quartet) (m. 1999) 1923 – Valentina Cortese, nữ diễn viên người Ý 1924 – Charlie Munger, doanh nhân và nhà từ thiện người Mỹ 1924 – Francisco Macías Nguema, chính trị gia người Guinea Xích đạo, Tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Guinea Xích đạo (m. 1979) 1925 – Matthew Beard, diễn viên người Mỹ (m. 1981) 1925 – Paul Bomani, chính trị gia và nhà ngoại giao người Tanzania, Bộ trưởng Tài chính đầu tiên của Tanzania (m. 2005) 1925 – Wahiduddin Khan, nhà hoạt động tôn giáo người Ấn Độ 1926 – Kazys Petkevičius, cầu thủ bóng rổ và huấn luyện viên người Litva (m. 2008) 1927 – Calum MacKay, người chơi khúc côn cầu trên băng người Canada (m. 2001) 1927 – Doak Walker, cầu thủ bóng đá và doanh nhân người Mỹ (m. 1998) 1927 – James Reeb, mục sư và nhà hoạt động chính trị người Mỹ (m. 1965) 1927 – Maurice Béjart, vũ công, biên đạo múa và đạo diễn người Pháp–Thụy Sĩ (m. 2007) 1927 – Vernon L. Smith, nhà kinh tế học người Mỹ, đoạt giải Nobel Kinh tế 1928 – Ernest Tidyman, nhà văn và nhà biên kịch người Mỹ (m. 1984) 1928 – Gerhard Weinberg, sử gia, nhà văn và học giả người Mỹ gốc Đức 1928 – Khan Mohammad, tay chơi cricket người Pakistan (m. 2009) 1929 – Larry L. King, nhà báo, tác giả và nhà viết kịch người Mỹ (m. 2012) 1929 – Raymond Chow, nhà sản xuất phim Hong Kong, đồng sáng lập Orange Sky Golden Harvest 1930 – Frederick Wiseman, giám đốc và nhà sản xuất người Mỹ 1930 – Hussein Ershad, Tổng thống thứ 10 của Bangladesh 1930 – Gaafar Nimeiry, chính trị gia người Ai Cập gốc Sudan, Tổng thống thứ tư của Sudan (m. 2009) 1930 – Jean–Pierre Duprey, nhà thơ và nhà điêu khắc người Pháp (m. 1959) 1930 – Ty Hardin, diễn viên người Mỹ (m. 2017) 1932 – Giuseppe Patanè, nhạc trưởng người Ý (m. 1989) 1932 – Jackie Parker, cầu thủ bóng đá và huấn luyện viên người Mỹ (m. 2006) 1933 – Ford Konno, vận động viên bơi lội người Mỹ 1933 – James Hormel, nhà từ thiện và nhà ngoại giao Mỹ, Đại sứ Hoa Kỳ tại Luxembourg 1933 – Joe Orton, tác giả và nhà viết kịch người Anh (m. 1967) 1934 – Alan Berg, luật sư và phát thanh viên người Mỹ (m. 1984) 1934 – Lakhdar Brahimi, chính trị gia người Algeria, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Algeria 1935 – Om Prakash Chautala, chính trị gia người Ấn Độ 1936 – Don Nehlen, cầu thủ bóng đá và huấn luyện viên người Mỹ 1936 – James Sinegal, doanh nhân người Mỹ, đồng sáng lập Costco 1937 – John Fuller, nhà thơ và nhà văn người Anh 1937 – Matt Robinson, diễn viên và biên kịch người Mỹ (m. 2002) 1938 – Frank Langella, diễn viên người Mỹ 1938 – Robert Jankel, doanh nhân người Anh, thành lập Panther Westwinds (m. 2005) 1939 – Michèle Mercier, diễn viên người Pháp 1939 – Mohamed El Yazghi, chính trị gia người Maroc 1939 – Phil Read, tay đua xe máy và doanh nhân người Anh 1939 – Senfronia Thompson, chính khách Mỹ 1941 – F. R. David, nhạc sĩ người Pháp 1941 – Martin Evans, nhà di truyền học người Anh, đoạt giải Nobel Sinh học 1941 – Eva Ras, nữ diễn viên, nhà văn và họa sĩ người Serbia 1941 – Younoussi Touré, chính khách người Mali, Thủ tướng Mali 1942 – Alassane Ouattara, chính trị gia người Bờ Biển Ngà, Thủ tướng của Bờ Biển Ngà 1942 – Al Hunt, nhà báo Mỹ 1942 – Anthony Hamilton–Smith, Baron Colwyn III, nha sĩ và chính trị gia người Anh 1942 – Kornelije Kovač, nhà soạn nhạc người Serbia 1942 – Billy Lothridge, cầu thủ bóng đá người Mỹ (m. 1996) 1942 – Country Joe McDonald, ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ 1942 – Dennis Archer, luật sư và chính trị gia người Mỹ, Thị trưởng thứ 67 thành phố Detroit 1942 – Gennadi Sarafanov, đại tá, phi công và phi hành gia người Nga (m. 2005) 1942 – Judy Stone, ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Úc 1943 – Bud Hollowell, cầu thủ bóng chày người Mỹ (m. 2014) 1943 – Don Novello, diễn viên hài, biên kịch và nhà sản xuất người Mỹ 1943 – Jerilyn Britz, tay golf người Mỹ 1943 – Ronald Perelman, doanh nhân và nhà từ thiện người Mỹ, thành lập MacAndrews & Forbes 1943 – Tony Knowles, người lính Mỹ và chính trị gia, Thống đốc thứ 7 bang Alaska 1943 – Vladimir Šeks, luật sư và chính trị gia người Croatia, Thượng nghị sĩ thứ 16 của Quốc hội Croatia 1944 – Omar al–Bashir, chính trị gia người Sudan, tổng thống của Sudan 1944 – Barry Beath, cầu thủ bóng bầu dục người Úc 1944 – Charlie Davis, tên côn đồ người Trinidad 1944 – Mati Unt, tác giả, nhà viết kịch và đạo diễn người Estonia (m. 2005) 1944 – Teresa Torańska, nhà báo và nhà văn người Ba Lan (m. 2013) 1944 – Zafarullah Khan Jamali, người chơi khúc côn cầu và chính trị gia người Pakistan, Thủ tướng thứ 13 của Pakistan 1945 – Jacky Ickx, tay đua xe ô tô người Bỉ 1945 – Martin Schanche, tay đua xe ô tô người Na Uy 1945 – Victor Ashe, chính khách Mỹ và cựu Đại sứ Hoa Kỳ tại Ba Lan 1946 – Roberto Rivelino, cầu thủ bóng đá người Brasil 1946 – Carl B. Hamilton, nhà kinh tế và chính trị gia người Thụy Điển 1946 – Susannah McCorkle, ca sĩ người Mỹ (m. 2001) 1946 – Claude Steele, nhà tâm lý học xã hội người Mỹ gốc Phi 1947 – Từ Tiểu Phụng, ca sĩ người Hồng Kông 1947 – Jon Corzine, trung sĩ và chính trị gia người Mỹ, Thống đốc thứ 54 của bang New Jersey 1947 – Leon Patillo, ca sĩ và nhà truyền giáo người Mỹ 1947 – Leonard Thompson, tay golf người Mỹ 1948 – Devlet Bahçeli, nhà kinh tế học, học giả và chính trị gia người Thổ Nhĩ Kỳ, Phó thủ tướng thứ 57 của Thổ Nhĩ Kỳ 1948 – Dick Quax, chính trị gia người New Zealand 1948 – Joe Petagno, họa sĩ người Mỹ 1948 – Pavel Grachev, tướng và chính khách Nga, Bộ trưởng Quốc phòng Nga đầu tiên (m. 2012) 1949 – Ljubodrag Simonović, nhà triết học, nhà văn người Serbia 1949 – Borys Tarasyuk, chính khách và nhà ngoại giao người Ukraina 1949 – Olivia Goldsmith, nhà văn người Mỹ (m. 2004) 1950 – Deepa Mehta, đạo diễn và biên kịch người Ấn Độ gốc Canada 1950 – James Richardson, nhà thơ người Mỹ 1950 – Tony Currie, cầu thủ bóng đá người Anh 1950 – Wayne Bennett, cầu thủ bóng bầu dục và huấn luyện viên người Úc 1951 – Takemiya Masaki, kỳ thủ cờ vây người Nhật Bản 1951 – Ashfaq Hussain, nhà thơ và nhà báo người Pakistan gốc Canada 1951 – Hans–Joachim Stuck, tay đua xe ô tô người Đức 1951 – Martha P. Haynes, nhà thiên văn học người Mỹ 1951 – Nana Patekar, diễn viên, biên kịch và đạo diễn phim người Ấn Độ 1951 – Radia Perlman, nhà thiết kế phần mềm và kỹ sư mạng người Mỹ 1952 – Hamad bin Khalifa al–Thani, quân chủ của Qatar 1952 – Rosario Marchese, nhà giáo dục và chính trị gia người Ý gốc Canada 1952 – Shaji N. Karun, đạo diễn và nhà quay phim người Ấn Độ 1953 – Gary Johnson, chính trị gia người Mỹ 1953 – Lynn Jones, cầu thủ bóng chày và huấn luyện viên người Mỹ 1954 – Bob Menendez, luật sư và chính trị gia người Mỹ 1954 – Dennis O'Driscoll, nhà thơ và nhà phê bình người Ireland (m. 2012) 1954 – Richard Edson, tay trống người Mỹ 1954 – Yannis Papathanasiou, kỹ sư và chính trị gia Hy Lạp, Bộ trưởng Tài chính Hy Lạp 1955 – Gennady Lyachin, thuyền trưởng người Nga (m. 2000) 1955 – LaMarr Hoyt, cầu thủ bóng chày người Mỹ 1955 – Mary Beard, học giả và nhà kinh điển học người Anh 1955 – Precestler, đô vật và quản lý người Canada 1955 – Simon Schaffer, học giả và sử gia người Anh về khoa học và triết học 1956 – Christine Lagarde, chính trị gia người Pháp, Tổng giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) 1956 – Andy Gill, nghệ sĩ guitar kiêm ca sĩ–nhạc sĩ người Anh 1956 – John O'Donohue, nhà thơ, nhà văn, linh mục và triết gia người Ireland (m. 2008) 1956 – Mark R. Hughes, doanh nhân người Mỹ, người sáng lập Herbalife (m. 2000) 1956 – Martin Plaza, ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Úc 1956 – Mike Mitchell, cầu thủ bóng rổ người Mỹ (m. 2011) 1956 – Sergei Avdeyev, kỹ sư và phi hành gia người Nga 1957 – Evangelos Venizelos, luật sư và chính trị gia Hy Lạp, Phó Thủ tướng Hy Lạp 1957 – Urmas Arumäe, luật sư và chính khách người Estonia, Bộ trưởng Tư pháp Estonia 1958 – Dave Silk, cầu thủ khúc côn cầu trên băng và huấn luyện viên người Mỹ 1958 – Grandmaster Flash, rapper và DJ người Barbados 1959 – Abdul Ahad Mohmand, đại tá, phi công người Afghanistan 1959 – Andy Andrews, tay vợt người Mỹ 1959 – Azali Assoumani, đại tá và chính trị gia người Comoros, Tổng thống Comoros 1959 – Michel Onfray, nhà triết học và nhà văn người Pháp 1959 – Panagiotis Giannakis, cầu thủ bóng rổ và huấn luyện viên người Hy Lạp 1960 – Danny Wilson, cầu thủ bóng đá người Anh 1960 – Michael Seibert, vũ công và biên đạo múa người Mỹ 1960 – Toomas Vitsut, doanh nhân và chính trị gia người Estonia 1961 – Fiona Phillips, nhà báo người Anh 1961 – Sam Backo, cầu thủ bóng bầu dục người Úc 1961 – Sergei Babayan, nghệ sĩ dương cầm người Armenia gốc Mỹ 1962 – Anton Muscatelli, nhà kinh tế học người Ý gốc Scotland 1963 – Srđan Dragojević, đạo diễn và biên kịch điện ảnh người Serbia 1963 – Alberigo Evani, cầu thủ bóng đá và quản lý người Ý 1963 – Jean–Marc Gounon, tay đua người Pháp 1964 – Dedee Pfeiffer, nữ diễn viên người Mỹ 1965 – Andrew Valmon, huấn luyện viên người Mỹ 1965 – John Sullivan, chính trị gia người Mỹ 1965 – Miki Higashino, nghệ sĩ piano và nhà soạn nhạc người Nhật Bản 1966 – Anna Burke, nữ doanh nhân và chính trị gia người Úc, Chủ tịch thứ 28 của Hạ viện Úc 1966 – Ivica Dačić, nhà báo và chính trị gia người Serbia, Thủ tướng thứ 95 của Serbia 1966 – Tihomir Orešković, doanh nhân người Canada gốc Croatia, Thủ tướng thứ 11 của Croatia 1967 – Trần Cẩm Hồng, ca sĩ và diễn viên người Hồng Kông 1967 – Derrick Thomas, cầu thủ bóng đá người Mỹ (m. 2000) 1967 – John Digweed, DJ, nhà sản xuất và diễn viên người Anh 1967 – Reza Sheykholeslam, chính trị gia người Iran 1967 – Spencer Tunick, nhiếp ảnh gia người Mỹ 1967 – Tawera Nikau, cầu thủ bóng bầu dục người New Zealand 1968 – Davor Šuker, cầu thủ bóng đá người Croatia 1969 – Morris Chestnut, diễn viên và nhà sản xuất người Mỹ 1969 – Paul Lawrie, tay golf và nhà báo người Scotland 1969 – Verne Troyer, diễn viên người Mỹ (m. 2018) 1970 – Sergei Kiriakov, cầu thủ bóng đá người Nga 1971 – Andre Marriner, thành viên Hiệp hội bóng đá Anh 1971 – Bobby Holík, cầu thủ khúc côn cầu người Mỹ gốc Séc 1971 – Chris Potter, nghệ sĩ saxophone và nhà soạn nhạc người Mỹ 1971 – Juan Carlos Plata, cầu thủ bóng đá người Guatemala 1971 – Jyotiraditya Madhavrao Scindia, chính trị gia người Ấn Độ 1971 – Sammie Henson, đô vật và huấn luyện viên người Mỹ 1972 – Lilian Thuram, cầu thủ bóng đá Pháp 1972 – Shane Carruth, đạo diễn, nhà sản xuất, diễn viên, nhà soạn nhạc và nhà quay phim người Mỹ 1972 – Barron Miles, cầu thủ bóng đá và huấn luyện viên người Mỹ gốc Canada 1973 – Bryan Thao Worra, tác giả, nhà thơ và nhà soạn kịch người Lào gốc Mỹ 1973 – Danny Lloyd, diễn viên và nhà giáo dục người Mỹ 1973 – Magnus Sahlgren, nghệ sĩ guitar và nhà ngôn ngữ học người Thuỵ Điển 1973 – Shelda Bede, cầu thủ bóng chuyền người Brazil 1974 – Christian Paradis, luật sư và chính trị gia người Canada, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Canada thứ 9 1975 – Becky Kellar–Duke, vận động viên chơi khúc côn cầu trên băng người Canada 1975 – Bengt Sæternes, cầu thủ bóng đá người Na Uy 1975 – Chris Anstey, cầu thủ bóng rổ và huấn luyện viên người Úc 1975 – Fernando Tatís, cầu thủ bóng chày người Dominica 1975 – Joe Cannon, cầu thủ bóng đá Mỹ 1975 – Mohamed Albuflasa, nhà thơ và nhà hoạt động người Bahrain 1975 – Sonali Bendre, nữ diễn viên và người mẫu người Ấn Độ 1975 – Oda Eiichiro, họa sĩ truyện tranh người Nhật Bản 1976 – Mustafa Doğan, cầu thủ bóng đá người Thổ Nhĩ Kỳ gốc Đức 1977 – Hasan Salihamidžic, cầu thủ bóng đá người Bosnia 1977 – Ngôn Thừa Húc, diễn viên và ca sĩ người Đài Loan 1977 – Craig Reucassel, diễn viên hài kịch người Úc 1977 – Leoš Friedl, tay vợt người Séc 1977 – María de la Paz Hernández, cầu thủ khúc côn cầu người Argentina 1977 – Rosena Allin–Khan, chính trị gia người Anh 1978 – Yohann Diniz, vận động viên marathon người Pháp 1978 – Philip Mulryne, cầu thủ bóng đá và linh mục người Bắc Ireland 1978 – Nina Bott, diễn viên múa người Đức 1979 – Brody Dalle, ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ gốc Úc 1979 – Koichi Domoto, ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Nhật Bản 1980 – Karina Jacobsgaard, tay vợt người Đan Mạch 1980 – Richie Faulkner, nghệ sĩ guitar và nhạc sĩ người Anh 1982 – David Nalbandian, tay vợt người Argentina 1982 – Egidio Arévalo Ríos, cầu thủ bóng đá người Uruguay 1982 – Luke Rodgers, cầu thủ bóng đá người Anh 1983 – Calum Davenport, cầu thủ bóng đá người Anh 1983 – Park Sung–hyun, cung thủ người Hàn Quốc 1984 – José Paolo Guerrero, cầu thủ bóng đá người Peru 1984 – Christian Eigler, cầu thủ bóng đá người Đức 1984 – Lance Brooks, tay ném đá người Mỹ 1984 – Michael Witt, cầu thủ bóng bầu dục Úc 1984 – Rubens Sambueza, cầu thủ bóng đá người Argentina 1984 – Stefano Pastrello, cầu thủ bóng đá người Ý 1985 – Jeff Carter, người chơi khúc côn cầu trên băng người Canada 1985 – Steven Davis, cầu thủ bóng đá người Bắc Ireland 1985 – Tiago Splitter, cầu thủ bóng rổ người Brazil 1986 – Glen Davis, cầu thủ bóng rổ người Mỹ 1986 – Lee Sungmin, ca sĩ, vũ công và diễn viên người Hàn Quốc 1986 – Pablo Cuevas, tay vợt người Uruguay 1986 – Ramses Barden, cầu thủ bóng đá người Mỹ 1987 – Devin Setoguchi, người chơi khúc côn cầu trên băng người Canada 1987 – Gilbert Brulé, người chơi khúc côn cầu trên băng người Canada 1987 – Meryl Davis, vũ công trên băng của người Mỹ 1987 – Ryan Perrilloux, cầu thủ bóng đá người Mỹ 1987 – Serdar Özkan, cầu thủ bóng đá người Thổ Nhĩ Kỳ 1988 – Grzegorz Panfil, vận động viên quần vợt người Ba Lan 1989 – Bae Geu–rin, nữ diễn viên người Hàn Quốc 1989 – Jason Pierre–Paul, cầu thủ bóng đá người Mỹ 1989 – Stefan Reinartz, cầu thủ bóng đá người Đức 1991 – Darius Slay, cầu thủ bóng đá người Mỹ 1992 – Daniel Kofi Agyei, cầu thủ bóng đá người Ghana 1992 – René Binder, tay đua người Áo 1992 – Jack Wilshere, cầu thủ bóng đá người Anh 1992 – Nathaniel Peteru, cầu thủ bóng bầu dục người New Zealand 1993 – Jon Flanagan, cầu thủ bóng đá người Anh 1993 – Michael Olaitan, cầu thủ bóng đá người Nigeria 1993 – Randa, rapper người New Zealand 1994 – Brendan Elliot, cầu thủ bóng bầu dục người Úc 1994 – Craig Murray, cầu thủ bóng đá người Scotland 1995 – Sardar Azmoun, cầu thủ bóng đá người Iran 1996 - Tiền Côn, ca sĩ người Trung Quốc, thành viên nhóm nhạc WayV/NCT 2001 - Winter, ca sĩ Hàn Quốc, thành viên nhóm nhạc aespa Mất Việt Nam 1854 – Nguyễn Phúc Miên Túc, tước phong Ba Xuyên Quận công, hoàng tử con vua Minh Mạng (s. 1827) 2006 – Trần Xuân Bách, chính trị gia người Việt Nam (s. 1924) 2014 – Hà Thanh, ca sĩ người Việt kiều Mỹ (s. 1937) Các quốc gia khác 138 – Lucius Aelius, con trai nuôi và là người kế nhiệm Hoàng đế Hadrianus (s. 101) 379 – Basilio Cả, giám mục người Hy Lạp (s. 329) 404 – Telemachus, tu sĩ và kị sĩ Kitô giáo 466 – Lưu Tống Tiền Phế Đế, hoàng đế của triều đại Lưu Tống (s. 449) 510 – Eugendus, trụ trì và vị thánh của Pháp (s. 449) 680 – Javanshir, vua Albania (s. 616) 827 – Adalard của Corbie, trụ trì Frankish 898 – Eudes I, quốc vương của Pháp (s. 860) 951 – Ramiro II, vua của vương quốc León và vương quốc Galicia (s. khoảng năm 900) 962 – Baldwin III, Bá tước vùng Flanders (s. 940) 1189 – Henry của Marcy, tu viện trưởng dòng Xitô (s. 1136) 1204 – Haakon III của Na Uy (s. 1170) 1387 – Charles II xứ Navarre (s. 1332) 1496 – Charles, Bá tước xứ Angoulême (s. 1459) 1515 – Louis XII, quốc vương của Pháp (s. 1462) 1559 – Christian III của Đan Mạch (s. 1503) 1560 – Joachim du Bellay, nhà thơ người Pháp (s. 1522) 1617 – Hendrik Goltzius, họa sĩ người Hà Lan (s. 1558) 1697 – Filippo Baldinucci, sử gia và nhà thơ vùng Florence (s. 1624) 1716 – William Wycherley, nhà viết kịch và nhà thơ người Anh (s. 1641) 1748 – Johann Bernoulli, nhà toán học người Thụy Sĩ (s. 1667) 1766 – James Francis Edward Stuart, người yêu cầu vương vị của Anh (s. 1688) 1782 – Johann Christian Bach, nhà soạn nhạc người Đức (s. 1735) 1789 – Fletcher Norton, Baron Grantley đệ nhất, luật sư và chính trị gia người Anh, Chủ tịch Hạ viện Anh (s. 1716) 1793 – Francesco Guardi, họa sĩ và nhà giáo dục người Ý (s. 1712) 1796 – Alexandre–Théophile Vandermonde, nhà toán học và hóa học người Pháp (s. 1735) 1817 – Martin Heinrich Klaproth, nhà hóa học người Đức (s. 1743) 1846 – John Torrington, nhà thám hiểm người Anh (s. 1825) 1853 – Gregory Blaxland, nông dân và nhà thám hiểm người Úc (s. 1778) 1862 – Mikhail Ostrogradsky, nhà toán học và vật lý người Ukraine (s. 1801) 1881 – Louis Auguste Blanqui, nhà hoạt động xã hội người Pháp (s. 1805) 1892 – Roswell B. Mason, luật sư và chính trị gia người Mỹ, Thị trưởng thứ 25 của thành phố Chicago (s. 1805) 1894 – Heinrich Rudolf Hertz, nhà vật lý học người Đức (s. 1857) 1894 – Heinrich Hertz, nhà vật lý người Đức (s. 1857) 1896 – Alfred Ely Beach, nhà thiết kế và luật sư người Mỹ, người tạo ra Beach Pneumatic Transit (hay tàu điện ngầm đầu tiên ở thành phố New York (s. 1826) 1906 – Hugh Nelson, chính trị gia người Úc gốc Scotland, Thủ tướng bang thứ 11 của bang Queensland (s. 1833) 1918 – William Wilfred Campbell, nhà thơ và nhà văn người Canada (s. 1858) 1919 – Mikhail Drozdovsky, tướng Nga (s. 1881) 1921 – Theobald von Bethmann–Hollweg, luật sư và chính trị gia người Đức, Thủ tướng thứ năm của Đức (s. 1856) 1922 – István Kühár, linh mục và chính khách người Slovenia (s. 1887) 1929 – Mustafa Necati, công chức và chính trị gia người Thổ Nhĩ Kỳ, Bộ trưởng Bộ Môi trường và Kế hoạch đô thị Thổ Nhĩ Kỳ (s. 1894) 1931 – Martinus Beijerinck, nhà vi trùng học và thực vật học người Hà Lan (s. 1851) 1937 – Bhaktisiddhanta Sarasvati, lãnh đạo tôn giáo Ấn Độ, người thành lập Toán Gaudiya (s. 1874) 1940 – Panuganti Lakshminarasimha Rao, nhà văn và nhà giáo dục Ấn Độ (s. 1865) 1944 – Edwin Lutyens, kiến ​​trúc sư người Anh, người thiết kế lâu đài Drogo và Đài tưởng niệm Thiepval (s. 1869) 1944 – Charles Turner, tay chơi cricket người Úc (s. 1862) 1953 – Hank Williams, ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ (s. 1923) 1954 – Duff Cooper, chính trị gia và nhà ngoại giao Anh, Hiệu trưởng Công tước Lancaster (s. 1890) 1954 – Leonard Bacon, nhà thơ và nhà phê bình người Mỹ (s. 1887) 1955 – Arthur C. Parker, nhà khảo cổ học và sử gia người Mỹ (s. 1881) 1960 – Margaret Sullavan, nữ diễn viên người Mỹ (s. 1909) 1965 – Emma Asson, sử gia và chính trị gia người Estonia (s. 1889) 1966 – Vincent Auriol, nhà báo và chính trị gia người Pháp, Tổng thống thứ 16 của Cộng hòa Pháp (s. 1884) 1969 – Barton MacLane, diễn viên, nhà viết kịch và biên kịch người Mỹ (s. 1902) 1969 – Bruno Söderström, vận động viên nhảy sào và người ném lao người Thụy Điển (s. 1888) 1971 – Amphilochius của Pochayiv, vị thánh người Ukraine (s. 1894) 1972 – Maurice Chevalier, diễn viên và ca sĩ người Pháp (s. 1888) 1978 – Don Freeman, tác giả và họa sĩ người Mỹ (s. 1908) 1980 – Pietro Nenni, nhà báo và chính trị gia người Ý, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Ý (s. 1891) 1981 – Hephzibah Menuhin, nghệ sĩ dương cầm người Mỹ gốc Úc (s. 1920) 1982 – Victor Buono, diễn viên người Mỹ (s. 1938) 1984 – Alexis Korner, ca sĩ và nhạc sĩ người Pháp gốc Anh (s. 1928) 1985 – Sigerson Clifford, nhà thơ, nhà viết kịch và công chức người Ireland (s. 1913) 1992 – Grace Hopper, nhà khoa học máy tính và sĩ quan hải quân Hoa Kỳ (s. 1906) 1994 – Arthur Porritt, Baron Porritt, bác sĩ và chính trị gia người New Zealand, Tổng thống thứ 11 của New Zealand (s. 1900) 1994 – Cesar Romero, diễn viên người Mỹ (s. 1907) 1994 – Edward Arthur Thompson, sử gia người Ireland (s. 1914) 1995 – Eugene Wigner, nhà vật lý và toán học người Hungary gốc Mỹ, đoạt giải Nobel Vật lý (s. 1902) 1996 – Arleigh Burke, Đô đốc Mỹ (s. 1901) 1996 – Arthur Rudolph, kỹ sư người Mỹ gốc Đức (s. 1906) 1997 – Ivan Graziani, ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Ý (s. 1945) 1997 – Townes Van Zandt, ca sĩ, nhạc sĩ và nhà sản xuất người Mỹ (s. 1944) 1998 – Helen Wills, tay vợt và huấn luyện viên người Mỹ (sinh năm 1905) 2000 – Colin Vaughan, nhà báo và nhà hoạt động xã hội người Úc gốc Canada (s. 1931) 2001 – Ray Walston, diễn viên người Mỹ (s. 1914) 2002 – Julia Phillips, nhà sản xuất phim và nhà văn người Mỹ (s. 1944) 2003 – Joe Foss, lính, phi công, và chính khách người Mỹ, Thống đốc thứ 20 của bang Nam Dakota (s. 1915) 2003 – Royce D. Applegate, diễn viên và biên kịch người Mỹ (s. 1939) 2005 – Shirley Chisholm, nhà giáo dục và chính trị gia người Mỹ (s. 1924) 2005 – Eugene J. Martin, họa sĩ người Mỹ (s. 1938) 2006 – Harry Magdoff, nhà kinh tế học và nhà báo người Mỹ (s. 1913) 2007 – Leon Davidson, nhà hóa học và kỹ sư người Mỹ (s. 1922) 2007 – Roland Levinsky, nhà hóa sinh học và nghiên cứu sinh người Nam Phi gốc Anh (s. 1943) 2007 – Tillie Olsen, tác giả truyện ngắn người Mỹ (s. 1912) 2008 – Harold Corsini, nhiếp ảnh gia và nhà giáo dục người Mỹ (s. 1919) 2008 – Pratap Chandra Chunder, nhà giáo dục và chính trị gia người Ấn Độ (s. 1918) 2009 – Helen Suzman, nhà hoạt động chống phân biệt chủng tộc người Nam Phi (s. 1917) 2010 – Lhasa de Sela, ca sĩ–nhạc sĩ người Mỹ gốc Mexico (s. 1972) 2011 – Marin Constantin, nhà soạn nhạc và nhạc trưởng người Rumani (s. 1925) 2012 – Kiro Gligorov, luật sư và chính trị gia người Bulgaria gốc Macedonia, Tổng thống đầu tiên của Macedonia (s. 1917) 2012 – Nay Win Maung, bác sĩ, doanh nhân và nhà hoạt động xã hội người Myanmar (Miến Điện) (s. 1962) 2012 – Tommy Mont, cầu thủ bóng đá và huấn luyện viên người Mỹ (s. 1922) 2013 – Christopher Martin–Jenkins, nhà báo Anh (s. 1945) 2013 – Patti Page, ca sĩ và nữ diễn viên người Mỹ (s. 1927) 2014 – Higashifushimi Kunihide, nhà sư và nhà sư người Nhật Bản (s. 1910) 2014 – Juanita Moore, nữ diễn viên người Mỹ (s. 1914) 2014 – Pete DeCoursey, nhà báo người Mỹ (s. 1961) 2014 – William Mgimwa, chính trị gia người Tanzania, Bộ trưởng Tài chính thứ 13 của Tanzania (s. 1950) 2015 – Boris Morukov, bác sĩ và nhà du hành vũ trụ người Nga (s. 1950) 2015 – Donna Douglas, nữ diễn viên người Mỹ (s. 1932) 2015 – Mario Cuomo, luật sư và chính trị gia người Mỹ, Thống đốc 52 của bang New York (s. 1932) 2015 – Omar Karami, luật sư và chính trị gia người Lebanon, Thủ tướng thứ 58 của Lebanon (s. 1934) 2016 – Dale Bumpers, lính, luật sư, và chính trị gia người Mỹ, Thống đốc thứ 38 của bang Arkansas (s. 1925) 2016 – Fazu Aliyeva, nhà thơ và nhà báo người Nga (s. 1932) 2016 – Mike Oxley, luật sư và chính trị gia người Mỹ (s. 1944) 2016 – Vilmos Zsigmond, nhà quay phim và sản xuất điện ảnh người Mỹ gốc Hungary (s. 1930) 2017 – Derek Parfit, nhà triết học người Anh (s. 1942) 2017 – Tony Atkinson, nhà kinh tế học người Anh (s. 1944) 2017 – Yvon Dupuis, chính trị gia người Canada (s. 1926) 2018 – Robert Mann, nghệ sĩ violin người Mỹ (s. 1920) 2020 Don Larsen (s. 1929) David Stern (s. 1942) Ngày lễ và kỷ niệm Dương lịch Tết dương lịch Quốc khánh Haiti – 1804 Trung Hoa Dân Quốc – 1912 Sudan – 1956 Cuba – 1959 Samoa – 1962 Brunei – 1984 Cộng hòa Séc – 1993 Slovakia – 1993 Truyền hình VTV sử dụng logo tròn của Đài Truyền hình Việt Nam Các ngày lễ khác Ngày lễ Kitô giáo: Adalard of Corbie Basil the Great (Chính thống giáo Đông phương) Lễ cắt bao quy đầu của Kitô giáo Lễ Thánh Danh Chúa Jêsus (Hiệp thông Anh giáo, Giáo hội Lutheran) Lễ hội của những kẻ điên (Châu Âu thời Trung cổ) Ngày thánh Fulgentius Ngày thánh Giuseppe Maria Tomasi Ngày Lễ Phục Sinh của Chúa Giáng Sinh, được coi là một ngày lễ bổn phận thiêng liêng ở một số nước (Giáo hội Công giáo): Ngày Hòa bình Thế giới Ngày thánh Telemachus Ngày thánh Zygmunt Gorazdowski Ngày 1 tháng 1 (Phụng vụ chính thống Đông Phương) Ngày cuối cùng của Kwanzaa (người Mỹ gốc Phi) Ngày thứ tám trong mười hai ngày của lễ Giáng sinh (Tây Cơ đốc giáo) Ngày Hiến pháp (Ý) Ngày giải phóng nô lệ châu Phi (Hoa Kỳ) Ngày đồng Euro (Liên minh châu Âu) Ngày Quốc kỳ (Litva) kỷ niệm việc treo quốc kì của Lithuania trên đỉnh tháp Gediminas vào năm 1919 Ngày Thành lập (Đài Loan) kỷ niệm việc thành lập Chính phủ lâm thời tại Nam Kinh Ngày Gia đình toàn cầu Ngày Quốc tế Linh dương sừng móc của Nepal Ngày mừng năm mới của Montserrat (Ngày Jump–up) Ngày Kalpataru (Phong trào Ramakrishna) Ngày Kamakura Ebisu, từ ngày 1 đến 3 tháng 1 (Kamakura, Kanagawa, Nhật Bản) Ngày quốc gia cocktail Bloody Mary (Hoa Kỳ) Ngày tết trồng cây (Tanzania) Ngày đầu năm mới (lịch Gregorian) Năm mới của Nhật Bản Năm mới của Nga (Ngày Novy God) Lễ hội Ryukyuan (Sjoogwachi) (Quần đảo Okinawa) Ngày vì Gấu Bắc Cực (Canada và Hoa Kỳ) Ngày phạm vi công cộng (nhiều quốc gia) Ngày chiến thắng Cách mạng (Cuba) Âm lịch Tết Nguyên Đán Tham khảo 01 Ngày trong năm
VI_open-0000000014
People_and_Society
Ngày 21 tháng 10 là ngày thứ 294 (295 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 71 ngày trong năm. Sự kiện 1600 – Tokugawa Ieyasu giành thắng lợi trong trận Sekigahara, được xem là mốc khởi đầu Mạc phủ Tokugawa tại Nhật Bản. 1805 – Quân Anh đại thắng liên minh Pháp–Tây Ban Nha trong trận Trafalgar. 1824 – Joseph Aspdin nhận bằng sáng chế về xi măng Portland, nay là một trong các loại xi măng thông dụng trên thế giới. 1854 – Florence Nightingale và 38 nữ điều dưỡng đến Thổ Nhĩ Kỳ để chăm sóc cho thương binh Quân đội Anh trong Chiến tranh Krym. 1944 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Cuộc tấn công Thần phong, hay Kamikaze, đầu tiên được tiến hành, mục tiêu là chiến hạm HMAS Australia ở ngoài khơi đảo Leyte thuộc Philippines. 1867 – Tiểu thuyết Chuông nguyện hồn ai của Ernest Hemingway được phát hành lần đầu. 1983 – Đại hội Cân đo quốc tế lần thứ 17 định nghĩa lại chiều dài của một mét là "khoảng cách mà ánh sáng truyền được trong chân không trong khoảng thời gian 1/299.792.458 giây". Sinh 1822 – Nguyễn Phúc Miên Tể, tước phong Nghĩa Quốc công, hoàng tử con vua Minh Mạng (m. 1844) 1833 – Alfred Nobel, nhà hóa học, kỹ sư, nhà phát minh, nhà doanh nghiệp Thụy Điển, người đã phát minh ra thuốc nổ dynamite và lập ra các Giải Nobel (m. 1896) 1846 – Edmondo De Amicis, nhà văn, nhà báo và nhà thơ người Ý (m. 1908) 1981 – Nemanja Vidić, cầu thủ bóng đá người Serbia 1982 – Lee Chong Wei, cựu vận động viên cầu lông người Malaysia 1984 – Nguyễn Hoàng Ngân, vận động viên karatedo Việt Nam 1995 – Doja Cat, ca sĩ, rapper người Mỹ 1999 – Ekanit Panya, cầu thủ bóng đá người Thái Lan Mất 1805 – Phó đô đốc, tử tước Horatio Nelson (s. 1758) 1956 – Lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn (s. 1908) Những ngày lễ và kỷ niệm Tham khảo Tháng mười Ngày trong năm
VI_open-0000000015
News
Nghịch lý Banach-Tarski nổi tiếng về kết quả "phi trực giác" của nó và thường được dùng để nhấn mạnh về sự bẻ gãy các ý kiến của con người trên một thể tích. Nghịch lý này được phát biểu bởi hai nhà toán học người Ba Lan Stefan Banach (1892-1945) và Alfred Tarski (1901-1983) vào năm 1924. Trong trương hợp đặc biệt, nó chỉ ra rằng: Một hình cầu đặc trong không gian Euclide 3 chiều có thể bị chia nhỏ ra làm một số hữu hạn các phần nhỏ mà sau đó lại được chuyển dịch để cấu trúc thành hai hình cầu có cùng một kích thước với hình cầu nguyên thủy. Tham khảo Banach-Tarski Hình học Banach-Tarski Các nghịch lý toán học Lý thuyết nhóm Lý thuyết độ đo
VI_open-0000000016
Science
Phần mềm quảng cáo hay nhu liệu quảng cáo thường đính kèm với những mẩu quảng cáo nhỏ, chúng thường được phân phát dưới hình thức phần mềm miễn phí hay phiên bản dùng thử. Và chỉ khi bạn trả tiền cho sản phẩm dùng thử đó, các quảng cáo sẽ "teo" nhỏ hoặc biến mất tùy theo chính sách (policy) của hãng phần mềm đó. Bên cạnh đó, phần mềm gián điệp (spyware) cũng là một trong các "biến thể" của phần mềm quảng cáo, chúng được bí mật cài vào máy tính người sử dụng khi họ đang duyệt web. Các spyware này sẽ theo dấu người dùng khi họ lang thang trên Internet và ghi lại chúng, sau đó gửi thông tin về một địa chỉ nào đó trên Internet. Phần lớn các spyware thường vô hại, tuy nhiên, ngày nay bắt đầu xuất hiện nhiều những spyware đính kèm virus, sâu (worm) hoặc "ngựa thành Troa" (Trojan horse) có thể gây tổn hại nghiêm trọng cho một hoặc một hệ thống máy tính. Tham khảo Quảng cáo trên Internet Quảng cáo trực tuyến
VI_open-0000000017
Internet_and_Telecom
Bộ Đà điểu (Struthioniformes) là một bộ gồm các loài chim lớn, không biết bay có nguồn gốc từ Gondwana, phần lớn trong chúng hiện nay đã tuyệt chủng. Không giống như các loài chim không bay khác, các loài đà điểu không có xương chạc trên xương ức của chúng và như thế thiếu nơi neo đủ mạnh cho các cơ cánh của chúng, vì thế chúng không thể bay được mặc dù chúng có các cánh phù hợp cho việc bay lượn. Phần lớn khu vực đại lục Gondwana cổ đã do các loài đà điểu chiếm lĩnh, hoặc có chúng cho đến thời gian tương đối gần đây. Các loài còn sinh tồn Đà điểu châu Phi là loài đà điểu lớn nhất hiện còn tồn tại. Thành viên lớn nhất của loài này có thể cao tới 3 m, cân nặng 135 kg và chạy nhanh hơn ngựa. Đà điểu Emu là loài đứng thứ hai về kích thước, cao tới 2 m và cân nặng khoảng 60 kg. Giống như đà điểu châu Phi, nó chạy nhanh, là loài chim đầy sức mạnh của đồng bằng và miền rừng. Cũng có nguồn gốc ở Australia và các đảo phía bắc là 3 loài Đà điểu đầu mào. Chúng ngắn hơn Emu và có cơ thể rắn chắc, đà điểu đầu mào ưa thích các cánh rừng nhiệt đới rậm rạp. Chúng có thể rất nguy hiểm khi bị dồn vào thế bí hay khi chúng bị bất ngờ. Tại New Guinea, trứng của đà điểu đầu mào bị lấy đi và cho nở thành con non để ăn thịt như là một loại đặc sản, mặc dù có (hay có lẽ do) những rủi ro mà chúng gây ra đối với tính mạng con người. Các loài chim chạy nhỏ nhất là 5 loài chim kiwi ở New Zealand. Kiwi có kích thước cỡ như gà, chúng nhút nhát và nóng tính. Chúng làm tổ trong các hang sâu và sử dụng cơ quan khứu giác phát triển cao để bới đất nhằm tìm kiếm các loài côn trùng nhỏ. Kiwi đáng chú ý vì chúng đẻ trứng có tỷ lệ rất lớn so với kích thước cơ thể. Trứng chim kiwi có thể tương đương với 15-20% trọng lượng cơ thể chim mái. Nam Mỹ có 2 loài đà điểu châu Mỹ có kích thước trung bình, chạy nhanh trên những cánh đồng cỏ hoang (pampa) ở Nam Mỹ. Các cá thể lớn nhất của loài đà điểu Nam Mỹ lớn (Rhea americana) có thể cao tới 1,5 m và cân nặng 20 – 25 kg. Tại Nam Mỹ còn có 47 loài trong 9 chi, bao gồm các loài chim nhỏ và cư trú dưới đất nhưng không phải là không bay được, thuộc họ Tinamidae và chúng có họ hàng gần với các loài đà điểu. Các loài tuyệt chủng Aepyornis, tức "chim voi" ở Madagascar, đã từng là loài chim lớn nhất được biết. Mặc dù chúng thấp hơn những con moa cao nhất, nhưng những cá thể to lớn nhất có thể cân nặng tới 450 kg. Có hai loài đã từng tồn tại khi con người di cư đến từ Borneo và châu Phi, có lẽ trong thế kỷ I. Cả hai dường như đã sống sót một thời gian khá dài: loài Aepyornis mullerornis nhỏ hơn có thể đã biến mất trước còn loài Aepyornis maximus to hơn có thể còn tồn tại cho đến tận đầu thế kỷ XVII. Họ Dinornithidae (moa) có ít nhất là 11 loài khác nhau từng sinh sống tại New Zealand cho đến khi con người bắt đầu xuất hiện nhiều tại đây vào thế kỷ XIII hay sớm hơn. Chúng có kích thước dao động trong khoảng từ cỡ như gà tây cho tới moa khổng lồ (Dinornis giganteus) với chiều cao đạt 3,3 m (11 ft) và cân nặng tới 250 kg (550 lb). Giống như đà điểu đầu mào, moa chủ yếu sống trong các cánh rừng không có kẻ thù là các loài các động vật ăn thịt. Chúng được cho là bị tuyệt chủng vào khoảng năm 1500 do sự săn bắn trong vài trăm năm kể từ khi có sự định cư của con người. Tuy nhiên, một số người vẫn tin rằng các quần thể nhỏ có thể vẫn còn tồn tại trong các khu vực hoang vắng biệt lập cho tới thời gian gần đây. Ngoài ra, các mảnh vỏ trứng tương tự như vỏ trứng của Aepyornis cũng được tìm thấy trên quần đảo Canary. Các mảnh này có niên đại tới Trung hay Hậu Miocen, và không có giả thuyết phù hợp nào đã được đề ra là chúng tới đây như thế nào do sự không chắc chắn về việc các đảo này có từng được nối liền với đại lục hay không. Tiến hóa và hệ thống học HIện tại tồn tại 2 phương thức tiếp cận phân loại học trong phân loại chim chạy: phương thức thứ nhất, được sử dụng tại bài này, kết hợp các nhóm như là các họ trong bộ Struthioniformes, trong khi phương thức thứ hai cho rằng các dòng dõi đã tiến hóa chủ yếu là độc lập với nhau và vì thế nâng các họ lên cấp bộ (như Rheiformes, Casuariiformes, Apterygiformes v.v.). Một số nghiên cứu dựa trên hình thái học, miễn dịch học và trình tự DNA chỉ ra rằng các loài chim chạy là đơn ngành. Miêu tả truyền thống về tiến hóa của chim chạy là một nhóm xuất hiện ở dạng chim không bay tại Gondwana trong kỷ Creta, sau đó đã tiến hóa theo các hướng tách biệt do các châu lục bị trôi dạt ra xa nhau. Tuy nhiên, phân tích gần đây về biến thiên gen giữa các loài chim chạy lại mâu thuẫn với điều đó: phân tích DNA dường như chỉ ra rằng các loài chim chạy đã rẽ nhánh ra khỏi nhau quá gần đây để có thể chia sẻ cùng một tổ tiên Gondwana chung. Bên cạnh đó, hóa thạch Trung Eocen của "tiền-đà điểu" Palaeotis từ Trung Âu có thể ngụ ý rằng giả thuyết "ngoài Gondwana" là sai. Ngoài ra, phân tích gần đây với 20 gen hạt nhân đã đặt câu hỏi về tính đơn ngành của nhóm, gợi ý rằng các loài tinamou có thể bay được cũng gộp lại trong phạm vi dòng dõi chim chạy. Nghiên cứu so sánh đối với toàn bộ trình tự DNA ti thể của các loài chim chạy còn sinh tồn cộng với 2 loài moa (khủng điểu) đặt moa tại vị trí cơ sở, tiếp theo là đà điểu châu Mỹ, tiếp nữa là đà điểu châu Phi, tiếp theo là kiwi, với đà điểu Úc (emu) và đà điểu đầu mào là các họ hàng gần gũi nhất. Một nghiên cứu khác lại đảo lại vị trí tương đối của moa và đà điểu châu Mỹ và chỉ ra rằng chim voi không phải là họ hàng gần của đà điểu châu Phi hay các loài chim chạy khác, trong khi nghiên cứu các gen hạt nhân lại chỉ ra là đà điểu châu Phi rẽ nhánh đầu tiên, tiếp theo là đà điểu châu Mỹ và tinamou, sau đó là kiwi tách ra từ đà điểu Úc và đà điểu đầu mào. Các nghiên cứu chia sẻ các niên đại rẽ nhánh ngụ ý rằng trong khi các tổ tiên của moa có thể từng tồn tại ở New Zealand kể từ khi nó tách ra khỏi các phần khác của Gondwana, các tổ tiên của kiwi dường như bằng một cách nào đó đã phát tán tới đây (New Zealand) từ Australia gần đây hơn, có lẽ thông qua cầu đất liền hay bằng cách "nhảy" qua các đảo. Theo các phân tích có sớm hơn thì đà điểu châu Phi dường như đã tới châu Phi theo một lộ trình nào đó sau khi nó tách khỏi Nam Mỹ (như bằng xâm lấn đại lục Á Âu và sau đó châu Phi tách ra khỏi Ấn Độ), nhưng các dữ liệu hạt nhân chỉ ra rằng đà điểu châu Phi rẽ nhánh đầu tiên có lẽ phù hợp với trình tự tách mảng kiến tạo của Gondwana. Các khía cạnh khác (nhưng không phải tất cả) trong cổ địa sinh học chim chạy là phù hợp với giả thuyết hình thành loài theo địa lý (sự chia tách kiến tạo mảng của Gondwana). Các nghiên cứu bộ gen phát sinh loài gần đây gợi ý rằng tinamou trên thực tế có thể thuộc về nhóm này. Nếu như thế, nó làm cho nhóm 'chim chạy' trở thành cận ngành chứ không phải đơn ngành. Điều này cũng đặt ra câu hỏi đáng chú ý về tiến hóa của khả năng bay được và khả năng không bay được trong nhóm này, do chim chạy theo truyền thống được cho là có tổ tiên không bay được và là nhóm đơn ngành, trong khi sự rẽ nhánh của tinamou trong phạm vi dòng dõi chim chạy chỉ ra rằng hoặc là khả năng bay được đã tái tiến hóa ở tinamou, hoặc là đã mất đi ở các loài chim chạy khác. Vào năm 2014, một phân tích phát sinh chủng loài DNA ti thể bao gồm cả các thành viên hóa thạch chỉ ra rằng tinamou lồng sâu bên trong nhóm đà điểu. Đà điểu châu Phi được đặt ở nhánh đầu tiên (cơ sở), tiếp theo là đà điểu Nam Mỹ, sau đó là nhánh chứa moa và tinamou, tiếp theo là hai nhánh cuối cùng, một nhánh chứa emu và đà điểu đầu mào, trong khi nhánh còn lại chứa chim voi và kiwi. Mối quan hệ chị-em của moa-tinamou là phù hợp với các phát hiện khác có sớm hơn cũng như đương thời, trong khi mối quan hệ chị-em của chim voi và kiwi thì là phát hiện mới. Hỗ trợ bổ sung cho điều này cũng thu được từ phân tích hình thái học. Ảnh hưởng đến văn minh loài người Vào thời Ai Cập cổ đại, người ta dùng hình lông đà điểu để chỉ ý nghĩa chính nghĩa vì lông đà điểu tương đối bằng nhau. Các loài viễn tưởng Chocobo trong loạt trò chơi điện tử Final Fantasy là loài chim viễn tưởng tương tự như các loài chim chạy. Trong các trò chơi này thì chocobo là một dạng phương tiện vận tải,và chúng được cưỡi và kéo xe tương tự như ngựa. Đáng chú ý là roc (từ tiếng Ba Tư: رخ - rokh) thời Ả Rập trung cổ, theo truyền thuyết là loài chim tương tự như các loài đà điểu và đủ lớn để có thể nhấc bổng cả voi. Theo vài nguồn thì nó chính là đà điểu châu Phi. Quân xe trong cờ vua có lẽ có nguồn gốc từ đây. Hình ảnh Ghi chú và Liên kết ngoài Hóa thạch sống Đà điểu
VI_open-0000000023
Pets_and_Animals
Họ Đại kích hay họ Thầu dầu(Euphorbiaceae) là họ lớn thứ năm trong tất cả các họ thực vật có hoa. Nó gồm khoảng 7,500 loài chia thành 300 chi, 37 tông và ba phân họ. Phần lớn là cây thân thảo, nhưng ở khu vực nhiệt đới cũng tồn tại các loại cây bụi hoặc cây thân gỗ. Một số loài cây là mọng nước, và tương tự như các loài xương rồng, là do tiến hóa hội tụ. Phân bố Họ này phân bổ chủ yếu ở khu vực nhiệt đới và ôn đới ấm trên khắp thế giới, với phần lớn các loài tập trung trong khu vực Indomalaya và sau đó là khu vực nhiệt đới châu Mỹ. Tại khu vực nhiệt đới châu Phi cũng có nhiều loài, giống, thứ, nhưng không đa dạng như hai khu vực kể trên. Tuy nhiên, chi Euphorbia cũng có nhiều loài trong các khu vực không nhiệt đới, chẳng hạn như khu vực Địa Trung Hải, Trung Đông, miền nam châu Phi hay miền nam Hoa Kỳ. Đặc điểm Lá mọc so le, hiếm khi mọc đối, với các lá kèm. Hình dạng lá chủ yếu là lá đơn, nhưng cũng có loài có lá phức, chủ yếu là loại dạng chân vịt, không thấy dạng lông chim. Các lá kèm có thể bị suy thoái thành gai, lông tơ hay các tuyến nhỏ. Hoa đối xứng xuyên tâm (tỏa tia) thường là đơn tính, với hoa đực và hoa cái thường cùng trên một cây. Như có thể dự đoán từ một họ lớn như thế này, ở đây có một sự đa dạng lớn về cấu trúc hoa. Chúng có thể là cùng gốc hay khác gốc. Các nhị hoa (cơ quan đực) có thể từ 1 tới 10 (hoặc nhiều hơn). Hoa cái là loại dưới bầu, có nghĩa là với bầu nhụy lớn. Các chi Euphorbia và Chamaesyce có một dạng cụm hoa đặc biệt khác thường, được gọi là hoa hình chén (cyathium). Nó là một dạng tổng bao tựa như một đài hoa nhỏ chứa các tuyến mật ngoại biên hình móng ngựa bao quanh một vòng các hoa đực, mỗi hoa đực có một nhị hoa. Tại phần giữa của cyathium là hoa cái: một lá noãn đơn với các đầu nhụy phân nhánh. Sự phân bố tổng thể này tạo ra một sự tương tự như một bông hoa đơn độc. Quả thường là loại quả nứt, đôi khi là quả hạch. Loại quả nứt điển hình là regma, một loại quả nang với ba hoặc nhiều hơn các ô, mỗi ô tách ra khi chín thành các phần riêng biệt và sau đó nổ để phân tán các hạt nhỏ. Các loài cây trong họ này chứa một lượng khá lớn độc tố thực vật (các chất có độc tính do cây tiết ra), chủ yếu là các este diterpen, ancaloit, glicozit. Hạt của quả thầu dầu (Ricinus communis) chứa protein liên kết cacbohydrat rất độc là ricin. Nhựa (mủ) dạng sữa hay latex là tính chất đặc trưng của các phân họ Euphorbioideae và Crotonoideae. Nhựa mủ này là độc hại ở phân họ Euphorbioideae, nhưng lại không độc ở phân họ Crotonoideae. Nhựa mủ của cây giá (Excoecaria agallocha) sinh ra các vết phồng rộp ở chỗ tiếp xúc và gây mù lâm sàng nếu tiếp xúc với mắt. Các tên gọi khác là buta buta (tiếng Mã Lai), gewa (tiếng Bengali ở Bangladesh). Phân loại Các nghiên cứu phát sinh chủng loài phân tử chỉ ra rằng Euphorbiaceae theo định nghĩa truyền thống là đa ngành, tạo thành vài nhóm trong bộ Malpighiales. Xử lý trong bài này phản ánh các kết quả của các nghiên cứu này. Các chi trước đây đặt trong phân họ Oldfieldioideae Eg. Köhler & G. L. Webster và Phyllanthoideae Beilschmied, với đặc trưng là 2 noãn trên mỗi ngăn, hiện nay được coi tương ứng là các họ Picrodendraceae và Phyllanthaceae, với 2 chi tách ra từ họ sau để lập thành họ Putranjivaceae; hai họ đầu dường như là các đơn vị phân loại chị em, có lẽ gần với phần còn lại của Euphorbiaceae truyền thống, trong khi đó họ thứ ba được đặt ở nơi khác trong bộ Malpighiales. Các chi còn lại, với đặc trưng 1 noãn trên mỗi ngăn, được coi như là Euphorbiaceae nghĩa hẹp và Peraceae Klotzsch. Bốn phân họ hiện tại được công nhận trong họ Euphorbiaceae nghĩa hẹp. Theo truyền thống, ba phân họ Acalyphoideae Beilschmied, Crotonoideae Beilschmied và Euphorbioideae Beilschmied được công nhận dựa theo sự tồn tại hoặc không tồn tại của tế bào nhựa mủ và hình thái phấn hoa. Các phân tích phát sinh chủng loài các dữ liệu phân tử hỗ trợ tính đơn ngành của Euphorbioideae. Phần lớn các chi của Crotonoideae truyền thống có độ hỗ trợ vừa phải như là nhóm đơn ngành. Các nghiên cứu này cũng hỗ trợ mạnh tính đơn ngành của phần lớn các chi trong Acalyphoideae và sự tách ra của phân họ nhỏ thứ tư là Cheilosoideae K. Wurdack & Petra Hoffmann. Các chi còn lại của Acalyphoideae và Crotonoideae được đặt trong vài nhánh nhỏ mà quan hệ của chúng với nhau và với phân họ thứ tư không được hỗ trợ tốt. Sử dụng Một loạt các loài cây trong họ Đại kích có tầm quan trọng kinh tế đáng kể. Các loài cây đáng chú ý nhất là sắn (Manihot esculenta), thầu dầu (Ricinus communis) và cao su (Hevea brasiliensis). Nhiều loài cây khác được trồng làm cây cảnh, chẳng hạn hoa trạng nguyên (hay nhất phẩm hồng, danh pháp Euphorbia pulcherrima). Liên kết ngoài Dữ liệu từ phân loại GRIN Euphorbiaceae trong L. Watson và M.J. Dallwitz (1992 trở đi). Các họ thực vật có hoa: Miêu tả, minh họa, nhận dạng, thông tin tra cứu. http://delta-intkey.com Ghi chú Đại kích, họ Cây độc
VI_open-0000000026
Pets_and_Animals
Vịnh Bengal (, [bɔŋgopoʃagoɾ], [bəŋgɑːl kɪː kʰɑːɽɪː]) là một trong những vịnh lớn nhất thế giới, nằm ở Nam Á, phía đông bắc Ấn Độ Dương. Vịnh Bengal có hình gần như tam giác, có ranh giới là Ấn Độ và Sri Lanka ở phía tây, Bangladesh và bang Tây Bengal của Ấn Độ ở phía bắc (từ đây mà có tên gọi vịnh Bengal), Myanmar cùng phần phía nam của Thái Lan và quần đảo Andaman và Nicobar ở phía đông. Ranh giới phía nam của nó được coi là đường tưởng tượng nối từ mũi Dondra ở điểm cực nam Sri Lanka với điểm cực bắc của đảo Sumatra. Với tổng diện tích 2,172 triệu km², độ sâu trung bình 2.586-2.600 m, nhiệt độ nước 25-27 °C. Sông Hằng và sông Brahmaputra là hai con sông lớn đổ vào phía bắc vịnh tạo thành những cửa sông rộng. Trong vịnh có quần đảo Andaman và Nicobar. Hải cảng quan trọng là Chennai của Ấn Độ và Chittagong của Bangladesh. Sứ thần Việt Nam Phạm Phú Thứ vào thế kỷ 19 khi đi ngang qua vùng biển Ấn Độ ghi lại địa danh Vịnh Bengal là Vịnh Minh Ca Lê, Mênh Ca Lê cũng rút gọn lại thành Minh Hải, Mênh Hải. Sông Nhiều con sông lớn của Ấn Độ chảy theo hướng tây-đông đổ vào vịnh Bengal: ở phía bắc là các sông như Hằng, Meghna và Brahmaputra, còn ở phía nam là sông Mahanadi qua vùng châu thổ sông Mahanadi, sông Godavari, sông Krishna, Irrawaddy và sông Kaveri (hay Cauvery). Sông ngắn nhất đổ vào vịnh Bengal là sông Cooum dài 64 km. Sông Brahmaputra là con sông dài thứ 28 trên thế giới (2.948 km hay 1.832 dặm Anh), chảy qua Ấn Độ, Trung Quốc, Nepal, Bangladesh và Bhutan. Các rừng đước Sundarbans được hình thành tại cửa sông Hằng, Brahmaputra và Meghna trên bờ biển của vịnh Bengal. Sông Ayeyarwady của Myanmar cũng chảy vào vịnh này. Hải cảng Các hải cảng chính của Bangladesh trên vịnh bao gồm Chittagong và Mongla. Các hải cảng chính của Ấn Độ trên vịnh này bao gồm Krishnapatnam, Chennai (tên gọi cũ Madras), Vishakhapatnam, Kolkata (tên gọi cũ Calcutta) và Pondicherry. Yangon, thành phố lớn nhất và cựu thủ đô của Myanmar cũng là một hải cảng quan trọng trong vịnh này. Đảo Trên vịnh này có nhiều đảo, bao gồm các nhóm đảo Andaman, Nicobar và Mergui. Nhóm các đảo Cheduba cùng các đảo khác ở phía đông bắc, ngoài khơi Myanmar, là đáng chú ý vì một chuỗi các núi lửa bùn, đôi khi có các hoạt động phun trào diễn ra. Đại Andaman là quần đảo chính hay nhóm đảo của quần đảo Andaman, trong khi quần đảo Ritchie bao gồm các đảo nhỏ hơn. Chỉ 37 trên tổng số 572 đảo của quần đảo Andaman và Nicobar là có cư dân sinh sống, chiếm tỷ lệ 6,5%/ Bãi biển Cox's Bazar, vùng bờ biển phía đông bắc của vịnh, là một trong những bờ biển tự nhiên còn hoang sơ của thế giới. Các bãi biển khác dọc theo vịnh còn có Bakkhali, Digha, Chandipur, Puri, Waltair, bãi Marina tại Chennai và bãi Ngapali ở Myanmar. Xem thêm Quần đảo Andaman và Nicobar Cox's Bazar Tham khảo Vịnh châu Á Biển rìa lục địa Ấn Độ Dương Khảo cổ học hàng hải Biên giới Ấn Độ-Bangladesh Biên giới Bangladesh-Myanmar Vịnh Ấn Độ Thủy vực Bangladesh Vịnh Indonesia Thủy vực Myanmar Thủy vực Sri Lanka
VI_open-0000000027
Travel_and_Transportation
Trong toán học, bao afin của tập hợp S trong không gian Euclide Rn là tập afin nhỏ nhất chứa S, hay định nghĩa tương đương: bao afin là giao của tất cả các tập afin chứa S. Ở đây, tập afin được hiểu là một tập sinh ra do sự tịnh tiến một không gian con vectơ. Bao afin của S - ký hiệu là aff(S) là tập hợp tất cả các tổ hợp affine của các phần tử thuộc S, tức là: Ví dụ Bao afin của một tập hợp gồm hai điểm khác nhau là đường thẳng đi qua hai điểm đó. Bao afin của một tập hợp gồm ba điểm không thẳng hàng là một mặt phẳng đi qua ba điểm đó. Tính chất aff(aff(S) = aff(S) aff(S) là một tập đóng Các tập liên quan Nếu thay vì dùng tổ hợp afin ở định nghĩa trên, người ta dùng tổ hợp lồi, tức đòi hỏi thêm một điều kiện là tất cả các đều là số không âm, khi đó người ta thu được cái gọi là bao lồi của S, mà phải nhỏ hơn so với bao afin của S vì có thêm điều kiện ràng buộc nói trên. Tuy nhiên, nếu bây giờ chúng ta không đặt bất kỳ giới hạn nào lên các , tức chúng ta thay tổ hợp afin bằng tổ hợp tuyến tính thì ta được một tập gọi là span tuyến tính của S, mà hiển nhiên là lớn hơn bao affine của S. Tham khảo R.J. Webster, Convexity, Oxford University Press, 1994. ISBN 0198531478. Hình học afin
VI_open-0000000029
Science
Kaiserslautern là một trong 5 thành phố của Đức được gọi là thành phố Barbarossa do trong lịch sử hoàng đế Friedrich I, còn được gọi là Barbarossa, của Đế quốc La Mã Thần thánh đã từng sống tại đây. Ngày nay Kaiserslautern là một thành phố công nghiệp và đại học nằm ở bìa bắc của Rừng Pflaz trong vùng phía nam của bang Rheinland-Pflaz. Kaiserslautern được biết đến trước nhất là nhờ câu lạc bộ bóng đá 1. FC Kaiserslautern. Kaiserslautern có tròn 99.000 dân cư và là một trong những trung tâm của bang Rheinland-Plalz bên cạnh Trier, Mainz, Ludwigshafen và Koblenz. Ngoài ra, sống trong thành phố và vùng phụ cận là gần 48.000 người Mỹ (quân nhân, cựu quân nhân, nhân viên dân sự Mỹ và gia quyến) phục vụ trong quân đội tại Kaiserslautern và căn cứ không quân Ramstein gần đó. Tham khảo Thành phố của bang Rheinland-Pfalz
VI_open-0000000032
Jobs_and_Education
Nicolas Kim Coppola (sinh ngày 7 tháng 1 năm 1964), được biết đến với nghệ danh Nicolas Cage, là một diễn viên và nhà làm phim người Mỹ. Sinh ra trong gia đình Coppola, Cage là người nhận được nhiều giải thưởng khác nhau, bao gồm Giải thưởng Viện hàn lâm, Giải thưởng của Nghiệp đoàn Diễn viênmàn ảnh và Giải thưởng Quả cầu vàng. Trong những năm đầu sự nghiệp của mình, Cage đã đóng vai chính trong nhiều bộ phim như Valley Girl (1983), Peggy Sue Got Married (1986), raise Arizona (1987), Moonstruck (1987) và Wild at Heart (1990). Trong thời kỳ này, John Willis 'Screen World, Vol. 36 đã liệt kê anh ấy là một trong mười hai Diễn viên mới triển vọng của năm 1984. Với màn trình diễn của mình trong phim Leaving Las Vegas (1995), anh đã giành được giải Oscar cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất . Anh ấy đã nhận được đề cử giải Oscar thứ hai cho màn trình diễn của mình với vai Charlie và Donald Kaufman trong Chuyển thể ( 2002). Sau đó, anh xuất hiện trong nhiều bộ phim chính thống hơn, chẳng hạn như The Rock (1996), Con Air (1997), Face/Off (1997), City of Angels (1998), Windtalkers (2002), Lord of War (2005), The Wicker Man (2006) và Knowing (2009). Anh cũng đạo diễn bộ phim Sonny (2002), bộ phim mà ông đã được đề cử cho Giải đặc biệt lớn tại Liên hoan phim Deauville. Cage sở hữu công ty sản xuất Saturn Films và đã sản xuất các bộ phim như Shadow of the Vampire (2000) và The Life of David Gale (2003). Vào tháng 10 năm 1997, Cage được xếp hạng 40 trong danh sách 100 ngôi sao điện ảnh hàng đầu mọi thời đại của tạp chí Empire, trong khi năm tiếp theo, anh được xếp hạng 37 trong 100 người quyền lực nhất Hollywood của Premiere. Giữa những năm 2010 và 2020, anh đóng vai chính trong Kick-Ass (2010) Joe (2013), Mandy (2018), Spider-Man: Into the Spider-Verse (2018) và Pig (2021). Sự tham gia của anh ấy trong nhiều thể loại phim khác nhau trong thời gian này đã làm tăng mức độ nổi tiếng của anh ấy và thu hút được sự hâm mộ của anh ấy. Cuộc đời và sự nghiệp Nicolas Cage có tên khai sinh là Nicholas Kim Coppola, sinh ra ở Long Beach, California, cha là August Coppola, một nhà văn và giáo sư người Mỹ gốc Ý, còn mẹ là Joy Vogelsang, một vũ nữ gốc Đức. Vào năm 1976, bố mẹ Cage ly dị và anh chuyển tới Beverly Hills với cha. Anh còn là cháu trai của Francis Ford Coppola và Talia Shire, do đó, anh là anh em họ với đạo diễn Sofia Coppola và Roman Coppola, cũng như với diễn viên Jason Schwartzmann. Nicholas đã thích nghề diễn từ khi còn nhỏ tuổi, và anh đã rời trường trung học từ rất sớm, nhận chứng chỉ GED (chứng chỉ hoàn tất trung học tại Mỹ) và đi theo sự nghiệp của mình. Nicholas theo học khoa kịch nghệ tại trường Trung học Beverly Hills nhưng đã bỏ dở năm 17 tuổi. Cage đã sớm đổi tên để con đường sự nghiệp của mình không bị ảnh hưởng bởi danh tiếng của người bác. Anh đã chọn cái tên Cage theo tên một người anh hùng Luke Cage trong sách hoạt họa của nhà xuất bản Marvel Comics và tên nhà soạn nhạc tiên phong John Cage. Anh đã đóng một vai nhỏ trong phim Fast Times at Ridgemont High (1982) (dưới cái tên là Coppola). Vai diễn tiếp theo vào năm 1983 trong bộ phim Rumble Fish và Valley Girl là các vai diễn xuất gây ấn tượng đầu tiên của anh. Anh đã giành được giải Oscar cho diễn viên xuất sắc nhất cho vai diễn của anh trong phim Leaving Las Vegas (1995). Anh đã nổi danh với những vai diễn khác nhau trong phim hành động có những nhân vật mang nhiều kịch tính, cũng như những vai diễn trong phim dark humor. Gần đây, anh xuất hiện trong phim Lord of War (Chúa tể chiến tranh) và phim The Weather Man. Anh có hai con, có với Kristina Fulton con trai đầu Weston Coppola Cage vào năm 1990. Vào ngày 8 tháng 4 năm 1995 anh cưới diễn viên Patricia Arquette, và đã ly dị sau đó vào ngày 18 tháng 5 năm 2001. Vào ngày 10 tháng 8 năm 2002 anh cưới Lisa Marie Presley và nạp đơn xin ly dị gần 4 tháng sau. Họ đã chính thức ly dị vào ngày 16 tháng 5 năm 2004. Không lâu sau đó anh đã làm lễ thành hôn với cựu tiếp viên Alice Kim vào ngày 30 tháng 7 năm 2004, ở Bắc California và họ có đứa con chung tên là Kal-el Coppola Cage (tên đặt theo nhân vật Superman của nhà xuất bản DC Comics). Ngoài ra, anh còn tham gia lồng tiếng trong phim hoạt hình The Ant Bully của hãng Warner Bros. Nicolas Cage cũng sẽ trở lại với vai Ben Gates trong phần 2 của phim National Treasure (Kho báu quốc gia). Anh đã đứng đầu "Danh sách mười gương mặt nam diễn viên nổi tiếng nhất đương thời" do tạp chí GQ tổ chức bình chọn năm 2005. Danh sách phim Điện ảnh Truyền hình Giải thưởng và đề cử Vì những đóng góp của mình cho ngành công nghiệp điện ảnh, Cage đã được đưa vào Đại lộ Danh vọng Hollywood vào năm 1998 với một ngôi sao điện ảnh đặt tại 7021 Đại lộ Hollywood. Vào tháng 5 năm 2001, Cage được Đại học Bang California, Fullerton trao bằng Tiến sĩ Danh dự về Mỹ thuật. Anh phát biểu tại lễ khởi công. Cage cũng đã hai lần được đề cử cho Giải thưởng Viện hàn lâm. Anh đã giành được giải Oscar cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất với vai diễn trong bộ phim Leaving Las Vegas vào năm 1995. Anh được đề cử giải thứ hai cho vai diễn trong bộ phim Adaptation vào năm 2002. Anh cũng đã giành được giải Quả cầu vàng, giải thưởng của Nghiệp đoàn Diễn viên màn ảnh và nhiều giải thưởng khác cho phim Leaving Las Vegas. Anh đã nhận được đề cử của Quả cầu vàng, Nghiệp doàn Diễn viên Màn ảnh và giải BAFTA cho các bộ phim Adaptation, Honeymoon in Vegas và Moonstruck. Anh ấy cũng đã chiến thắng và được đề cử cho nhiều giải thưởng khác. Tham khảo Liên kết ngoài http://www.cagefactor.com/ Nicolas Cage trên trang Moviesboom.com Sinh năm 1964 Nhà sản xuất phim Mỹ Phim và người giành giải Oscar cho nam diễn viên xuất sắc nhất Phim và người giành giải Quả cầu vàng cho Nam diễn viên phim chính kịch xuất sắc nhất Người Mỹ gốc Đức Người Mỹ gốc Ý Nhân vật còn sống Nam diễn viên điện ảnh Mỹ Nam diễn viên Mỹ thế kỷ 20 Nam diễn viên Mỹ thế kỷ 21 Nam diễn viên lồng tiếng Mỹ Đạo diễn điện ảnh Mỹ Hiện tượng Internet
VI_open-0000000033
Arts_and_Entertainment
Trong hình học, một phép biến đổi afin hay ánh xạ afin (tiếng Latin, affinis, nghĩa là "được kết nối với") giữa hai không gian vector bao gồm một biến đổi tuyến tính đi kèm bởi một phép tịnh tiến: Với hữu hạn chiều, mỗi biến đổi afin được cho bởi ma trận A và một vectơ b, hay viết dưới dạng là ma trận A kèm theo cột bổ sung b. Một biến đổi afin tương ứng với phép nhân một ma trận và cộng thêm một vectơ, và có thể hiểu đơn giản biến đổi afin tương ứng với phép nhân ma trận thông thường nếu gộp ma trận A và vectơ cột b bằng cách thêm một hàng ở cuối ma trận với chỉ toàn số 0 ngoại trừ một số 1 ở bên phải ở cột của vectơ b: trong khi đó, thành phần 1 thì được thêm vào đáy của các vector cột: (tọa độ đồng nhất). Biến đổi afin chỉ có thể đảo ngược khi và chỉ khi A là nghịch đảo được. Các biến đổi afin có thể nghịch đảo tạo thành nhóm afin, nhóm này nhận nhóm tuyến tính chung (general linear group) bậc n làm nhóm con và chính nó cũng là nhóm con của nhóm tuyến tính chung bậc n+1. Biến đổi tương đồng tạo thành nhóm con với A là giá trị vô hướng nhân với một ma trận trực giao. Khi và chỉ khi định thức của A là 1 hay -1 thì phép biển đổi bảo toàn diện tích; chúng cũng tạo thành một nhóm con. Kết hợp cả hai điều kiện chúng ta có isometry, là nhóm con của cả hai khi A là ma trận trực giao. Mỗi nhóm này có một nhóm con các phép biến đổi mà đảm bảo bảo toàn hướng: là những cái mà khi định thức của A là dương. Xem thêm Ma trận biến đổi cho một biến đổi afin Biểu diễn ma trận cho một phép tịnh tiến Nhóm afin Hình học afin Biến đổi tương đồng Phép chiếu 3D Tham khảo Hình học afin Đại số tuyến tính
VI_open-0000000034
Science
Chùa Pháp Vân có thể là: Chùa Pháp Vân (Thường Tín) ở làng Văn Giáp, xã Văn Bình, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Chùa Pháp Vân (Hoàng Mai) ở quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Tên gọi khác của Chùa Dâu ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Tên gọi khác của Chùa Nành ở làng Nành, xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Chùa Pháp Vân ở Tân Phú, thành lập năm 1965 do Hòa thượng Thích Nhất Hạnh. Chùa đang nắm giữ 3 kỷ lục của Việt Nam. Xem thêm Chùa Đậu (Hà Nội), còn có tên là Chùa Pháp Vũ
VI_open-0000000035
Travel_and_Transportation
"Tôi Có một Ước mơ" (tên gốc tiếng Anh: "I Have a Dream") là tên phổ biến của bài diễn văn nổi tiếng nhất của Martin Luther King, Jr., khi ông nói, với sức mạnh thuyết phục của tài hùng biện, về ước mơ của ông cho tương lai của nước Mỹ, khi người da trắng và người da đen có thể sống chung hoà thuận như những con người bình đẳng. Ngày 28 tháng 8 năm 1963, King đọc bài diễn văn này từ những bậc thềm của Đài Tưởng niệm Lincoln trong cuộc Tuần hành đến Washington vì Việc làm và Tự do. Đó là thời điểm quyết định cho Phong trào Dân quyền Mỹ. Khởi đầu với gợi ý đến bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ, văn kiện năm 1863 công bố sự tự do cho hàng triệu nô lệ, King đưa ra nhận xét, "nhưng một trăm năm sau, người da đen vẫn chưa được tự do." Khi sắp kết thúc bài diễn văn, King rời bỏ bản thảo soạn sẵn để trình bày một điệp ngữ đầy tính ngẫu hứng, khi ông nhắc đi nhắc lại câu, "Tôi có một ước mơ", có lẽ theo yêu cầu của Mahalia Jackson, "Nói cho họ biết về ước mơ đó đi, Martin!" Đây là thời khắc đẩy cảm xúc người nghe lên đỉnh điểm, và khiến nó trở thành phần nổi tiếng nhất của bài diễn văn: King kể cho họ nghe về ước mơ của ông, phác họa những hình ảnh về sự tự do và bình đẳng đang trỗi dậy từ vùng đất nô lệ và đầy hận thù. "Tôi có một ước mơ" đứng đầu danh sách 100 bài diễn văn chính trị xuất sắc nhất nước Mỹ trong thế kỷ 20, theo sự bình chọn năm 1999 của giới học giả về diễn thuyết trước công chúng. Bối cảnh Cuộc Tuần hành vì Việc làm và Tự do tổ chức tại Washington một phần nhằm biểu dương sự hậu thuẫn dành cho cuộc vận động của Tổng thống Kennedy trong tháng 6 thông qua các đạo luật dân quyền. King cùng những nhà lãnh đạo Phong trào Dân quyền đồng ý duy trì lập trường ôn hòa, và tránh kêu gọi những hành động bất tuân dân sự là dấu ấn nổi bật của Phong trào Dân quyền. King dự định sử dụng diễn từ này như một cơ hội để tôn vinh Diễn văn Gettysburg của Abraham Lincoln, nhân dịp kỷ niệm một trăm năm Bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ. Tựa đề và sự hình thành Từ thập niên 1960, King đã khởi sự nói về "ước mơ" khi ông diễn thuyết tại Hiệp hội vì sự Thăng tiến của người Da màu (NAACP) mà ông gọi là "Người da đen và ước mơ Mỹ", trình bày về khoảng cách giữa Giấc mơ Mỹ và cuộc sống thực tế của người Mỹ; ông cho rằng những người ủng hộ thuyết da trắng ưu việt làm tan nát ước mơ, và thêm rằng "Chính phủ liên bang của chúng ta khoét sâu thêm qua thái độ vô cảm và đạo đức giả, và bởi sự phản bội của họ đối với chính nghĩa của công lý". King nhận định, "Có thể lắm người da đen chính là phương tiện Chúa dùng để cứu rỗi linh hồn nước Mỹ." Tháng 6, 1963 ở Detroit, King cũng nói về một "ước mơ" khi ông tuần hành trên Đại lộ Woodward với Walther Reuther và Mục sư C. L. Franklin. Diễn từ King trình bày tại cuộc tuần hành Washington, "Tôi có một ước mơ", có vài phiên bản được viết vào những thời điểm khác nhau. Không có một phiên bản độc nhất nhưng là một sự tổng hợp từ vài bản thảo, lúc đầu được gọi là "Normalcy, Never Again". Một ít từ bản thảo này cùng một ít từ một bản thảo khác, "Normalcy Speech", được đem vào bản thảo sau cùng. Một bản thảo "Normalcy, Never Again" được lưu giữ tại Thư viện Robert W. Woodruff của Trung tâm Đại học Atlanta và Đại học Morehouse. Khi sắp kết thúc bài diễn văn, Tiến sĩ King nghe tiếng kêu to của ca sĩ nổi tiếng thuộc dòng nhạc Phúc âm, Mahalia Jackson, từ dưới đám đông, "Nói cho họ biết về ước mơ đó đi, Martin!". King ngưng đọc bài diễn văn soạn sẵn, và khởi sự "thuyết giảng", nhấn mạnh đến câu nói cao trào, "Tôi có một ước mơ". Bài diễn văn được phác thảo với sự trợ giúp từ Stanley Levinson và Clarence Benjamin Jones ở Riverdale, Thành phố New York. Jones thuật lại, "việc chuẩn bị hậu cần cho cuộc tuần hành quá nặng nề đến nỗi bài diễn văn không được xem là ưu tiên", ông thêm, "vào chiều tối thứ Ba, ngày 27 tháng 8 [12 giờ trước khi cuộc tuần hành bắt đầu] Martin vẫn chưa biết phải nói gì". Trước đó, King đã ứng dụng thủ pháp điệp ngữ cho câu "Tôi có một ước mơ" khi diễn thuyết trước cử tọa 25 000 người tại Cobo Hall ở Detroit ngay sau cuộc Diễu hành cho Tự do với sự tham dự của 125 000 người tại Detroit vào ngày 23 tháng 6 năm 1963. Sau cuộc tuần hành tại Washington, một bản thu âm diễn từ của King tại Cobo Hall được phát hành với tiêu đề "The Great March to Freedom". Phong cách Được ca tụng như là một kiệt tác của thuật hùng biện, bài diễn văn của King được định hình theo phong cách thuyết giáo của các mục sư da đen thuộc hệ phái Baptist, thường viện dẫn từ những nguồn có giá trị thiêng liêng và được mọi người tôn trọng như Kinh Thánh, Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ và Hiến pháp Hoa Kỳ. Thông qua thủ thuật hùng biện để kiến tạo những liên tưởng (định nghĩa bởi Campell và Huxman (2003) như là "những trích dẫn gián tiếp từ kiến thức văn hoá chung của người Mỹ như Kinh Thánh, thần thoại Hi Lạp và La Mã, hoặc lịch sử nước Mỹ"), King sử dụng ngôn từ và các trích đoạn từ những áng văn thâm thuý và được yêu thích của văn hóa Hoa Kỳ để biến chúng thành sức mạnh thuyết phục cho bài diễn văn của ông. Ngay từ phần đầu của bài diễn văn, King đã mượn lời từ Diễn văn Gettysburg của Abraham Lincoln khi ông nói "Five score years ago..." (Một trăm năm trước...). Những gợi ý đến từ Kinh Thánh chiếm vị trí vượt trội. King trích dẫn từ Thi thiên (Thánh vịnh) 30:5 trong đoạn thứ nhì của bài diễn văn, khi nhắc đến điều khoản bãi bỏ nô lệ được ghi trong bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ, ông nói "Nó đã đến như bình minh rộn rã để kết thúc đêm dài tăm tối của kiếp nô lệ". Một gợi ý khác đến từ Kinh Thánh được tìm thấy trong đoạn thứ mười của bài diễn văn: "Không, không, chúng ta không hài lòng, và chúng ta sẽ không hài lòng cho đến khi sự công chính đổ xuống như nước chảy và sự chính trực như một dòng sông", đến từ Amos 5:24. King cũng trích dẫn từ Isaiah 40:4 khi ông nói "Tôi có một ước mơ, rồi có một ngày mọi thung lũng sẽ được nâng cao, mọi đồi núi sẽ bị hạ thấp, chỗ lồi lõm sẽ được san bằng, chỗ quanh co sẽ thành ngay thẳng, và sự vinh hiển của Thiên Chúa sẽ hiển lộ để mọi loài xác thịt cùng nhau chiêm ngưỡng..." Sử dụng những chữ đầu một câu hoặc một phân đoạn để nhấn mạnh, sắp xếp và đẩy một ý tưởng lên đỉnh điểm (Campbell & Huxman, 2002, p. 177) là phép hùng biện được King sử dụng suốt bài diễn văn. Một ví dụ được tìm thấy ngay từ đầu khi King dẫn đưa đám đông đến cao trào: "Nay là lúc..." được lặp lại bốn lần trong đoạn thứ sáu của bài diễn văn. Nổi tiếng nhất là câu nói "Tôi có một ước mơ..." được lặp lại tám lần khi King phác họa bức tranh hòa hợp chủng tộc của một nước Mỹ hiệp nhất. Theo sắp đặt của chương trình, King là người thứ mười sáu trong số mười tám diễn giả phát biểu trong ngày tổ chức cuộc tuần hành. Dân biểu Hoa Kỳ John Lewis, ông cũng là một diễn giả tại sự kiện này với tư cách chủ tịch Ủy ban Phối hợp Sinh viên Bất bạo động, nhận xét, "Tiến sĩ King có sức mạnh, năng lực, và khả năng chuyển hóa những bậc thềm của Đài Tưởng niệm Lincoln thành một địa điểm được tưởng nhớ lâu dài. Bằng cung cách diễn thuyết của ông, King đã giáo dục, soi dẫn, và loan báo không chỉ cho những người có mặt ở đó, nhưng cho mọi người trên khắp nước Mỹ, và cho những thế hệ chưa sinh ra." Những ý tưởng được thể hiện trong bài diễn văn phản ánh những ngược đãi King đã nếm trải như một người da đen, và kêu gọi sự quan tâm đến lý tưởng của nước Mỹ như là một quốc gia được thành lập để cung ứng quyền tự do và công lý cho mọi người, rồi ông củng cố và làm thăng hoa những lý tưởng ấy bằng cách đặt chúng vào một bối cảnh thiêng liêng với lập luận rằng sự công bằng xã hội là phù hợp với ý chỉ của Chúa. Như thế, bài diễn văn đã cống hiến cho nước Mỹ cơ hội được cứu rỗi khỏi tội kỳ thị chủng tộc. King miêu tả những gì nước Mỹ đã hứa hẹn là một "tín phiếu" mà nước Mỹ không chịu thanh khoản. Ông nói, "nước Mỹ đã trao cho người da đen một tấm ngân phiếu xấu", nay "chúng ta đến để đổi tấm ngân phiếu ấy thành tiền" bằng cách tuần hành ở Washington, D. C. Tranh cãi về bản quyền Vì King thường phát những bản sao bài phát biểu của ông cho công chúng tại nơi diễn thuyết, đã có thời gian người ta tranh cãi về tình trạng bản quyền các bài phát biểu của ông. Việc này đã dẫn đến một vụ kiện, Công ty tài sản của Martin Luther King, Jr. kiện Công ty CBS, được tuyên là bên tài sản của King giữ bản quyền bài phát biểu và có quyền kiện. Việc sử dụng toàn văn hoặc một phần bài phát biểu mà chưa được cho phép vẫn có thể sử dụng trong một vài tình huống, đặc biệt là với lý do sử dụng hợp lý hoặc trích dẫn hợp lý. Theo luật hiện hành thì bài phát biểu vẫn được Hoa Kỳ bảo hộ bản quyền cho đến năm 2038, tức là 70 năm sau khi King mất. Phản hồi Một ngày sau, bài diễn văn nhận được sự tán tụng, và được những nhà quan sát xem là đỉnh cao của cuộc tuần hành. James Reston, một cây bút của tờ New York Times, nhận xét, "Tiến sĩ King đã chạm đến tất cả chủ đề của ngày ấy, chỉ để làm tốt hơn những người khác. Ông là một biểu tượng đầy trọn cho Lincoln và Gandhi, và thấm đẫm tinh thần của Kinh Thánh. Ông vừa quyết liệt vừa trầm lắng, và khiến đám đông ra về với cảm giác rằng một cuộc hành trình dài là xứng đáng". Reston cũng nhận thấy "sự kiện đã được truyền hình và báo chí tường thuật tốt hơn bất cứ sự kiện nào khác kể từ lễ nhậm chức của Tổng thống Kennedy," và tin rằng "sẽ còn lâu lắm [Washington] mới quên được giọng du dương u buồn của Mục sư Martin Luther King Jr. nói với đám đông về ước mơ của ông." Một bài viết của Mary McGrory đăng trên tờ Boston Globe thuật lại rằng diễn từ của King đã "hút hồn" và "cảm động đám đông" trong ngày ấy theo cách không một diễn giả nào khác có thể làm được. Marquis Childs của tờ Washington Post viết rằng diễn văn của King "vượt quá thuật hùng biện đơn thuần". Một bài báo trên tờ Los Angeles Times bình luận rằng "tài hùng biện vô song" được thể hiện bởi King, "nhà hùng biện siêu đẳng" với phong cách cách quá hiếm hoi đến nỗi hầu như bị lãng quên trong thời đại chúng ta, "đã khiến những kẻ chủ trương phân biệt phải hổ thẹn" bằng cách soi sáng "lương tâm của nước Mỹ" với công lý của chính nghĩa quyền công dân. William C. Sullivan, người đứng đầu đơn vị phản gián của FBI, CONIELPRO, hai ngày sau khi King đọc diễn từ "Tôi có một ước mơ", viết một bản ghi nhớ về ảnh hưởng đang gia tăng của King: "Xét đến ảnh hưởng trên người da đen, với bài diễn văn mị dân đầy thu hút của King hôm qua, ông ấy đứng vượt trội hơn hẳn tất cả lãnh tụ da đen cộng lại. Chúng ta phải đánh dấu ông ta ngay bây giờ, nếu trước đây chưa làm như thế, như là người da đen nguy hiểm nhất trong tương lai tại quốc gia này". Di sản Cuộc Tuần hành tại Washington gây áp lực trên chính quyền Kennedy thúc đẩy việc thông qua đạo luật dân quyền tại Quốc hội. Theo nhật ký của Arthur M. Schlesinger, Jr. (phụ tá đặc biệt cho Tổng thống Kennedy từ năm 1961-63) phát hành năm 2007 sau khi ông mất, nói rằng Tổng thống Kennedy tỏ ra lo lắng nếu cuộc tuần hành không thu hút được nhiều người sẽ ảnh hưởng đến nỗ lực thúc đẩy dân quyền của ông. Sau cuộc tuần hành, tạp chí TIME chọn King là Nhân vật của Năm năm 1963, năm sau ông được trao tặng Giải Nobel Hòa bình, King là người trẻ tuổi nhất được nhận vinh dự này. Năm 2002, Thư viện Quốc hội vinh danh "Tôi có một ước mơ" khi chọn bài diễn văn vào Danh sách Ghi âm Quốc gia (tuyển chọn những bản ghi âm có tầm quan trọng về văn hóa, lịch sử, và thẩm mỹ, hoặc phản ảnh cuộc sống tại Hoa Kỳ). Năm 2003, Cục Công viên Quốc gia khánh thành một bệ đá hoa cương đánh dấu địa điểm King đọc bài diễn văn tại Đài Tưởng niệm Lincoln. Trích dẫn Chú thích Xem thêm Martin Luther King, Jr. Phong trào Dân quyền Mỹ Người Mỹ gốc Phi Diễn văn Gettysburg Hẹn hò với Định mệnh Liên kết ngoài Tôi Có Một Giấc mơ I Have a Dream (text of speech), Douglass Archives of American Public Address. Text of speech : World Wide School Text of speech : United States Department of State Audio and text of speech : History and Politics Out Loud Lyrics of the traditional spiritual "Free At Last" Digitally synchronized audio and text version of "I Have a Dream" : downloadable DAISY file Diễn văn Khẩu hiệu chính trị Mỹ Văn bản lịch sử Hoa Kỳ Martin Luther King, Jr. Hoa Kỳ năm 1963
VI_open-0000000036
People_and_Society
Pāli (𑀧𑀸𑀮𑀺) còn gọi là Nam Phạn, là một ngôn ngữ thuộc nhóm Ấn-Arya Trung cổ hay prakrit. Nam Phạn là ngôn ngữ kinh điển của Phật giáo Nam Tông, dùng trong việc chép kinh cùng tụng niệm, trong đó có bộ Tam tạng (tên theo tiếng Nam Phạn là Tipitaka). Chữ Nam Phạn được đúc kết từ mấy nguồn hệ thống chữ viết khác nhau, từ chữ Brahmi, Devanāgarī và các chữ viết thuộc hệ Ấn-Aryan. Khi Latinh hóa thì hệ thống do T. W. Rhys Davids thuộc Pali Text Society khởi xướng được dùng nhiều hơn cả. Nguồn gốc ngôn ngữ và sự phát triển Bản thân từ Pāli có nghĩa là "hàng chữ" hay "văn bản (chính tắc)", và tên gọi này dường như bắt nguồn từ các truyền thống chú giải, trong đó Pāli (theo nghĩa các hàng chữ hay văn bản nguyên gốc được trích dẫn) được phân biệt với các câu chú giải hay là các câu bằng tiếng bản xứ theo sau đó trên trang bản viết. Do đó, tên gọi của ngôn ngữ này đã gây ra nhiều tranh luận giữa các học giả thuộc mọi thời đại; cách viết của tên cũng khác nhau, với "ā" ([ɑː]) dài và "a" ([a]) ngắn, cũng như với âm bật lưỡi (retroflex) ([ɭ]) hay là không có âm bật lưỡi ([l]) "l". Cho đến ngày nay, không có một cách viết chuẩn duy nhất của tên của ngôn ngữ này; cả bốn cách viết có thể tìm thấy trong các sách giáo khoa. Pāli là ngôn ngữ văn chương của nhóm ngôn ngữ Prakrit; nó không phải (và chưa bao giờ) là một ngôn ngữ nói thông thường, theo nghĩa của một ngôn ngữ mẹ đẻ. Mặc dù có nhiều nghiên cứu xuất sắc về vấn đề này, vẫn thường có sự nhầm lẫn về các liên hệ giữa Pāli và tiếng bản xứ của tiếng Magadha cổ đại. Pāli được những người theo Phật giáo thời xa xưa coi là tương đồng về mặt ngôn ngữ với tiếng Magadha cổ hay là sự nối tiếp trực tiếp của ngôn ngữ đó. Nhiều nguồn Theravada nhắc đến tiếng Pāli như là "tiếng Magadha". Tuy nhiên, dòng chữ khắc trên đá bằng tiếng Magadha của A-dục vương (Asoka) là một ngôn ngữ Đông Ấn trong khi đó Pāli giống với các chữ khắc bằng tiếng Tây Ấn hơn. Có nhiều sự giống nhau đáng kể giữa Pali và một dạng cổ của Magadha - Ardhamagadha (Bán Magadha) - được bảo lưu trong các văn bản đạo Jain cổ. Ardhamagadha khác với Magadha cũng trong các điểm tương tự như là với Pali. Chẳng hạn, Ardhamagadha cũng không biến đổi r thành l, và trong biến tố danh từ nó cho thấy -o ở cuối thay vì -e như tiếng Magadha ít nhất là trong nhiều nơi có vần điệu. Điều tương tự này không phải là ngẫu nhiên, bởi vì người sáng lập ra đạo Jain Mahavira cũng truyền đạo trên cùng một khu vực (Magadha) với Phật Thích Ca. Oskar von Hinuber đã cho rằng Pāli có thể bắt nguồn như là một dạng lingua franca (ngôn ngữ thương mại) vào thời đại đế chế Maurya của A-dục vương. Cho đến thời điểm Phật giáo truyền sang Sri Lanka (bởi các nhà truyền giáo mà vua A-dục vương phái đi), theo như các nguồn trong kinh Phật), Pāli là một ngôn ngữ văn chương đủ phức tạp để được sử dụng trong việc ghi lại toàn bộ Tam tạng. Sau khi Bộ kinh Pāli được truyền sang Sri Lanka, nó tiếp tục được bảo quản hoàn toàn bằng tiếng Pāli, trong khi các chú giải đi kèm theo nó (theo thông tin cung cấp bởi Buddhaghosa) được dịch sang tiếng Sinhala và được bảo quản trong tiếng địa phương qua nhiều đời khác nhau. Tuy nhiên nó cuối cùng đã bị tiếng Sanskrit thay thế trong vai trò một ngôn ngữ văn chương và tôn giáo sau khi các học giả Pānini ở Ấn Độ hình thức hóa tiếng Phạn cổ điển. Ở Sri Lanka, Pāli được cho là đã vào giai đoạn thoái trào vào khoảng thế kỉ thứ 5 (khi tiếng Sanskrit đạt đến đỉnh cao), nhưng rồi cuối cùng vẫn tồn tại. Tác phẩm của Buddhaghosa đóng vai trò quan trọng cho sự hồi sinh trở lại của Pali như là một ngôn ngữ quan trọng của Phật giáo. Bộ Visuddhimagga cùng các tác phẩm bình chú khác mà Buddhaghosa biên dịch đã hệ thống hóa và làm gọn lại những chú giải truyền thống bằng tiếng Sinhala, vốn đã được duy trì và mở rộng ở Sri Lanka từ thế kỉ thứ 3. Ngày nay Pāli được nghiên cứu chủ yếu là để tìm hiểu các bộ kinh của Phật giáo Tiểu Thừa, và thường được sử dụng để tụng niệm trong các nghi thức tế lễ. Các văn thư thông thường liên quan đến tôn giáo bằng tiếng Pāli như sử ký, y thư, văn bia, cũng có giá trị lịch sử quan trọng. Các trung tâm lớn nghiên cứu bằng tiếng Pāli vẫn tồn tại ở các nước có truyền thống Theravada ở Đông Nam Á: Myanmar, Sri Lanka, Thái Lan, Lào và Campuchia. Học thuật Pāli ở vùng Bắc Ấn Độ nhìn chung là kết thúc với sự trỗi dậy của triều đại Sena, và đi xuống tại vùng bán đảo Ấn Độ, và có lẽ kéo dài nhất tại bang Orissa, nghĩa là, cuối cùng kết thúc (cùng với sự thực hành Phật giáo) với sự thất bại của cuộc kháng chiến cuối cùng trước sự bành trướng của các đế quốc Hồi giáo trên tiểu lục địa Ấn Độ. Kể từ thế kỉ thứ 19, nhiều hội đoàn phục hưng việc nghiên cứu Pāli ở Ấn Độ đã quảng bá nhận thức về ngôn ngữ này và nền văn học của nó, có lẽ đáng kể nhất là Maha Bodhi Society thành lập bởi Anagarika Dhammapala. Ở châu Âu, Pali Text Society là lực lượng chính cùng với các học giả phương Tây quảng bá việc nghiên cứu tiếng Pāli kể từ ngày thành lập vào năm 1881. Đặt trụ sở tại Anh, hội này đã xuất bản các sách Pāli phiên ra tiếng Latinh, cùng với nhiều bản dịch tiếng Anh của các nguồn này. Pali Text Society được lập ra một phần để bù đắp cho kinh phí rất thấp dành cho ngành Ấn Độ học vào cuối thế kỉ 19 ở Anh; một cách phi lý là người Anh không mạnh mẽ trong việc nghiên cứu tiếng Phạn và Prakrit như là ở Đức, Nga và ngay cả Đan Mạch - một thực tế kéo dài đến tận ngày nay. Không cần phải là xứ thuộc địa như là trường hợp người Anh với Sri Lanka và Mayanma, các viện nghiên cứu như Thư viện Hoàng gia Đan Mạch đã xây dựng một bộ sưu tập lớn các văn bản tiếng Pāli, và xây dựng một truyền thống nghiên cứu tiếng Pāli khá mạnh. Từ vựng Gần như mỗi từ trong Pāli có từ cùng nguồn gốc trong các "ngôn ngữ Ấn-Aryan Trung cổ" Prakrit khác, ví dụ, Jain Prakrit. Quan hệ với Sanskrit trước đó (ví dụ, tiếng Vệ-đà) là ít trực tiếp hơn và phức tạp hơn. Theo lịch sử, ảnh hưởng giữa Pāli và Sanskrit có thể cảm nhận ở cả hai chiều. Sự giống nhau giữa tiếng Pāli và Sanskrit thường được cường điệu bằng cách so sánh nó với những tác phẩm sau này bằng Sanskrit—mà chúng được viết ra nhiều thế kỉ sau khi Sanskrit đã không còn là một ngôn ngữ sống nữa, và bị ảnh hưởng bởi các phát triển trong vùng Trung Ấn, bao gồm cả việc mượn trực tiếp một phần từ vựng Trung Ấn; trong khi đó, phần lớn các thuật ngữ Pāli sau này được mượn từ những từ vựng Sanskrit của các ngành tương đương, hoặc là trực tiếp hoặc là với một số thay đổi về cách phát âm nào đó. Pāli sau này cũng có một vài từ mượn từ các ngôn ngữ địa phương nơi mà Pāli được sử dụng (ví dụ người Sri Lanka thêm từ trong tiếng vào Pāli). Những sử dụng này phân biệt Pāli tìm thấy trong Suttapiṭaka và các tác phẩm sau này chẳng hạn như các lời chú giải Pāli trong các bộ kinh và các câu chuyện dân gian (ví dụ, các câu chuyện bình giải Jātaka), và các nghiên cứu so sánh và xác định niên đại của bản sách dựa trên những từ vay mượn đó bây giờ trở thành một ngành chuyên môn. Pāli không phải chỉ được sử dụng trong việc truyền đạt những lời dạy của Phật, bởi vì tồn tại nhiều bản sách khác không liên quan đến tôn giáo, như là các sách về y khoa, bằng tiếng Pāli. Tuy vậy, các nghiên cứu học thuật về ngôn ngữ này tập trung vào các tác phẩm tôn giáo và triết học, do cánh cửa độc nhất vô nhị mà nó mở ra trong một giai đoạn phát triển của Phật giáo. Quan điểm Emic về Pāli Mặc dù trong truyền thống Bà-la-môn, tiếng Sanskrit được cho là một ngôn ngữ không thay đổi được nói bởi các thần linh, trong đó mỗi từ hàm chứa một ý nghĩa quan trọng, quan điểm này đã không được chia sẻ trong các truyền thống Phật giáo thời xưa, mà trong đó từ ngữ chỉ là những dấu hiệu quy ước và có thể thay đổi được. Cả Phật và những người theo ông thời xưa không chia sẻ quan điểm của các bà-la-môn về sự kính trọng đối với tiếng Vệ-đà hay là kinh sách. Quan điểm này về ngôn ngữ đã được mở rộng một cách tự nhiên đến Pāli, và có thể đóng góp vào việc sử dụng nó (như là một xấp xỉ hay là chuẩn hóa của các phương ngữ Ấn-độ Trung cổ) thay cho Sanskrit. Tuy nhiên theo như suy nghĩ thông thường, các lời tụng kinh bằng tiếng Pāli thường được cho là có những quyền năng siêu phàm (có thể là do ý nghĩa của lời kinh, bản chất của người tụng, hay là chất lượng của bản thân ngôn ngữ), và trong những bản văn Phật giáo cổ người ta có thể thấy Pāli dhāraṇī được sử dụng như là những câu thần chú, ví dụ để chống rắn cắn. Nhiều người trong các văn hóa Phật giáo Theravada vẫn còn tin rằng thề thốt bằng tiếng Pāli có một sự quan trọng đặc biệt, và, như là một ví dụ về quyền năng siêu phàm được gán cho việc tụng kinh trong thứ tiếng này, tụng lên những lời thề của Aṅgulimāla được tin là làm giảm đau trong quá trình sinh nở ở Sri Lanka. Ở Thái Lan, việc tụng một phần của Abhidhammapiṭaka được tin là có lợi cho người vừa mới qua đời, và lễ này có thể kéo dài cho đến bảy ngày. Một điều thú vị là, không có một thứ gì trong văn bản kể sau có liên quan đến chủ đề này, và nguồn gốc của phong tục vẫn chưa rõ. Hệ thống âm vị Các nguyên âm Các nguyên âm dài và ngắn chỉ tương phản nhau trong các âm tiết mở; trong các âm tiết đóng, tất cả các nguyên âm luôn ngắn. Các âm e và o dài phân bố bù trừ nhau: các thay đổi ngắn chỉ xảy ra trong các âm tiết đóng, các thay đổi dài chỉ xảy ra trong các âm tiết mở. Các âm e và o ngắn và dài do đó không có âm vị khác nhau. Các phụ âm Các âm liệt kê bên trên, ngoại trừ ṅ, ḷ và ḷh là các âm vị khác nhau trong Pāli. ṅ chỉ xảy ra trước các điểm dừng của các âm vòm. ḷ và ḷh là tha âm vị của ḍ và ḍh khi chúng xảy ra đơn lẻ giữa các nguyên âm. Ví dụ tiếng Pāli Manopubbaṅgamā dhammā, manoseṭṭhā manomayā; Manasā ce paduṭṭhena, bhāsati vā karoti vā, Tato nam dukkhaṃ anveti, cakkaṃ'va vahato padaṃ. Phân loại từng từ một Mano-pubbaṅ-gam=ā dhamm=ā, mano-seṭṭh=ā mano-may=ā; Mind-before-going=m.pl.nom. Thing=m.pl.nom., mind-foremost=m.nom.pl. mind-made=m.nom.pl. Manas=ā ce paduṭṭh=ena, bhāsa=ti vā karo=ti vā, Mind=n.sg.inst. if corrupted=n.sg.inst. speak=3.sg.pr. either act=3.sg.pr. or, Ta=to naṃ dukkhaṃ anv-e=ti, cakkaṃ 'va vahat=o pad=aṃ. That=from him suffering after-go=3.sg.pr., wheel as carrying(beast)=m.sg.gen. foot=n.sg.acc. Ba từ ghép của hàng đầu theo nghĩa đen là: manopubbaṅgama "đi trước đó là trí óc (Tâm)", "trí óc (Tâm) như là người đi trước hay là lãnh đạo" manoseṭṭha "thành phần trước nhất là trí óc (Tâm)", "trí óc (Tâm) như thủ lĩnh" manomaya "chứa đựng trí óc (Tâm)" hay "làm ra bởi trí óc (Tâm)" Dịch nghĩa sát: "Pháp với trí óc (Tâm) là lãnh đạo, trí óc (Tâm) là thủ lĩnh, được làm ra bởi trí tuệ. Nếu [ai đó] nói hoặc hành động với một trí óc (Tâm) mục nát, từ [nguyên nhân] đó đau khổ sẽ bám theo anh ta, như là bánh xe [đi theo] vết chân của con vật kéo." Một bản dịch có vẻ tự do hơn bởi Acharya Buddharakkhita Trí óc (Tâm) đi trước mọi trạng thái tinh thần. Trí óc (Tâm) là thủ lĩnh; tất cả đều làm ra từ trí óc (Tâm). Nếu một người hành động hay nói với một trí óc (Tâm) không trong sạch đau khổ sẽ theo anh ta như bánh xe đi theo vết chân bò (kéo xe). Pāli và Sanskrit Mặc dù Pāli không thể được xem là hậu duệ trực tiếp của hoặc Sanskrit Cổ điển hoặc là Vedic Sanskrit cổ hơn, những ngôn ngữ này hiển nhiên là rất gần nhau và những đặc tính chung của Pāli và Sanskrit luôn luôn được nhận ra một cách dễ dàng bởi những người ở Ấn Độ thông thạo cả hai thứ tiếng. Thật vậy, một phần rất lớn các từ trong Pāli và Sanskrit là hoàn toàn giống nhau, chỉ khác nhau trong chi tiết biến tố. Các liên hệ này đủ phổ biến để các thuật ngữ từ Sanskrit có thể chuyển đổi dễ dàng thành Pāli bằng một số các biến đổi phát âm quy ước trước. Những biến đổi này bắt chước một phần nhỏ hơn của các phát triển về âm vị học đã diễn ra trong Proto-Pāli. Bởi vì sự phổ biến của những biến đổi này, không phải lúc nào cũng nói được một từ Pāli là một phần của một từ Prakrit cổ, hay là một biến đổi mượn từ Sanskrit. Sự tồn tại một từ tiếng Sanskrit tương ứng với một từ tiếng Pāli không phải lúc nào cũng là một bằng chứng chắc chắn về từ nguyên của Pāli, bởi vì, trong một số trường hợp, các từ Sanskrit nhân tạo được tạo ra bằng cách ghép các từ Prakrit. Các quá trình chuyển âm sau không phải là một miêu tả đầy đủ của các thay đổi lịch sử tạo ra Pāli từ tiếng Ấn Cổ đại (Old Indic), như nên được hiểu như là một tóm tắt giữa các tương đương về âm vị phổ thông nhất giữa Sanskrit và Pāli, mà không tuyên bố đó là đầy đủ. Các nguyên âm và nguyên âm đôi Sanskrit ai và au luôn luôn được giảm thành Pāli e và o, một cách tương ứng. Ví dụ: maitrī → mettā, → osadha Sanskrit aya và ava cũng vậy thường giảm về Pāli e và o Ví dụ: dhārayati → dhāreti, avatāra → otāra, bhavati → hoti Sanskrit avi trở thành Pāli e (nghĩa là avi → ai → e) Ví dụ: sthavira → thera Ví dụ: Sanskrit các nguyên âm dài được rút ngắn trước một dãy các cặp phụ âm sau đây. Ví dụ: Các phụ âm Các biến đổi âm thanh Tham khảo Ngôn ngữ tại Ấn Độ Ngữ chi Ấn-Arya Ngôn ngữ tại Bangladesh
VI_open-0000000039
People_and_Society
Cộng hòa Chechnya (tiếng Nga: Чече́нская Респу́блика Čečenskaja Respublika; tiếng Chechen: Нохчийн Республика/Noxçiyn Respublika), là một nước cộng hòa thuộc Liên bang Nga. Nằm trên vùng núi Bắc Caucasus, Chechnya giáp phía tây–bắc với Stavropol Krai, phía đông; đông–bắc giáp Gruzia, phía tây giáp Ingushetiya và Bắc Ossetia. Trong thời gian Liên Xô sụp đổ, chính phủ lâm thời của Chechnya tuyên bố độc lập, đặt tên nước là Cộng hòa Chechnya. Nhưng nền Cộng hòa này không được quốc tế công nhận. (Năm 2000 chính phủ Taliban của Afghanistan công nhận Cộng hòa Chechnya trước khi bị quân đội Hoa Kỳ đánh đuổi.) Lịch sử Chechnya là một vùng ở phía Bắc Kavkaz luôn phải kháng cự lại thế lực cai trị bên ngoài bắt đầu từ người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman ở thế kỷ 15. Cuối cùng người dân Chechnya đã cải theo Hồi giáo và căng thẳng với người Thổ giảm dần; tuy nhiên, những cuộc xung đột với những người láng giềng theo Thiên Chúa giáo như người Gruzia và Cô Dắc, cũng như với người Kalmyk theo Phật giáo lại tăng lên. Đạo quân Terek Cô Dắc của người Nga được thành lập tại vùng đất thấp Chechnya năm 1577 bởi những người Cô Dắc tự do tái định cư từ Volga tới vùng Sông Terek. Năm 1783, Nga và vương quốc đông Georgia Kartl-Kakheti (vốn đã bị tàn phá bởi những cuộc cướp phá của người Thổ Nhĩ Kỳ và Ba Tư) ký kết Hiệp ước Georgievsk, theo đó Kartl-Kakheti nhận được sự bảo hộ của Nga. Để giữ mối liên lạc với Georgia và các vùng khác tại vùng Ngoại Kavkaz, Đế chế Nga bắt đầu mở rộng ảnh hưởng vào vùng núi Caucasus. Cuộc kháng chiến chống sự cai trị của Nga hiện nay đã bắt đầu từ cuối thế kỷ 18 (1785-1791) như là hậu quả của hành động mở rộng của nước Nga vào những lãnh thổ thuộc quyền kiểm soát cũ của Thổ Nhĩ Kỳ và Ba Tư (xem thêm Những cuộc chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ và Chiến tranh Nga-Ba Tư, 1804-13), dưới sự lãnh đạo của Mansur Ushurma—một Naqshbandi (Sufi) Sheikh Chechnya—với sự ủng hộ ít ỏi từ phía các bộ lạc Bắc Caucasia khác (việc các vị khan thay đổi phe xung đột nhiều lần trong một năm không phải là điều hiếm gặp). Mansur đã hy vọng thành lập một nhà nước Hồi giáo Nam Kavkaz theo luật shari'a, nhưng cuối cùng không thể thành công bởi cả sự phản đối của Nga và sự chống đối của nhiều người dân Chechnya (nhiều người trong số họ ở thời điểm ấy còn chưa theo Hồi giáo). Khẩu hiệu của họ do Imam Shamil, người đã chiến đấu chống lại người Nga từ năm 1834 tới 1859 đưa ra. Thời Xô viết Suốt từ thế kỷ 19, ngọn lửa chống đối Chechnya luôn bùng lên khi nước Nga phải đối mặt với tình trạng bất ổn bên trong. Nhiều cuộc nổi dậy đã xảy ra thời Chiến tranh Nga-Thổ (Xem Chiến tranh Nga-Thổ, 1877–1878), Cách mạng Nga 1905, Cách mạng Nga 1917, Nội chiến Nga, và thời Tập thể hoá. Thời Xô viết, Chechnya được gộp cùng Ingushetia thành nước Cộng hòa tự trị Chechnya-Ingushetia vào cuối thập niên 1930. Người Chechen một lần nữa nổi loạn chống lại nhà nước Xô viết trong thập niên 1940 bằng cách cộng tác với quân Đức Quốc xã, dẫn tới cuộc trục xuất hàng loạt người Chechen tới CHXHCNXV Kazakh (sau này là Kazakhstan) và Siberia trong Chiến tranh thế giới thứ hai . Stalin và những người khác cho rằng điều này là cần thiết để ngăn chặn người Chechen hỗ trợ cho quân Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Dù chiến trận không bao giờ lan tới biên giới Chechnya, một phong trào du kích Chechnya đã đe dọa làm suy yếu thế trận phòng thủ vùng Kavkaz của Xô viết (cần lưu ý nhà văn Valentin Pikul trong đoạn viết về lịch sử Barbarossa đã cho rằng khi thành phố Grozny đang chuẩn bị cho một cuộc phong tỏa năm 1942, tất cả máy bay ném bom của mặt trận Caucasia được lệnh phải dẹp yên cuộc nổi loạn của người Chechen thay vì chiến đấu với quân Đức trong cuộc phong toả Stalingrad). Tương tự, những vụ thả dù bí mật của quân Đức tiếp tế cho quân nổi loạn Chechnya cũng thường xảy ra. Người Chechen được phép quay trở lại quê hương họ sau năm 1956 ở thời phi Stalin hoá khi Nikita Khrushchev lên nắm quyền. Các chính sách Nga hóa người dân Chechnya tiếp tục diễn ra sau năm 1956, tiếng Nga trở thành ngôn ngữ cần thiết cho mọi mặt đời sống và để tiến thân vào hệ thống Xô viết. Khi Liên bang xô viết sụp đổ năm 1990, một phong trào độc lập, ban đầu là Đại hội Quốc gia Chechnya, được thành lập. Phong trào này cuối cùng đã bị nhà nước Liên bang Nga của Boris Yeltsin phản đối, với lý lẽ: (1) Chechnya chưa từng là một thực thể độc lập bên trong Liên bang Xô viết – như vùng Baltic, Trung Á, và các Quốc gia Caucasia khác – mà từng là một phần của Cộng hòa Liên bang Nga Xã hội Chủ nghĩa và vì thế không có quyền ly khai theo hiến pháp Nga; (2) Các nhóm dân tộc thiểu số khác bên trong nước Nga, như người Tatars, sẽ theo bước người Chechen và đòi ly khai khỏi Liên bang Nga nếu họ được trao quyền đó, điều này đe dọa nghiêm trọng sự toàn vẹn lãnh thổ của Nga; (3) Chechnya là một điểm nút cơ sở hạ tầng dầu khí quốc gia và vì thế có thể gây ảnh hưởng tới nền kinh tế quốc gia cũng như việc kiểm soát các nguồn tài nguyên dầu khí. Cuộc chiến tranh Chechnya lần thứ nhất Cuộc chiến tranh Chechnya lần thứ hai Vai trò của Nga tại Chechnya Chechnya được những người theo chủ nghĩa ly khai của họ coi là một nước Cộng hòa độc lập, và được những người theo chủ nghĩa liên bang coi là một nước Cộng hòa liên bang. Hiến pháp vùng của nước này bắt đầu có hiệu lực ngày 2 tháng 4 năm 2003 sau cuộc trưng cầu dân ý tổ chức ngày 23 tháng 3 năm 2003. Cuộc trưng cầu dân ý này được tổ chức không theo các tiêu chuẩn quốc tế. Con số người tham dự được đưa ra dường như cao hơn thực tế rất nhiều. Một số người Chechyna thuộc hay đã thuộc tầm kiểm soát của các teip địa phương, hay các dòng họ, dù vẫn có sự tồn tại của các phong trào chính trị ủng hộ và phản đối nước Nga. Từ năm 1990, tại Cộng hoà Chechnya đã xảy ra một cuộc nội chiến quân sự, theo đúng nghĩa giữa phong trào phản đối và ủng hộ chính quyền Nga. Động cơ của người Nga và người Chechya trong những cuộc xung đột này rất phức tạp. Nước Nga can dự vào Chechnya liên quan tới sự lo ngại rằng nếu Chechnya độc lập, sẽ có thêm nhiều vùng lãnh thổ khác ly khai khỏi nước Nga, dẫn tới sự tan rã của nó. Những nguồn lợi kinh tế cũng là một yếu tố khác. Từ lâu đã có một cuộc xung đột giữa Nga và Chechnya gây ra những tổn thất đẫm máu cho cả hai phía. Có nhiều nhóm khác nhau bên trong Chechnya chiến đấu chống lại Nga với những động cơ chính trị, kinh tế và/hay lý tưởng khác nhau. Một số nhóm xuất phát từ lòng căm thù và ham muốn trả thù những hành động chính trị và quân sự của nước Nga trong quá khứ. Đặc biệt là việc dời toàn bộ dân tới Siberia trong thập kỷ 1940, dẫn tới sự thiệt mạng của khoảng một phần tư dân số Chechnya. Sự tổng hợp của các động cơ biểu lộ vòng xoáy trả thù là nhiên liệu cho những cuộc xung đột trong vùng, cũng như nền văn hóa quân sự khiến đa số dân muốn tham gia vào một cuộc xung đột quân sự dưới sự lãnh đạo của một vị thủ lĩnh. Tình trạng thất nghiệp và nghèo khổ cũng là những yếu tố kéo dài cuộc xung đột. Vị lãnh chúa ly khai cũ Akhmad Kadyrov, bị nhiều người ly khai coi là kẻ phản bội đã nhận được 83% số phiếu trong một cuộc bầu cử có sự giám sát quốc tế vào ngày 5 tháng 10 năm 2003. Những lời lên án về việc gian lận phiếu và đe dọa của binh lính Nga và việc trục xuất các Đảng ly khai sau này đã được các giám sát viên Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE) đề cập. Rudnik Dudayev là chủ tịch Hội đồng An ninh Chechnya và Anatoly Popov trở thành Thủ tướng. Ngày 9 tháng 5 năm 2004, Kadyrov bị ám sát trong một sân vận động ở Grozny bằng một vụ nổ mìn được dấu sẵn từ trước bên dưới khu vực VIP và được kích nổ khi đang diễn ra cuộc diễu binh tưởng niệm Chiến tranh thế giới thứ hai. Sergey Abramov được chỉ định làm quyền thủ tướng sau vụ ám sát. Tuy nhiên, sau một vụ tai nạn ô tô tại Mátxcơva năm 2005 Sergey Abramov không còn có thể đảm đương chức vụ. Ramzan Kadyrov (con trai của Akhmad Kadyrov) trở thành người đảm nhiệm chức vụ thủ tướng từ sau vụ tai nạn và ngày 1 tháng 3 năm 2006 Abramov đã từ chức. Abramov đã nói với hãng thông tấn Itar-Tass: "Tôi từ chức trong hoàn cảnh Ramzan Kadyrov điều hành chính phủ Chechnya bởi tôi thực sự tin rằng quyết định đó là đúng đắn." Nhiều người tin rằng Ramzan Kadyrov sẽ nỗ lực kế bước cha nếu ông ta không gặp vấn đề tuổi tác – hiện ông mới hơn 20 tuổi (45 tuổi vào 2021) và hiến pháp đòi hỏi tổng thống phải trên 30 tuổi. Nhiều người cho rằng ông là người giàu nhất và nhiều quyền lực nhất nước, với quyền kiểm soát nhiều đội quân vũ trang tư nhân lớn được gọi là 'Kadyrovski'. Đội quân vũ trang – tiền thân là đội bảo vệ an ninh của cha ông – bị nhiều tổ chức nhân quyền như Human Rights Watch cáo buộc thực hiện các vụ giết hại và bắt cóc. Ngày 29 tháng 8 năm 2004 một cuộc bầu cử tổng thống mới diễn ra. Theo Ủy ban bầu cử Chechnya, Alu Alkhanov, cựu Bộ trưởng nội vụ nhận được khoảng 74% số phiếu. Tỷ lệ người tham gia bầu cử đạt 85,2%. Nhiều nhà quan sát, như Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Liên đoàn Nhân quyền Helsinki, cũng như phe đối lập, đặt nghi vấn về cuộc bầu cử, một phần vì đối thủ chính Malik Saidullayev chưa đạt tầm cần thiết. Việc bỏ phiếu cũng bị nghi ngờ, nhưng không hề có một nghi vấn chính thức nào được đưa ra. Cuộc bầu cử được quốc tế giám sát với sự hiện diện của Hội đồng các quốc gia độc lập và Liên đoàn Ả rập; các nhà quan sát phương tây, dù được mời, đã không tham gia giám sát do những vi phạm từ trước đó. Ngoài chính phủ được Nga công nhận, còn có một chính phủ ly khai không được bất kỳ một nước nào công nhật (dù các thành viên đã được trao quy chế tỵ nạn chính trị tại châu Âu và các nước Ả rập, cũng như tại Hoa Kỳ). Chính phủ ly khai đã được Georgia công nhận (khi Zviad Gamsakhurdia còn là Tổng thống Georgia và Tổng thống Chechnya là Dzhokhar Dudaev. Năm 1999 chính phủ Taliban của Afghanistan công nhận nền độc lập của Chechnya và cho phép mở đại sứ tại Kabul ngày 16 tháng 1 2000. Việc công nhận đã bị hủy bỏ khi Taliban bị đánh bại năm 2001. Tổng thống của chính phủ này là Aslan Maskhadov, Bộ trưởng ngoại giao là Ilyas Akhmadov, người này cũng là người phát ngôn của Maskhadov. Ilyas Akhmadov hiện sống tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Aslan Maskhadov đã được chọn vào một Ủy ban giám sát bầu cử quốc tế năm 1997 với nhiệm kỳ bốn năm, sự kiện này đã diễn ra sau việc ký kết một thỏa thuận với Nga. Năm 2001 ông đã đưa ra một nghị định kéo dài nhiệm kỳ của mình thêm một năm; ông không thể tham gia vào cuộc bầu cử tổng thống năm 2003 bởi các Đảng ly khai bị chính phủ Nga cấm đoán, và Maskhadov đối mặt với lời buộc tội tiến hành khủng bố trong nước Nga. Maskhadov đã rời Grozny sang vùng kiểm soát của phe ly khai ở phía nam khi Cuộc chiến tranh Chechnya thứ hai diễn ra. Tổng thống Maskhadov không thể gây ảnh hưởng tới một số vị lãnh chúa vẫn còn giữ quyền kiểm soát với một số vùng lãnh thổ Chechnya, và quyền lực của ông cũng đã mất. Ông đã lên án cuộc tấn công của những kẻ nổi loạn vào Beslan và cố giữ khoảng cách với Shamil Basayev, người tuyên bố chịu trách nhiệm cho cuộc tấn công trên. Các lực lượng Nga đã giết Maskhadov ngày 8 tháng 3 năm 2005. Vụ ám sát Maskhadov của các lực lượng Nga đã bị chỉ trích rộng rãi bởi vị lãnh đạo ly khai Chechnya "ôn hoà" đã không còn có thể đóng vai trò vào các cuộc thương lượng. Akhmed Zakayev, Phó thủ tướng và là Bộ trưởng ngoại giao thời Maskhadov, lên nhậm chức một thời gian ngắn sau cuộc bầu cử năm 1997 hiện sống tỵ nạn tại Anh Quốc. Ông và những người khác đã lựa chọn Abdul Khalim Saidullayev để thay thế Maskhadov sau khi ông này chết, bỏ qua Basayev. Tuy nhiên, đã có tin báo rằng Basayev thay đổi lập trường và tuyên thệ trung thành với Saidullayev. Saidullayev là một vị thẩm phán Hồi giáo chưa mấy nổi tiếng, trước kia là một người dẫn chương trình Hồi giáo trên kênh truyền hình Chechnya. Lập trường của ông cũng chưa được tiết lộ, khiến người Nga và những người khác đoán rằng việc lựa chọn ông đánh dấu sự tiếp tục ảnh hưởng của Basayev – Saidullayev chỉ mang tính hình thức – và sự khan hiếm những nhân vật có ảnh hưởng trong phong trào ly khai Chechya. Ngày 17 tháng 6 năm 2006, có tin cho rằng các lực lượng đặc biệt Nga đã tiêu diệt Abdul Khalim Saidullayev trong một trận tập kích tại làng Argun, Chechnya. Theo tờ The New York Times, các kênh truyền hình Nga đã chiếu các hình ảnh khủng khiếp về một thân thể có thể là Saidullayev, và một Web site của quân nổi dậy Chechnya, Kavkaz Center, đã xác nhận cái chết của ông và tuyên bố ông là một người tử vì đạo. Người kế tục Saidullayev là Doku Umarov. Ngày 10 tháng 7 năm 2006, FSB thông báo rằng các mật vụ của họ đã tiêu diệt Basayev và 12 tên ly khai Chechnya tại Ingushetia khi kích nổ một quả bom gần xe tải chở những tên này. Quân ly khai Chechya đã bác bỏ thông tin và tuyên bố rằng Basayev bị thiệt mạng khi xe tải chở thuốc nổ bị nổ, và đây là một vụ tai nạn. Khu vực hành chính Grozny Argun Achkhoy-Martanovsky Groznensky Gudermessky Itum-Kalinsky Kurchaloyev Nadterechny Naursky Nozhay-Yurtovsky Sernovodsky Shalinsky Sharoysky Shatoysky Shelkovskoy Urus-Martanovsky Vedensky Địa lý Nằm ở phần phía đông của Bắc Caucasus, Chechnya hầu như bị bao quanh bởi lãnh thổ Liên bang Nga. Ở phía tây, nước này có biên giới chung với Bắc Ossetia và Ingushetia, ở phía bắc, Stavropol Kray, ở phía đông, Dagestan, và ở phía nam, Georgia. Thủ đô Chechnya là Grozny. Diện tích: 19.300 km² Các biên giới: Bên trong nước Nga: Dagestan Ingushetia Bắc Ossetia-Alania Stavropol Krai Nước ngoài: Gruzia (giáp các vùng Kakheti và Mtskheta-Mtianeti) Các con sông: Terek Sunzha Sông Argun Múi giờ Chechnya nằm trong Múi giờ Mátxcơva (MSK/MSD). Giờ bù UTC +0300 (MSK)/+0400 (MSD). Kinh tế Năm 2003 Trong chiến tranh, nền kinh tế Chechnya đã sụp đổ. Tổng sản phẩm quốc nội, nếu con số thống kê có thể tin cậy, chỉ bằng một phần nhỏ thời trước chiến tranh. Các vấn đề của nền kinh tế Chechya đã gây hiệu ứng tới nền kinh tế Liên bang Nga - một số vụ tội phạm tài chính trong thập kỷ 1990 được tiến hành thông qua các tổ chức tài chính Chechnya. Chechnya có tỷ lệ các phiên giao dịch bằng dollar Mỹ so với các phiên giao dịch bằng đồng rúp Nga cao nhất bên trong Liên bang Nga. Cũng có rất nhiều dollar giả được in ra bên trong nước này. Năm 1994, những người li khai dự định đưa vào sử dụng một đồng tiền mới, đồng Nahar, nhưng điều này đã không thể diễn ra bởi quân đội Nga đã tái chiếm Chechnya trong Cuộc chiến tranh Chechnya lần thứ nhất. Với hậu quả chiến tranh, gần 80% tiềm năng kinh tế Chechnya đã bị phá hủy. Nhánh kinh tế duy nhất được khôi phục khá tốt là ngành công nghiệp dầu mỏ. Sản lượng dầu mỏ năm 2003 được ước tính khoảng 1.5 triệu tấn (hay 30 ngàn barrels mỗi ngày), giảm so với sản lượng đỉnh 4 triệu tấn mỗi năm trong thập kỷ 1980. Sản lượng năm 2003 chiếm gần 0,6% tổng sản lượng khai thác dầu mỏ của Nga. Tỷ lệ thất nghiệp cao, khoảng từ 60 tới 70 phần trăm. Dù đã có một số sự cải thiện kinh tế, buôn lậu và trao đổi vẫn chiếm một tỷ lệ lớn trong nền kinh tế Chechnya. Theo chính phủ Nga, hơn 2 tỷ dollar đã được chi cho việc tái thiết nền kinh tế Chechnya từ năm 2000. Tuy nhiên, theo cơ quan quản lý kinh tế trung ương Nga (Schyotnaya Palata), chưa tới 350 triệu dollar được chi tiêu. Năm 2006 MegaFon (Mobicom-Kavkaz), với 300.000 thuê bao là công ty dịch vụ điện thoại di động duy nhất hoạt động tại Chechnya, dù MTS và VimpelCom cũng đã được cấp giấy phép. Nhân khẩu Theo những con số ước tính năm 2004, dân số Chechnya xấp xỉ 1.1 triệu người. Theo cuộc điều tra dân số năm 2002, số người Chechen là  1.031.647 triệu người chiếm 93,5% tổng dân số của nước Cộng hòa này. Các nhóm dân tộc khác gồm người Nga (40.645, hay 3,7%), Kumyks (8.883, hay 0,8%), và một số nhóm nhỏ khác, mỗi nhóm khoảng 0,5% tổng dân số. Đa số người Chechen theo Hồi giáo Sunni, nước này đã chuyển theo đạo Hồi trong giai đoạn từ thế kỷ 16 tới thế kỷ 19. Cuối thời kỳ Sô viết, dân Nga chiếm khoảng 23% dân số (269.000 năm 1989). Vì những vụ tội phạm lan tràn và cái gọi là tẩy rửa sắc tộc do chính phủ Dzhokhar Dudayev tiến hành, đa số người dân không phải người Chechen (và nhiều người Chechen) đã phải bỏ chạy khỏi đất nước trong thập kỷ 1990. Các ngôn ngữ được sử dụng bên trong nước Cộng hòa này gồm tiếng Chechen và tiếng Nga. Tiếng Chechen thuộc Vaynakh hay ngữ hệ Bắc Trung Kavkaz, nhóm này còn bao gồm tiếng Ingush và tiếng Batsb. Một số học giả đặt nó vào trong một ngữ hệ lớn hơn siêu ngữ hệ Iberia-Caucasia. Chechnya là nước Cộng hòa có dân số trẻ bên trong một Liên bang Nga đang phải đau đầu với vấn đề dân số già; đầu thập kỷ 1990, đây là một trong số ít vùng có tăng trưởng dân số. Dân số: 1.103.686 (2002) - các con số còn bị tranh cãi Thành thị: 373.177 (33,8%) Nông thôn: 730.509 (66,2%) Nam: 532.724 (48,3%) Nữ: 570.962 (51,7%) Tuổi trung bình: 22,7 Thành thị: 22,8 Nông thôn: 22,7 Nam: 21,6 Nữ: 23,9 Số lượng gia đình: 195.304 (với 1.069.600 người) Thành thị: 65.741 (với 365.577 người) Nông thôn: 129.563 (với 704.023 người) Xem thêm Danh sách các phong trào ly khai đang hoạt động Chiến tranh Chechnya Người Chechen Âm nhạc Chechnya Anna Politkovskaya Chris Giannou Tham khảo Liên kết ngoài Bản đồ và Địa lý Chechnya UT: Chechnya maps Chechnya topographical map Các website độc lập Phương tây và Nga Combat Films and Research - Video, articles, galleries on Chechnya. Chechnya Weekly — one of Jamestown Foundation's publications: Articles and analyses BBC Chechnya profile Russia's Splitting Headache - A Brief History Of Chechnya PINR - Chechnya: Russia's Second Afghanistan CBC.ca News Indepth: Chechnya Beslan. Who are to blame? Russians polled on Chechnya The PACE report on the Chechnya political situation WashingtonPost: Is there no solution to the nine-year-old Chechen bloodbath? Casualties since 1994 Einnews: Russia Today: Chechnya Chechen struggle ignored Chechnya Population Inexplicably Swells New York Times: Rights Group Reports Thousands of Disappearances in Chechnya The Rise and Fall of the Chechen Independence Movement CSRC: The Caspian: Comminatory Crosscurrents, Oil and geopolitics Significant excerpts are available online for free at the Rand The CSRC publications in the Caucasus Series Chechen Death Toll claimed to be 160.000 by Chechen Authorities (in Russian) Chechnya Advocacy Network (bằng tiếng Anh) ISN Security Watch: Moscow's North Caucasus Quagmire Dossier: Chechen Security Forces 2000 – 2006 Các sự kiện lịch sử Chechnya European Parliament recognizes deportation of Chechens as act of genocide Beginning of the Chechen War (translation of grani.ru article) The attack on the ICRC hospital in Novye Atagi Các website không thuộc Chechnya Chechen Republic Online - Articles, Forum, Gallery and Chat Các website liên bang Official site of the government of Chechen republic (in Russian) Pro-Kadyrov site (in Russian) Các website ủng hộ Umarov The News Service of the ChRI President (in Russian) Ministry of Foreign Affairs of the ChRI Chechenpress, Official bilingual site of the ChRI news media Prague Watchdog - collects and disseminates information on the conflict in Chechnya Moderated Chechen news database in English Almanac "Chechenian Phenomenon" in English and Russian, articles about the First Chechen war and its immediate aftermath Opinion of a group of Baltic politicians regarding the latest presidential elections in Chechnya Website Mujahid Kavkaz Center Komitet Wolny Kaukaz Polish organization Các website của quân đội Nga và cựu chiến binh Chechnya veterans association (bằng tiếng Anh) War in Chechnya 1999 Russian Air Force in Chechnya Đọc thêm Khassan Baiev. The Oath: A Surgeon Under Fire. ISBN 0-8027-1404-8 Vyacheslav Mironov. Ya byl na etoy voyne. (I was in this war) Biblion - Russkaya Kniga, 2001. Partial translation available online Matthew Evangelista, The Chechen Wars: Will Russia Go the Way of the Soviet Union?. ISBN 0-8157-2499-3. Roy Conrad. A few days... Available online Olga Oliker, Russia's Chechen Wars 1994 - 2000: Lessons from Urban Combat. ISBN 0-8330-2998-3. (A strategic and tactical analysis of the Chechen Wars.) Charlotta Gall & Thomas de Waal. Chechnya: A Small Victorious War. ISBN 0-330-35075-7 Paul J., Ph.D. Murphy. The Wolves of Islam: Russia and the Faces of Chechen Terror. ISBN 1-57488-830-7 Anatol Lieven. Chechnya: Tombstone of Russian Power ISBN 0-300-07881-1 John B Dunlop. Russia Confronts Chechnya: Roots of a Separatist Conflict ISBN 0-521-63619-1 Paul Khlebnikov. Razgovor s varvarom (Interview with a barbarian). ISBN 5-89935-057-1. Available online in full Marie Benningsen Broxup. The North Caucasus Barrier: The Russian Advance Towards the Muslim World. ISBN 1-85065-069-1 Anna Politkovskaya. A Small Corner of Hell: Dispatches from Chechnya ISBN 0-226-67432-0 Chris Bird. "To Catch a Tartar: Notes from the Caucasus" [ISBN 0-7195-6506-5] Carlotta Gall, Thomas de Waal, Chechnya: Calamity in the Caucasus [ISBN 0-8147-3132-5] Yvonne Bornstein and Mark Ribowsky, "Eleven Days of Hell: My True Story Of Kidnapping, Terror, Torture And Historic FBI & KGB Rescue" AuthorHouse, 2004. ISBN 1-4184-9302-3. Bắc Kavkaz Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Chechen Hồi giáo ở Nga Vùng liên bang Bắc Kavkaz
VI_open-0000000043
People_and_Society
Cá ngựa (tên khoa học Hippocampus), hay hải mã, là tên gọi chung của một chi động vật sống ở đại dương ở các vùng biển nhiệt đới. Cá ngựa có chiều dài trung bình là 16 cm, có loài dài đến 35 cm. Cá ngựa được xem là một loài thuốc quý ở khu vực Đông Á, đặc biệt là ở Trung Quốc và Việt Nam. Cá ngựa là cá biển thuộc chi Hippocampus và họ Syngnathidae, bao gồm cả cá chìa vôi. Chúng được tìm thấy ở những vùng nước nhiệt đới và ôn đới ở khắp nơi trên thế giới. Cá ngựa và cá chìa vôi là 2 chi cá đặc biệt ở chỗ con đực "mang thai" và sinh con. Cá ngựa thật sự là một loài cá. Nó có vây ngực ở phía trên gần mang và vây lưng nằm phía dưới cơ thể. Một số loài cá ngựa có một phần thân thể trong suốt nên rất khó nhìn thấy trong các bức ảnh. Số lượng cá ngựa đã bị giảm sút đến mức nghiêm trọng do đánh bắt cá gia tăng. Cá ngựa được dùng trong những vị thuốc truyền thống của Trung Quốc, hàng năm có khoảng 20 triệu con cá ngựa bị đánh bắt để phục vụ cho mục đích này. Việc nhập và xuất khẩu cá ngựa được tổ chức CITES kiểm soát từ ngày 15/05/2004. Cá ngựa ăn cá hương và những loài giáp xác như tôm nhỏ, chúng ăn bằng cách dùng miệng để mút con mồi. Sự sinh sản Cá ngựa sinh con theo một cách kỳ lạ: con đực "mang thai". Theo báo cáo của Công trình nghiên cứu về cá ngựa thì cá cái đưa trứng vào túi ấp của cá đực làm cho con đực có vẻ như đang mang thai. Những nghiên cứu mới đây cho thấy rằng cá đực truyền tinh dịch của chúng ra xung quanh chứ không đưa trực tiếp vào túi ấp. Thời gian mang thai từ 2-3 tuần. Trứng cá ngựa nở khi nào phụ thuộc vào bố mẹ của chúng. Một số trải qua thời gian phát triển chung với những phiêu sinh vật biển. Đôi khi những con cá ngựa đực có thể ăn một số con của nó trước khi chúng được tự do. Những loài cá ngựa khác ngay lập tức bắt đầu cuộc sống dưới đáy biển. Thông thường cá ngựa sống thành cặp, nhưng có một số loài sống thành bầy đàn. Khi sống thành cặp, cá ngựa thường giao phối vào sáng sớm hoặc đôi khi vào chập tối để củng cố thêm mối quan hệ của chúng. Phần thời gian còn lại chúng dành cho việc tìm thức ăn. Làm vật nuôi Nhiều người nuôi cá ngựa như thú cưng. Cá ngựa chỉ ăn thức ăn tươi như tôm biển và thường nằm úp người xuống bể, hành động này sẽ làm cho hệ thống miễn dịch của chúng hoạt động yếu hơn, từ đó mà dễ mắc các bệnh. Trong thời gian gần đây, những con cá ngựa được nuôi sinh sản nhiều hơn trước. Trong tình trạng bị giam cầm, chúng sống tốt hơn và ít mắc bệnh. Những con cá ngựa này sẽ được cho ăn tôm cám, chúng cũng sẽ không bị sốc hay lo lắng căng thẳng khi đột ngột bị bắt ngoài biển và thả vào bể cá. Dù những con cá ngựa được nuôi từ nhỏ có giá đắt hơn nhưng chúng thích nghi và sống sót tốt hơn những con cá ngựa ngoài tự nhiên. Cá ngựa nên được nuôi trong bể cá thích hợp. Chúng ăn khá chậm, nhưng khi được nuôi trong bể, chúng trở nên hung hăng, cạnh tranh để giành thức ăn cho riêng mình. Vì vậy, người nuôi chúng cũng cần chú ý đảm bảo lượng thức ăn cho mỗi con. Cá ngựa có thể chung sống với một số loại tôm hay động vật đáy, đôi khi với cá bống. Một số loài khác có thể gây nguy hiểm cho cá ngựa như lươn, bạch tuộc hay mực ống... Những loại cá ngựa nước ngọt được bán có thể là một loại gần giống như cá chìa vôi ở sông. Cá ngựa nước ngọt thật ra không thể được xem là cá ngựa thật sự. Các loài cá ngựa mới tìm được gần đây sống trong nước lợ. Thích nghi Cá ngựa có đôi mắt cao di động có khả năng quan sát kẻ thù và mồi mà không cần di chuyển. Giống như loài rồng biển, cá ngựa cũng có một cái vòi dài để mút con mồi. Vây cá ngựa nhỏ thích hợp luồn lách qua những đám tảo dày. Ngoài ra, nó còn có một cái đuôi dài và có khả năng quấn quanh tảo biển để giữ mình không bị dòng nước cuốn đi. Phân loại Họ Syngnathidae Phân họ Hippocampinae Chi Hippocampus H. abdominalis Lesson, 1827 (New Zealand và nam và đông Úc) H. alatus Kuiter, 2001 H. algiricus Kaup, 1856 H. angustus Günther, 1870 H. barbouri Jordan & Richardson, 1908 H. bargibanti Whitley, 1970Tây Thái Bình Dương (Indonesia, Philippines, Papua New Guinea, Quần đảo Solomon, vv...) H. biocellatus Kuiter, 2001 H. borboniensis Duméril, 1870 H. breviceps Peters, 1869 (nam và đông Úc) H. camelopardalis Bianconi, 1854 H. capensis Boulenger, 1900 H. colemani Kuiter, 2003 H. comes Cantor, 1850: Cá ngựa vằn H. coronatus Temminck & Schlegel, 1850 H. denise Lourie & Randall, 2003 H. erectus Perry, 1810 (đông bờ biển của châu Mỹ, giữa Nova Scotia và Uruguay) H. fisheri Jordan & Evermann, 1903: Cá ngựa Fisher H. fuscus Rüppell, 1838 (Ấn Độ Dương): Cá ngựa nhỏ H. grandiceps Kuiter, 2001 H. guttulatus Cuvier, 1829 H. hendriki Kuiter, 2001 H. hippocampus (Linnaeus, 1758) (Địa Trung Hải và Đại Tây Dương) H. histrix Kaup, 1856: Cá ngựa gai dài (Ấn Độ Dương, Vịnh Ba Tư, Biển Đỏ, và Viễn Đông) H. ingens Girard, 1858 (bờ biển Thái Bình Dương của Bắc, Trung và Nam Mỹ) H. jayakari Boulenger, 1900 H. jugumus Kuiter, 2001 H. kelloggi Jordan & Snyder, 1901 H. kuda Bleeker, 1852: Cá ngựa đen H. lichtensteinii Kaup, 1856 H. minotaur Gomon, 1997 H. mohnikei Bleeker, 1854 H. montebelloensis Kuiter, 2001 H. multispinus Kuiter, 2001 H. pontohi Lourie & Kuiter, 2008 H. procerus Kuiter, 2001 H. queenslandicus Horne, 2001 H. reidi Ginsburg, 1933 (các rạn san hô Vùng Caribe) H. satomiae Lourie and Kuiter, 2008 H. semispinosus Kuiter, 2001 H. severnsi Lourie and Kuiter, 2008 H. sindonis Jordan & Snyder, 1901 H. spinosissimus Weber, 1913 H. subelongatus Castelnau, 1873 H. trimaculatus Leach, 1814 H. whitei Bleeker, 1855 (Đông Australia) H. zebra Whitley, 1964 H. zosterae Jordan & Gilbert, 1882 (Vịnh Mexico và vùng biển Caribbe) Chú thích Liên kết ngoài Cá Ngựa – Loài Cá Quý Hiếm Với Công Dụng Tuyệt Vời H Động vật có thể đổi màu
VI_open-0000000044
Pets_and_Animals
Sự kiện Tháng 1 1 tháng 1: Kaspar Villiger trở thành tổng thống liên bang Thụy Sĩ. Áo, Thụy Điển và Phần Lan gia nhập Liên minh châu Âu. Đài Phát thanh - Truyền hình Khánh Hòa chính thức được thành lập 17 tháng 1: Động đất Kōbe, Nhật Bản làm 6.321 người thiệt mạng và làm trên 32.000 người bị thương. 25 tháng 1: Shan Videnov trở thành thủ tướng Bulgaria. Tháng 2 Tháng 3 10 tháng 3: Hy Lạp. Konstantinos Stefanopoulos trở thành tổng thống. 20 tháng 3: Sự kiện tấn công bằng sarin trên tàu điện ngầm Tokyo. 26 tháng 3: Hiệp ước Schengen bắt đầu có hiệu lực. Ban nhạc nam Việt Nam Bức Tường ra mắt. 31 tháng 3: Selena bị sát hại do Chủ tịch câu lạc bộ fan hâm mộ của cô. Tháng 4 9 tháng 4: Bầu cử tổng thống và quốc hội tại Peru. 19 tháng 4: Đánh bom tại Oklahoma City, 168 người thiệt mạng. Tháng 5 7 tháng 5: Jacques Chirac được bầu làm tổng thống Pháp. Tháng 6 20 tháng 6: Keith Claudius Mitchell trở thành thủ tướng của Grenada. Tháng 7 11 tháng 7: Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton quyết định tái thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. 24 tháng 7: Đánh bom tự sát trong một chiếc xe buýt tại Tel Aviv, Israel giết chết 5 người, 30 người bị thương. 25 tháng 7: Nổ bom trong tàu điện ngầm Paris làm 7 người chết, 62 người bị thương. 28 tháng 7: Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 trong ASEAN. Tháng 8 4 tháng 8: Croatia mở Chiến dịch Oluja đánh chiếm nhà nước tự xưng Cộng hòa Serbia Krajina 24 tháng 8: Hiến pháp dân chủ mới tại Gruzia. Microsoft chính thức phát hành phiên bản Windows 95. Tháng 9 20 tháng 9: Tổng Công ty Truyền hình Cáp Việt Nam, được thành lập Tháng 10 1 tháng 10: Đức và San Marino thiết lập quan hệ ngoại giao. Động đất gần Dinar, Thổ Nhĩ Kỳ, khoảng 100 người chết. 8 tháng 10: Hiến pháp mới tại Uganda. 25 tháng 10: Nhật thực toàn phần tại Việt Nam. 28 tháng 10: António Guterres trở thành thủ tướng Bồ Đào Nha. Tháng 11 8 tháng 11: Ukraina trở thành thành viên của Hội đồng châu Âu. 12 tháng 11: Bầu cử quốc hội tự do đầu tiên tại Azerbaijan. 19 tháng 11: Aleksander Kwaśniewski trở thành tổng thống của Ba Lan. 25 tháng 11: Hiến pháp mới bắt đầu có hiệu lực ở Gruzia. Tháng 12 Sinh Tháng 1 3 tháng 1: Jisoo, ca sĩ nhóm nhạc Hàn Quốc Blackpink. 4 tháng 1: Duy Khánh, diễn viên người Việt Nam 5 tháng 1: Whindersson Nunes, Youtuber người Brasil Xuân Mai, nữ ca sĩ, diễn viên truyền hình người Việt Nam 21 tháng 1: Nguyễn Công Phượng, cầu thủ bóng đá Việt Nam. 30 tháng 1: Danielle Campbell, nữ diễn viên người Mỹ. Tháng 2 5 tháng 2: Adnan Januzaj, cầu thủ bóng đá Bỉ 9 tháng 2: Johnny, ca sĩ người Hàn Quốc, thành viên nhóm nhạc NCT 14 tháng 2: Mei (Nguyễn Trần Thảo Quyên), nữ ca sĩ người Việt Nam, cựu thành viên nhóm nhạc nữ LipB 25 tháng 2: Nguyễn Trần Khánh Vân, Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2019. Tháng 3 2 tháng 3: Yori (Lê Võ Huỳnh Nga), nữ ca sĩ người Việt Nam, cựu thành viên nhóm nhạc nữ LipB Tháng 4 15 tháng 4: Kim Nam-joo, ca sĩ nhóm nhạc Hàn Quốc APink. 23 tháng 4: Gigi Hadid, người mẫu người Mỹ. 28 tháng 4: Lương Xuân Trường, cầu thủ bóng đá người Việt Nam. Melanie Martinez, nữ ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên, đạo diễn, nhà biên kịch người Mỹ Tháng 5 8 tháng 5: Park Junghwa ca sĩ và vũ công người Hàn Quốc của nhóm nhạc EXID. 15 tháng 5: Charmy Pham (Phạm Thị Hương Tràm), nữ ca sĩ người Việt Nam, quán quân Giọng Hát Việt 2012 19 tháng 5: Nguyễn Văn Nam, Nam sinh quên mình cứu 5 em nhỏ (m. 2013). 24 tháng 5: Hoàng tử Joseph Wenzel II của Liechtenstein, con trai của hoàng tử Alois của Liechtenstein và Sophie công chúa của Bayern. 31 tháng 5: Hòa Minzy, ca sĩ người Việt Nam Tháng 6 8 tháng 6: JR, ca sĩ, rapper, vũ công của nhóm nhạc Hàn Quốc NU'EST Hoài Lâm ca sĩ người Việt, được biết đến là con nuôi của danh hài Hoài Linh. Lee Taeyong - Thành viên của nhóm nhạc NCT và là ca sĩ người Hàn Quốc. Tháng 7 4 tháng 7: Post Malone, rapper, ca sĩ, nhạc sĩ, nhạc công guitar và nhà sản xuất âm nhạc người Mỹ 5 tháng 7: Hyuk, ca sĩ Hàn Quốc, thành viên nhóm nhạc VIXX. 14 tháng 7: Đạt G, ca sĩ người Việt Nam. 21 tháng 7: Baekho, main vocal nhóm nhạc nam Hàn Quốc NU'EST. 26 tháng 7: Quỳnh Kool (Nguyễn Thị Quỳnh), nữ diễn viên, người mẫu ảnh người Việt Nam 31 tháng 7: Lil Uzi Vert, rapper, ca sĩ người Mỹ Tháng 8 8 tháng 8: Choi Seungcheol là ca sĩ và vũ công người Hàn Quốc của nhóm nhạc Seventeen. 9 tháng 8: Hwang Min-hyun là ca sĩ người Hàn Quốc của nhóm nhạc NU'EST. 22 tháng 8: Dua Lipa, nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Anh 25 tháng 8: Ong Seong Wu là ca sĩ kiêm diễn viên người Hàn Quốc, là cựu thành viên của nhóm Wanna One. Tháng 9 22 tháng 9: Lim Na-yeon, ca sĩ/thần tượng Hàn Quốc - (thành viên nhóm nhạc TWICE). 27 tháng 9: Lena Beyerling, nữ diễn viên Đức. Tháng 10 4 tháng 10: Yoon Jeonghan là ca sĩ, vũ công người Hàn Quốc của nhóm nhạc SEVENTEEN. 11 tháng 10: Công chúa Luisa-Maria của Bỉ, con gái của công chúa Astrid của Bỉ và đại công tước hoàng tử Lorenz của Österreich-Este. 13 tháng 10 - Park Jimin là ca sĩ, vũ công người Hàn của nhóm nhạc BTS. 21 tháng 10: Doja Cat, nữ ca sĩ, rapper người Mỹ 26 tháng 10: Nakamoto Yuta là ca sĩ, vũ công người Nhật Bản của nhóm nhạc Hàn Quốc NCT. Tháng 11 3 tháng 11: Ren, ca sỹ người Hàn Quốc của nhóm nhạc NU'EST. Kendall Jenner, người mẫu thời trang, nhân vật truyền hình Mỹ 4 tháng 11: Nguyễn Thu Hằng, nữ ca sĩ, dẫn chương trình người Việt Nam 12 tháng 11: MisThy (Lê Thy Ngọc), nữ YouTuber, streamer, diễn viên người Việt Nam 30 tháng 11: Liz (Ngụy Thùy Linh), nữ ca sĩ người Việt Nam, thành viên nhóm nhạc nữ LipB Tháng 12 6 tháng 12: Joy Gruttmann, nữ ca sĩ Đức. 8 tháng 12: Hoàng Yến Chibi, nữ ca sĩ Việt Nam. 11 tháng 12: Nguyễn Trần Huyền My, á hậu, người mẫu Việt Nam. 27 tháng 12: Timothée Chalamet, diễn viên người Mỹ–Pháp 30 tháng 12: Kim Taehyung, ca sĩ, vũ công người Hàn Quốc của nhóm nhạc BTS. 30 tháng 12: Hong Jisoo, ca sĩ và vũ công người Hàn Quốc của nhóm nhạc SEVENTEEN. Mất 1 tháng 1: H. E. Erwin Walther, nhà soạn nhạc Đức (s. 1920) 1 tháng 1: Eugene Paul Wigner, nhà vật lý học Mỹ, Giải thưởng Nobel (s. 1902) 2 tháng 1: Siad Barre, tổng thống (s. 1919) 4 tháng 1: Eduardo Mata, nhà soạn nhạc Mexico (s. 1942) 7 tháng 1: Harry Golombek, kỳ thủ Anh (s. 1911) 9 tháng 1: Gisela Mauermayer, nữ vận động viên điền kinh Đức (s. 1913) 11 tháng 1: Heiner Pudelko, ca sĩ nhạc rock Đức (s. 1948) 12 tháng 1: Hoàng Minh Giám,Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam(s.1904) 18 tháng 1: Adolf Butenandt, nhà hóa học Đức, nhận Giải thưởng Nobel (s. 1903) 18 tháng 1: Georg K. Glaser, nhà văn (s. 1910) 19 tháng 1: Hermann Henselmann, kiến trúc sư Đức (s. 1905) 20 tháng 1: Mehdī Bāzargān, chính khách Iran, thủ tướng 1979 (s. 1907) 22 tháng 1: Rose Kennedy, mẹ của John F. Kennedy (s. 1890) 25 tháng 1: Fritz Dorls, chính khách Đức (s. 1910) 27 tháng 1: Jean Tardieu, thi sĩ Pháp và nhà soạn kịch (s. 1903) 29 tháng 1: Đặng Lệ Quân, ca sĩ Trung Quốc (s. 1953) 30 tháng 1: Fritz Buri, mục sư và giáo sư về thần học (s. 1907) 31 tháng 1: George Abbott, tác giả kịch bản Mỹ, đạo diễn phim và diễn viên (s. 1887) 1 tháng 2: Karl Gruber, chính khách Áo và nhà ngoại giao (s. 1909) 4 tháng 2: Godfrey Brown, vận động viên điền kinh Anh, huy chương Thế Vận Hội (s. 1915) 5 tháng 2: Doug McClure, diễn viên Mỹ (s. 1935) 6 tháng 2: Mira Lobe, nhà văn nữ Áo (s. 1913) 7 tháng 2: Massimo Pallottino, nhà khảo cổ học Ý (s. 1909) 8 tháng 2: Joseph Maria Bochenski, triết gia Ba Lan (s. 1902) 9 tháng 2: James William Fulbright, chính khách Mỹ (s. 1905) 10 tháng 2: Heinrich Drerup, nhà khảo cổ học Đức (s. 1908) 12 tháng 2: Nat Holman, cầu thủ bóng rổ Mỹ, huấn luyện viên (s. 1896) 14 tháng 2: Ischa Meijer, nhà báo Hà Lan, nhà văn (s. 1943) 15 tháng 2: Rachid Baba Ali Ahmed, nhạc sĩ Algérie, nhà sản xuất nhạc 23 tháng 2: James Herriot, bác sĩ thú y Anh, nhà văn (s. 1916) 24 tháng 2: Hans Hessling, diễn viên Đức (s. 1903) 25 tháng 2: Rudolf Hausner, họa sĩ Áo (s. 1914) 26 tháng 2: Willie Johnson, nhạc sĩ blues Mỹ (s. 1913) 1 tháng 3: Georges J. F. Köhler, nhà sinh vật học Đức, Giải Nobel (s. 1946) 4 tháng 3: Kurt Ludwig, diễn viên Đức (s. 1924) 6 tháng 3: Barbara Lass, nữ diễn viên (s. 1940) 8 tháng 3: Stephan László, Giám mục Áo (s. 1913) 14 tháng 3: William Alfred Fowler, nhà vật lý học Mỹ (s. 1911) 16 tháng 3: Heinrich Sutermeister, nhà soạn nhạc Thụy Sĩ (s. 1910) 20 tháng 3: Werner Liebrich, cầu thủ bóng đá Đức, huấn luyện viên (s. 1927) 24 tháng 3: Joseph Needham, nhà hóa sinh Anh (s. 1900) 25 tháng 3: James Samuel Coleman, nhà xã hội học Mỹ (s. 1926) 25 tháng 3: Philip Stuart Milner-Barry, kiện tướng cờ vua Anh (s. 1906) 26 tháng 3: Eazy E, rapper Mỹ (s. 1964) 27 tháng 3: Albert Drach, luật gia Áo, nhà văn (s. 1902) 29 tháng 3: Antony Hamilton, diễn viên Anh (s. 1952) 31 tháng 3 Roberto Juarroz, nhà văn Argentina (s. 1925) Selena Quintanilla-Pérez, ca sĩ Latino Mỹ (s. 1971) 2 tháng 5: Agnes Kraus, nữ diễn viên Đức (s. 1911) 11 tháng 5: David Avidan, nhà văn Israel (s. 1934) 12 tháng 5: Mia Martini, nữ ca sĩ Ý (s. 1947) 18 tháng 5: Gustav Lübbe, nhà xuất bản Đức (s. 1918) 18 tháng 5: Elizabeth Montgomery, nữ diễn viên Mỹ (s. 1933) 21 tháng 5: Les Aspin, chính khách Mỹ (s. 1938) 21 tháng 5: Agnelo Rossi, tổng Giám mục của São Paulo, Hồng y (s. 1913) 21 tháng 5: Annie M. G. Schmidt, nữ nhà văn Hà Lan (s. 1911) 21 tháng 5: Nora Minor, nữ diễn viên Áo (s. 1910) 24 tháng 5: Harold Wilson, chính khách Anh, thủ tướng (s. 1916) 24 tháng 5: Jürgen Horlemann, chính khách Đức, nhà xuất bản (s. 1941) 25 tháng 5: Krešimir Ćosić, cầu thủ bóng rổ Croatia (s. 1948) 25 tháng 5: Elie Bayol, tay đua xe Pháp (s. 1914) 26 tháng 5: Friz Freleng, họa sĩ biếm họa Mỹ, nhà sản xuất phim (s. 1905) 31 tháng 5: Pavel Šivic, nhà soạn nhạc Slovenia (s. 1908) 4 tháng 6: Alfred Beni, kỳ thủ Áo (s. 1923) 6 tháng 6: Heinz Lehmann, kỳ thủ Đức (s. 1921) 10 tháng 6: Bruno Lawrence, nhạc sĩ, diễn viên (s. 1941) 12 tháng 6: Arturo Benedetti Michelangeli, nghệ sĩ dương cầm Ý (s. 1920) 14 tháng 6: Els Aarne, nhà soạn nhạc Estonia (s. 1917) 14 tháng 6: Roger Zelazny, nhà văn Mỹ (s. 1937) 14 tháng 6: Rory Gallagher, người chơi đàn ghita Ireland (s. 1948) 18 tháng 6: Karl Atzenroth, chính khách Đức (s. 1895) 18 tháng 6: Robert Schlienz, cầu thủ bóng đá Đức (s. 1924) 20 tháng 6: Émile Michel Cioran, triết gia (s. 1911) 22 tháng 6: Yves Congar, Hồng y của Giáo hội Công giáo La Mã (s. 1904) 23 tháng 6: Jonas Salk, bác sĩ Mỹ, nhà nghiên cứu miễn dịch (s. 1914) 25 tháng 6: Ernest Walton, nhà vật lý học Ireland (s. 1903) 3 tháng 7: Georg Richter, vận động viên thể thao Đức (s. 1905) 3 tháng 7: Ricardo González, vận động viên quần vợt Mỹ (s. 1928) 8 tháng 7: Günter Bialas, nhà soạn nhạc Đức (s. 1907) 10 tháng 7: Văn Cao, nhạc sĩ, tác giả quốc ca Việt Nam (s. 1923). 13 tháng 7: Matti Pellonpää, diễn viên Phần Lan (s. 1951) 15 tháng 7: Robert Coffy, tổng Giám mục của Marseille, Hồng y (s. 1920) 17 tháng 7: Juan-Manuel Fangio tay đua xe Argentina (s. 1911) 17 tháng 7: Rainer Kunad, nhà soạn nhạc Đức (s. 1936) 18 tháng 7: Fabio Casartelli, tay đua xe đạp Ý (s. 1970) 20 tháng 7: Ernest Mandel, nhà kinh tế học, lý thuyết gia (s. 1923) 24 tháng 7: Charlie Rich, ca sĩ nhạc country Mỹ (s. 1932) 24 tháng 7: George Rodger, nhiếp ảnh gia (s. 1908) 25 tháng 7: Osvaldo Pugliese, nhạc sĩ Argentina (s. 1905) 26 tháng 7: Laurindo Almeida, nhạc sĩ jazz Brasil (s. 1917) 26 tháng 7: Heinrich Heesch, nhà toán học Đức (s. 1906) 26 tháng 7: Boy Lornsen, nhà điêu khắc Đức, nhà văn (s. 1922) 29 tháng 7: Leo Kofler, triết gia Đức (s. 1907) 1 tháng 8: Dương Thiệu Tước, nhạc sĩ tiền chiến Việt Nam (s. 1915) 5 tháng 8: Georg Buch, chính khách Đức (s. 1903) 8 tháng 8: František Nepil, nhà văn Séc (s. 1929) 11 tháng 8: Alonzo Church, nhà toán học Mỹ (s. 1903) 13 tháng 8: Mickey Mantle, cầu thủ bóng chày Mỹ (s. 1931) 15 tháng 8: Karel Píč, thi sĩ Séc (s. 1920) 17 tháng 8: Howard Koch, tác giả kịch bản Mỹ (s. 1902) 19 tháng 8: Pierre Schaeffer, nhà soạn nhạc Pháp (s. 1910) 21 tháng 8: Manfred Donike, nhà hóa học Đức (s. 1933) 25 tháng 8: John Brunner, nhà văn thể loại khoa học giả tưởng Anh (s. 1934) 28 tháng 8: Michael Ende, nhà văn Đức (s. 1929) 29 tháng 8: Thomas Strittmatter, tác giả Đức (s. 1961) 30 tháng 8: Fischer Black, nhà kinh tế học Mỹ (s. 1938) 30 tháng 8: Sterling Morrison, nhạc sĩ Anh, người chơi đàn ghita (s. 1942) 31 tháng 8: Horst Janssen, nghệ sĩ tạo hình Đức, tác giả (s. 1929) 2 tháng 9: Václav Neumann, nhạc trưởng Séc (s. 1920) 5 tháng 9 - Hoàng Thế Thiện, Thiếu tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (Việt Nam), Vị tướng Chính ủy (s. 1922) 9 tháng 9: Reinhard Furrer, nhà du hành vũ trụ Đức, nhà vật lý học, phi công (s. 1940) 13 tháng 9: Fritz Bennewitz, đạo diễn sân khấu Đức (s. 1926) 15 tháng 9: Rien Poortvliet, họa sĩ Hà Lan (s. 1932) 17 tháng 9: Astrid Krebsbach, nữ vận động viên bóng bàn Đức (s. 1913) 18 tháng 9: Erwin Waldschütz, triết gia Áo (s. 1948) 18 tháng 9: Trúc Phương, nhạc sĩ Việt Nam (s.1933) 19 tháng 9: Rudolf Peierls, nhà vật lý học (s. 1907) 23 tháng 9: Albrecht Unsöld, nhà thiên văn học Đức, nhà vật lý học (s. 1905) 29 tháng 9: Gerd Bucerius, nhà xuất bản Đức, chính khách (s. 1906) 30 tháng 9: Theo Balden, nhà điêu khắc Đức (s. 1904) 5 tháng 10: Alec Douglas-Home, thủ tướng Anh (s. 1903) 7 tháng 10: Gerard Henri de Vaucouleurs, nhà thiên văn học (s. 1918) 9 tháng 10: Kukrit Pramoj, thủ tướng Thái Lan 1975/1976 (s. 1911) 13 tháng 10: Henry Roth, nhà văn Mỹ (s. 1906) 19 tháng 10: Don Cherry, nhạc sĩ nhạc jazz (s. 1936) 21 tháng 10: Hans Helfritz, nhà soạn nhạc Đức, nhà văn (s. 1902) 25 tháng 10: Bernhard Heiliger, nhà điêu khắc Đức (s. 1915) 25 tháng 10: Robert Riggs, vận động viên quần vợt Mỹ (s. 1918) 28 tháng 10: Gisela Schlüter, nữ diễn viên (s. 1919) 3 tháng 11: Mario Revollo Bravo, tổng Giám mục của Bogotá, Hồng y (s. 1919) 3 tháng 11: Otto Rösch, chính khách Áo, luật gia (s. 1917) 4 tháng 11: Jitzhak Rabin, thủ tướng Israel, chính khách, người nhận Giải Nobel về hòa bình (s. 1922) 4 tháng 11: Gilles Deleuze, triết gia Pháp (s. 1925) 5 tháng 11: Ernest Gellner, nhà nhân loại học, nhà xã hội học, triết gia (s. 1925) 22 tháng 11: Elinborg Lützen, nữ nghệ sĩ tạo hình (s. 1919) 23 tháng 11: Louis Malle, đạo diễn phim Pháp (s. 1932) 24 tháng 11: Dominic Ignatius Ekandem, Hồng y (s. 1917) 28 tháng 11: Lydia Roppolt, nữ họa sĩ Áo (s. 1922) 5 tháng 12: Reiner Bredemeyer, nhà soạn nhạc Đức (s. 1929) 12 tháng 12: Herbert Schneider, chính khách Đức (s. 1915) 22 tháng 12: James Edward Meade, nhà kinh tế học Anh (s. 1907) 25 tháng 12: Ferdinand Eckhardt, sử gia về nghệ thuật Canada (s. 1902) 25 tháng 12: Emmanuel Levinas, triết gia Pháp (s. 1906) 25 tháng 12: Marijan Lipovšek, nhà soạn nhạc Slovenia (s. 1910) 29 tháng 12: Nello Celio, chính khách Thụy Sĩ (s. 1914) 29 tháng 12: Richard Langeheine, chính khách Đức (s. 1900) 29 tháng 12: Wolfgang Pietzsch, kỳ thủ Đức (s. 1930) 29 tháng 12: Shura Cherkassky, nghệ sĩ dương cầm (s. 1911) 30 tháng 12: Heiner Müller, nhà soạn kịch Đức, nhà văn, đạo diễn phim (s. 1929) 31 tháng 12: Wilfried Joest, nhà thần học Đức, giáo sư (s. 1914) 31 tháng 12: Fritz Eckhardt, diễn viên Áo, tác giả, đạo diễn phim (s. 1907) Giải thưởng Nobel Hóa học - Paul J. Crutzen, Mario J. Molina, F. Sherwood Rowland Văn học - Seamus Heaney Hòa bình - Carlos Felipe Ximenes Belo và José Ramos Horta Vật lý - Martin L. Perl, Frederick Reines Y học - Edward B. Lewis, Christiane Nüsslein-Volhard, Eric F. Wieschaus Kinh tế - Robert Lucas, Jr. Xem thêm Thế giới trong năm 1995, tình trạng thế giới trong năm này Tham khảo Năm 1995 5
VI_open-0000000045
News
Các chương của cuộc đời là một cuốn sách viết bởi Lobsang Rampa, xuất bản năm 1967 bởi nhà xuất bản Corgi Book, Luân Đôn, Anh. Tóm tắt Chương 1: Nhà lãnh đạo sắp tới Mở đầu cuốn sách, Rampa tiên đoán sẽ có một nhà lãnh đạo thế giới sắp sửa ra đời vào khoảng năm 1985, và đến năm 2005 sẽ đi rao giảng khắp thế giới. Theo ông thì trong lịch sử của tất cả các tôn giáo của thế giới đều có nói đến sự tái lâm của vị này. Theo Phật giáo thì Phật Thích Ca Mâu Ni là giáo chủ thứ nhất, Phật Di Lặc là vị Phật sẽ tái lâm; theo Thiên chúa giáo thì cũng có sự tái lâm của Chúa Jesus. Tuy nhiên, ông cho rằng đó là vị giáo chủ thứ 10 trong Chu kì tồn tại này, được gọi là chu kì Kali, theo Ấn Độ giáo. Mỗi chu kì kéo dài khoảng 864 000 năm. Chương 2-3: Nhiều cõi thế giới khác nhau Ông cho rằng có nhiều thế giới song song tồn tại, và thật ra thế giới chúng ta có chín chiều (không gian thông thường có 3 chiều). Các chiều không gian cao hơn có các tần số rung động cao hơn khả năng nhận biết của người bình thường. Ông cũng đưa ra khái niệm Overself (còn được gọi là Soul, Atman, Spirit): một Overself được cho là có chín vía ở trong chín thân xác khác nhau. Các thân xác này trải qua các kinh nghiệm đời sống khác nhau ở các nơi khác nhau (có thể là ở các thế giới khác nhau). Bằng cách này, một Overself có thể cùng một lúc trải qua giàu sang và nghèo khó, đau khổ và sung sướng. Một người trong kiếp sống này có thể là một hoàng tử và kiếp sống sau là một kẻ ăn mày, tùy theo kinh nghiệm nào mà Overself muốn trải qua. Theo ý này, mỗi người chỉ là một con rối của Overself mà thôi, và chỉ có 10% là nhận thức được, còn 90% là ẩn trong tiềm thức. Mỗi chu kỳ sống của một Overself là khoảng 72 000 năm. Chương 4: Nhiều chiều không gian Ông cho rằng Einstein đã không đúng khi cho rằng không có vật chất nào có thể du hành với tốc độ của ánh sáng. Bằng cách du hành dưới dạng astral (xuất hồn), phần hồn (astral body) của người tu tập cao có thể du hành với tốc độ của ánh sáng. Chương 6-7: Một thế giới mà chúng ta phải ghé thăm Trong chương 6 và 7 ông nói về những kinh nghiệm mà người vừa chết sẽ phải trải qua. Phần hồn của người vừa qua đời sẽ thoát ra khỏi xác và nhập vào cõi trung giới (lower astral). Tại đây, hồn sẽ nghỉ ngơi trong một thời gian và gặp gỡ những linh hồn khác. Hồn của người qua đời, sau thời gian nghỉ ngơi, sẽ được dẫn vào Sảnh đường Ký ức (Hall of Memories), nơi những sự kiện của các kiếp sống trước được ôn lại. Sau khi ôn lại tất cả những lỗi lầm trong cuộc đời vừa trải qua cũng như trong các kiếp sống trước, hồn đó sẽ gặp những người hướng dẫn của mình, cũng tương tự như các viên chức Tư vấn về nghề nghiệp trên mặt đất. Sau cuộc gặp đó, các điều kiện và hoàn cảnh sẽ được đặt ra để người đó có thể đầu thai trở lại trong cơ thể của một hài nhi, có thể là nam hay là nữ. Một người có thể là nam trong kiếp sống này và là nữ trong một số kiếp khác, tùy vào dạng bài học nào mà người đó muốn học trong cuộc đời. Sau vô vàn kiếp sống trên mặt đất, sẽ đến một thời điểm mà người đó không phải đầu thai lại nữa. Thông thường kiếp sống cuối cùng trên mặt đất là kiếp sống bất hạnh nhất, với nhiều đau khổ phải trải qua, bởi vì đó là cơ hội cuối cùng để học hỏi vì khi không còn thân xác sẽ không còn học được điều gì nữa. Chương 8: Thiền định Trong chương này, Rampa bàn về thiền định (meditation) và khái niệm Nirvana. Ông cho rằng người phương Tây thường lầm lẫn cho rằng Nirvana là một trạng thái mà không còn thứ gì tồn tại, không trí nhớ, không hành động, chân không tuyệt đối. Theo ông thì những vị Guru tìm Nirvana là tìm cách loại bỏ những dục vọng không đúng đắn, loại bỏ tham, giận, kiêu căng và các lỗi lầm khác. Người đã đạt đến Sự Khai sáng (Enlightended One) cố gắng loại bỏ các tình cảm xấu và không tốt, để phần hồn của họ có thể được nâng lên và thoát ra khỏi thân xác tùy ý muốn. Trước khi một người có thể xuất hồn đi với chủ ý người đó phải làm cho ý nghĩ của mình trở nên trong sạch, và họ phải chắc chắn rằng họ không xuất hồn đi chỉ để thỏa tính tò mò hay là tọc mạch vào chuyện riêng tư của người khác. Điều tối quan trọng là trước khi có thể xuất hồn đi một cách có ý thức người đó phải loại bỏ tất cả dục vọng và lòng ham muốn. Ông cũng nói một đoạn về vấn đề tình dục, nếu như một người nam và một người nữ có quan hệ tình dục chỉ vì dục vọng của thú vật, màu sắc aura của họ sẽ bị tối đi và sự dao động của luồng aura sẽ yếu đi. Nếu như có tình yêu thật sự giữa hai người thì quan hệ tình dục bình thường sẽ làm tăng cường dòng aura của hai người. Điều này được minh họa trong các tranh vẽ ở trong đền thờ ở Ấn Độ và Tây Tạng. Thiền định, theo Rampa, là một dạng đặc biệt của việc tập trung tư tưởng và là những cách rèn luyện đầu óc, để hình thành một cách nghĩ của đầu óc. Thiền là một dạng ý nghĩ trực tiếp có thể giúp ta cảm nhận thông qua tiềm thức và các hệ thống khác mà ta không cảm nhận được bằng cách cách thức khác. Thiền là hết sức quan trọng vì việc đó làm thức tỉnh đầu óc lên đến những tầng nhận thức cao hơn, và cho phép đầu óc có thể truy nhập tự do hơn vào tiềm thức, cũng như một người có thể có một thư viện lớn để tra cứu cho những thông tin đặc biệt. Ông nói sẽ là vô ích nếu như thiền theo những hướng dẫn trong một cuốn sách viết ra bởi một tác giả không biết thiền. Chương 9: Xuất hồn Rampa cho rằng hầu như ai cũng xuất hồn (astral travel) một cách vô ý thức lúc chìm vào giấc ngủ. Thế nhưng việc xuất hồn đi tùy ý muốn lúc thức tỉnh là một việc rất khó, chỉ những ai hoàn toàn loại bỏ dục vọng và những ý muốn xâm phạm đời tư hay tìm cách điều khiển cuộc sống người khác mới làm được. Khi xuất hồn đi, phần hồn vẫn được nối với thân xác bằng một sợi dây bạc (Silver Cord). Bằng cách xuất hồn có ý thức, những người Hindu từ 10 000 năm về trước đã có khả năng du hành lên Mặt Trăng, Mặt trời, các hành tinh và các ngôi sao khác và mô tả lại các cảnh giới đó trong các kinh sách Hindu. Đương nhiên, phần hồn không bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ và khí quyển không phù hợp cho thân xác con người ở những nơi khắc nghiệt đó. Ông cho rằng các nhà khoa học hiện nay chỉ chơi đùa với các loại tên lửa không có khả năng du hành xa hơn Hệ Mặt trời. Trong cõi astral, ông cũng nói rằng những người tu tập cao có khả năng viếng thăm các thư viện đặc biệt gọi là Akashic Record liên quan đến những vấn đề lịch sử hay là Record of Probabilities dự đoán những vấn đề tương lai. Tuy nhiên, thời gian trong cõi astral và thời gian trên Mặt đất là khác nhau, nên các so sánh về thời gian có thể không chính xác, do vậy chỉ nên tập trung vào sự kiện là chính. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là tương lai đã được định sẵn trước, thế nhưng những sự kiện lớn là được định trước. Chương 10: Cơ thể con người Trong cơ thể con người, có 7 trung tâm nối kết với Overself được gọi là các chakra (luân xa). Từ đỉnh đầu xuống dưới là: Sahasrara Chakra: điều khiển tâm linh, thường được nói đến như là Hoa sen ngàn cánh. Ajna Chakra: điều khiển tâm trí, liên lạc trực tiếp với Overself. Visudha Chakra: điều khiển miệng và lời nói. Anahata Chakra: điều khiển cảm giác và những gì ta đụng chạm vào. Manipura Chakra: liên quan đến lửa. Swadhishatana Chakra: liên quan đến nước. Mooladhara Chakra: liên quan đến đất, nơi chứa Kudalini. Kudalini thật sự điều khiển lực sống của con người. Mỗi phần của cơ thể con người đều nối kết với phần cơ thể astral của người đó thông qua các chakras này. Trong tủy sống có hai tuyến dẫn năng lượng sống từ Kudalini gọi là Ida (ở phía trái) và Pingala (ở phía phải). Xem thêm Tham khảo Liên kết ngoài Chapters of life (DOC file) Tuesday Lobsang Rampa website Sách năm 1967
VI_open-0000000048
Books_and_Literature
Phục Hy hay Tử Hoa (chữ Hán: 伏羲) (4486 TCN—4365 TCN), còn gọi là Phục Hi thị (伏羲氏), Mật Hy (宓羲), Bào Hy (庖羲), Bao Hy (包羲), Hy Hoàng (羲皇), Hoàng Hy (皇羲) hoặc Thái Hạo (太昊), ông đã tạo nên ảnh hưởng trong các thần tích Trung Hoa, ông thường được xem là người đầu tiên và đứng đầu trong các thuyết về Tam Hoàng Ngũ Đế của lịch sử Trung Quốc. Ngoài Phục Hy, danh sách Tam Hoàng thường còn có Thần Nông và Nữ Oa. Theo quan niệm cổ của người Trung Hoa, Phục Hy là anh trai của Nữ Oa Thánh nhân. Trong văn hóa Trung Hoa, ông là một hình tượng lớn và nổi tiếng vì người Trung Hoa cho rằng Phục Hy là người sáng lập của văn minh Trung Hoa. Ông được cho là người phát minh ra chữ viết, nghề đánh bắt cá, và bẫy thú. Tuy nhiên, một nhân vật huyền thoại khác là Thương Hiệt (倉頡), cũng được coi là người phát minh ra chữ viết. Ông cũng là người nổi tiếng với nhiều bộ sách về dịch lý. Về hình dạng, ông thường được mô tả là thân rồng đầu người, hoặc thân rắn đầu người, nhân thế được người đời sau xưng là Long tổ (龍祖). Truyền thuyết Theo truyền thuyết Trung Hoa, ông sinh ra tại Thành Kỷ (成紀, nay có lẽ là Thiên Thủy, Cam Túc) sau dời tới Trần Thương (陳倉). Đóng đô tại đất Trần Uyển Khâu (nay là Hoài Dương, Hà Nam). Theo Sơn hải kinh, Phục Hy và Nữ Oa lại là một người bình thường sống ở một ngọn núi hư cấu mang tên Côn Lôn. Một ngày, họ đốt lửa ở hai nhánh cây khác nhau và tự dưng 2 ngọn lửa lại hòa làm một. Từ đó, họ quyết định trở thành vợ chồng. Cả hai nặn hình người đất và ban sự sống cho chúng, từ người đất thì loài người đã được sinh ra. Theo truyền thuyết, ông còn là người đã kiến thuyết Bát quái (八卦). Phục Hy được cho là đã phát hiện cấu trúc Bát quái từ các dấu trên lưng một con Long Mã (có sách viết là một con rùa) nổi lên từ dưới sông Lạc Hà, một sông nhánh của Hoàng Hà. Cách sắp xếp Bát quái này đã sinh ra Kinh Dịch trong thời nhà Chu. Phát kiến này còn được cho là nguồn gốc của thư pháp. Sách Bạch hổ thông nghĩa (白虎通義) của Ban Cố (32 – 92), thời đầu của nhà Hậu Hán, đã viết về tầm quan trọng của Phục Hy như sau: Cùng với Thần Nông và Hoàng Đế, Phục Hy còn được cho là người phát minh ra đàn sắt. Danh sách quân chủ Phục Hy thị Phục Hy dạy dân cày bừa, nuôi gia súc, dùng lưới đánh cá, nấu ăn và săn bắn bằng vũ khí sắt. Ông cùng Nữ Oa là hình tượng thể chế hóa hôn nhân và thực hiện buổi tế trời đầu tiên. Theo truyền thuyết thì Phục Hy ở ngôi vị khoảng 115 năm, truyền được 15 đời tổng cộng 1260 năm. Sách Đế vương thế kỷ của Hoàng Phủ Mật, người nước Tào Ngụy thời Tam Quốc và Tây Tấn nói rằng họ Phục Hy truyền tổng cộng 16 đời cụ thể như sau: Thái Hạo Đế Bào Hy thị (大皞帝包犧氏) Nữ Oa thị (女媧氏) Đại Đình thị (大庭氏) Bách Hoàng thị (柏皇氏) Trung ương thị (中央氏) Lật Lục thị (栗陸氏) Ly Liên thị (驪連氏) Hách Tư thị (赫胥氏) Tôn Lư thị (尊盧氏) Hỗn Độn thị (混沌氏) Hạo Anh thị (皞英氏) Hữu Sào thị (有巢氏) Chu Tương thị (朱襄氏) Cát Thiên thị (葛天氏) Âm Khang thị (陰康氏) Vô Hoài thị (無懷氏) Trong trò chơi điện tử Ông xuất hiện trong các trò chơi điện tử Dynasty Warriors 3, Warriors Orochi 2 và Warriors Orochi Z đều của Koei. Xem thêm Thần thoại Trung Quốc Tam Hoàng Ngũ Đế Nữ Oa Thần Nông Tham khảo Xem thêm Trang tử Thủy kinh chú - Vị thủy (水经注·渭水) Liên kết ngoài Tam Hoàng Ngũ Đế Vua Phục Hy thị Đạo giáo Người phát minh chữ viết Người chơi đàn cổ cầm Tín ngưỡng Trung Hoa Thần thoại Trung Hoa Thần tiên Trung Hoa Vua Trung Quốc Lịch sử Trung Hoa cổ đại Người thọ bách niên Trung Quốc
VI_open-0000000049
News
Sukhothai (tiếng Thái: สุโขทัย, phiên âm: Xu-kho-thai) là một tỉnh (changwat) miền Bắc của Thái Lan. Tỉnh này giáp giới các tỉnh (từ phía Bắc theo chiều kim đồng hồ) là: Phrae, Uttaradit, Phitsanulok, Kamphaeng Phet, Tak và Lampang. Các đơn vị hành chính địa phương Tỉnh này có 9 huyện (Amphoe). Các huyện được chia ra 86 xã communes (tambon) and 782 villages (muban). Tham khảo Liên kết ngoài Website of the Province Province page from the Tourist Authority of Thailand Sukhothai provincial map, coat of arms and postal stamp Tỉnh của Thái Lan
VI_open-0000000052
Travel_and_Transportation
Camembert là một xã trong tỉnh Orne, thuộc vùng hành chính Normandie của nước Pháp, có dân số là 197 người (thời điểm 1999). Xã nổi tiếng do có loại phó mát Camembert hình thành tại đây, tương truyền do bà Marie Harel chế biến ra năm 1791. Nhân khẩu học Tham khảo Xã của Orne
VI_open-0000000053
Food_and_Drink
Cá tầm là một tên gọi để chỉ một chi cá có danh pháp khoa học là Acipenser với 21 loài đã biết. Là một trong những chi cá cổ nhất hiện còn tồn tại, chúng có nguồn gốc tại các vùng nước châu Âu, châu Á và Bắc Mỹ. Cá tầm có kích thước dài khoảng 2,5-3,5 m (8–11 ft) không phải là hiếm và một số loài có thể còn to lớn hơn. Cá tầm là các loài cá ăn ở tầng đáy. Với chiếc mõm hình nêm chúng sục sạo lớp đáy bùn mềm và bằng cơ quan xúc giác nhạy cảm (râu) thì chúng có thể phát hiện các loài động vật giáp xác và cá nhỏ, là nguồn thức ăn của chúng. Vì không có răng nên chúng không thể bắt các con mồi lớn. Môi trường sống Nhiều loài cá tầm sinh sống phần lớn thời gian ngoài biển, nhưng theo chu kỳ thì chúng lại ngược dòng quay trở lại các con sông lớn để đẻ trứng. Một vài cá thể thực hiện công việc này vào cuối mùa vì các mục đích nào đó chưa rõ. Chỉ có một ít loài là sống hoàn toàn trong vùng nước ngọt và không có loài nào sinh sống tại khu vực nhiệt đới hay ở nam bán cầu. Sử dụng Tại Nga việc đánh bắt cá tầm có giá trị lớn. Vào đầu mùa hè, cá tầm di cư vào sông hay về phía bờ của các hồ nước ngọt thành các bầy lớn để đẻ trứng. Các trứng đơn lẻ rất nhỏ, và số lượng trứng mà một con cá cái có thể đẻ có thể lên tới 3 triệu quả trong một mùa. Trứng của một số loài được quan sát thấy là sẽ nở trong vòng vài ngày sau khi được đẻ ra. Có lẽ tốc độ lớn của cá bột là rất nhanh, nhưng người ta hiện vẫn chưa rõ là những con cá con ở lại vùng nước ngọt trong bao lâu trước khi di cư ra biển. Sau khi đạt tới độ tuổi trưởng thành thì tốc độ lớn của chúng dường như là chậm lại rất nhiều, mặc dù vẫn còn tiếp tục trong vài năm. Frederick Đại Đế đã nuôi một số cá tầm tại hồ Garder See ở Pomerania vào khoảng năm 1780; một số trong chúng vẫn còn sống tới năm 1866. Giáo sư von Baer cũng thông báo rằng, theo kết quả của các theo dõi trực tiếp thực hiện tại Nga thì Hausen (cá tầm Beluga - Acipenser huso) sống thọ 100 tuổi, nhưng có thể sống trên 200 năm. Tại các nước như Anh, nơi mà người ta đánh bắt được rất ít cá tầm thì chúng được ăn ở dạng cá tươi, thịt của chúng rắn chắc hơn của các loại cá thông thường khác, hương vị thơm, mặc dù hơi béo. Cá tầm được coi là loại cá của hoàng gia trong sắc luật của vua Edward II, mặc dù có lẽ chỉ rất hiếm khi chúng xuất hiện trên bàn ăn của hoàng gia vào thời kỳ đó. Tại những khu vực mà cá tầm đánh bắt được với số lượng lớn, chẳng hạn trên các con sông ở miền nam Nga hay trong các hồ lớn ở Bắc Mỹ thì thịt của chúng được phơi khô, hun khói hay ướp muối. Các loại trứng cá với kích thước lớn được dùng để làm món trứng cá muối. Vì mục đích này, cá tầm bị đánh bằng roi mềm và sau đó bị ép qua các chiếc sàng, để lại các mô sợi và màng ở lại trên sàng, trong khi trứng được thu thập tại chậu đặt phía dưới sàng. Một lượng muối thích hợp được thêm vào trước khi trứng được đem đóng gói. Bên cạnh đó, các loại thạch tốt nhất được sản xuất từ bong bóng cá tầm. Sau khi được lấy ra khỏi cơ thể một cách cẩn thận, người ta rửa nó trong nước ấm, cắt dọc theo chiều dài của bong bóng để tách các màng bên trong, nó chứa khoảng 70% là glutin. Cá tầm (và vì thế là việc buôn bán trứng cá muối) đang bị đe dọa nghiêm trọng do đánh bắt thái quá, săn bắt trộm và ô nhiễm nước. Các loài 21 loài cá tầm (Acipenser) gần như phân bổ đồng đều giữa Cựu và Tân thế giới. Phần lớn các loài hiện nay được coi là cực kỳ nguy cấp, nguy cấp hay dễ thương tổn. Theo Encyclopædia Britannica 1911 thì các loài quan trọng nhất là: Cá tầm thông thường (Acipenser sturio), còn gọi là cá tầm châu Âu, cá tầm Đại Tây Dương hay cá tầm Baltic, có tại tất cả các vùng bờ biển châu Âu, nhưng không có tại biển Đen. Gần như tất cả các cá tầm đánh bắt được tại Anh là thuộc về loài này; chúng cũng không phải hiếm tại khu vực ven biển của Bắc Mỹ. Loài này có thể dài tới 4 m (12 ft), nhưng thường xuyên bị đánh bắt ở dạng đơn lẻ, vì thế không thể coi là cá có tầm quan trọng kinh tế-thương mại. Hình dáng mõm của nó thay đổi theo tuổi (giống như ở các loài khác), trở nên cùn và ngắn ở những con cá già. Chúng có 11-13 tấm xương chắn dọc theo lưng và 29-31 dọc theo hông. Cá tầm châu Âu hiện nay gần như không còn do đánh bắt thái quá. Cá tầm Nga (Acipenser gueldenstaedtii), là một trong những loài cá có giá trị kinh tế cao nhất tại các dòng sông ở Nga. Tiếng Nga gọi là osétr (oсётр); người ta cho rằng chúng còn sinh sống cả trong những con sông vùng Xibia và có thể có cả ở hồ Baikal. Chúng có kích thước tương tự như cá tầm thông thường và đã từng khá phổ biến tại các con sông chảy ra biển Đen và biển Caspi. Trên ¼ lượng trứng cá muối và thạch cá tầm được sản xuất tại Nga và Iran là từ loài cá này. Tuy nhiên, do nạn đánh bắt trộm và khái thác tận diệt nên hiện nay loài này rơi vào tình trạng nguy cấp về mặt bảo tồn. Cá tầm sao (Acipenser stellatus), trong tiếng Nga gọi là "sevruga" (cеврюга), có nhiều tại các con sông chảy ra biển Đen và biển Azov. Chúng có mõm dài và nhọn, tương tự như ở sterlet (xem dưới đây), nhưng chỉ có một râu không tua. Mặc dù có kích thước chỉ cỡ một nửa các loài trên đây, nhưng giá trị của nó thì không thua kém, thịt của nó được đánh giá cao hơn và trứng cũng như thạch từ loài này có giá cao hơn. Năm 1850 người ta thông báo rằng mỗi năm có trên 1 triệu cá tầm này được đánh bắt. Cá tầm hồ (Acipenser rubicundus hay Acipenser fulvescens), theo ý kiến của các nhà ngư học Bắc Mỹ thì loài cá tầm này với cá tầm ở miền đông Bắc Mỹ (Acipenser maculosus?) là một loài, trong những năm gần đây đã trở thành khách thể của ngành công nghiệp lớn và nhiều lợi nhuận tại các khu vực khác nhau trên hồ Michigan và hồ Erie; thịt của nó được hun khói sau khi được lạng thành các mảnh và ngâm nước muối nhẹ; Những phần cắt bỏ (đầu, đuôi v.v) và các phần mỏng còn lại được dùng để nấu lấy dầu; gần như toàn bộ trứng cá muối được chuyển sang châu Âu. Một hãng sản xuất trung bình mỗi năm dùng hết khoảng 10.000-18.000 cá tầm, trung bình mỗi con nặng 23 kg (50 lb). Cá tầm hồ không thể di cư ra biển, trong khi các cá thể phía dưới thác Niagara lại có thể tự do di chuyển ra biển; và hoàn toàn có thể là các con cá thuộc loài này mà người ta nói rằng thu được tại vịnh Tay trên thực tế là đánh bắt được tại khu vực ven biển của Scotland. Cá tầm nhỏ (Sterlet - từ tiếng Nga cтерлядь) (Acipenser ruthenus, một số tài liệu gọi là cá tầm sông Danube, nhưng thực ra rất ít khi đánh bắt được chúng tại sông này), là một trong những loài cá tầm nhỏ nhất, chúng sinh sống tại các biển như biển Đen, Caspi, Azov, Baltic, Bạch Hải, Barents, Kara và ngược dòng vào sông với khoảng cách lớn từ biển hơn nhiều so với các loài cá tầm khác; vì thế nó có thể là không phải là phổ biến tại khu vực sông Danube ven Viên, nhưng lại có thể đánh bắt được tại các khu vực xa hơn về thượng nguồn như ở Ratisbon và Ulm. Nó phổ biến hơn nhiều tại các con sông của Nga, tại đây nó được đánh giá cao do chất lượng tuyệt hảo của thịt cũng như cung cấp các loại trứng cá muối và thạch cá tốt nhất. Trong thế kỷ 18 đã có các ý định đưa loại cá có giá trị này vào tỉnh Prussia và Thụy Điển, nhưng không thành. Cá tầm nhỏ được phân biệt với các loài cá tầm châu Âu khác bởi chiếc mõm dài và hẹp cùng râu có tua. Nó ít khi dài quá 1 m (3 ft). Cá tầm Beluga (Acipenser huso, hiện nay là Huso huso, ("hausen" của Đức), được nhận ra bởi sự thiếu vắng các tấm xương trên mõm và sợi râu xúc giác bẹt, tương tự như một băng vải. Nó là một trong những loài lớn nhất, có thể dài trên 5 m và cân nặng trên 900 kg (2.000 lb). Chúng sinh sống tại khu vực biển Đen, biển Caspi và biển Azov, từ đây mà trong những năm trước đây hàng đàn cá lớn bơi vào các con sông lớn của Nga và sông Danube. Nhưng số lượng của chúng đã giảm nhiều trong thời gian gần đây và các cá thể nặng khoảng 540 kg (1.200 lb) hiện nay là rất hiếm. Thịt, trứng và bong bóng của chúng có giá trị lớn hơn so với phần lớn các loài cá nhỏ nhưng phổ biến hơn. Các loài khác Acipenser baerii Cá tầm Siberi, Acipenser baerii baerii Cá tầm Baikal, Acipenser baerii baicalensis Cá tầm mũi ngắn, Acipenser brevirostrum Cá tầm Dương Tử (cá tầm Dabry), Acipenser dabryanus Cá tầm lục, Acipenser medirostris Cá tầm Sakhalin, Acipenser mikadoi Cá tầm Nhật Bản, Acipenser multiscutatus Cá tầm Adriatic, Acipenser naccarii Cá tầm tua râu (hay cá tầm hoang, cá tầm tàu, cá tầm gai), Acipenser nudiventris Acipenser oxyrinchus Cá tầm vịnh, Acipenser oxyrinchus desotoi Cá tầm Đại Tây Dương, Acipenser oxyrinchus oxyrinchus Cá tầm Ba Tư, Acipenser persicus Cá tầm Amur, Acipenser schrenckii Cá tầm Trung Quốc, Acipenser sinensis Cá tầm trắng, Acipenser transmontanus Họ Cá tầm (Acipenseridae) bao gồm cả ba chi khác cũng được gọi vắn tắt là cá tầm, bao gồm: Chi Scaphirhynchus: Là 3-4 loài cá tầm đầu xẻng hay cá tầm mũi xẻng, được phân biệt bằng chiếc mõm dài, rộng và bẹt, sự nén nhỏ lại của các lỗ thở và sự hợp nhất của các hàng vảy theo chiều dọc ở phía sau cơ thể. Tất cả các loài này đều là cá nước ngọt. Một loài rất hiếm ở sông Mississippi và các sông khác của Bắc Mỹ. Hai/ba loài còn lại có ở các sông lớn thuộc miền đông châu Á. Chi Huso gồm cá tầm Beluga (Huso huso) cùng cá tầm Kaluga (Huso dauricus). Pseudoscaphirhynchus kaufmanni (Cá tầm đầu xẻng giả) thuộc chi chị em với chi Scaphirhynchus là chi Pseudoscaphirhynchus, gồm 3 loài sống ở khu vực Trung Á và đông bắc châu Á. Xem thêm Cận lớp Teleostei Châu thổ Volga - Khu vực nuôi cá tầm lớn nhất thế giới Hiệp hội bảo tồn cá tầm thế giới sông Wolf- Bảo vệ cá tầm Thông tin tại FishBase về cá tầm Tham khảo A Cá tầm Nhóm loài do Carl Linnaeus đặt tên
VI_open-0000000054
Pets_and_Animals
Chi Hoàng đằng (danh pháp khoa học: Fibraurea) là một chi bao gồm khoảng 2-3 loài dây leo thuộc họ Biển bức cát (Tiết dê), phân bố trong khu vực nhiệt đới châu Á, từ Ấn Độ (quần đảo Nicobar) tới Hoa Nam và Philippines. Các loài Fibraurea darshanii Udayan & K.Ravik.: Chưa dung giải được. Fibraurea recisa (Pierre): Nam Bộ, Việt Nam Fibraurea tinctoria (Lour.) (đồng nghĩa: Fibraurea chloroleuca (Miers), Fibraurea fasciculata (Miers), Fibraurea laxa (Miers), Fibraurea trotteri (Watt), Fibraurea manipurensis Brace ex Diels): bán đảo Mã Lai, Borneo, Indonesia, Manipur, Ấn Độ. Đồng nghĩa Fibraurea elliptica (Yamamoto) = Haematocarpus subpeltatus Merr.: Phân bố tại khu vực Luzon (Philippines). Fibraurea haematocarpus Hook.f. & Thomson = Haematocarpus thomsonii Miers Chú thích
VI_open-0000000055
Pets_and_Animals
là một sân bay quốc tế tọa lạc tại Narita, Chiba, Nhật Bản, phía Đông của Vùng Đại Tokyo. Narita phục vụ phần lớn các chuyến bay vận chuyển hành khách đến và đi Nhật Bản và cũng là điểm kết nối hàng không chính giữa châu Á và châu Mỹ. Đây là sân bay tấp nập thứ 2 Nhật Bản, là sân bay vận chuyển hàng hóa lớn thứ 2 Nhật Bản, sân bay vận chuyển hàng hóa tấp nập thứ 3 thế giới. Đây là trung tâm hoạt động quốc tế của các hãng hàng không Japan Airlines và All Nippon Airways, và là một trung tâm khu vực châu Á của các hãng Northwest Airlines và United Airlines. Năm 2007, sân bay này phục vụ 35.530.035 khách, đứng thứ 24 trong bảng xếp hạng các sân bay bận rộn nhất thế giới. Sân bay này được gọi là 'Sân bay quốc tế mới Tokyo (tiếng Anh: New Tokyo International Airport (tiếng Nhật: 新東京国際空港 Shin-Tōkyō Kokusai Kūkō) cho đến năm 2004. Trong khi Tokyo là nguồn cung chính về khách và hàng hóa của sân bay này, sân bay này lại nằm xa trung tâm Tokyo (mất 1h bằng tàu Express) và nằm trong một tỉnh khác. Sân bay quốc tế Tokyo (Sân bay Haneda) nằm ở trong nội thành Tokyo là sân bay bận rộn nhất ở Nhật Bản và là sân bay tấp nập thứ tư thế giới dù nó phục vụ rất ít chuyến bay quốc tế. Lịch sử Việc xây dựng và mở rộng sân bay này đã dấy lên tranh chấp bạo loạn giữa chính phủ và nhân dân Nhật Bản. Do những tranh chấp này, các sân bay mới khác như ở Osaka và Nagoya là các sân bay (Kansai và sân bay Chūbu đã được xây ở các đảo lấn biển thay vì xây trong khu dân cư đông đúc. Xây dựng Năm 1962, chính phủ Nhật Bản đã bắt đầu tiến hành nghiên cứu một phương án mới thay thế sân bay Haneda đang quá tải và đề xuất một "Sân bay quốc tế mới Tokyo" để thay thế Haneda tiếp nhận các chuyến bay quốc tế. Tokyo sau chiến tranh đã phát triển nhanh chóng đã khiến cho vùng Quan Đông thiếu đất bằng phẳng để xây sân bay, do đó nơi được lựa chọn là ở tỉnh Chiba. Đầu tiên, các nhà khảo sát đề xuất đặt sân bay ở làng Tomisato; tuy nhiên, địa điểm đã được dời 5 km phía Đông-Bắc của các làng Sanrizuka và Shibayama, nơi Hoàng Gia có một nông trại. Kế hoạch triển khai đã được công bố năm 1966. Vào thời gian này, phong trào chủ nghĩa xã hội vẫn có sức mạnh đáng kể ở Nhật Bản, thể hiện qua các cuộc bạo loạn của sinh viên ở Tokyo năm 1960. Ngoài ra, những người dân số ở khu vực được lựa chọn xây sân bay này đã sinh sống ở đây đã lâu và không muốn rời bỏ quê cha đất tổ của mình nên nhiều người Nhật "cánh tả mới" phản đối việc xây dựng sân bay Narita với lý do là mục đích chính của việc xây sân bay này là cung cấp thêm phương tiện cho máy bay quân đội Hoa Kỳ trong trường hợp có chiến tranh với Liên Xô. Cuối thập niên 60 của thế kỷ 20, một nhóm các cư dân địa phương phối hợp với các nhà hoạt động sinh viên và các đảng chính trị cánh tả đã lập nên một nhóm mang tên "Liên hiệp Sanrizuka-Shibayama chống lại sân bay , sử dụng sự phối hợp giữa kêu gọi dân chúng, kiện ra tòa và chiến thuật chiến tranh du kích để ngăn cản chính phủ phát triển dự án. Mở rộng Theo quy hoạch ban đầu, Sân bay quốc tế Tokyo có 3 đường băng: hai đường băng Tây Bắc/Đông Nam song song dài 4000 m và một đường băng giao cắt Đông Bắc/Tây Nam dài 3200 m. Khi sân bay khánh thành năm 1978, chỉ một trong hai đường băng song song đã được hoàn thành, hai đường kia bị trì hoãn để tránh làm trầm trọng thêm tình hình vốn đang căng thẳng ở khu vực xung quanh. Quy hoạch ban đầu cũng có tuyến đường ray cao tốc Narita Shinkansen nối sân bay với trung tâm Tokyo nhưng dự án này bị hủy bỏ do không đền bù đủ đất. Ngày 26 tháng 11 năm 1986, cơ quan quản lý sân bay này bắt đầu thực hiện giai đoạn 2, một đường băng nằm về phía Bắc của đường băng chính ban đầu. Để tránh các vấn đề gặp phải như giai đoạn 1, Bộ Giao thông Vận tải Nhật Bản đã hứa năm 1991 rằng việc mở rộng này sẽ không liên quan tới việc tước đoạt đất đai. Những người dân ở khu vực xung quanh đã được đền bù do ô nhiễm tiếng ồn và âm thanh từ công trường dù một số nông dân từ chối đi bị cưỡng chế. Đường băng này được mở cửa ngày 18 tháng 4 năm 2002, kịp cho World Cup tổ chức tại Nhật Bản năm đó. Tuy nhiên, đường băng này chỉ dài 2180 m, chỉ hơn ½ độ dài theo quy hoạch ban đầu, quá ngắn cho tàu bay Boeing 747 cất hạ cánh. Giai đoạn 2 cũng bao gồm việc xây một nhà ga hành khách do Công ty Takenaka xây dựng xong ngày 6 tháng 12 năm 1992. Suốt cuối thập niên 1980, nhà ga xe lửa chính củaq Sân bay Narita nằm khá xa nhà ga. Bộ trưởng Giao thông Nhật Shintaro Ishihara, người hiện nay là thống đốc Tokyo, đã yêu cầu công ty vận hành tuyến tàu hỏa sân bay là JR và Keisei Railway nối tuyến này trực tiếp vào các nhà ga sân bay và mở nhà ga ngầm để phục vụ tàu Shinkansen đến tận nhà ga. Dịch vụ tàu điện shinkansen trực tiếp đã đến nhà ga ngày 19 tháng 3 năm 1991 và Nhà ga tàu hỏa Narita cũ được đổi tên thành Ga Higashi-Narita. Cuối thập niên 1980, Liên hiệp (của những người phản đối) xây hai tháp bằng thép cao 30,8 m và 62,3 m phong tỏa đầu phía Bắc của đường băng chính. Tháng 1 năm 1990, Tòa án quận Chiba đã ra lệnh tháo dỡ hai tháp thép này mà không bồi thường cho Liên hiệp; Tòa án Tối cao Nhật Bản đã tán thành phán quyết này là hợp hiến năm 1993. Các vấn đề hiện nay Ngày 1 tháng 4 năm 2004, Sân bay quốc tế mới Tokyo đã được tư nhân hóa và chính thức đổi tên thành Sân bay quốc tế Narita, phản ánh mệnh danh nổi tiếng của nó kể từ khi mở cửa. Sau khi tư nhân hóa, sân bay này đã đạt được mức vận tải kỷ lục và nhiều dự án xây dựng được tiếp tục. Ngoài những tranh chấp chính trị tiếp diễn giảm dần tích ác liệt theo thời gian, các tranh cãi về vị trí và phí hạ cánh đã ảnh hưởng xấu đến sân bay này. Do nhiều hãng hàng không muốn sử dụng nó còn Cục hàng không Nhật Bản lại hạn chế số chuyến bay của mỗi hãng hàng không hoạt động tại đây khiến cho sân bay này đắt đỏ đối với hãng hàng không và hành khách. Một trong những chỉ trích không ngớt về sân bay này là khoảng cách xa trung tâm Tokyo, đi bằng tàu cao tốc nhanh nhất cũng phải mất 1 tiếng và mất thời gian lâu hơn nếu đi bằng đường bộ do nạn kẹt xe. Khoảng cách này càng trở thành vấn đề hơn đối với vùng Tây Tokyo và Tỉnh Kanagawa, cả hai gần Sân bay Haneda hơn. Tuyến Đường sắt Nhanh Narita, dự kiến hoàn thành và mở của năm 2010 sẽ làm giảm thời gian đi bớt 20 phút. Nhiều cổng tại nhà ga Narita đang được lắp đặt cầu dẫn khách đôi để phục vụ tàu bay khổng lồ Airbus A380. Singapore Airlines dự định bay bằng tàu bay A380 đầu tiên đến Narita vào mùa Hè năm 2007. Dù Bộ Đất đai, Hạ tầng và Giao thông đã cho Sân bay Narita độc quyền phục vụ khách quốc tế đến vùng Tokyo, sự độc quyền này đang dần giảm đi. Sân bay Haneda có một số chuyến bay quốc tế hạn chế đi Đài Loan và sau đó được thay bằng các chuyến đi Sân bay Gimpo ở Seoul. Sau khi xây xong đường băng D ở Haneda năm 2009, chính phủ Nhật Bản có ý định chuyển các chuyến bay quốc tế khác đến Haneda để giảm tải cho Narita. Nhiều kế hoạch xây sân bay thứ 3 cho Tokyo đã được đề xuất, sân bay mới này có thể nằm ở Bãi biển Kujukuri ở Đông Chiba hoặc trên một hòn đảo nhân tạo ở Vịnh Tokyo. Các nhà ga và các hãng hàng không Sân bay Narita có hai nhà ga riêng biệt với một nhà ga xe lửa ngầm. Giữa các nhà ga hàng không là xe bus và xe lửa, không có lối đi dành cho người đi bộ nối hai nhà ga. Hàng hóa Thống kê Các tuyến đông nhất Thống kê hoạt động sân bay Số lượng hành khách Khối lượng hàng hóa (tấn) Nguồn: Bộ Đất đai, Hạ tầng, Giao thông và Du lịch Nhật Bản Tham khảo Các liên kết ngoài Trang tin của Sân bay quốc tế Narita Lịch sử và chính trị: Todd Crowell, "An end to the 39-year war," ngày 30 tháng 7 năm 2005 "Editorial - Narita fiasco: never again," The Japan Times, ngày 26 tháng 7 năm 2005 Stephan Hauser, "Field of dreams - filled with concrete ," Tokyo Journal, Feb. 2000 Appeal to Stop Use of the Second Runway at Narita Airport Chiba Narita Narita Giao thông ở Tokyo
VI_open-0000000056
Travel_and_Transportation
Các nguyên tố trong bảng tuần hoàn được xếp theo các nhóm và chu kỳ tuần hoàn, trong đó chu kỳ là các hàng ngang và gồm các nguyên tố có cùng số lớp trong lớp vỏ electron. Trong mỗi chu kỳ từ trái sang phải: số nguyên tử tăng, bán kính nguyên tử giảm, độ âm điện tăng. Ngoại trừ chu kỳ 1 chỉ gồm 2 nguyên tố, các chu kỳ còn lại chứa nguyên tố của các nhóm chính, từ chu kỳ 4 trở đi còn có nguyên tố trong 10 nhóm phụ. Chu kỳ 6 còn có 15 nguyên tố trong nhóm Lanthan, chu kỳ 7 nhóm Actini. Nhận xét: mỗi chu kỳ bắt đầu là một kim loại kiềm và kết thúc bằng một khi hiếm (trừ chu kì 1 vì bắt đầu là phi kim H, kết thúc bởi khí hiếm He) Tham khảo Bảng tuần hoàn
VI_open-0000000057
Science
là thành phố đông dân nhất (1,18 triệu người) và là trung tâm hành chính của tỉnh Saitama, vùng Kanto trên đảo Honshu của Nhật Bản. Mặc dù cùng đọc là "Saitama", nhưng trong văn viết và các văn bản hành chính thì tên chính thức của tỉnh Saitama được viết theo Kanji là 埼玉 - "Kỳ Ngọc", còn tên chính thức của thành phố Saitama chỉ được viết theo Hiragana là さいたま. Địa lý Thành phố nằm ở phía Đông Nam tỉnh Saitama, cách trung tâm Tokyo chừng 20-30 km. Thành phố có diện tích 217,49 km². Lịch sử Tháng 5/2001, thành phố Saitama được thành lập trên cơ sở sáp nhập ba thành phố liền kề Urawa, Omiya, và Yono. Cùng thời gian, thành phố được thừa kế vị trí thành phố cấp vùng về nghiệp vụ đô thị của vùng thủ đô Tokyo từ Urawa và Omiya. Tháng 1/2003, thành phố được công nhận là đô thị quốc gia của Nhật Bản. Tháng 4/2005, thành phố Saitama và thành phố liền kề Iwatsuki sáp nhập vào thành phố mới vẫn lấy tên Saitama. Hành chính Thành phố chia làm 10 khu. Kinh tế Nền kinh tế thành phố Saitama lấy khu vực dịch vụ làm trung tâm Tham khảo Liên kết ngoài Website chính thức của thành phố Thành phố tỉnh Saitama Khu dân cư thành lập năm 2001 Nhật Bản năm 2001
VI_open-0000000058
Jobs_and_Education
Kẹo cao su (còn gọi kẹo gum hoặc kẹo sinh-gum do phiên âm từ tiếng Pháp "chewing-gum") là một dạng kẹo được thiết kế mềm để nhai mà không nuốt. Theo truyền thống, nó được làm từ nhựa chicleđược lấy từ cây hồng xiêm. Tuy nhiên, ngày nay, vì lý do kinh tế và chất lượng nên kẹo cao su sử dụng chất polymer trên nền dầu mỏ thay cho nhựa chicle từ cây hồng xiêm. Người Mêxicô rất thích ăn loại kẹo này và nhai nó suốt ngày. Từ đó, danh tiếng kẹo cao su lại được vang đi khắp mọi nơi trên thế giới. Đây là loại kẹo đặc biệt, đường sẽ tan nhanh và kẹo sẽ hết ngọt sau khi nhai một thời gian. Loại này thường chỉ nhai mà không nuốt (mặc dù có thể nuốt nhưng không quá 2 viên/thanh). Lịch sử "Kẹo cao su", với những dạng khác nhau, đã tồn tại từ xa xưa, ít ra là từ thời Hy Lạp cổ đại. Người Hy Lạp nhai nhựa của cây nhũ hương; còn ở Ấn Độ, phổ biến là cây trầu không (một loại cây chứa chất gây mê nhẹ); trong khi đó, người Da đỏ lại nhai nhựa thông. Khoảng năm 1850, một loại nhựa được làm từ parafin phát triển nhanh chóng, và trở nên phổ biến, vượt trội hơn cả nhựa thông. Những loại kẹo cao su hiện đại đầu tiên được phát triển vào những năm 1860, khi nhựa cây chicle được nhập khẩu từ México vào Mỹ để coi như một vật liệu mới bên cạnh cao su, nó không thể thay thế hoàn toàn cho cao su nhưng lại nhanh chóng thống trị thị trường. Nhựa cây chicle, và các loại nhựa cây tương tự được các công ty chuyên sản xuất kẹo cao su ưa chuộng vì có kết cấu mịn và mềm, giữ hương vị tốt. Người ta nhai suốt ngày cho đỡ buồn cái miệng. Thổ dân Maya đã bắt đầu nhai chicle từ 2000 năm trước và kể từ đó người Mexico cũng thường nhai loại chất dẻo này. Chính Nhà độc tài Santa Ann cũng nhai chicle. Từ trận chiến Alamo đến phát minh kẹo cao su hiện đại Antonio López de Santa Anna, là một vị tướng và là một nhà độc tài Mexico, ông ta thích ví mình như "Napoleon" của miền Tây, Nổi tiếng nhất với trận tấn công vũ bão vào Alamo năm 1836 và giết sạch quân phòng thủ ở đó, ông ta trở thành nhà độc tài cai trị Mexico suốt một thời gian dài cho đến khi người Mexico lật đổ, buộc ông phải sống lưu vong. Và Santa Anna đã đến New York, vào năm 1869, nhà độc tài ở tuổi 75 này đang sống trên đảo State. Ông ta đã có dự định lên kế hoạch quyên tiền cho một cuộc cách mạng ở Mexico bằng cách bán chicle, một loại kẹo dẻo được lấy từ cây hồng xiêm. Khi gặp nhà phát minh Thomas Adams, ông ta vẽ ra một viễn cảnh màu hồng về cách biến chicle thành một chất có giá thành thấp thay thế cao su. Adams đồng ý thử xem sao. Kế hoạch làm giàu của họ thất bại hoàn toàn. Cuối cùng, Santa Anna trở lại México, còn Adams bế tắc với đống chicle vô dụng. Lúc sắp mang chúng vứt xuống sông East thì ông đi ngang qua một cửa hàng dược phẩm và nhìn thấy một cô bé đang mua kẹo sáp để nhai. Sực nhớ rằng người Mexico thường nhai chicle, Adams nghĩ ông có thể vớt vát được đống bỏ đi này bằng cách biến thành kẹo dẻo. Chicle đã chứng tỏ được ưu thế vượt trội so với kẹo sáp. Sản phẩm "kẹo gôm số 1 New York của Adams" trở nên phổ biến. Đây là tổ tiên của tất cả những gói kẹo cao su trên kệ hàng ngày nay. Và nó đã tạo ra một cơn sốt kẹo cao su mà cho đến nay vẫn còn chưa hạ nhiệt. Sau loại kẹo đầu tiên, Adams đã cho ra đời nhiều loại tiếp theo, trong đó có loại kẹo cao su Blackjack hương cam thảo và một sản phẩm hiện nay vẫn còn tồn tại trên thị trường là Chiclet. Các dạng kẹo cao su Ngày nay, kẹo cao su đạt đến sự đa dạng của hương vị. Không có kiểu kẹo cao su nào tiêu chuẩn, nó có thể được phát triển thành nhiều hình dạng, kích thước. Một số ví dụ gồm: Dạng tép (dạng thẻ): phẳng, mỏng. Dạng cuộn tròn: hình dạng tương tự như dạng tép nhưng dài hơn, vì thế nó được cuộn tròn lại bên ngoài một cái lõi. Dạng viên bao đường: thông thường được đóng gói trong giấy bạc. Dạng nhân mềm: bên trong có nhân ngọt. Dạng thổi bóng: độ dai cao, có thể thổi thành bong bóng. Dạng không đường: dùng để ăn kiêng. Kẹo cao su và vấn đề sức khỏe Nếu ăn quá nhiều kẹo cao su (đặc biệt là vị bạc hà) sẽ gây nóng, mọc mụn nhiều và chảy máu dạ dày. Khi nuốt lượng lớn bã kẹo cao su (từ 2 thanh trở lên) có thể gây tắc ruột nếu không kịp thời xử lý nhất là với trẻ nhỏ hệ đường ruột chưa hoàn thiện. Kẹo cao su và sức khỏe răng miệng Kẹo cao su chứa đường Sucrose là một loại đường đôi, thường có trong thành phần kẹo cao su. Vi khuẩn trong miệng chuyển hóa sucrose và các loại carbohydrate có khả năng lên men khác. Những loại vi khuẩn này (đặc biệt là Streptococcus mutans và Lactobacillus spp) hình thành màng sinh học và axit làm mất khoáng men răng và tạo lỗ sâu. Mức độ gây sâu răng của kẹo cao su chứa đường còn tùy thuộc vào đặc tính tương hợp lý học, thời gian giữ kẹo trong miệng, tần suất nhai và thời điểm sử dụng (ví dụ, nhai kẹo cao su chứa đường trước khi ăn giúp giảm sản xuất axit, ít gây sâu răng hơn trường hợp nhai kẹo sau ăn). Kẹo cao su không đường Kẹo cao su có nhãn dán "không đường" nếu lượng đường trong mỗi viên kẹo ít hơn 0,5g. Các chất tạo vị ngọt mạnh thay thế đường trong kẹo cao su như: acesulfame kali, aspartame, neotame, saccharin, sucralose hoặc đường từ cây cỏ ngọt. Các dẫn xuất rượu của đường (sugar alcohol) / như erythritol, isomalt, maltitol, mannitol, sorbitol hoặc xylitol cũng có thể tạo độ ngọt cho kẹo. Khác với đường, những chất tạo ngọt này không gây sâu răng vì vi khuẩn gây bệnh trong mảng bám chuyển hóa chúng chậm hoặc không chuyển hóa được. Những chất tạo ngọt này dù chứa hàm lượng calo thấp hơn đường nhưng theo Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (hiệp hội FDA), aspartame và các hợp chất rượu từ đường kể trên đều là chất tạo ngọt dinh dưỡng vì chứa hơn 2% calo so với một lượng đường tương đương. Acid Kẹo cao su có chứa axit tạo vị (như axit citric) hoặc axit do vi khuẩn sinh ra khi dùng loại kẹo chứa đường có thể làm giảm pH mảng bám. Giá trị pH tới hạn gây ra phá hủy men răng là 5,5. Khi pH giảm dưới giá trị này sẽ gây ra quá trình mất khoáng men và hình thành sang thương sâu răng. Kẹo cao su có pH thấp hơn 5,5 có thể góp phần làm mòn men răng. Lượng nước bọt Lưu lượng nước bọt không kích thích trung bình ở người khỏe mạnh là 0,3-0,4 mL/phút. Hoạt động cơ học khi nhai sẽ kích thích nước bọt: khi nhai kẹo cao su không đường và không vị cũng gây kích thích lưu lượng nước bọt tăng 10-12 lần so với khi không kích thích. Các chất tạo vị cũng gây kích thích nước bọt. Lưu lượng nước bọt kích thích tăng đáng kể khi nhai kẹo cao su có chất tạo ngọt và tạo vị. Nước bọt kích thích ngăn ngừa nguy cơ xoi mòn răng qua một vài cơ chế. Nước bọt trung hòa axit có trong thức ăn và đồ uống làm yếu bề mặt men răng. Đồng thời, khi nuốt lượng nước bọt kích thích dư thừa sẽ giúp rửa sạch axit. Nước bọt kích thích chứa protein, natri, calci, clo và bicarbonate ở nồng độ cao, do đó có khả năng đệm mạnh hơn nước bọt không kích thích. Ngoài ra, nước bọt còn cung cấp cho bề mặt răng một lượng protein, tạo ra lớp men mỏng chống lại sự xoi mòn. Nước bọt kích thích cũng giúp rửa trôi các loại carbohydrate có khả năng lên men, do đó giúp loại bỏ chúng trước khi vi khuẩn trong mảng bám thực hiện quá trình chuyển hóa. Cơ chế này cùng với quá trình bảo vệ chống xoi mòn răng đã nêu ở trên là những lý do giải thích vì sao các thử nghiệm lâm sàng cho thấy tỷ lệ mắc sâu răng giảm ở các đối tượng nhai kẹo cao su ít đường trong 20 phút sau khi ăn. Những tác động khác của kẹo cao su Kẹo cao su làm tăng lượng nước bọt nên cũng giúp rửa sạch axit trong thực quản thông qua việc làm tăng quá trình tiết và nuốt. Kẹo cao su còn làm giảm các triệu chứng ở bệnh nhân trào ngược dạ dày – thực quản hay trào ngược thanh quản – hầu. Kẹo cao su không đường còn là phương pháp hiệu quả để điều trị khô miệng ở những bệnh nhân còn khả năng tiết nước bọt. Theo một tổng quan hệ thống, sử dụng kẹo cao su không đường cải thiện các triệu chứng chủ quan của khô miệng tương đương với các tác nhân kích thích nước bọt và tác nhân thay thế nước bọt (nước bọt nhân tạo) nhưng không có hiệu quả kéo dài. Hiện chưa có bằng chứng nào về một loại kẹo cao su chuyên biệt có tác dụng ưu việt ở mặt này. Có thể sử dụng kẹo cao su thay cho chải răng và dùng chỉ nha khoa không? Chỉ nên sử dụng kẹo cao su để hỗ trợ việc chải răng và dùng chỉ nha khoa, không phải là một phương pháp thay thế hiệu quả. Theo khuyến cáo của ADA, nên chải răng ngày 2 lần với kem đánh răng có chứa fluor và làm sạch mảng bám kẽ răng 1 lần mỗi ngày bằng chỉ nha khoa hoặc các dụng cụ nha khoa khác. Kẹo cao su và vấn đề xã hội Hiện nay, kẹo cao su là một loại thực phẩm dùng để đỡ buồn miệng. Nếu nhổ bã kẹo bừa bãi, nó có thể gây phiền hà cho người khác, làm mất vệ sinh. Vì vậy, phải gói bã vào tờ giấy mỏng và vứt vào thùng rác sau khi nhai hết vị ngọt. Vấn đề bã kẹo cao su Bã kẹo cao su dính rất chặt và chắc với bê tông và những bề mặt cứng khác, cần một nỗ lực rất lớn để loại bỏ chúng. Nếu bã kẹo dính vào tóc, có thể loại bỏ (ít ra là từng phần) với bơ đậu phộng hay dầu thực vật, bã còn có thể được hoà tan với những loại bột khác nhau. Một cách khác là đặt một túi nước đá trên vùng bị dính bã kẹo rồi lấy ra từ từ. Nếu dính ít, có thể cẩn thận lấy ra bằng lược có răng tốt. Nếu bã kẹo dính trên quần áo, có thể đặt vào tủ lạnh cho cứng rồi cạo chúng ra. Phần còn lại còn bị dính trên quần áo, trùm một cặp giấy lên đó và ủi. Nếu bã kẹo dính vào bề mặt cứng, có thể dí cục đá thật lạnh lên trên ấy. Bã kẹo sẽ bị cứng lại, chất kết dính không còn. Sau đó, gỡ bỏ trực tiếp bằng tay hoặc cạo bằng dao, kéo, thìa,... Tham khảo The Greatest war stories naver told 100 tales from military history to astonish, bewilder, and stupefy_Rick Beyer. Liên kết ngoài Cao su, kẹo Cao su, kẹo Món ngọt
VI_open-0000000060
Food_and_Drink
Quỷ Cốc Tử (), tương truyền tên thật là Vương Hủ (王诩), còn gọi là Vương Thiền (王禅), Vương Lợi (王利), Vương Thông (王通), tự là Hủ (诩), đạo hiệu Huyền Vi Tử (玄微子). Người đời thường gọi ông là Quỷ Cốc tiên sinh, Vương Thiền lão tổ. Ông là nhân vật có ảnh hưởng lớn hoạt động trong giai đoạn giữa thời Chiến Quốc, là một trong những "bách gia chư tử", ông tổ của Tung Hoành gia, cũng là một chính trị gia, nhà ngoại giao, âm dương gia, nhà tiên tri, nhà giáo dục. Thân thế Quỷ Cốc Tử sinh ra vào thế kỷ 4 TCN. Có nhiều giả thuyết về xuất thân của Quỷ Cốc Tử. Có thuyết là người nước Vệ (huyện Kỳ, Hà Nam); có thuyết là người đất Nghiệp nước Ngụy (Lâm Chương, Hà Bắc); có thuyết là người Đan Thành nước Trần (huyện Đan Thành, Hà Nam); có thuyết là người Vân Dương quan nội giáp Hán Thủy (huyện Thạch Tuyền, Thiểm Tây). Cũng có sử gia cho rằng Quỷ Cốc Tử không dùng để chỉ một người cụ thể, mà là tên gọi chung cho một nhóm phần tử trí thức né tránh loạn lạc và không muốn ra làm quan mà ẩn cư tại Quỷ Cốc, vì thế mà mới thông thạo bách gia chư tử. Học trò Tương truyền, trong số học trò của Quỷ Cốc Tử có bốn người Bàng Quyên, Tôn Tẫn, Tô Tần, Trương Nghi. Bàng Quyên, nhà quân sự hoạt động vào giữa thời Chiến Quốc (thế kỷ 4 TCN), danh tướng nước Ngụy, một trong những nhân vật chính trong câu chuyện Tôn - Bàng đấu trí. Bàng Quyên từng vì đố kị mà hãm hại bạn đồng môn là Tôn Tẫn, chặt xương đầu gối, thích lên mặt, khiến ông (Tôn Tẫn) phải trốn sang nước Tề. Năm 354 TCN trong trận Quế Lăng bị Tôn Tẫn bắt rồi được thả, năm 342 TCN, tại trận Mã Lăng bị Tôn Tẫn đánh bại mà tử trận. Tôn Tẫn, nhà quân sự hoạt động vào giữa thời Chiến Quốc (thế kỷ 4 TCN), nhân vật tiêu biểu của binh gia, tác giả cuốn "Binh pháp Tôn Tẫn". Năm 354 TCN trong trận Quế Lăng bắt được Bàng Quyên rồi thả, năm 342 TCN tại trận Mã Lăng đánh bại và giết chết Bàng Quyên. Tô Tần, người Thừa Hiên Lý, Lạc Ấp (nay ở phía đông Lạc Dương, Hà Nam), Tung Hoành gia nổi danh thời Chiến Quốc, đề xướng hợp tung (liên hợp sáu nước đối phó nước Tần). Trương Nghi, người An Ấp nước Ngụy (nay là huyện Hạ, Sơn Tây), Tung Hoành gia nổi danh thời Chiến Quốc. Ông đã đề xướng liên hoành, (nước Tần liên hợp các nước chư hầu chống lại các nước chư hầu khác), nhiều lần phá hoại hợp tung của Tô Tần (liên hợp sáu nước đối phó nước Tần), được Tần Huệ vương trọng dụng, sau này làm thừa tướng nước Tần, tướng quốc nước Ngụy. "Chiến Quốc tung hoành gia thư" ghi lại cuộc đối đầu của Trương Nghi với Công Tôn Diễn, người đề xướng hợp tung thời bấy giờ. Giả thuyết sư phụ Tôn Tẫn và Bàng Quyên là Quỷ Cốc Tử bắt nguồn từ tiểu thuyết lịch sử như "Đông Chu liệt quốc chí" và "Tôn Bàng đấu chí diễn nghĩa", chính sử không có ghi chép; còn giả thuyết sư phụ Trương Nghi và Tô Tần là Quỷ Cốc Tử căn cứ theo ghi chép tại "Sử ký - Tô Tần liệt truyện" và Sử ký - Trương Nghi liệt truyện. Căn cứ năm hoạt động và năm tử vong của bốn học trò, năm sống của Quỷ Cốc Tử trong khoảng thế kỷ 4 TCN. Theo "Chiến Quốc tung hoành gia thư" được khai quật trong mộ Hán ở Mã Vương Đôi, Trường Sa năm 1973, Tô Tần chết năm 284 TCN, Trương Nghị chết năm 310 TCN, có khả năng sách lược liên hoành của Trương Nghi là để đối phó với sách lược hợp tung của Công Tôn Diễn, chứ không phải hợp tung của Tô Tần, Tô Tần cũng không dùng kế để Trương Nghi sang Tần, những ghi chép này bất đồng với "Sử ký" và "Tư trị thông giám". Khảo cứu Ghi chép sớm nhất về Quỷ Cốc Tử là "Sử ký" của Tư Mã Thiên. Trong "Sử ký - Tô Tần liệt truyện" viết: "Tô Tần, người Lạc Dương. Sang Đông tìm thầy nước Tề, theo học Quỷ Cốc tiên sinh." Quyển 18 "Sử ký tác ẩn" của Tư Mã Trinh đời Đường: Trích dẫn quan điểm nghi ngờ tính xác thực của Quỷ Cốc Tử "Quỷ Cốc, tên địa danh, Dương Thành, Dĩnh Xuyên, Trì Dương, Phù Phong có gò Quỷ Cốc, có lẽ là nơi người này ở, nên lấy làm hiệu; nhưng sách 'Quỷ Cốc Tử' do Lạc Nhất chú giải viết: Tô Tần muốn ra vẻ thần bí, nên bịa ra cái tên Quỷ Cốc." "Quỷ Cốc Tử tự" của Trưởng Tôn Vô Kỵ đời Đường: "Quỷ Cốc Tử, người Sở, thời Chu ẩn cư nơi Quỷ Cốc." "Trung hưng thư mục" đời Tống: "Người tài thời Chu, không quê quán họ tên, lấy nơi ẩn cư tự đặt hiệu Quỷ Cốc tiên sinh." "Quận trai độc thư chí" của Triều Công Vũ đời Tống: "Thời Chiến Quốc ẩn cư Quỷ Cốc, Dương Thành, Dĩnh Xuyên, nên tự đặt làm hiệu." "Trực trai thư lục giải đề" của Trần Chấn Tôn Nam Tống: "Thầy của Tô Tần, Trương Nghi thời Chiến Quốc, hiệu Quỷ Cốc tiên sinh." Đánh giá Quỷ Cốc Tử vừa có lục thao tam lược của chính trị gia, lại giỏi thuật tung hoành của nhà ngoại giao, đồng thời được truyền lại kỹ năng của âm dương gia, khả năng đoán trước của nhà tiên tri, nên người đời xưng Quỷ Cốc Tử là một vị kỳ tài, toàn tài. Đạo giáo cho rằng Quỷ Cốc tiên sinh là "cổ chi chân tiên", từng sống tại nhân gian hơn trăm tuổi, sau đó quy ẩn núi rừng. Sách "Quỷ Cốc Tử" bảo tồn nguyên vẹn trong "Đạo tạng" kinh điển của đạo gia. Dân gian cũng có truyền thuyết Quỷ Cốc Tử là ông tổ nghề đoán mệnh, trong đạo giáo tôn hiệu của Quỷ Cốc Tử là Huyền Đô tiên trưởng. Tác phẩm Tác phẩm chính của Quỷ Cốc Tử là "Bãi hạp sách" và "Bản kinh âm phù thất thuật". "Bãi hạp sách" tập trung vào sách lược quyền mưu và kỹ xảo biện luận bằng lời nói, còn "Bản kinh âm phù thất thuật" tập trung vào đạo bồi dưỡng tinh thần. Nội dung chính do Quỷ Cốc tiên sinh đích thân soạn, hoặc có học trò và đàn em cùng tham gia soạn. "Bãi hạp sách" "Bãi hạp sách", còn có tên là "Quỷ Cốc Tử", tương truyền là Quỷ Cốc Tử soạn, thấy sớm nhất là bản sao năm Ất Tỵ thời vua Gia Tĩnh triều Minh, nội dung chủ yếu trình bày và phân tích kỹ xảo du thuyết ngoại giao. Trong "Tứ khố toàn thư" là loại Tạp Gia bộ Tử. "Quỷ Cốc Tử" tổng kết tinh hoa nghiên cứu học thuật cả đời của Quỷ Cốc Tử, giá trị cực cao. Toàn bộ có tổng cộng mười bốn thiên, trong đó "Chuyển hoàn", "Khư loạn" đã thất truyền, là một trong những tác phẩm tiêu biểu của tung hoành gia, giúp hậu thế hiểu rõ văn hóa tư tưởng của tung hoành gia, cung cấp kinh nghiệm quý báu, nó tổng kết các loại phương thức biểu đạt mưu trí quyền mưu, được vận dụng rộng rãi vào các lĩnh vực lớn như chính trị, thương nghiệp, quan hệ xã hội, tư tưởng rất đương thời được nhiều người tôn kính.. Tuy nhiên, sách "Quỷ Cốc Tử" vô cùng tôn sùng mưu lược, quyền mưu, kỹ xảo biện luận bằng lời nói, tư tưởng đó hoàn toàn bất đồng với nhân nghĩa đạo đức mà nho gia tôn sùng, nên "Quỷ Cốc Tử" xưa nay bị xem như hồng thủy mãnh thú, nhưng rất nhiều người vẫn thường xuyên lén lút học. "Bản kinh âm phù thất thuật" Tương truyền do Quỷ Cốc Tử soạn. Ba thiên đầu giải thích làm thế nào làm phong phú ý chí, hàm dưỡng tinh thần. Bốn thiên sau thảo luận làm thế nào vận dụng tinh thần bên trong ra bên ngoài, làm thế nào dùng tâm thần bên trong để xử lý sự vật bên ngoài. Hình tượng tiểu thuyết Căn cứ tiểu thuyết trường thiên "Đông Chu liệt quốc chí - Hồi 87: Vệ Ưởng hết lòng giúp Tần Hiếu công - Quỷ Cốc truyền phép cho Tề Tôn Tẫn" miêu tả, Vương Hủ ẩn cư Quỷ Cốc, người ta vẫn gọi là Quỷ Cốc tiên sinh. Người này thông hiểu mọi lẽ trong trời đất, có mấy môn học vấn, không mấy người theo kịp. Quỷ Cốc Tử tinh thông mấy môn học vấn: 1. Số học, nhật tinh tượng vĩ đều thu cả trong bàn tay, xem việc trước đoán việc sau, nói gì cũng linh nghiệm; 2. Binh học, lục thao tam lược, biến hoá vô cùng, bày trận hành binh, quỉ thần khôn biết; 3. Du thuyết học, nhớ rộng nghe nhiều, hiểu rõ lý thế, buông lời hùng biện, muôn miệng khôn đương; 4. Xuất thế học, giữ toàn chân tính, luyện thuốc nuôi mình, không ốm không chết, đắc đạo thành tiên. Học trò của Quỷ Cốc Tử chẳng biết bao nhiêu, người đến không từ chối, người đi không truy hỏi. Trong đó mấy học trò nổi tiếng là: Tôn Tân, người nước Tề; Bàng Quyên, Trương Nghi người nước Ngụy, Tô Tần người Lạc Dương. Tân và Quyên kết làm anh em, cùng học binh pháp, Tần và Nghi kết làm anh em, cùng học du thuyết; mỗi đằng chuyên trị một môn học riêng. Về sau Quỷ Cốc Tử thêm chữ "Nguyệt" (月) bên trái chữ "Tân" (宾) thành chữ "Tẫn" (膑). Theo từ điễn, "Tẫn" nghĩa là "hình phạt chặt chân", nay Quỷ Cốc Tử sửa Tôn Tân thành Tôn Tẫn, rõ ràng biết có chuyện chặt chân, nhưng thiên cơ bất khả tiết lộ. Tác phẩm điện ảnh truyền hình Miếu thờ Thần chủ của Tùng Sơn kiếm đồng cung - "Vương phủ kiếm đồng" - nghe nói là học trò của Vương Thiền lão tổ, do đó lấy tên là "Vương phủ", nên tầng ba trong miếu cũng thờ phụng Vương Thiền lão tổ. Tham khảo Trích dẫn Nguồn 蕭登福《鬼谷子研究》. 2001 文津出版社 陈宇《鬼谷子兵法破解》. ISBN 7-5065-4584-5 Broschat, Michael Robert. "'Guiguzi': A Textual Study and Translation". University of Washington PhD Thesis, 1985 Chung Se Kimm, "Kuei-Kuh-Tse: Der Philosoph vom Teufelstal". 1927 Robert van Gulik: 'Kuei-ku-tzu, The Philosopher of the Ghost Vale", "China", XIII, no 2 (May 1939) «Гуй Гу-цзы». В кн: Искусство управления. Сост., пер., вступ. ст. и коммент. В.В. Малявина. М.: «Издательство Астрель»: «Издательство АСТ», 2003. С.244-318. 大橋武夫 著『鬼谷子:国際謀略の原典を読む』(徳間書店、1982年) ISBN 4192425963 酒井洋 著『鬼谷子の人間学:孫子が超えられなかった男:より巧みに生きる縦横学的発想のすすめ』(太陽企画出版、1993年) ISBN 488466213X Đọc thêm Viện nghiên cứu Quỷ Cốc Tử Trung Quốc Liên kết ngoài Tác phẩm của Quỷ Cốc Tử - Dự án Gutenberg Người họ Vương tại Trung Quốc Thần tiên Đạo giáo Giáo viên
VI_open-0000000061
People_and_Society
Nhạc hải ngoại là một khái niệm thường được dùng để chỉ nền âm nhạc do các nghệ sĩ gốc Việt sáng tác, trình bày tại hải ngoại. Nền âm nhạc hải ngoại bao gồm những ca khúc tân nhạc Việt Nam thuộc nhiều dòng nhạc khác nhau như nhạc tiền chiến, nhạc vàng, tình khúc 1954-1975, nhạc trẻ, những sáng tác sau 1975 tại hải ngoại, các ca khúc nước ngoài được viết lời Việt, nhạc dân ca Nam Bộ và cả những sáng tác theo Dân ca Dân nhạc, nhạc giao hưởng, nhạc kịch Tây phương, nhạc đương đại... do người gốc Việt tại nước ngoài sáng tác. Năm 1975, sau sự sụp đổ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, nhiều người rời Việt Nam sống lưu vong tại các nước trên thế giới, tập trung đông nhất tại Hoa Kỳ. Trong đó có nhiều nhạc sĩ, ca sĩ, đã mang theo những dòng nhạc của miền Nam Việt Nam. Tại hải ngoại, các ca sĩ, nhạc sĩ tiếp tục sáng tác và trình diễn, nhiều trung tâm nhạc được thành lập. Những nhạc sĩ trước năm 1975 như Phạm Duy, Anh Bằng, Trầm Tử Thiêng, Lam Phương, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên vẫn sáng tác mạnh, tiếp nối dòng nhạc Tình khúc 1954-1975 và nhạc vàng, cùng với những nhạc sĩ trẻ hơn như Đức Huy, Trúc Hồ, Trịnh Nam Sơn đã tạo nên dòng nhạc hải ngoại. Các Trung tâm Băng đĩa nhạc và các Chương trình đại nhạc hội của các Trung tâm như Thúy Nga (Paris By Night), Asia, Vân Sơn, Làng Văn, Tình (Eagle),... và các đài truyền hình, truyền thanh của người gốc Việt hải ngoại như SBTN, Radio Little Saigon và những sinh hoạt cộng đồng đã giúp phổ biến dòng nhạc này. Từ đó hình thành một thị trường âm nhạc hải ngoại với sức tiêu thụ cao và thu hút cả sự tham gia của nhiều ca sĩ, nhạc sĩ từ trong nước. Tại Việt Nam, từ những năm cuối thập kỷ 1980, tuy nhạc vàng và tình khúc 1954-1975 chưa được phép lưu hành ở Việt Nam, nhưng các băng đĩa nhạc hải ngoại vẫn được bán phổ biến bằng cách truyền tay và sang băng lậu. Từ năm 2000, bắt đầu có nhiều tình khúc hải ngoại được phép lưu hành chính thức trong nước. Trào lưu dòng nhạc hải ngoại Các nhạc sĩ của Việt Nam Cộng hòa sau 1975 định cư tại nước ngoài vẫn tiếp tục sáng tác và cùng với những nhạc sĩ trẻ hơn đã tạo nên dòng nhạc hải ngoại. Tác phẩm thâu thanh đầu tiên tại hải ngoại là cuốn cassette Khi tôi về của ca sĩ Khánh Ly và Thanh Thúy 1: Saigon ơi! Vĩnh biệt của ca sĩ Thanh Thúy được phát hành tháng 5 năm 1976. Đề tài hoài niệm Những nhạc sĩ tên tuổi đầu tiên rời Việt Nam khoảng cuối năm 1975. Trong những năm đầu, một chủ đề sáng tác chính của họ là nỗi nhớ quê hương và Sài Gòn như "Sài Gòn ơi! Vĩnh biệt" của Nam Lộc, "Đêm nhớ trăng Sài Gòn" của Phạm Đình Chương, "Khi xa Sài Gòn" của Lê Uyên Phương, "Việt Nam về trong nỗi nhớ", "Đêm nhớ về Sài Gòn" của Trầm Tử Thiêng, "Quê hương bỏ lại" của Tô Huyền Vân, "Đường về quê hương" của Lam Phương... Đề tài phản kháng, đấu tranh Chủ đề thân phận lưu vong cũng được nói đến với loạt bài "Tỵ nạn ca" của Phạm Duy, "Người di tản buồn" của Nam Lộc, "Ai trở về xứ Việt" của Võ Tá Hân, Phan Văn Hưng, "Một chút quà cho quê hương" của Việt Dzũng... Một chủ đề phổ biến nữa là phục quốc kháng chiến nói lên mong muốn được quay trở lại miền Nam với Trần Thiện Khải (thuộc Mặt Trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam với các ca khúc mang âm hưởng tiền chiến như "Em vẫn đợi anh về", "Trăng chiến khu", "Những người em ở làng Đồng Sơn"), Hoàng Nguyên Linh, Nguyệt Ánh ("Anh vẫn mơ một ngày về", "Trả ta sông núi"), Nguyễn Hữu Nghĩa ("Vùng dậy anh em ơi", "Đất nước lâm nguy", "Việt Nam đứng lên", "Hưng khúc Việt Nam"). Từ khoảng đầu thập kỷ 1980, một số nhạc sĩ sau thời gian cải tạo tại Việt Nam ra định cư ở nước ngoài. Họ viết nhiều ca khúc tả lại thời gian cải tạo ở Việt Nam như Hà Thúc Sinh với tập Tủi nhục ca năm 1982, Nguyễn Hữu Nghĩa với Chiến Ca, Châu Đình An với Những lời ca thép năm 1982... Phạm Duy cũng sáng tác 20 bài lấy tựa là Ngục ca phổ từ thơ tù của Nguyễn Chí Thiện trong tập thơ Tiếng vọng từ đáy vực. Tình ca tái xuất hiện Đến giữa thập niên 1980, các nhạc sĩ bắt đầu bớt chủ đề phục quốc kháng chiến và tỵ nạn, quay lại viết các bản tình ca. Ở giai đoạn này, những nhạc sĩ tiêu biểu có thể kể đến Đức Huy với "Và Con Tim Đã Vui Trở Lại", Trần Quảng Nam với "Mười Năm Tình Cũ", Hoàng Thanh Tâm với "Tháng Sáu Trời Mưa", Trúc Hồ với "Trái Tim Mùa Đông", Ngọc Trọng với "Buồn Vương Màu Áo", Trịnh Nam Sơn với "Dĩ vãng", Nguyễn Tâm với "Rong Rêu", Phạm Anh Dũng với "Dạ Quỳnh Hương", Lê Tín Hương với "Có Những Niềm Riêng"... Ngô Thụy Miên tại hải ngoại cũng có nhiều sáng tác mới, trong đó "Riêng một góc trời" viết năm 1997. Nhiều băng nhạc thu âm ở Sài Gòn từ trước 1975 được tái phát hành. Từ năm 1982, hiện tượng phục sinh nhạc tiền chiến được phát triển rộng rãi ở hải ngoại. Các ca sĩ Khánh Ly, Lệ Thu, Thanh Thúy, Hoàng Oanh, Sĩ Phú, Elvis Phương, Ngọc Minh,... trong những năm 1982 đến 1989 đã thu âm và phát hành cả trăm băng nhạc tiền chiến và tình khúc 1954-1975. Dòng nhạc vàng cũng được tiếp tục với các ca sĩ Duy Khánh, Chế Linh, Thanh Tuyền, Giao Linh, Hương Lan, Tuấn Vũ,... Một tầng lớp ca sĩ mới xuất hiện như Ngọc Lan, Don Hồ, Như Quỳnh, Ngọc Hạ, Trường Vũ, Nguyễn Thắng... Sinh hoạt ca Thời gian này cũng là thời gian phát triển Hưng ca với nhóm Tổng hội Sinh viên Việt Nam tại Paris với các nhạc sĩ Phan Văn Hưng, Khúc Lan, Đinh Tuấn và Phong trào Hưng ca tại Mỹ với các nhạc sĩ Việt Dzũng, Nguyệt Ánh, Huỳnh Công Ánh, Châu Đình An, Nguyễn Hữu Nghĩa, Hà Thúc Sinh. Cùng thời gian này có phong trào hát lại mảng hùng ca, lịch sử ca của nhạc tiền chiến, với những ca khúc được sáng tác thời kháng chiến chống Pháp, như "Hội nghị Diên Hồng", "Bạch Đằng Giang" của Lưu Hữu Phước, Chiến sĩ ca, "Không quân Việt Nam" của Văn Cao, "Xuất quân" của Phạm Duy, các bài lịch sử ca của nhóm Tổng hội Sinh viên, nhóm Đồng Vọng và của phong trào Hướng Đạo Việt Nam như "Bóng cờ lau", "Nước non Lam Sơn" của Hoàng Quý, "Hùng Vương", "Trưng Nữ Vương" của Thẩm Oánh... Thể nhạc mới Từ giữa thập niên 1990, cũng có nhiều nghệ sĩ sáng tác nhạc new age, new wave, rap, hip hop lời Việt như Phong Lê, Heart2Exist (Lê Huy Phong & Lê Huy Phát). Hoặc các ca sĩ hát nhạc trẻ với tiết điệu nhanh, mới nổi lên như Lương Tùng Quang, Andy Quách, Nguyễn Thắng, Cát Tiên, VPop, Asia4, Dương Triệu Vũ... Các trung tâm nhạc hải ngoại như Thúy Nga, Asia, Vân Sơn, Làng Văn đã giúp bảo tồn và phổ biến nhạc Việt trong một thời gian dài tại hải ngoại. Tuy nhiên, những ca khúc được trình diễn trong các chương trình đại nhạc hội của các trung tâm này thường thu hẹp trong phạm vi nhạc phổ thông, nhạc trẻ chiều theo thị hiếu. Các nhạc sĩ độc lập không thuộc các trung tâm trên hoặc thuộc dòng nhạc khác, rất khó và thiếu điều kiện để phổ biến sáng tác của mình trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Tuy khó, nhưng một số nhạc sĩ độc lập vẫn thành công và được biết rộng rãi như Võ Tá Hân, Diệu Hương, Trịnh Nam Sơn, Nguyên Bích, Lê Tín Hương, Đăng Khánh, Trần Duy Đức, Xuân Điềm, Bảo Trường, Phạm Anh Dũng... Thể loại và những nghệ sĩ tiêu biểu Có thể chia nền âm nhạc hải ngoại sau 1975 làm 4 dòng chính: nhạc cổ truyền, nhạc cổ điển & bán cổ điển Tây phương, nhạc cận đại & đương đại và tân nhạc Việt Nam. Nhạc cổ truyền / Dân ca Dân nhạc: Trần Văn Khê, Trần Quang Hải, Nguyễn Thuyết Phong, Nguyễn Đình Nghĩa, Phương Oanh.... Nhạc cổ điển và bán cổ điển Tây phương / giao hưởng: Nguyễn Thiện Đạo, Tôn Thất Tiết, Cung Tiến, Lê Văn Khoa, Đặng Thái Sơn... Nhạc cận đại Tây phương và nhạc đương đại: Rock: Steel Owl, Adam Hồ... Pop: Kristine Sa, Quỳnh Anh, Tinna Tình, Vy Nguyễn, Roni Trần Bình Trọng, Thanh Bùi, Shayla, Trish Thùy Trang... Rap / Hip hop: Tyga, Choosen 1, Phong Lê, Khanh Nhỏ, Heart2Exist Jazz: Nguyên Lê, Hương Thanh, Niels Lan Doky, Cuong Vu (thành viên Pat Metheny Group), Jazzy Dạ Lâm... Nhạc kịch (Opera / Musical): Ignace Lai, Ca đoàn Nhạc Việt. World music / Nhạc đương đại (contemporary music): Hoàng Ngọc Tuấn, Phan Quang Phục, Lê Tuấn Hùng.... Tân nhạc / Tình ca: Đây có thể xem là dòng nhạc chủ đạo của nhạc hải ngoại và bao gồm nhiều loại: nhạc tiền chiến, tình ca, nhạc vàng, hưng ca, du ca, ngục ca, nhạc trẻ... với nhiều nhạc sĩ và ca sĩ tên tuổi, như Phạm Duy, Trần Thiện Thanh, Trầm Tử Thiêng, Hoàng Thi Thơ, Anh Bằng, Lam Phương, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Song Ngọc, Đức Huy, Trúc Hồ, Trịnh Nam Sơn,... Nhạc cổ truyền / Dân ca dân nhạc Các nhà nghiên cứu âm nhạc cổ truyền Việt Nam như Nguyễn Thuyết Phong, Trần Văn Khê, Trần Quang Hải đã đi thuyết giảng nhiều nơi khắp thế giới cũng như phát hành dĩa nhạc, sách để quảng bá cho nhạc cổ truyền Việt Nam. Từ cuối năm 1994, nhóm các nhà soạn nhạc Việt Nam tại Pháp gồm Tôn Thất Tiết, Trần Văn Khê, Nguyễn Thiện Đạo đã bắt đầu chú ý đến việc phục hồi Nhã nhạc cung đình Huế và đã về Việt Nam để dàn dựng một chương trình âm nhạc cung đình . Bằng nỗ lực cá nhân, các ông cũng nhận bảo trợ cho các nghệ nhân Nhã Nhạc và Ca trù, và nhờ sự góp sức đó mà các nghệ nhân có dịp đi trình tấu tại Pháp, Thụy Sĩ, Bỉ, Áo, Hà Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc.... Phương Oanh, cựu giáo sư tại Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ đã mở nhiều lớp dạy đàn tranh tại Pháp . Những băng Video đầu tiên của Thúy Nga là băng cải lương, trước khi chuyển sang thực hiện các chương trình Paris By Night, mà hầu hết là các tiết mục tân nhạc. Thúy Nga cũng là trung tâm đầu tiên phối hợp nhạc cụ cổ truyền Việt Nam như đàn cò, đàn bầu, đàn tranh (với nhạc sĩ Đức Thành) với nhạc cụ Tây phương để hòa âm các bản nhạc và sau này nhiều trung tâm hải ngoại (và cả trong nước) làm theo. Các chương trình đại nhạc hội Paris By Night, Asia, Vân Sơn cũng thường kèm những phần trình tấu vũ điệu cổ truyền, Dân ca Dân nhạc và cải lương, Tân cổ giao duyên với các nghệ sĩ Chí Tâm, Phượng Liên, Thành Được, Ái Vân, Đức Thành, Hương Lan, Phi Nhung, Mạnh Quỳnh, Ngọc Huyền, Quang Lê, Y Phụng và Vũ đoàn Lạc Hồng. Cũng nhờ đó, nền âm nhạc cổ truyền được các thế hệ sau tại hải ngoại biết đến rộng rãi. Năm 2005, Ban nhạc Heart2Exist với anh em Lê Huy Phong, Lê Huy Phát là ban nhạc đầu tiên đem Cải lương vào nhạc Rap với bài "Tự hào là người Việt Nam", ngụ ý khuyên giới trẻ lầm đường trong thế giới "sành điệu" hay "băng đảng" từ bỏ băng đảng để trở về làm người có ích cho xã hội. Nhạc giao hưởng, nhạc kịch Tây phương Những nhạc sĩ được đào tạo từ những nhạc viện nước ngoài như Nguyễn Thiện Đạo, Tôn Thất Tiết và Phan Quang Phục với những bản nhạc viết cho dàn đại hòa tấu, những vở nhạc kịch opera, từng được trình diễn trên khắp thế giới. Ignace Lai (Lại Vũ Hán Dương) và ca đoàn Nhạc Việt thuộc Trung tâm Văn hóa Giáo dục Hồng Đức tại Canada đã tổ chức thành công 3 nhạc kịch tại Quebec trước đông đảo khán giả và có thể xem là người đầu tiên thử nghiệm nhạc kịch Tây phương phối hợp giữa nhạc quan họ, ngũ cung Việt với nhạc Jazz Tây Phương . Nhạc tấu khúc Chinh phụ ngâm (1987) của Cung Tiến, soạn cho 21 nhạc khí, đã được trình diễn lần đầu vào ngày 27 tháng 3 năm 1988 tại San Jose với dàn nhạc thính phòng San Jose. Lê Văn Khoa đã thực hiện nhiều CD và chương trình nhạc giao hưởng, trong đó có trường khúc Vietnam 1975 được dàn nhạc đại hòa tấu Kyiv Symphony Orchestra and Chorus tại Ukraina trình tấu năm 2005. Nhạc mới, nhạc đương đại Làng Jazz châu Âu có hai người gốc Việt, là Nguyên Lê (ở Pháp) và Niels Lan Doky (ở Đan Mạch). Cuong Vu (thành viên Pat Metheny Group) đoạt giải Grammy 2003... Nhạc Pop tiếng nước ngoài có Kristine Sa, Roni Trần Bình Trọng, Quỳnh Anh, Thanh Bùi.... Quỳnh Anh từ năm 13 tuổi giành giải nhất cuộc thi mang tên "Pour la gloire" của đài truyền hình RTBF (Bỉ) và năm 2005 tạo nên hiện tượng Bonjour Vietnam. Thanh Bùi lọt vào Tốp 8 Australian Idol 2008 và thành công với những chuyến lưu diễn các nước châu Á. Roni Trọng được chú ý qua Idols Finland, một chương trình Pop Idol của Phần Lan. P.Q. Phan tức Phan Quang Phục, giáo sư về sáng tác đương đại tại trường đại học Đại học Indiana, Hoa Kỳ đã đoạt giải âm nhạc quan trọng The Prize of Rome năm 1988. Anh đã được xem như một trong 6 nhạc sĩ trẻ sáng tác có tài năng nhất Hoa Kỳ về nhạc đương đại. Nhạc nước ngoài lời Việt Ngay từ trước 1975 tại miền Nam, nhiều nhạc sĩ như Phạm Duy, Nam Lộc, Trường Kỳ, Vũ Xuân Hùng đã viết lời Việt cho nhiều ca khúc nước ngoài nổi tiếng. Sau 1975 tại hải ngoại, các ca nhạc sĩ như Julie Quang, Lữ Liên, Khúc Lan, Lê Xuân Trường, Nhật Ngân, Trung Hành, Lãnh Ngọc Tâm, Huỳnh Nhật Tân,... tiếp tục soạn lời Việt cho nhiều ca khúc tiếng Anh, Pháp, Hoa và được trình bày bởi các ca sĩ trẻ như Lưu Bích, Ngọc Lan, Don Hồ, Linda Trang Đài, Nguyễn Thắng... Thập niên 80 là phong trào viết lời Việt cho các ca khúc trong các phim bộ tiếng Hoa và các ca khúc new wave sôi nổi. Những năm 2000 là nhạc trẻ Trung Hoa, Hàn Quốc, Nhật Bản. Tân nhạc / Tình ca Thời gian đầu, tân nhạc hải ngoại được coi như là tiếp nối dòng tình khúc 1954-1975 và nhạc vàng tại miền Nam Việt Nam trước kia, tuy nhiên ranh giới giữa hai dòng nhạc này không còn rõ rệt như thời kỳ trước năm 1975. Các nhạc sĩ tình khúc 1954-1975 như Phạm Duy, Trầm Tử Thiêng, Ngô Thụy Miên,... vẫn sáng tác mạnh. Phạm Duy vẫn sáng tác mạnh theo nhiều thể loại, và cùng với con trai là Duy Cường thử nghiệm cả nhạc new age, thực hiện các băng nhạc Minh họa truyện Kiều. Vũ Thành An tiếp tục những bài không tên từ số 11 đến Bài không tên số 50 và nhiều tình khúc khác, Nguyễn Hữu Nghĩa với Tình ca. Các nhạc sĩ nhạc vàng như Lam Phương, Nhật Ngân, Song Ngọc và đặc biệt Anh Bằng thời kỳ này sáng tác rất nhiều và sáng tác cả nhạc trữ tình, và Anh Bằng có nhiều ca khúc thời kỳ này như Anh còn nợ em, Khúc Thụy Du, Chuyện giàn thiên lý. Phan Ni Tấn ở Úc với Lý con sáo Bạc Liêu,... Từ cuối thập niên 80 xuất hiện một lớp nhạc sĩ mới với những tình ca thường được gọi là tình ca hải ngoại như Nguyễn Đình Toàn, Đăng Khánh, Vũ Tuấn Đức, Diệu Hương, Ngọc Trọng, Lê Tín Hương, Ngọc Loan, Thanh Trang, Trần Quảng Nam, Hoàng Thanh Tâm, Trần Duy Đức, Trần Đức, Mai Anh Việt, Hoàng Việt Khanh, Hoàng Trọng Thụy, Phạm Anh Dũng, Trần Chí Phúc và Nhạc trẻ hải ngoại với Đức Huy, Trúc Hồ, Trịnh Nam Sơn, Jimmii Nguyễn,.... Đầu thế kỷ 21, các nhạc sĩ trẻ như Huỳnh Nhật Tân, Nhật Trung, Đồng Sơn, Sỹ Đan, Lê Xuân Trường, Trúc Sinh, Quốc Hùng, Tùng Châu, Phạm Khải Tuấn, Trịnh Lam đã mang đến nhiều tiết điệu mới (và cả cách phối khí mới) cho nhạc trẻ tại hải ngoại. Một số nhạc sĩ sáng tác nhạc chỉ có lời Anh như Vũ Tuấn Đức, Kristine Sa, Lê Tâm, Cardin Nguyễn, Trish Thùy Trang, Alan Nguyễn, Vy Nguyễn,... Ngoài ra còn các nhạc sĩ Hưng ca, Thanh niên ca thập niên 80, 90 với nhóm Tổng hội Sinh viên Việt Nam tại Paris gồm các nhạc sĩ Phan Văn Hưng, Khúc Lan, và Phong trào Hưng ca tại Mỹ với các nhạc sĩ Việt Dzũng, Nguyệt Ánh, Huỳnh Công Ánh, Châu Đình An, Nguyễn Hữu Nghĩa, Hà Thúc Sinh, Phan Ni Tấn... như một hình thức tiếp nối Phong trào Du ca trước đó, cũng với những ưu tư về hiện tình đất nước và kêu gọi thanh niên quan tâm và dấn thân cho quê hương. Từ năm 2007, nhạc sĩ Ngô Nguyễn Trần và Tâm Thơ đã bắt đầu dự án Sử Ca Việt Nam và đến nay đã sáng tác gần 200 bài nhạc kể chuyện 4000 năm lịch sử Việt Nam và cho phép phổ biến miễn phí . Ngoài ra, có các nhạc sĩ chuyên về nhạc thiền, nhạc đạo như Võ Tá Hân, Hoàng Quốc Bảo, Thanh Lâm. Các ca sĩ nhạc tiền chiến nổi tiếng: Thái Thanh, Duy Trác, Anh Ngọc, Mai Hương, Kim Tước, Lệ Thu, Hà Thanh, Tuấn Ngọc, thế hệ sau là Quỳnh Giao, Vũ Anh, Thùy Dương, Ngọc Hạ, Quang Tuấn, Trần Thái Hòa và Ca đoàn Ngàn Khơi. Các ca sĩ nhạc trữ tình nổi tiếng: Sĩ Phú, Hà Thanh, Lệ Thu, Khánh Ly, Tuấn Ngọc, Anh Tú, Khánh Hà, Vũ Khanh, Lê Uyên, Duy Quang, Thanh Lan, Ngọc Lan, Kiều Nga, Họa Mi, Elvis Phương, Julie, Thái Hiền, Ý Lan, Phi Khanh, Hải Lý, Thùy Dương, Ngọc Minh, Tuấn Anh, Quốc Anh, Thúy Vi, Như Mai, Kim Anh và sau này là Dalena, Don Hồ, Diễm Liên, Thanh Hà, La Sương Sương, Thế Sơn, Thiên Kim, Lâm Nhật Tiến, Quang Tuấn, Nguyên Khang, Lâm Thúy Vân, Bằng Kiều, Loan Châu, Hồ Lệ Thu, Y Phương, Nguyễn Hồng Nhung, Đặng Minh Thông,... Các ca sĩ nhạc vàng, tình ca quê hương: Duy Khánh, Chế Linh, Thanh Thúy, Thanh Tuyền, Hoàng Oanh, Hương Lan, Thái Châu, Giao Linh, Phương Dung, Phương Hồng Quế, Mỹ Huyền, Sơn Ca, Băng Châu và thế hệ hải ngoại là Lưu Hồng, Như Quỳnh, Tuấn Vũ, Jimmii Nguyễn, Mạnh Quỳnh, Phi Nhung, Trường Vũ, Mạnh Đình, Quang Lê, Quốc Khanh, Ngọc Huyền, Tâm Đoan, Hạ Vy, Đặng Thế Luân, Đan Nguyên, Hương Thủy, Mai Thiên Vân, Băng Tâm, Y Phụng, Duy Trường, Tường Nguyên,... Các ca sĩ nhạc trẻ: Elvis Phương, Ngọc Lan, Kiều Nga, Trung Hành, Như Mai, Ngọc Hương, Công Thành, Billy Shane, Quốc Sĩ, Thái Thảo, Lynda Trang Đài, Don Hồ, Lan Anh, Nguyễn Hưng, Thúy Vi, Nini và sau này là Shayla, Minh Tuyết, Nguyễn Thắng, Andy Quách, Bảo Hân, Tú Quyên, Gia Huy, Trish Thùy Trang, Lương Tùng Quang, Philip Huy, Johnny Dũng, Trúc Lam & Trúc Linh, Thủy Tiên, Minh Trí (Johnny Trí Nguyễn) & Việt Thi, Vân Quỳnh, Như Loan, Cát Tiên, Cardin Nguyễn, Dạ Nhật Yến, Nhóm VPop, Nhóm Asia4, Trịnh Lam, Đoàn Phi, Dương Triệu Vũ, Quỳnh Vi, Ánh Minh, Thùy Hương, Mai Tiến Dũng,... Các nghệ sĩ hài nổi tiếng: Vân Sơn, Bảo Liêm, Quang Minh, Hồng Đào, Hoài Linh, Kiều Oanh, Lê Huỳnh, Lê Tín, Chí Tài, Nguyễn Dương, Thu Tuyết, Hoài Tâm,... Nối kết nhạc trong nước Nhạc hải ngoại cũng có sự nối kết và liên hệ mật thiết với nhạc trong nước. Các nhạc sĩ trong nước như Lê Hựu Hà, Trịnh Công Sơn, Quốc Dũng, Tùng Giang, Vũ Đức Sao Biển, Bắc Sơn, Trần Quang Lộc, Ái Lan tuy ở trong nước nhưng cũng tham gia thị trường âm nhạc hải ngoại bằng những tình ca mới và lúc đầu, gần như các sáng tác mới của họ chỉ được hát tại hải ngoại. Các ca khúc của nhạc sĩ Bảo Chấn, Phú Quang, Nguyễn Ngọc Thiện được trình bày tại nước ngoài từ những năm đầu thập niên 1990, trước khi những nhạc sĩ này được biết đến trong nước. Đức Trí và Việt Anh, Nhật Trung, Nguyễn Xinh Xô trong thời gian du học cũng sáng tác nhiều ca khúc cho thị trường âm nhạc tại hải ngoại. Nhiều nhạc sĩ đã thành danh từ trong nước trước khi ra định cư tại nước ngoài và trở thành nhạc sĩ hải ngoại như Sỹ Đan, Quốc Hùng, Ngọc Lễ, Phạm Khải Tuấn. Sau này, một số nhạc sĩ trẻ trong nước như Lê Quang, Hoài An, Nguyễn Nhật Huy, Nguyễn Kim Tuấn, Thái Thịnh, Minh Nhiên, Minh Khang, Vũ Quốc Việt,... cộng tác và bán độc quyền một số ca khúc của họ cho các Trung tâm hải ngoại. Các ca sĩ trong nước như Trần Thu Hà, Bằng Kiều, Thu Phương, Kiều Hưng, Ngọc Anh, Lam Trường, Thủy Tiên, Quang Dũng, Nguyễn Hồng Nhung, Xuân Mai, sau này định cư tại hải ngoại cũng tham gia sinh hoạt âm nhạc tại đây và rất được nhiều người yêu thích. Gần đây nhất là ca sĩ Tóc Tiên sang Mỹ du học và trở thành ca sĩ chính thức của Trung tâm Thúy Nga. Trong những năm 1991-2000, riêng Trung tâm Mưa hồng đã phát hành tại Mỹ hơn 400 tựa CD với các giọng ca quốc nội như Bảo Yến, Nhã Phương, Đình Văn, Bích Phượng, Cẩm Vân hát nhạc hải ngoại, tình khúc 1954-1975 và tình ca quê hương và làm những ca sĩ này được biết đến tại hải ngoại. Trung tâm Làng Văn/Lạc Vũ cũng đặt hàng và phát hành rất nhiều CD với các giọng ca trong nước và sau này thực hiện các chương trình Duyên dáng Việt Nam trong nước. Từ năm 2000, một số ca khúc nhạc hải ngoại bắt đầu được phép lưu hành chính thức trong nước (tuy rằng trước đó và sau đó, một số ca khúc hải ngoại phải thay tên tác giả để qua kiểm duyệt, như trường hợp "Em đã quên một dòng sông" của Trúc Hồ lại ghi là tác giả Hải Triều , "Cơn mưa hạ" của Trúc Hồ - Trầm Tử Thiêng, ghi là nhạc Hoa, "Vì đó là em" của Diệu Hương do Quang Dũng thể hiện đoạt giải Mai Vàng 2003 nhưng sau đó bị rút giấy phép khi biết Diệu Hương ở hải ngoại ). Một số nhạc sĩ hải ngoại sau này về thực hiện nhiều dĩa nhạc, cũng như hòa âm phối khí cho các ca sĩ và tham gia các chương trình văn nghệ trong nước như Phạm Duy, Phạm Duy Cường, Đức Huy, Trịnh Nam Sơn, Huỳnh Nhật Tân, Trần Viết Tân. Một số ca sĩ hải ngoại sau này về định cư hẳn tại quê nhà hay thường xuyên hát trong nước như Elvis Phương, Hương Lan, Ái Vân, Duy Quang, Tuấn Vũ, Phi Nhung, Thái Châu, Ngô Thanh Vân và nghệ sĩ hài Hoài Linh, Chí Tài, Hoài Tâm,.... Tuy không thường xuyên, nhưng các ca sĩ khác ở hải ngoại như Lệ Thu, Tuấn Ngọc, Khánh Hà, Ý Lan cũng đã từng nhiều lần về nước lưu diễn. Hầu hết các ca sĩ tình ca trong nước đều đã từng lưu diễn tại hải ngoại, nhiều năm tấp nập đến mức thị trường trong nước thiếu hẳn các ngôi sao. Nhiều ca sĩ trong nước đã hát nhạc hải ngoại như Thanh Lam, Hồng Nhung, Mỹ Linh, Đàm Vĩnh Hưng, Mỹ Tâm, Quang Dũng, Thanh Long Bass, Hồng Ngọc, Song Giang, Tùng Dương, Lệ Quyên, Hoài Phương,.... Sản xuất và phát hành băng đĩa nhạc Băng nhạc đầu tiên ra đời tại hải ngoại là cuốn Thanh Thúy 1: Saigon ơi! Vĩnh biệt của ca sĩ Thanh Thúy được phát hành ngày 9 tháng 5 năm 1976 tại Los Angeles, California, Hoa Kỳ và sau là cuốn Khi tôi về của ca sĩ Khánh Ly cùng tháng đó. Tiếp đó nhiều trung tâm băng nhạc của người gốc Việt được thành lập và phát triển mạnh mẽ. Trong những năm đầu, các chương trình được phát hành dưới dạng băng nhựa cassette. Lúc đầu những băng nhạc được ghi âm rất kém với những ban nhạc gia đình, nhưng từ đầu thập niên 80, cùng với sự xuất hiện của các Trung tâm Phượng Nga, Khánh Ly, Diễm xưa, Mây, Thanh Lan, Người đẹp Bình Dương, Làng Văn, Asia, các băng nhạc đã được thâu âm với kỹ thuật tiên tiến cho âm thanh tốt hơn hẳn. Nhu cầu thưởng thức âm nhạc của người xa quê lúc ấy rất lớn, nên những băng nhạc thời này có số bán kỷ lục. Sau đó, vào cuối năm 1987, Phạm Duy là người đầu tiên đưa nhạc Việt vào đĩa CD do Duy Cường soạn hòa âm và sản xuất với tựa đề Nhạc tình Phạm Duy. Nhiều băng nhạc thu âm ở Sài Gòn từ trước 1975 được tái phát hành. Và nhiều Trung tâm đặt hàng nhiều băng nhạc, CD với những giọng ca trong nước để phát hành tại hải ngoại như hiện nay là Trung tâm Kim Lợi, Làng Văn.... Từ năm 1983, Trung tâm Thúy Nga đã thực hiện các chương trình ca nhạc Paris By Night và phát hành băng video. Cho tới những năm gần đây, các trung tâm như Thúy Nga, Asia, Vân Sơn, Tình (Eagle), Làng Văn... phát hành đều đặn các chương trình dạng DVD & DVD Karaoke. Tham khảo Lịch sử Tân Nhạc Việt Nam - Bài viết của Trần Quang Hải Liên kết ngoài Lịch sử Tân Nhạc Việt Nam - Bài viết của Trần Quang Hải Bài viết về nhạc hải ngoại của nhạc sĩ Quốc Bảo trên Ngoisao.net Hanoi Heart Throbs (tiếng Anh): Bài báo từ Los Angeles Times nói về nhạc hải ngoại tại Việt Nam Tân nhạc Việt Nam Hải ngoại
VI_open-0000000062
Arts_and_Entertainment
Họ Anh thảo chiều hay họ Nguyệt kiến thảo, còn gọi là họ Rau dừa nước hoặc họ Rau mương, (danh pháp khoa học: Onagraceae, đồng nghĩa: Circaeaceae, Epilobiaceae, Fuchsiaceae, Isnardiaceae, Jussiaeaceae, Lopeziaceae, Oenotheraceae), là một họ thực vật có hoa trong bộ Đào kim nương (Myrtales). Họ này bao gồm khoảng 640-650 loài cây thân thảo, cây bụi nhỏ và cây gỗ trong 18 chi. Họ này phân bổ rộng khắp, trên mọi châu lục từ các khu vực cận Bắc cực tới khu vực nhiệt đới. Họ này bao gồm một số loài cây trong vườn khá phổ biến như anh thảo chiều (hay nguyệt kiến thảo) (chi Oenothera) và hoa đăng (hay vân anh) (chi Fuchsia). Một vài loài, cụ thể là liễu lan (chi Epilobium) là các loài cỏ dại trong vườn, nhưng đôi khi cũng được coi là cây cảnh. Họ này có đặc trưng là hoa thường có 4 lá đài và cánh hoa (chi Ludwigia là 4-5 cánh còn chi Circaea là 2 cánh); ở một vài chi (như Fuchsia) thì các lá đài có màu tươi như của cánh hoa, tạo ra ấn tượng là hoa có 8 cánh. Các hạt rất nhỏ, ở một vài chi (như Epilobium) thì chúng có một chùm lông tơ để nhờ gió phân tán, ở các chi khác (như Fuchsia) thì hạt nằm trong quả mọng nhiều nước được phân tán nhờ chim. Các lá nói chung mọc đối hay thành vòng xoắn, nhưng có thể được sắp xếp kiểu xoắn ốc ở một vài loài. Nói chung, chúng có dạng lá đơn và hình mũi mác. Ở nhiều chi/loài thì các hạt phấn được giữ một cách lỏng lẻo cùng nhau bằng các sợi chỉ nhỏ và nhớt, có nghĩa là chỉ có các loài ong đã chuyên biệt hóa (về mặt hình thái học) để thu lượm dạng phấn này là có thể thụ phấn có hiệu quả cho hoa (nó không thể được thụ phấn một cách có hiệu quả nhờ chùm lông bàn chải ở chân các loài ong thông thường). Một cách tương ứng, gần như tất cả các loài ong đậu vào hoa của các loài trong họ này là các "chuyên gia" thụ phấn cho chúng (ong có tính chọn lọc hạn hẹp). Tên gọi khoa học của họ này có nguồn gốc từ chi (cũ) Onagra (hiện nay là một phần của chi Oenothera) do John Lindley đặt năm 1836 trong lần xuất bản thứ hai của A Natural System of Botany. Các chi Họ này thông thường được chia thành hai phân họ như dưới đây: Phân họ Anh thảo chiều (Onagroideae): Khoảng 17 chi với 565 loài Boisduvalia (bao gồm cả Cratericarpium) Calylophus (bao gồm cả Calylophis, Galpinsia, Meriolix, Salpingia) Camissonia (bao gồm cả Agaosizia, Chylismia, Eulobus, Holostigma, Sphaerostigma, Taraxia): Khoảng 80 loài Circaea (bao gồm cả Carlostephania, Ocimastrum, Regmus): Lộ châu thảo, rau núi, quái quả. Clarkia (bao gồm cả Clarckia, Eucharidium, Gauropsis?, Godetia, Oenotheridium, Opsianthes, Phaestoma): gỗ đệ. Epilobium (bao gồm cả Chamaenerion, Chamerion, Cordylophorum, Crossostigma, Pyrogennema, Zauschneria): Khoảng 165 loài liễu thảo, liễu lan, liễu diệp thái, thượng thùy, xeo hoa xan. Fuchsia (bao gồm cả Brebissonia, Ellobium, Encliandra, Kierschlegeria, Kirschlegera, Lyciopsis, Myrinia, Nahusia, Quelusia, Quiliusa, Schufia, Skinnera, Spachia, Thilcum, Tilco): Khoảng 105 loài hoa vân anh, lồng đèn, hoa đăng, phước hoa (theo Phạm Hoàng Hộ), đảo quải kim chung. Gaura (bao gồm cả Gauridium, Schizocarya): sơn đào thảo Gayophytum Gongylocarpus (bao gồm cả Burragea) Hauya Hemifuchsia Heterogaura. Lopezia (bao gồm cả Diplandra, Jehlia, Pelozia, Pisaura, Pseudolopezia, Riesenbachia, Semeiandra) Oenothera (bao gồm cả Anogra, Baumannia, Blennoderma, Gaurella, Gauropsis?, Hartmannia, Kneiffia, Lavauxia, Megapterium, Onagra, Onosuris, Onosurus, Pachylophus, Peniophyllum, Raimannia, Usoricum, Xylopleurum): Khoảng 125 loài anh thảo chiều (nguyệt kiến thảo), rau cần nước. Stenosiphon Xylonagra Phân họ Rau dừa nước (Jussiaeaoideae): 1 chi với khoảng 85 loài Ludwigia (bao gồm cả Corynostigma, Cubospermum, Danthia, Dantia, Diplandra, Fissendocarpa, Isnardia, Jussiaea, Ludwigiantha, Nemotopyxis, Oocarpon, Prieuria, Quadricosta): Khoảng 85 loài đinh hương liệu, thủy long, du long thái, rau mương, rau dừa nước. Tham khảo Viện Smithsonia: Phân loại họ Onagraceae Lưu ý
VI_open-0000000064
Science
Thiên Địa hội, () (còn gọi là Hồng Hoa Hội sau này vào thời Càn Long) là một hội kín bắt nguồn từ Trung Hoa vào thời Khang Hi với mục đích phản Thanh phục Minh. Thiên Địa hội còn được gọi là Hồng môn hay Tam Điểm hội, tuy vậy một số tổ chức tội phạm cũng có tên Hồng môn. Khi người Anh đến cai trị Hồng Kông, tất cả các tổ chức xã hội bí mật của Trung Quốc đều bị coi là những mối đe dọa và bị gộp chung với Hội Tam Hoàng mặc dù Hồng môn có bản chất khác với các nhóm tội phạm khác. Tên "Hội Tam Hoàng" bắt nguồn từ "Thiên Địa Hội". Do đó, Thiên Địa hội bị cấm và gây tranh cãi ở Hồng Kông. Tại Việt Nam, Lý Văn Nam và Lê Khắc Thọ được biết đến là 02 lãnh đạo của tổ chức Tam Điểm Hội. Xem thêm Hội Tam Hoàng Bạch Liên giáo Phong trào hội kín Nam Kỳ Hội tam điểm Thiếu Lâm Tự Hội kín Chú thích Tham khảo Nhà Thanh Nghĩa quân chống Pháp Hội kín Lịch sử kinh tế Trung Quốc
VI_open-0000000065
People_and_Society
Trương Thuận (chữ Hán: 张顺; bính âm: Zhāng Shùn) là một nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết Thủy hử. Ở Lương Sơn Bạc, Trương Thuận là đầu lĩnh thứ 30, được sao Thiên Tổn Tinh (chữ Hán: 天損星; tiếng Anh: Damage Star) chiếu mệnh. Ngoại hình và tài năng Trương Thuận cao sáu thước, da trắng trẻo, râu mọc ba chòm, bơi lặn rất giỏi nên ông có ngoại hiệu là Lãng Lý Bạch Điều (chữ Hán: 浪里白跳; tiếng Anh: White Jumping in the Waves; tiếng Việt: Nhảy trắng trong sóng). Ông tuổi tác khoảng 33. Xuất thân Hai anh em Trương Hoành, Trương Thuận sống với nhau tại Yết Dương Lĩnh (nay thuộc Cửu Giang, Giang Tây). Hai người thường giả dạng là lái đò trên sông Tầm Dương và cướp của khách khi đò giữa nơi sông nước. Sau này, Trương Thuận dời đi Giang Châu (nay là Giang Tây) làm nghề lái cá. Trương Hoành vốn nghiện cờ bạc nên chấp nhận để em trai đi, ở lại Yết Dương Lĩnh và tiếp tục nghề cướp trên sông Tầm Dương để sống qua ngày và để có tiền tiêu vào thú vui này. Đánh nhau với Lý Quỳ Khi Tống Giang phạm tội, bị đày sang Giang Châu, đã kết tình bằng hữu với Đới Tung và Lý Quỳ nơi nhà giam. Một hôm, trong một bữa tiệc với cả hai người, Tống Giang thèm được ăn món canh nấu với cá tươi thay vì dùng cá muối mặn. Lý Quỳ tình nguyện đi tìm mua cá tươi. Vì nóng nảy tìm cá tươi mà Lý Quỳ gây sự và đánh những người thợ câu cá lẫn những người bạn hàng cá quanh bờ sông. Trương Thuận can thiệp và đánh nhau với Lý Quỳ, nhưng vì sức Lý Quỳ quá khỏe, nên ông đành thua. Không phục, Trương Thuận bèn thách Lý Quỳ xuống nước đánh nhau với mình. Lý Quỳ chấp nhận cuộc thách đấu nhưng thua vì kém xa Trương Thuận về tài bơi lội. Ngay lúc ấy, Tống Giang và Đới Tung đến can thiệp thì trận đánh mới chấm dứt. Khi Tống Giang đưa lá thư của Trương Hoành nhờ gởi đến Trương Thuận, ông rất mừng khi gặp được Tống Công Minh, một người mà ông xưa giờ rất nể và rất muốn tìm gặp. Trương Thuận đã kết giao với cả ba người Tống Giang, Đới Tung, Lý Quỳ trong dịp này. Gia nhập Lương Sơn Bạc Tống Giang trong một lần say rượu đã không kiểm soát được mình nên đã viết thơ phản ở lầu Tầm Dương. Để cứu Tống Giang, Đới Tung đã nhờ cai ngục Lý Quỳ chăm sóc Tống Giang và lên Lương Sơn liên kết với Ngô Dụng để lựa kế cứu ông. Nhưng trong quá trình làm giả thư, các đầu lĩnh Lương Sơn đã phạm phải sai lầm, dẫn đến Đới Tung bị kết tội truyền thư giả và bị giam. Lý Quỳ biết tin, bèn đi nhờ Trương Thuận cứu giúp và được ông chấp thuận. Sau khi Lý Quỳ và các đầu lĩnh Lương Sơn dưới sự chỉ huy của Tiều Cái đã giải cứu được Tống Giang và Đới Tung, Trương Thuận và Trương Hoành theo lời Lý Quỳ đem thuyền đến con sông chảy ngang qua miếu Bạch Long để đón hai anh. Sau trận này, Trương Thuận cùng Tống Giang, Đới Tung, Lý Quỳ theo về và gia nhập Lương Sơn Bạc. Tuyển mộ An Đạo Toàn và Vương Định Lục Trong trận bao vây phủ Đại Danh để cứu Lư Tuấn Nghĩa, Dương Hùng và Thạch Tú, Tống Giang đột ngột ngã bệnh, đằng sau lưng nổi lên một hột mụn đau đớn vô cùng. Trương Thuận giới thiệu và tìm An Đạo Toàn từ Kiến Khang Châu (chữ Hán: 建康府; nay thuộc Nam Kinh, Giang Tô) về chữa bệnh cho Tống Giang. Trên đường đi, khi qua đò tại sông Tầm Dương trong một cơn mưa tuyết, Trương Thuận bất ngờ bị gã lái đò Trương Vượng và hậu sinh Tôn Ngữ cướp đoạt tài sản, trói và quăng xuống sông. Vì bơi lội giỏi, Trương Thuận đã tự cắt dây trói, bơi lên bờ và đến quán trọ của Vương Định Lục. Biết Trương Thuận là một đầu lĩnh của Lương Sơn Bạc, Vương Định Lục muốn giúp Trương Thuận báo thù nhưng ngay hôm sau Trương Thuận đã vội đi tìm An Đạo Toàn. Khi đến Kiến Khang Châu, Trương Thuận thất bại trong việc thuyết phục An Đạo Toàn theo mình về Lương Sơn Bạc vì An Đạo Toàn còn quyến luyến với người tình đào hát của mình - Lý Xảo Nô. Trong đêm ngủ lại tại nhà An Đạo Toàn, Trương Thuận chứng kiến gã lái đò Trương Vượng, kẻ đã cướp và suýt giết mình tại bến Tầm Dương, lẻn vào nhà tư tình với Lý Xảo Nô, đã ra tay giết ả Lý và 3 người nhà, nhưng Trương Vượng chạy thoát. Sẵn dịp này, Trương Thuận lấy máu viết lên tường "Kẻ giết người là An Đạo Toàn" buộc An Đạo Toàn theo mình về Lương Sơn Bạc. Trên đường về qua quán trọ của Vương Định Lục, Trương Thuận gặp lại gã lái đò Trương Vượng, giết đi bằng cách trói và quăng Trương Vượng xuống sông như gã đã từng làm với mình. Sau đó 3 người Trương Thuận, An Đạo Toàn và Vương Định Lục cùng lên Lương Sơn. Tại Lương Sơn Bạc, An Đạo Toàn trị hết bệnh cho Tống Giang và cùng Vương Định Lục gia nhập vào Lương Sơn Bạc. Bắt Cao Cầu Trong cuộc tấn công lần 5 của triều đình nhà Tống vào Lương Sơn Bạc, Trương Thuận và các đầu lĩnh thủy quân của Lương Sơn lập công lớn qua việc dụng mưu đụt thuyền làm đắm gần 300 chiến thuyền của triều đình. Bản thân Cao Cầu bị Trương Thuận bắt sống trong trận này. Sau khi chiêu an và tử trận Sau khi nhận chiêu an, Trương Thuận cùng các đầu lĩnh Lương Sơn Bạc tham gia các chiến dịch bình quân Liêu và các lực lượng khác chống đối triều đình nhà Tống. Tại hồi 114, trong chiến dịch bình Phương Lạp, tại trận đánh thành Hàng Châu, Trương Thuận đề nghị dùng mưu lặn qua hồ nổi lửa làm hiệu. Với kế này, khi đã vào thành, Trương Thuận sẽ bắn pháo hiệu báo tin, khi ấy, Lý Tuấn và các đội quân Lương Sơn sẽ từ ngoài đánh ngay chiếm cửa sông và đánh vào thành diệt trừ quân Phương Lạp. Ngay đêm ấy, Trương Thuận đã lẻn một mình lặn đến trước cửa cổng Dũng Kim (chữ Hán: :zh:湧金門; tiếng Anh: Yongjin Gate), một trong bốn cổng thành Hàng Châu. Khi Trương Thuận vượt thành ở cửa Dũng Kim, ông bị lính canh quân Phương Lạp bắn chết rơi xuống hồ rồi vớt đầu cắm vào đầu sào bêu trên mặt thành. Tại hồi 115, khi thành Hàng Châu vỡ dưới sự tấn công của hỏa pháo và binh lực từ phía quân Lương Sơn, địch tướng Phương Thiên Định phi ngựa trốn khỏi thành nhưng chạm trán với Trương Hoành. Phương Thiên Định bị Trương Hoành chém chết tại chân núi Ngũ Vân, nhờ đó quân Tống chiếm được Hàng Châu. Khi Tống Giang vào thành và hỏi Trương Hoành thì ngạc nhiên khi thấy Trương Hoành nói mình là Trương Thuận, đã nhập vào anh trai để giết Phương Thiên Định. Sau đó, hồn Trương Thuận tan đi khỏi thân Trương Hoành. Khi tỉnh lại, quá đau buồn vì cái chết của em trai, Trương Hoành ngất xỉu và mất vì bệnh sau đó không lâu. Tại hồi 119, khi ban thưởng và sắc phong các đầu lĩnh Lương Sơn Bạc sau chiến dịch bình Phương Lạp, vì Trương Thuận hiển linh có công được sắc phong tước là Kim Hoa Tướng Quân (金華將軍). Trong điện ảnh Trong phim Thủy hử năm 1998, nhân vật Trương Thuận do diễn viên Trương Á Khôn thủ vai. Trong phim Thủy hử năm 2011, nhân vật Trương Thuận do diễn viên Nguỵ Bỉnh Hoa thủ vai. Tham khảo Thủy Hử - Thi Nại Am, Nhà xuất bản Văn học, 1988, bản dịch của Trần Tuấn Khải - Lương Duy Thứ giới thiệu. Hậu Thủy hử - Thi Nại Am và La Quán Trung, Nhà xuất bản Văn học, 1999, bản dịch của Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thuý Nga - Ngô Đức Thọ giới thiệu. Xem thêm Thủy Hử Trương Hoành An Đạo Toàn Vương Định Lục Thi Nại Am La Quán Trung Nhân vật Thủy hử
VI_open-0000000066
Books_and_Literature
Hệ động từ (chữ Anh: Copula, số nhiều: Copulae/Copulas, hoặc Copular verb, Linking verb), hoặc gọi là hệ từ, động từ liên hệ, là động từ dùng để trợ giúp chủ ngữ. Bản thân nó có nghĩa của từ, nhưng không thể dùng làm vị ngữ một mình, sau nó cần thiết phải đi kèm thuộc ngữ, tạo thành cấu tạo chủ-hệ-thuộc giải thích tình huống, tính chất và đặc điểm của chủ ngữ, ví dụ "The sky is blue.", trong đó sky là chủ ngữ, is là hệ động từ, blue là thuộc ngữ. Hệ động từ bắt nguồn từ danh từ tiếng Latinh nghĩa là "liên kết" hoặc "kết hợp" hai từ ngữ có chức năng khác biệt. Trong tiếng Anh, chức năng của hệ động từ chủ yếu là nối liền chủ ngữ và thuộc ngữ, giải thích trạng thái, tính chất, tính cách, đặc điểm hoặc địa vị của chủ ngữ. Nó có nghĩa của từ nhưng không hoàn toàn, không thể làm vị ngữ độc lập trong câu, cần phải đi kèm thuộc ngữ phía sau tạo thành cấu tạo chủ-hệ-thuộc. Nó mặc dù là hư từ, nhưng cách dùng của nó rất phức tạp, không thể coi thường. Tiếng Đức Trong tiếng Đức, hình thức biến vị của các động từ như sein, werden và bleiben gọi là hệ động từ, nó nối liền chủ ngữ và thuộc ngữ. Hệ động từ cộng với thuộc ngữ tạo thành vị ngữ ghép, nếu thuộc ngữ là danh từ, phải sử dụng Cách thứ nhất. Ví dụ: er ist alt. er ist ein Mann. sie wird alt. sie wird zur Frau. sie bleiben im Haus wohnen. Một số động từ sau cũng được gọi là hệ động từ, sau nó cần phải đi kèm thuộc ngữ, bao gồm: aussehen, erscheinen, dünken, klingen, schmecken, heißen, gelten, sich vorkommen và sich erweisen. Tiếng Anh Định nghĩa Hệ động từ là động từ nối liền chủ ngữ và thuộc ngữ. Không thể tồn tại độc lập, sau nó cần thiết phải đi kèm thuộc ngữ cùng nhau tạo thành vị ngữ ghép, biểu thị địa vị, tính chất, tính cách, đặc trưng, trạng thái,... Ví dụ: He felt ill yesterday. Anh ta hôm qua bệnh rồi. (felt là hệ động từ, theo sau là thuộc ngữ, giải thích tình trạng của chủ ngữ). Sau hệ động từ là bất định thức. Sau hệ động từ be, căn cứ vào tình huống mà tự do nối liền bất định thức làm thuộc ngữ. Ví dụ: My dream is to be a scientist. Giấc mơ của tôi là làm một nhà khoa học. All you have to do is to listen. Bạn chỉ cần lắng nghe. Sau các hệ động từ như seem, appear, prove, turn out, grow,... có thể nối liền đoản ngữ bất định thức (đặc biệt là to be) làm thuộc ngữ. Ví dụ: The man seemed to be ill. Người này dường như bệnh rồi. (seemed là hệ động từ, to be ill là đoản ngữ bất định thức làm thuộc ngữ) The plan proved to be useful. Kế hoạch này chứng minh là khá hữu dụng. (proved là hệ động từ, to be useful là đoản ngữ bất định thức làm thuộc ngữ) He appears to know this. Anh ta hình như biết điều này. (appears là hệ động từ, to know this là đoản ngữ bất định thức làm thuộc ngữ) The weather turned out to be fine. Thời tiết chuyển sang quang đãng rồi. (turned out là hệ động từ, to be fine là đoản ngữ bất định thức làm thuộc ngữ) He has grown to like studying English. Anh ta dần dần thích học tiếng Anh rồi. (grown là hệ động từ, to like studying English là đoản ngữ bất định thức làm thuộc ngữ) Nếu hệ động từ nối liền bất định thức là to be, thông thường có thể tỉnh lược to be. Ví dụ: My dream is to be a scientist. My dream is a scientist. The man seemed to be ill. The man seemed ill. The plan proved to be useful. The plan proved useful. The weather turned out to be fine. The weather turned out fine. Sau các hệ động từ như sound, smell, feel, taste, become, thông thường không thể nối liền bất định thức: These oranges taste to be good. (Sai, cần phải bỏ bất định thức to be) These oranges taste good. The roses smell to be nice. (Sai, cần phải bỏ bất định thức to be) The roses smell nice. The music sounds to be nice. (Sai, cần phải bỏ bất định thức to be) The music sounds nice. Sau hệ động từ look có lúc cũng được nối liền to be, nhưng đa phần là tỉnh lược to be. Ví dụ: He looks to be happy. Hoặc là He looks happy. Tổng kết cách dùng: Nói tổng quát, sau hệ động từ phải nối liền thuộc ngữ, trong đó danh từ, tính từ (tính từ nguyên cấp, tính từ so sánh hơn và so sanh nhất), bất định thức, v.v đảm nhận làm thuộc ngữ. Phân loại chi tiết Hệ động từ trạng thái Dùng để biểu thị trạng thái chủ ngữ, chỉ có một từ be. Ví dụ: He is a teacher. Anh ta là thầy giáo. (is và bổ ngữ chủ ngữ - teacher, cùng nhau giải thích địa vị của chủ ngữ) I am a student. Tôi là học sinh. (am và bổ ngữ chủ ngữ cùng nhau giải thích địa vị của chủ ngữ) Hệ động từ duy trì Dùng để biểu thị một tình huống hoặc thái độ liên tục không ngừng hoặc giữ gìn của chủ ngữ, chủ yếu có keep, remain, stay, lie, stand. Ví dụ: He always keeps silent at meeting. Anh ta trong cuộc họp luôn giữ im lặng. This matter remains a mystery. Sự việc đó vẫn là một điều khó hiểu. Hệ động từ cảm tính Dùng để biểu thị khái niệm "nhìn/ nhìn giống như", chủ yếu có seem, appear, look. Ví dụ: He looks tired. Anh ta nhìn rất mệt. He seems (to be) very sad. Anh ta nhìn rất đau lòng. Hệ động từ cảm quan Hệ động từ cảm quan chủ yếu có look, feel, smell, sound, taste. Ví dụ: This kind of cloth feels very soft. Loại vải này sờ thấy rất mềm. This flower smells very sweet. Đoá hoa này ngửi thấy rất thơm. Hệ động từ biến hoá Những hệ động từ biểu thị chủ ngữ trở nên, biến thành, hệ động từ biến hoá chủ yếu có become, grow, turn, fall, get, go, come, run. Ví dụ: He became mad after that. Từ sau đó, anh ta điên rồi. She grew rich within a short time. Cô ta trở nên giàu có mà không mất nhiều thời gian. Hệ động từ kết thúc Biểu thị chủ ngữ đã chấm dứt động tác, hệ động từ kết thúc chủ yếu có prove, turn out. Ví dụ: The rumor proved false. Tin đồn này được chứng thực là không đúng. (prove biểu đạt ý nghĩa được chứng thực) The search proved difficult. Cuộc điều tra được chứng thực là rất khó khăn. His plan turned out a success. Kế hoạch của anh ta cuối cùng đã thành công rồi. (turn out biểu đạt ý nghĩa kết quả cuối cùng) Tổng hợp loại hình thường thấy Động từ be (am, is, are), biểu thị cảm quan (feel, look, smell, sound, taste), biểu thị cảm tính (seem, appear), biểu thị biến hoá (get, become, turn, grow, make, come, go, fall, run), biểu thị duy trì (remain, keep, stay, continue, stand, rest, lie, hold) Có thể mang danh từ làm thuộc ngữ: become, make, look, sound, fall, turn, prove, remain. Đặc biệt từ liền sau turn phải là danh từ số ít, đa phần không dùng quán từ. Ví dụ: He turned teacher. Tham khảo Từ loại Động từ
VI_open-0000000067
People_and_Society
Chòm sao Sài Lang 豺狼, (tiếng La Tinh: Lupus) là một trong 48 chòm sao Ptolemy và cũng là một trong 88 chòm sao hiện đại, mang hình ảnh con chó sói. Chòm sao này có diện tích 334 độ vuông, nằm trên thiên cầu nam, chiếm vị trí thứ 46 trong danh sách các chòm sao theo diện tích. Chòm sao Sài Lang nằm kề các chòm sao Củ Xích, Thiên Hạt, Viên Quy, Bán Nhân Mã, Thiên Xứng, Trường Xà. Tên gọi Thiên thể Các thiên thể đáng quan tâm Sao biến đổi không chu kỳ RU Lup Sao đôi η Lup Cụm sao cầu NGC 5986 Cụm sao mở NGC 5822 Tham khảo Liên kết ngoài Chòm sao phương nam Chòm sao Chòm sao theo Ptolemy
VI_open-0000000068
Science
Sant'Angelo in Lizzola là một comune (thành phố tự trị) trong tỉnh Pesaro e Urbino của miền Marche, nước Ý, khoảng 60 km về phía Tây Bắc của Ancona và 12 km Tây Nam của Pesaro. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm2004, dân số là 7.617 và diện tích là 11.8 km². Sant'Angelo in Lizzola giáp với các thành phố Colbordolo, Monteciccardo, Montegridolfo, Montelabbate, Pesaro, Tavullia. Sự phát triển nhân khẩu Tham khảo Thành phố và thị trấn ở Marche Đô thị tỉnh Pesaro và Urbino
VI_open-0000000070
Jobs_and_Education
Phạm Thị Mai Phương (sinh năm 1985 tại Hải Phòng) đăng quang "Hoa hậu Việt Nam 2002" tại Thành phố Hồ Chí Minh, khi đó cô đang là học sinh lớp 12 chuyên Lý của THPT năng khiếu Trần Phú, Hải Phòng. Sau khi đăng quang cô được cử đại diện Việt Nam lần đầu tham gia cuộc thi sắc đẹp quốc tế: Hoa hậu Thế giới 2002. Mai Phương đã được các giám khảo đánh giá khá cao và cuối cùng lọt vào top 20 người đẹp nhất của cuộc thi năm đó, xếp thứ 15. Mai Phương là người đầu tiên đại diện cho Việt Nam dự thi cuộc thi sắc đẹp thế giới. Cho đến nay, cô vẫn là người đẹp mang về thứ hạng nhan sắc cao nhất cho đất nước Việt Nam tại cuộc thi "Hoa hậu Thế giới" có quy mô lớn, danh giá và chính thống. Sau khi khẳng định sắc đẹp trên đấu trường quốc tế về nước. Cô sang Anh du học tại Đại học Luton ngay sau khi tốt nghiệp cấp 3. Bốn năm sau, cô quyết định lấy chồng là mối tình đầu gắn bó suốt 6 năm và xác định sống, làm việc ngay tại quê hương Hải Phòng. Ngày 16 tháng 3 năm 2008, cô kết hôn và tháng 3 năm sau cô sinh con trai đầu lòng. Tham khảo Liên kết ngoài Miss Vietnam 2002 Hoa hậu Việt Nam 2002 Hoa hậu Việt Nam lọt vào top 20 hoa hậu thế giới Mai Phương học xong mới tính chuyện yêu Diễn đàn cổ động viên bóng đá Hải Phòng Hoa hậu Việt Nam Người Hải Phòng Nhân vật còn sống
VI_open-0000000072
Beauty_and_Fitness
Blies-Ébersing là một xã trong vùng Grand Est, thuộc tỉnh Moselle, quận Sarreguemines, tổng Sarreguemines-Campagne. Tọa độ địa lý của xã là 49° 07' vĩ độ bắc, 07° 08' kinh độ đông. Blies-Ébersing nằm trên độ cao trung bình là 205 mét trên mực nước biển, có điểm thấp nhất là 201 mét và điểm cao nhất là 326 mét. Xã có diện tích 5,24 km², dân số vào thời điểm 1999 là 529 người; mật độ dân số là 100 người/km². Thông tin nhân khẩu Tham khảo Xã của Moselle
VI_open-0000000073
Jobs_and_Education
Foulcrey là một xã trong vùng Grand Est, thuộc tỉnh Moselle, quận Sarrebourg, tổng Réchicourt-le-Château. Tọa độ địa lý của xã là 48° 38' vĩ độ bắc, 06° 51' kinh độ đông. Foulcrey nằm trên độ cao trung bình là m mét trên mực nước biển, có điểm thấp nhất là 283 mét và điểm cao nhất là 355 mét. Xã có diện tích 12,34 km², dân số vào thời điểm 1999 là 180 người; mật độ dân số là 14 người/km². Xã nằm 18 km về phía tây nam của Sarrebourg, thuộc Pháp từ năm 1681. Thông tin nhân khẩu Tham khảo Xã của Moselle
VI_open-0000000075
Jobs_and_Education
Bagbera là một census town ở quận Purbi Singhbhum ở bang Jharkhand, Ấn Độ. Cơ cấu dân số Theo cuộc điều tra dân số năm 2001 tại Ấn Độ, Bagbera có dân số 67.100 người. Nam giới chiếm 52% và nữ giới chiếm 48% dân số. Bagbera có tỷ lệ biết chữ bình quân 66%, cao hơn mức trung bình quốc gia 59,5%; với 59% nam giới và 41% nữ giới biết chữ. 14% dân số dưới 6 tuổi. Tham khảo Thành phố thuộc bang Jharkhand
VI_open-0000000076
People_and_Society
Chủ nghĩa công xã hay chủ nghĩa duy xã (tiếng Anh: communalism) là một thuật ngữ hiện đại dùng để mô tả một loạt các học thuyết và phong trào xã hội trong đó đều có điểm chung là bằng cách này hay cách khác tất cả đều đặt trọng tâm vào cộng đồng. Chủ nghĩa cộng đồng có thể có hình thức chung sống cùng nhau trong một cộng đồng hay có tài sản chung của cả cộng đồng và nhiều hình thức khác. Khái niệm này bắt nguồn từ lối sống công xã (commune) mà có thể nhiều người biết qua mô hình Công xã Paris. Chủ nghĩa công xã cũng cùng một hệ quan điểm cánh tả với Chủ nghĩa cộng đồng (communitarianism) và Chủ nghĩa cộng sản (communism). Tham khảo Chủ nghĩa xã hội Chủ nghĩa chống tư bản Chủ nghĩa công xã Thuật ngữ xã hội học
VI_open-0000000077
People_and_Society
Nicole Mary Kidman (sinh ngày 20 tháng 6 năm 1967) là một nữ diễn viên, ca sĩ, và nhà sản xuất người Úc. Cô đã nhận một Giải Oscar, hai Giải Primetime Emmy, và năm Giải Quả cầu Vàng. Cô là một trong những nữ diễn viên có thu nhập cao nhất các năm 2006, 2018 và 2019. Tạp chí Time gọi cô là một trong 100 người ảnh hưởng nhất thế giới các năm 2004 và 2018. Năm 2020, The New York Times xếp cô thứ năm trong danh sách những diễn viên xuất sắc nhất thế kỷ 21 đến thời điểm đó của tờ báo này. Kidman bắt đầu sự nghiệp diễn xuất ở Úc với các bộ phim Bush Christmas và BMX Bandits năm 1983. Bước đột phá của cô bắt đầu từ năm 1989 với bộ phim gây cấn Dead Calm và loạt phim ngắn tập Bangkok Hilton. Năm 1990, cô ra mắt Hollywood với bộ phim đua xe Days of Thunder, cùng với Tom Cruise. Cô bắt đầu nhận được sự chú ý với các vai diễn chính trong Far and Away (1992), Batman Forever (1995), To Die For (1995) và Eyes Wide Shut (1999). Kidman giành Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất với vai nhà văn Virginia Woolf trong bộ phim chính kịch The Hours (2002). Những vai diễn đã được đề cử giải Oscar khác của cô bao gồm bộ phim nhạc kịch Moulin Rouge! (2001) và các phim chính kịch Rabbit Hole (2010) và Lion (2016). Những bộ phim khác có sự tham gia của Kidman bao gồm The Others (2001), Cold Mountain (2003), Dogville (2003), Birth (2004), Australia (2008), The Paperboy (2012), Paddington (2014), The Killing of a Sacred Deer (2017), Destroyer (2018), Aquaman (2018) và Bombshell (2019). Những vai diễn của Kidman trong lĩnh vực truyền hình bao gồm Hemingway & Gellhorn (2012), Big Little Lies (2017–2019), Top of the Lake: China Girl (2017), và The Undoing (2020). Với Big Little Lies, cô giành hai Giải Primetime Emmy cho Nữ diễn viên xuất sắc nhất và Loạt phim ngắn xuất sắc nhất (với cương vị nhà sản xuất chính). Kidman là đại sứ thân thiện cho UNICEF từ năm 1994 và cho UNIFEM từ năm 2006. Năm 2006, cô được trao tặng huân chương Companion of the Order of Australia. Vì bố mẹ người Úc sinh cô ở Hawaii, Kidman mang hai quốc tịch là Úc và Hoa Kỳ. Năm 2010, cô thành lập công ty sản xuất Blossom Films. Cô là vợ của diễn viên Tom Cruise từ năm 1990 đến 2001, và cưới ca sĩ nhạc đồng quê Keith Urban năm 2006. Thời thơ ấu Nicole Kidman sinh ra ở Honolulu, Hawaii. Bố của cô là bác sĩ Antony David Kidman – một nhà hoá sinh và bác sĩ vật lý trị liệu ở Lane Cove, Sydney. Ông cũng là một tác gia rất tích cực trong các phong trào công đoàn. Còn mẹ cô, bà Janelle Ann MacNeille Kidman là một nữ y tá đồng thời cũng là trợ lý kiêm biên tập viên cho các cuốn sách của chồng mình. Lúc Nicole ra đời, ông Antony đang làm nghiên cứu sinh ở Viện nghiên cứu quốc gia về các bệnh thần kinh ở thủ đô Washington, D.C.. Khi cô được bốn tuổi, gia đình chuyển về Úc để bố cô có thể giảng dạy tại trường Đại học Công nghệ Sydney. Nicole theo học tại trường công lập Lane Cove trong những năm cấp hai. Nic có một em gái là Antonia sinh năm 1970. Bố mẹ và em gái của cô đều sống ở Greenwich, một vùng ngoại ô trên bờ biển bắc (North Shore) Sydney. Nic là một tín đồ Thiên chúa giáo, thường đi lễ ở nhà thờ Mary Mackillop bắc Sydney cùng với em gái. Cô học cấp ba tại trường nữ sinh North Sydney Girl's High school, cũng ở North Shore. Nic học balê từ năm lên bốn, sau đó vào học tập tại Nhà hát kịch thanh thiếu niên Australia của thành phố Sydney (Sydney's Australian theatre for young people), nơi mà hiện tại cô đang làm người đỡ đầu, sau này cô về Nhà hát Phillip Street, chuyên lồng tiếng cho các vở kịch và góp phần làm nên lịch sử của nhà hát. Thời gian sống ở Longueville, Nic theo học tại trường St. Marys nhưng nửa chừng thì cô phải nghỉ học khi mẹ cô được chẩn đoán là mắc bệnh ung thư vú. Cô đã hoàn toàn tập trung chăm sóc gia đình cho tới khi mẹ cô khỏi bệnh. Sự nghiệp điện ảnh Khởi nghiệp ở Úc (1983 – 1989) Nicole Kidman xuất hiện lần đầu tiên trên màn ảnh năm 1983 trong video clip Bop Girl của Pat Wilson, khi ấy cô mười lăm tuổi. Cuối năm đó, Kidman nhận một vai phụ trong series phim truyền hình Five Mile Creek, và các vai chính trong bốn phim khác gồm có BMX Bandits và Bush Christmas. Trong suốt thập niên 1980 cô xuất hiện trong một vài bộ phim nhựa và truyền hình, đáng chú gồm có bộ phim tâm lý A country practice, series Vietnam (1986), Emerald City (1988) và Bangkok Hilton (1989). Giai đoạn tài năng nở rộ (1989 – 1995) Năm 1989, Kidman tham bộ phim Dead Calm. Cô vào vai Rea Ingram, vợ của sĩ quan hải quân John Ingram (Sam Neil), bị giam giữ trên biển Thái Bình Dương trong một chuyến đi nghỉ bởi Hughie Warriner (Billy Zane), một kẻ tâm thần bệnh hoạn. Bộ phim đã nhận được những lời phê bình tích cực, biên tập báo điện tử [Variety.com] nhận xét: "Kidman đã rất xuất sắc trong suốt bộ phim. Cô ấy đã thể hiện một Rea bướng bỉnh và đầy sức sống". Trong khi đó, nhà phê bình Roger Ebert lại chú ý đến sự phối hợp giữa hai nhân vật chính: "…Kidman và Zane đã thể hiện được một sự căm ghét thật sự, đến nỗi mà nó sờ thấy được trong những cảnh diễn chung". Năm 1990, cô xuất hiện bên cạnh Tom Cruise trong Days of Thunder, một bộ phim về đua xe. Sau đó, năm 1992, cô tiếp tục đóng chung với Tom trong bộ phim của đạo diễn Ron Howard Far and Away. Năm 1995, Kidman đồng diễn trong phim Batman Forever. Cô cũng từng xuất hiện với vai trò người dẫn chương trình trong Saturday Night Live (20 tháng 11 năm 1993). Những thành công liên tiếp Bộ phim thứ hai của Kidman trong năm 1995, To Die For là một phim hài đã giành được rất nhiều lời khen ngợi từ các nhà phê bình. Cô đoạt giải Quả cầu vàng (Golden Globe) và năm giải thưởng khác cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất với vai cô phát thanh viên giết người Suzanne Stone Maretto. Năm 1999, Kidman diễn chung với Tom Cruise trong Eyes Wide Shut, bộ phim cuối cùng của đạo diễn Stanley Kubrick. Năm 2002, Kidman được đề cử Oscar và giành được Quả cầu vàng thứ hai cho vai nàng Satine kiều diễm bên cạnh Ewan McGregor trong Moulin Rouge!. Cùng năm đó, Kidman cũng nhận được phản hồi tốt từ khán giả cho The Others của mình. Trong khi ở Úc quay phim Moulin Rouge!, Kidman đã bị thương ở mắt cá chân, kết quả là Jodie Foster đã thế vai cô trong Panic Room. Nhưng Kidman cũng góp giọng trong vai bà chủ của chồng của nhân vật mà Jodie thủ vai, trong một cảnh nói chuyện qua điện thoại. Ngay sau đó, năm 2003, Kidman đã giành được nhiều lời tán thưởng khi hóa thân thành nhà văn Virginia Woolf trong The Hours. Nicole, với chiếc mũi giả xấu xí và hút thuốc như điếu cày, đã khiến khán giả không còn nhận ra một nàng công chúa kiều diễm thường ngày nữa và rinh về một giải Oscar, một giải BAFTA, và thêm một Quả cầu vàng nữa cùng nhiều giải thưởng khác. Kidman trở thành nữ diễn viên Úc đầu tiên vinh dự được nhận giải Oscar. Trong suốt bài phát biểu của mình, Kidman đã khóc và cô nhấn mạnh về tầm quan trọng của nghệ thuật, thậm chí là trong thời chiến: "Tại sao các bạn lại tới dự một lễ Oscar trong khi thế giới này đang lộn tùng phèo? Đó là bởi nghệ thuật rất quan trọng. Bởi bạn tin vào những gì mình đang làm và bạn muốn vinh danh nó, và đó là một truyền thống cần được giữ gìn." Cùng năm đó, Kidman đã tham gia sản xuất bộ phim In the cut. Năm 2003, cô tham gia vào ba bộ phim hoàn toàn khác nhau. Dogville của đạo diễn Lars von Trier. Sau đó cô xuất hiện bên cạnh Anthony Hopkins trong bộ phim phỏng theo tiểu thuyết của Philip Roth: The Human Stain. Rất nhiều lời phê bình cho rằng cả Kidman và Hopkins đều không hợp với nhân vật của mình. Bộ phim cuối cùng trong năm của cô - Cold Mountain, câu chuyện tình của một đôi trai gái ở miền Nam nước Mỹ bị chia cắt bởi cuộc nội chiến đã mang về cho cô một đề cử giải Golden Globe. Năm 2004, Kidman đóng vai chính trong The Stepford Wives, một bộ phim làm lại bị chỉ trích gay gắt. Tháng 9, phim Birth, trong đó một phụ nữ 37 tuổi do Kidman thủ vai chạm trán cậu bé 10 tuổi (Cameron Bright), người mà cố gắng thuyết phục rằng cậu ta chính là đầu thai của người chồng quá cố của cô, đã nhận được những phản ứng trái chiều chủ yếu do cảnh cậu bé cởi đồ và bước vào bồn tắm của Kidman. Mặc dù vậy bộ phim vẫn được đề cử Sư tử vàng trong liên hoan phim Venice. Kidman cũng nhận được một đề cử Quả cầu vàng cho vai diễn của mình. Hai bộ phim tiếp theo vào năm 2005 của cô là The Interpreter, đạo diễn Sydney Pollack, và Bewitched, dựa theo phim hài cùng tên sản xuất năm 1960. Cùng với những thành công trong điện ảnh, Kidman trở thành gương mặt đại diện của nhãn hiệu nước hoa Channel No.5. Đoạn clip 3 phút để quảng cáo cho nhãn hiệu này trong mùa lễ 2004, 2005, 2006, được mô phỏng theo Moulin Rouge! của đạo diễn Baz Luhrmann, với bạn diễn là Rodrigo Santoro đã mang về cho Kidman 3.71 triệu USD, kỉ lục về cát-xê trung bình cao nhất cho một phút quảng cáo! Cũng trong thời gian này, Kidman giữ ghế thứ 45 trong số 100 nhân vật quyền lực nhất hành tinh do tạp chí Forbes bình chọn. Đồng thời, với 14.5 triệu USD cho mỗi phim trong năm 2004-2005, cô chỉ xếp thứ hai sau Julia Robert (16 - 17 triệu USD/phim) trong danh sách những nữ minh tinh có cát-xê cao nhất thế giới theo tạp chí People. Nhưng Kidman đã vượt mặt Robert để trở thành nữ diễn viên có thu nhập cao nhất thế giới, một phần cũng do thời gian gần đây Robert dành nhiều thời gian cho vai trò làm mẹ và sân khấu kịch Broadway hơn là cho điện ảnh. Ngày 25 tháng 6 năm 2007, Nintendo thông báo Kidman sẽ là đại diện mới cho chiến dịch quảng cáo game Nintendo DS - More Brain Training ở thị trường châu Âu. Sự nghiệp âm nhạc Trước Moulin Rouge!, Nicole Kidman đã có tiếng là một giọng ca tiềm năng. Bản song ca "Come what may" của Kidman với Ewan Mc Gregor trong loạt soundtrack của Moulin Rouge! đã chiếm vị trí thứ 27 trong bảng xếp hạng US Singles. Sau đó, "Something Stupid" song ca với Robie Williams đã leo lên vị trí thứ 8 trong bảng xếp hạng Australian ARIAnet Singles và chiếm vị trí số một trong bảng xếp hạng UK. Nó cũng trở thành single số một dành cho giáng sinh ở vương quốc Anh trong năm 2001. Đời tư Những mối quan hệ Kidman gặp Tom Cruise năm 1990 trong bộ phim Days of Thunder, lúc đó Tom vừa ly dị nữ diễn viên Mimi Rogers. Kidman và Cruise đã tổ chức đám cưới vào đúng Giáng sinh năm 1990 ở Telluride, tiểu bang Collorado. Hai người đã nhận nuôi hai bé là Isabelle Jane Cruise (sinh ngày 22 tháng 12 năm 1992) và Connor Anthony Cruise (sinh ngày 17 tháng 1 năm 1995) và đã chuyển đến sống ở Los Angeles, Úc, Colorado rồi sau đó là New York. Ho chia tay nhau ngay trước lễ kỉ niệm 10 năm ngày cưới. Vào thời điểm Nic có bầu được ba tháng nhưng sau đó lại bị sẩy thai, Tom đã ký vào đơn li dị (tháng 2 năm 2001). Cuộc hôn nhân kết thúc vào năm 2001, bởi những bất đồng không thể giải quyết được giữa hai người theo lời viện dẫn của Tom. Lý do của những bất đồng không bao giờ được công bố. Trong một bài phỏng vấn trên tạp chí "Ladies' home journal" vào tháng 6 năm 2006, Nic nói rằng cô vẫn còn yêu Tom: "Anh ấy vĩ đại, vẫn luôn vĩ đại. Đối với mọi người, anh ấy là một nhân vật vĩ đại, nhưng đối với tôi, anh ấy chỉ là Tom, và anh ấy rất đáng yêu. Tôi yêu anh ấy. Tôi vẫn còn yêu anh ấy." Thêm vào đó, cô cho biết cô đã thực sự sốc sau cuộc li dị. Năm 2003, xung quanh bộ phim Cold Mountain đã có những tin đồn rằng mối tình chớm nở giữa Nic và bạn diễn Jude Law chính là nguyên nhân dẫn đến đổ vỡ trong cuộc hôn nhân của anh. Cả hai đều kịch liệt phản đối những tin đồn nhảm nhí và Nic thậm chí còn buộc tờ British phải bồi thường một khoản bởi đã đăng tải câu chuyện bịa đặt trên. Cô đã ủng hộ số tiền đó cho trại trẻ Rumani ở thị trấn mà bộ phim đang quay. Cũng có tin đồn Nic và Jim Carrey hẹn hò với nhau sau khi hai người bị bắt gặp đang đi ăn cùng nhau, nhưng họ cũng phủ nhận và giải thích hai người chỉ là bạn tốt. Sau giải Oscar, người ta lại đồn đại về mối quan hệ giữa Nic và nam diễn viên đoạt giải Oscar Adrien Brody. Kidman gặp gỡ ca sĩ nhạc rock Lenny Kravitz năm 2003 và họ thường xuyên hẹn hò trong năm 2004. Mới đây Nic tiết lộ là cô đã bí mật đính hôn sau khi bản ly dị giữa cô và Tom Cruise có hiệu lực và trước khi gặp Keith Urban. Cô không cho biết vị hôn phu đó là ai. Kidman gặp ca sĩ nhạc đồng quê Keith Urban tại lễ vinh danh những nghệ sĩ người Úc, G'Day LA, vào tháng 1 năm 2005. Hai người đa tổ chức lễ cưới vào ngày 25 tháng 6 năm 2006 tại nhà thờ Cardinal Cerretti Memorial ở vùng điền trang St Patrick, Manly, Úc. Họ giữ ngôi nhà cũ ở Sydney và chuyển đến sống tại Nashville, tiểu bang Tennessee. Kidman là một người hút thuốc lá, mặc dù cô vẫn công nhận nó có hại cho sức khoẻ. Cô cùng với Keith Urban có một con gái là Sunday Rose (sinh ngày 7 tháng 7 năm 2008). Bé Sunday Rose là con đầu lòng của Nicole dù trước đó cô đã có hai con nuôi là Isabella (15 tuổi) và Connor (13 tuổi) khi chung sống với Tom Cruise. Chính trị Cái tên Nicole Kidman xuất hiện trên tờ Los Angeles Times (ngày 17 tháng 8 năm 2006) cùng với chữ ký của 84 ngôi sao Hollywood khác trong bản chỉ trích các tổ chức Hamas và Hezbollah, và cổ vũ cho những nỗ lực của Israel trong cuộc xung đột vào năm 2006 giữa Israel và Li-băng: "Chúng tôi, những người đã ký dưới đây, cảm thấy đau xót cho những nạn nhân vô tội ở Israel và Li-băng, bị gây nên bởi những hành động khủng bố do các tổ chức như Hamas và Hezbollah khởi xướng. Nếu chúng ta không thành công trong việc ngăn chặn chủ nghĩa khủng bố đang lan rộng khắp thế giới, sự hỗn loạn sẽ ngự trị và những người vô tội sẽ tiếp tục bị giết hại. Chúng ta cần phải cổ vũ nền dân chủ và chặn đứng chủ nghĩa khủng bố bằng mọi giá." Những người khác ký vào bản cam kết này còn có diễn viên Michael Douglas, Dennis Hopper, Sylvester Stallone, Bruce Willis, Danny DeVito, Don Johnson, James Woods, Kelly Preston, Patricia Heaton, William Hurt, và các đạo diễn Ridley Scott, Tony Scott, Michael Mann, Richard Donner và Sam Raimi, ngoài ra còn có ngôi sao quần vợt Serena Williams. Kidman đã nhiều lần ủng hộ tiền cho quỹ vận động tranh cử của các ứng viên đảng Dân chủ (Hoa Kỳ) và đã bầu cho ứng viên John Kerry trong cuộc tranh cử tổng thống năm 2004. Kidman ủng hộ rất tích cực cho các tổ chức từ thiện và các mục đích từ thiện. Cô là đại sứ thiện chí cho UNICEF từ năm 1994, và vừa trở thành đại sứ thiện chí của Quỹ Phát triển Phụ nữ của Liên Hợp Quốc. Kidman rất tích cực trong các hoạt động gây quỹ và kêu gọi mọi người hướng sự chú ý đến hoàn cảnh khó khăn của những trẻ em bất hạnh ở Úc và trên toàn thế giới. Năm 2004, cô vinh dự được công nhận là "Công dân thế giới" bởi Liên hiệp quốc. Ngày 26 tháng 1 năm 2006, Kidman được trao tặng huân chương cao quý nhất của nhà nước Úc, huân chương "Bạn đồng hành" cho "sự tận tuỵ vì nghệ thuật với vai trò là một diễn viên điện ảnh, vì sự nghiệp y tế với những đóng góp trong việc cải thiện chất lượng điều trị cho phụ nữ và trẻ em và sự ủng hộ tích cực trong công cuộc nghiên cứu bệnh ung thư, vì đối với thanh niên như là một nguồn cổ vũ lớn lao cho những nghệ sĩ trẻ và vì sự nghiệp nhân đạo ở Úc và trên toàn thế giới." Tuy nhiên do bận đóng phim và đám cưới với Urban nên mãi đến 13 tháng 4 năm 2007 cô mới chính thức nhận huân chương. Kidman đã tham gia vào chiến dịch "chữ T nhỏ" (Little Tee Campaign) để chống bệnh ung thư vú. Một trong những hoạt động của chiến dịch là thiết kế áo phông và áo vest để gây quỹ. Mẹ của cô, bà Janelle cũng từng là bệnh nhân ung thư vú được chẩn đoán vào năm 1984. Danh sách phim Danh sách đĩa nhạc Giải thưởng Chú thích Liên kết ngoài Hoạt động thiện nguyện của Nicole Kidman Sinh năm 1967 Phim và người giành giải Oscar cho nữ diễn viên xuất sắc nhất Phim và người giành giải Quả cầu vàng cho Nữ diễn viên phim ca nhạc hoặc phim hài xuất sắc nhất Phim và người giành giải Quả cầu vàng cho Nữ diễn viên phim chính kịch xuất sắc nhất Người Hawaii Đại sứ thiện chí của UNICEF Nhân vật còn sống Huân chương Úc Bạn hữu Nữ ca sĩ Mỹ Nữ diễn viên điện ảnh Mỹ Nữ diễn viên Mỹ thế kỷ 20 Nữ diễn viên Mỹ thế kỷ 21 Nữ diễn viên truyền hình Mỹ Người Mỹ gốc Anh Người đoạt giải BAFTA Người Mỹ gốc Ireland Người Mỹ gốc Scotland Nữ diễn viên lồng tiếng Mỹ Nhà sản xuất phim Mỹ Người Úc gốc Anh Người giành giải BAFTA cho Nữ diễn viên xuất sắc nhất Người của UNICEF Tom Cruise Nữ ca sĩ thế kỷ 21 Time 100 năm 2018
VI_open-0000000078
Arts_and_Entertainment
.hr là tên miền quốc gia cấp cao nhất (ccTLD) của Croatia. Tên miền.hr được quản lý bởi CARNet - Mạng nghiên cứu và học thuật Croatia, thông qua Hội đồng DNS CARnet sẽ xác định chính sách, và Dịch vụ DNS CARnet sẽ giải quyết các vấn đề hàng ngày. Hội đồng bao gồm các thành viên thuộc về cộng đồng học thuật, Dịch vụ được điều hành bởi SRCE. Những người đăng ký được xếp loại vào một số nhóm khác nhau với những quy định khác nhau về đăng ký tên miền. Yêu cầu phải có liên hệ với Croatia, như công dân, người tạm trú dài hạn, hay các công ty đã đăng ký, dùng cho tất cả các loại. Một vài nhóm người đăng ký được phép đăng ký tên miền trực tiếp ở cấp 2, nhưng thường bị hạn chế mỗi thực tế hợp pháp chỉ được một (mặc dù có những thể loại đặc biệt thược phép đăng ký thêm, nói chung là những dự án được cho là phục vụ cộng đồng). Cũng có những đăng ký cấp 3 bao gồm những cá nhân trong một số tên miền đặc biệt như .iz.hr (.from.hr), và một số lượng đăng ký không giới hạn dành cho công ty trong .com.hr, nhưng nó không phổ biến so với những tên miền cấp hai được đăng ký trực tiếp .hr. .hr là viết tắt của Hrvatska, là tên nước Croatia theo tiếng Croat. Tham khảo Liên kết ngoài IANA.hr whois information domain registration website Regulations regarding organisation of the top-level 'hr' Internet domain and the principles of managing the top-level 'hr' domain H r H r H r sv:Toppdomän#H
VI_open-0000000079
Internet_and_Telecom
Đảo Brownsea là đảo lớn nhất trong 8 đảo của Bến cảng Poole trong quận Dorset, Anh Quốc. Hội Ủy thác Quốc gia (National Trust) làm chủ hòn đảo này. Phần lớn hòn đảo mở cho công chúng và bao gồm các vùng đất rừng và bãi cây cỏ thấp với nhiều chủng loại hoang dã cùng với quang cảnh đỉnh vách đá phía bên kia Bến cảng Poole và Hòn Purbeck. Đảo được nhớ đến nhất là nơi từng làm nhà cho trại đầu tiên của phong trào Hướng đạo năm 1907. Cách duy nhất vào đảo là dùng phà công cộng hay đi bằng tàu riêng; đảo tiếp nhận khoảng 105.938 du khách vào năm 2002. Tên của đảo là từ tiếng Anglo-Saxon Brūnoces īeg. Đia lý Đảo Brownsea nằm trong Bến cảng Poole đối diện thị trấn Poole ở quận Dorset, Anh Quốc. Nó là đảo lớn nhất trong 8 đảo của Bến cảng Poole. Chỉ có thể đến đảo bằng phà công cộng hay đi tàu riêng. Có một cầu tàu và một bến đổ tàu gần lâu đài chính. Đảo có thể được nhìn thấy từ mọi nơi trên đất liền và từ những nơi gọi là Sandbanks. Đảo dài 1,5 dặm và rộng 0,75 dặm. Đảo có 500 mẫu Anh rừng thông, vùng cây cỏ thấp và vùng đầm lầy nước mặn. Hội Ủy thác Quốc gia làm chủ toàn bộ hòn đảo, gồm các dinh thự nhà cửa trên đảo (những dinh thự nằm gần cầu tàu/bến đổ tàu nhỏ). Tuy nhiên có vài dinh thự vài phần của đảo được các nhóm thứ ba thuê mướn và điều hành. Phần phía bắc của đảo là khu bảo tồn tự nhiên là một nơi sinh sống quan trọng của các loại chim; khu vực này giới hạn cho công chúng đến. Phần nhỏ phía đông nam của đảo, dọc theo tòa lâu đài, được cho Công ty John Lewis thuê dùng làm nhà nghỉ lễ cho nhân viên và không mở cho công chúng. Sinh thái Đảo Brownsea hình thành trên một bờ cát và bùn tích tụ trong vùng bến cảng nông. Các sự biến đổi sinh thái thành công đã xảy ra trên đảo và tạo nên một lớp đất mặt có thể hỗ trợ hệ sinh thái. Khu bảo tồn thiên nhiên trên đảo được Hội Ủy thác Quốc gia (National Trust) cho Hội Ủy thác Hoang dã Dorset (Dorset Wildlife Trust) thuê, bao gồm một phá nước lợ và khu đất có rừng. Các hệ sinh thái khác trên đảo còn có đầm lầy nước mặn, bãi sậy, hai hồ nước ngọt,... Trong quá khứ các thực vật sinh sản lan rộng như rhododendrons cũng như các giống không thuộc bản xứ được đưa vào đảo nhưng đã bị các hội ủy thác dẹp bỏ ở nhiều vùng. Toàn bộ đảo được ấn định là một nơi quan tâm đặc biệt dành cho khoa học. Hoang dã Đảo là một trong ít nơi tại miền nam Anh Quốc mà sóc đỏ có thể sinh tồn, chính yếu là vì sóc xám không thuộc bản xứ chưa từng được đem vào đảo. Brownsea cũng có một số lượng nhỏ chim công. Đảo có một bãi cò mà cả cò xám và cò trắng làm tổ. Có một số lớn các con nai sika không thuộc bản xứ trên đảo. Trong quá khứ số lượng của chúng vượt xa hơn hòn đảo có thể chứa chấp và ăn hết cỏ. Để cố hạn chế thiệt hại cho cây cỏ và các hoa màu khác bởi nai, nhiều khu vực trên đảo bị rào để cung cấp các khu rừng không bị hư hại cho phép các loài sinh vật khác như sóc đỏ sinh sôi. Phá nước được đáng ghi nhận cho số lượng lớn các loài chim nhạn trong mùa hè, và một đàn rất lớn chim mỏ cứng trong mùa đông khi mà có đến 50% chim loại này của Anh Quốc (trên 1500) có thể nhìn thấy ở đây. Hướng đạo Từ ngày 1 tháng 8 cho đến 8 tháng 8 năm 1907, trung tướng Baden-Powell đã tổ chức trại Hướng đạo thử nghiệm đầu tiên cho 22 trẻ em nam trên đảo. Việc xuất bản sau đó sách Hướng đạo cho nam (Scouting for Boys) đã khởi sự phong trào Hướng đạo. Năm 2007, 100 năm sau kỳ trại thử nghiệm đầu tiên, có một số sự kiện đã được hoạch định trên Đảo Brownsea. Trong mùa hè, Hội Hướng đạo Vương quốc Anh tổ chức 4 trại, Trại Đội trưởng (Patrol Leaders Camp) là một sự tập hợp các Hướng đạo sinh từ các vùng của Vương quốc Anh, Trại Tân Bách niên (New Centenary Camp) gồm Hướng đạo Vương quốc Anh thuộc mọi tôn giáo, chủng tộc và thành phần và Trại Bổn sao (Replica Camp) là một bảo tàng sống về trại 100 năm trước đây. Tuy nhiên trại nổi bật trong 4 trại là Trại Bình minh (Sunrise Camp). Trại Bình minh sẽ mang 310 bạn trẻ từ 155 quốc gia lại với nhau để kỷ niệm 100 năm Hướng đạo. Vào ngày 1 tháng 8 năm 2007, tất cả các Hướng đạo sinh từ khắp thế giới (28 triệu thuộc Tổ chức Phong trào Hướng đạo thế giới) sẽ cùng nhau tái tuyên thệ Lời hứa Hướng đạo của mình vào lúc 8 giờ sáng địa phương như là một phần trong nghi lễ Bình minh, với Đảo Brownsea là tiêu điểm của các buổi nghi lễ. Tham khảo Dorset County Council, Visitor Numbers at Selected Attractions 1998 to 2002 . National Trust (See Liên kết ngoài). Pitt-Rivers, Michael, 1970. Dorset. London: Faber & Faber. Liên kết ngoài Brownsea Island information at the National Trust H2G2: Brownsea Island Brownsea and its significance — The world's first Scout Camp Brownsea Island Scout Campsite Celebrations of Scouting Centenary on Brownsea Island Map of Brownsea Island Hướng đạo tại Vương quốc Anh Các đảo ở Anh Hướng đạo Phá
VI_open-0000000080
Travel_and_Transportation
Mai hoa thung (梅花樁), Mai hoa trang 梅花桩, hay gọi chính xác hơn là Mai hoa thung pháp (phép tập trên cọc gỗ mai hoa) là một công phu tập luyện võ thuật nổi tiếng của võ thuật Trung Hoa, nhằm luyện cho thân thể cùng bộ pháp linh động, chính xác trên các cọc cây (thung). Mai hoa thung pháp rất có thể xuất xứ ban đầu từ Thiếu Lâm tự và/hoặc Ngũ Mai lão ni. Kỹ thuật Đây là công phu rất khó luyện, thường chỉ dành cho các quyền sư cao đẳng luyện tập và thi đấu để định lượng tài sức của bản thân và của người khác. Khởi sự người tập luyện Mai hoa thung thường không bắt đầu đứng trên các cọc gỗ mà dùng phấn hay sơn vẽ vài đóa hoa mai trên mặt đất để tập, cánh hoa này cách cánh hoa khác khoảng 8 tấc đến 1 thước 20 phân, được xếp lộn xộn không thứ tự. Mỗi đóa hoa gồm 5 vòng tròn làm cánh hoa và mỗi cánh hoa cách nhau 4 tấc, đường kính cánh hoa (vòng tròn) lớn 1 tấc 20. Vẽ xong người tập vẽ một hai đóa là hư thung (được đánh dấu riêng). Khi luyện thì đứng vào cánh hoa thực của một đóa hoa, khi đứng chỉ dùng mỗi chân trên một cánh hoa và sử dụng đầu ngón chân để bấm xuống cho chắc, tính toán trước thứ tự bước rồi tiến hành nhảy (ví dụ: trái 3, phải 4, trước 5, sau 2 không nhất thiết là bao nhiêu. Thường tốt nhất là có người đứng bên đọc số và người tập nhảy vào cánh hoa theo số thứ tự nghe được, ví dụ hô: bên phải, đóa thứ 2; đằng sau, đóa thứ 3 v.v. Thường người tập cố gắng tránh các đóa hư thung và khi nhảy mũi bàn chân phải đạp đúng vòng tròn của cánh hoa. Khi ở trên thung mà đạp sai sẽ bị ngã hoặc lảo đảo đứng không vững, do đó cần song luyện cả nhãn lực cho tinh tường. Sau khi đã luyện tập thành thục khiến bộ pháp trở nên chính xác hoàn hảo, người tập mới tiến hành đóng cọc gỗ xuống đất để luyện nhảy trên các cọc. Dùng loại gỗ cứng chắc dài khoảng 1 mét 20, đường kính 6-7 phân, đem chôn theo hàng các cánh hoa như đã vẽ trên mặt đất. Phần chôn xuống sâu độ 6 tấc tây và phải nện đất thật cứng để di chuyển không bị lung lay. Các hư thung thì ngắn nên chỉ cần sâu chừng một tấc, gốc cột chỉ nện đất sơ sài để nếu bước nhầm lên là ngã. Khi tập trên thung cũng tương tự như tập trên mặt đất, nhảy nhót theo quy ước hoặc nhảy nhót tự do trên các thung thực và tránh các hư thung. Khi người tập thành thục dần thì nâng độ cao của cọc lên hai mét hay hơn, thậm chí đóng những cọc vạt nhọn, đao, thương xen kẽ ở dưới để tập (nếu té ngã có thể vong mạng). Người tập cũng có thể nhảy nhót tùy ý hoặc đánh các bài quyền với tấn pháp quy ước của bài. Ngoài ra, người tập thường mang theo giáp chì, các vòng đồng bọc thêm vào cổ chân để luyện sự linh hoạt cho đôi chân. Ứng dụng Mai hoa thung pháp được luyện thành thục sẽ giúp cho người luyện có một bộ pháp linh hoạt, tấn pháp vững chắc, chuẩn xác. Những cuộc tỷ thí võ công trình độ cao trên các cọc gỗ đóng theo hình mai hoa rất nổi tiếng trong lịch sử võ lâm Trung Hoa. Các quyền sư thường đóng trên mặt đất nhiều cọc gỗ rất cao theo hình hoa mai (5 cọc trên 5 cánh hoa, đôi khi có thêm 1 cọc ở giữa tượng trưng cho nhị hoa), đi quyền hoặc song đấu với một người khác trong tư thề hai chân di chuyển tấn pháp trên các cây cọc. Người nào ngã xuống đất, tức không còn đứng trên cọc, bị xem là thua cuộc. Tham khảo Hàng Thanh (soạn theo tâm pháp của Linh Không thiền sư Ngũ Đài Sơn), Phương pháp luyện ngạnh công và nhuyễn công (53 bí quyết của Thiếu Lâm và bát đại môn phái), Nhà xuất bản Long An xuất bản năm 1990. Mục Mai hoa thung trên trang 104-106. Võ thuật theo kĩ thuật Võ thuật Trung Hoa Thiếu Lâm thất thập nhị huyền công it:Ganzhi Wushi Meihuazhuang zh:梅花桩
VI_open-0000000081
Sports
Hoa hậu Hoàn vũ 2005 là cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ lần thứ 54 được tổ chức vào ngày 31 tháng 5 năm 2005 tại Impact Arena ở thủ đô Băng Cốc, Thái Lan. Người chiến thắng của cuộc thi là Natalie Glebova đến từ Canada và được trao vương miện bởi Hoa hậu Hoàn vũ 2004 Jennifer Hawkins đến từ Úc. Cuộc thi năm nay có tổng cộng 81 thí sinh tham gia đến từ các quốc gia và lãnh thổ trên thế giới. Kết quả Thứ hạng Các giải thưởng đặc biệt Trang phục dân tộc đẹp nhất Thứ tự công bố Top 15 Top 10 Top 5 Giám khảo Porntip Nakhirunkanok – Hoa hậu Hoàn vũ 1988 đến từ Thái Lan. Oleksandra Nikolayenko – Hoa hậu Hoàn vũ Ukraine 2004. Heidi Albertsen – Người mẫu Đan Mạch, người chiến thắng cuộc thi Elite Model Look. Kevin S. Bright – Nhà sản xuất phim Những người bạn. Mario Cimarro – Diễn viên người Cuba. Bryan Dattilo – Diễn viên phim Days of Our Lives. Carson Kressley – Chuyên gia bình luận thời trang. Cassie Lewis – Người mẫu người Mỹ. Louis Licari – Chuyên gia làm tóc nổi tiếng. Anne Martin – Chuyên gia tiếp thị của Cover Girl và Max Factor. Khun Pi Rom Pakdi – Công dân Thái Lan. Jean-Georges Vongerichten – Đầu bếp người Pháp. Thí sinh Cuộc thi có tổng cộng 81 thí sinh tham gia: Thông tin về các cuộc thi quốc gia Tham gia lần đầu Trở lại Lần cuối tham gia vào năm 1996: Lần cuối tham gia vào năm 1999: Lần cuối tham gia vào năm 2000: Lần cuối tham gia vào năm 2002: Lần cuối tham gia vào năm 2003: Thay thế – Hoa hậu Cộng hòa Séc 2004 Jana Doleželová theo kế hoạch ban đâu sẽ tham gia cuộc thi năm nay nhưng điều đó đã không diễn ra. Tổ chức Hoa hậu Hoàn vũ đã rút giấy phép nhượng quyền của cuộc thi Hoa hậu Cộng hòa Séc và hợp tác tổ chức cuộc thi Hoa hậu Séc (Czech Miss) để tìm kiếm đại diện đến cuộc thi. Kateřina Smejkalová, người chiến thắng ấn bản đầu tiên của Hoa hậu Séc đã tham gia thi đấu. Trước đó, Jana từng thi đấu tại Hoa hậu Thế giới 2004 và lọt vào Top 15 chung cuộc. – Cheryl Ankrah ban đầu được trao vương miện Hoa hậu Trinidad và Tobago 2005 nhưng đã bị truất ngôi sau khi bị chỉ trích vì không hoàn thành nhiệm vụ của mình và trở nên thừa cân. Ankrah có lệnh không được phép tham gia cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ năm đó và một giám khảo đã tổ chức lại cuộc thi Hoa hậu Trinidad và Tobago 2005 lần thứ hai. Người chiến thắng trong cuộc thi thứ hai là Magdalene Walcott và trở thành đại diện chính thức cho Trinidad và Tobago tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ năm đó. – Hoa khôi Hà Nội 2005 Phạm Thu Hằng chính thức đại diện cho Việt Nam tham gia cuộc thi sau khi Hoa hậu Phụ nữ Việt Nam qua ảnh 2004 Bùi Thị Diễm từ chối lời mời vì bận việc học. Bỏ cuộc Không tham gia Thành phố đăng cai Thái Lan đã công bố tổ chức cuộc thi năm nay vào ngày 10 tháng 7 năm 2004 trong chuyến thăm đất nước này của Hoa hậu Hoàn vũ 2004 Jennifer Hawkins. Cũng vào thời điểm đó, Chile, Trung Quốc và Hy Lạp cũng đang được xem xét để tổ chức sự kiện này. Một tháng sau, đã có một thông báo rằng Băng Cốc, Thái Lan đã được lựa chọn nhưng chưa chính thức để tổ chức cuộc thi, với chi phí là 6,5 triệu USD. Chi phí này do chính phủ Thái Lan tài trợ nhằm thúc đẩy du lịch. Vào tháng 10, đề xuất này gặp nhiều khó khăn khi chính phủ Thái Lan chậm đưa ra các quỹ đầu tư như đã hứa, làm nản lòng các Nhà tài trợ chính. Thủ tướng Thái Lan Thaksin Shinawatra dẫn đầu tổ chức cuộc thi đã họp với các tổ chức cá nhân và khẳng định cuộc thi vẫn sẽ được tổ chức. Tổ chức này đã trao quyền quản lý chính thức cho Công ty Matching Entertainment vào tháng 12 năm 2004 sau khi một công ty khác, Showcase Thailand không thành công trong khâu tổ chức. Tháng 2 năm 2005, sau khi chính phủ Thái Lan xác nhận kế hoạch tổ chức cuộc thi, phó thủ tướng đã bác bỏ tuyên bố rằng sự kiện này sẽ được tổ chức tại Khao Lak, một khu nghỉ mát bị tàn phá bởi trận sóng thần ở Ấn Độ Dương năm 2004, nhưng khẳng định rằng Nam Thái Lan sẽ tổ chức các sự kiện của cuộc thi trước buổi chung kết. Năm 2005 là lần thứ hai cuộc thi được tổ chức ở Băng Cốc. Thành phố này cũng đã tổ chức cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 1992 và người chiến thắng cuộc thi năm đấy là Michelle McLean đến từ Namibia. Chú thích Tham khảo 2005 Năm 2005
VI_open-0000000084
Beauty_and_Fitness
Afanasy Afanasievich Fet (tiếng Nga: Афанасий Афанасьевич Фет; 5 tháng 12 năm 1820 – 3 tháng 12 năm 1892), có họ thật là Shenshin, Fet là họ mẹ (tiếng Đức: Foeth), là một trong những nhà thơ lớn nhất của Nga trong thế kỉ 19. Cuộc đời Fet là con ngoài giá thú của địa chủ Afanasy Ivanovich Shenshin và Charlotta Foeth, một phụ nữ người Đức. Đến cuối đời ông mới giành được quyền lợi về tầng lớp xuất thân và họ thật nhưng trong thơ ca mãi mãi gọi là Fet. Ông sinh ở tỉnh Orlov; trong thời gian 1835–1837 học ở trường tư thục, 1838–1844 học Đại học Quốc gia Moskva. Năm 1840 in tập thơ đầu tiên, năm 1850 in tập thơ thứ hai và bắt đầu được chú ý. Những năm 1845–1858 Fet phục vụ trong quân đội. Thời gian đóng quân ở Ukraina Fet yêu cô Maria Lazich, là một cô gái có học, xinh đẹp và tài năng. Maria Lazich yêu Fet đến quên mình nhưng hai người không đi đến hôn nhân vì Fet cảm thấy chưa đủ điều kiện để lập gia đình. Maria Lazich chết vì quần áo cháy do nến đốt. Người đời nói về vụ tử tử vì tình là do sự "tính toán" của Fet. Thực hư không ai biết chính xác nhưng sau đó hình bóng Maria luôn xuất hiện trong thơ Fet. Năm 1857 Fet lấy vợ, là con gái của một người bạn. Sau khi giải ngũ, Fet mua được rất nhiều đất và trở thành một địa chủ giàu có. Fet mất ở Moskva, mai táng tại nghĩa trang dòng họ Shenshin ở Orlov. Thơ ca Fet làm thơ từ thời trẻ cho đến những năm tháng cuối đời. Thơ của Fet thể hiện sự lẩn tránh đời thường để đi vào "vương quốc xán lạn của ước mơ". Chủ đề chính của thơ Fet là tình yêu và thiên nhiên. Fet là một bậc thầy ngôn ngữ, đại diện tiêu biểu của trường phái "thơ tinh khiết", cả đời tranh luận với Nikolay Alexeyevich Nekrasov, người đại diện tiêu biểu của trường phái "thơ xã hội". Đặc điểm của thơ Fet là nói về cái cốt lõi nhất, tránh những ám chỉ thừa. Dưới đây là một bài thơ tiêu biểu được nhiều người biết: Cả bài thơ này không có một động từ nào cả. Tuy nhiên sự mô tả không gian chuyển tải sự vận động tự thân của thời gian. Fet có sự ảnh hưởng lớn đến các nhà thơ phái hình tượng, đặc biệt là Innokentiy Fyodorovich Annensky và Aleksandr Aleksandrovich Blok. Ngoài sáng tác, Fet còn dịch Goethe và nhiều nhà thơ La Mã cổ đại. Một vài bài thơ dịch sang tiếng Việt Tham khảo Liên kết ngoài Стихи Фета в Антологии русской поэзии. Фет А.А. Собрание стихотворений Стихи Фета Afanasy Fet Nhà thơ Nga Nhà văn Nga Mất năm 1892
VI_open-0000000085
Books_and_Literature
Chiến tranh sáu ngày (tiếng Ả Rập: حرب الأيام الستة, ħarb al‑ayyam as‑sitta; tiếng Hebrew: מלחמת ששת הימים, Milhemet Sheshet Ha‑Yamim), cũng gọi là Chiến tranh Ả Rập-Israel, Chiến tranh Ả Rập-Israel thứ ba, an‑Naksah (The Setback), hay Chiến tranh tháng sáu, là cuộc chiến giữa Israel và liên minh các nước láng giềng Ả Rập bao gồm: Ai Cập, Jordan, và Syria. Các quốc gia Liên Xô, Iraq, Ả Rập Xê Út, Kuwait, Cộng hòa Dân chủ Đức và Algérie cũng đóng góp nhân sự và vũ khí cho các lực lượng Ả Rập. Tháng 5 năm 1967, Ai Cập đã trục xuất Lực lượng Khẩn cấp của Liên Hợp Quốc (UNEF) khỏi Bán đảo Sinai, nơi đội quân này đã đồn trú kể từ năm 1957 (sau cuộc khủng hoảng Suez) và tạo thành một vùng đệm gìn giữ hòa bình ở đây. Ai Cập đã huy động 1.000 xe tăng và 100.000 lính đến biên giới, phong tỏa eo biển Tiran (cửa ngõ vào Vịnh Aqaba) đối với các tàu mang cờ Israel hoặc các tàu chở hàng chiến lược, và kêu gọi Các nước Ả Rập thống nhất lại để cùng hành động đối phó với Israel. Vào ngày 5 tháng 6 năm 1967, Israel đã tấn công phủ đầu đánh vào không lực Ai Cập do lo sợ nước này sẽ tiến hành một cuộc chiến xâm lược Israel. Sau đó, Jordan, vốn đã ký hiệp định tương trợ quân sự với Ai Cập từ ngày 30 tháng 5, tấn công tây Jerusalem và Netanya. Trong cuộc chiến, Israel đã giành ưu thế nhờ chủ động tấn công bất ngờ và có chiến thuật tốt. Trong khi đó, liên quân Ả rập (nhất là quân đội Ai Cập) thể hiện một tinh thần chiến đấu yếu kém, binh sỹ vô kỷ luật, các chỉ huy thì chủ quan khinh địch và mắc hàng loạt các sai lầm. Kết quả là quân Ả Rập thất bại nhanh chóng dù họ có ưu thế về quân số và trang bị. Khi kết thúc cuộc chiến, Israel giành được quyền kiểm soát Đông Jerusalem, dải Gaza, bán đảo Sinai, Bờ Tây, và cao nguyên Golan. Kết quả của cuộc chiến này ảnh hưởng đến địa thế chính trị của khu vực này cho đến ngày nay. Hoàn cảnh Chuẩn bị chiến tranh Sau khi ký kết ngừng bắn khủng hoảng Kênh đào Suez năm 1956, Ai Cập và Syria tiếp tục tăng cường sức mạnh chiến đấu bằng việc mua vũ khí từ Liên Xô và Tiệp Khắc. Vào năm 1956, Ai Cập đã nhận được 120 xe tăng T-34-85 từ Tiệp Khắc. Việc cung cấp T-34 được tiếp tục trong những năm 1962-1963. Trong giai đoạn này, Ai Cập đã nhận được 130 xe tăng T-54A. Trong những năm 1965-1967, đã có 150 xe T-34-85 và T-55, 25 xe tăng IS-3 và 150 xe PT-76 được mua. Syria đến năm 1967 thì đã nhận từ Liên Xô khoảng 750 xe tăng T-34-85 và T-54A. Các xe tăng T-54 được trang bị hoàn toàn cho các lữ đoàn tăng số 14 và 44. Phía quân đội Israel cũng ráo riết vũ trang và tích cực chuẩn bị chiến tranh. Lực lượng chính của các lữ đoàn thiết giáp Israel là khoảng hơn 1.200 xe tăng, bao gồm 385 xe tăng Centurion (toàn bộ đã được nâng cấp để gắn pháo 105mm kiểu mới) và 250 xe tăng M48 Patton (toàn bộ đã được nâng cấp lên phiên bản M48A3, thay động cơ tốt hơn và gắn pháo 105mm kiểu mới). Ngoài ra còn có 180 chiếc M4 Sherman cải tiến (mang pháo 105mm) và 400 chiếc xe tăng hạng nhẹ AMX-13 (mua của Pháp). Israel đã chuẩn bị các phương án tấn công mạnh, mang tính chất phủ đầu vào phía Ả rập nhằm giải quyết các vấn đề tranh chấp. Khủng hoảng Kể từ sau cuộc chiến tranh năm 1956, Ai Cập đồng ý để Liên Hợp Quốc triển khai lực lượng gìn giữ hòa bình tại Sinai, để đảm bảo phi quân sự khu vực này, và ngăn chặn du kích (fedayeen) người Palestine xâm nhập phá hoại Israel. Ai Cập cũng đồng ý mở eo biển Tiran cho thuyền bè Israel, vốn là một vấn đề góp phần gây ra cuộc Khủng hoảng kênh đào Suez. Kết quả là biên giới Ai Cập và Israel được bình ổn trong một thời gian. Vào lúc 10:00 giờ tối ngày 16 tháng 5, Chỉ huy lực lượng Liên hiệp quốc, Thiếu tướng Indar Jit Rikhye, nhận được thư từ tướng Mohammed Fawzy, Tổng tham mưu trưởng Cộng hòa Ả Rập Thống nhất, đòi quân LHQ rút khỏi các vị trí trên biên giới. Rikhye đáp lại là ông sẽ liên lạc với Tổng thư ký LHQ để xin chỉ thị. Ngày 19 tháng 5, chỉ huy quân LHQ nhận được lệnh rút lui. Tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser tiếp đó cho tiến hành tái quân sự hóa vùng Sinai, tập trung binh lính và xe tăng dọc theo biên giới Israel. Mùa xuân năm 1967, phía Liên Xô cung cấp cho chính phủ Syria những tin giả là Israel đang chuẩn bị tấn công Syria; Syria thông báo cho Ai Cập. Ngày 22 tháng 5, để đáp lại, Ai Cập tuyên bố, ngoài việc yêu cầu quân LHQ rút lui, họ cũng sẽ đóng của Eo biển Tiran với tàu thuyền "mang cờ Israel hoặc chuyên chở vật liệu chiến lược", bắt đầu từ ngày 23 tháng 5. Phát biểu trước Liên đoàn thương mại Ả Rập ngày 26 tháng 5, Nasser tuyên bố: "Nếu Israel dấn vào các hoạt động thù địch chống lại Syria hay Ai Cập, thì trận chiến chống lại Israel sẽ là trận chiến toàn diện, không chỉ giới hạn ở biên giới Syria hay Ai Cập và mục tiêu cơ bản của chúng ta là hủy diệt Israel." Israel tỏ ra lo lắng trước việc Ai Cập đóng cửa eo biển, yêu cầu Hoa Kỳ và Anh can thiệp để mở lại Eo biển Tiran, như họ đã bảo đảm năm 1957. Thủ tướng Anh Harold Wilson đề xuất đưa một lực lượng hải quân quốc tế đến để giải quyết cuộc khủng hoảng, nhưng dù đề nghị của ông được Mỹ chấp thuận, nhận được rất ít ủng hộ từ cộng đồng quốc tế, chỉ có Anh và Hà Lan đề nghị đóng góp hải quân cho lực lượng này. Với những hành động gây hấn của Nasser, bao gồm việc phong tỏa Eo biển và động viên quân đội về bán đảo Sinai, gây nên sức ép quân sự và kinh tế lên Israel, cùng với việc Hoa Kỳ trù trừ, vì vướng vào cuộc Chiến tranh Việt Nam, ban lãnh đạo quân sự và chính trị của Israel thấy rằng việc đánh phủ đầu không những có lợi về mặt quân sự, mà còn có khả năng xoay chuyển tình thế. Nỗ lực ngoại giao Nội các Israel nhóm họp ngày 23 tháng 5 và quyết định mở cuộc tấn công nếu Eo biển Tiran không được mở trở lại ngày 25 tháng 5. Sau khi Thứ trưởng ngoại giao Mỹ Eugene Rostow liên lạc tìm kiếm thêm thời gian để đàm phán cho một giải pháp hòa bình, phía Israel đồng ý trì hoãn thêm từ 10 ngày cho tới 2 tuần nữa. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, U Thant, đến Cairo để hội đàm và nối lại các hoạt động ngoại giao giải quyết cuộc khủng hoảng. Ai Cập chấp thuận, nhưng Israel bác bỏ các đề xuất mà ông đưa ra. Việc Nasser nhượng bộ không có nghĩa là ông tìm cách tránh chiến tranh, mà chỉ nhằm giành thêm ưu thế chiến lược và chính trị, vì đồng ý giải quyết bằng con đường ngoại giao sẽ thu được sự ủng hộ từ cộng đồng quốc tế. Hơn thế nữa, việc trì hoãn khiến Ai Cập có thêm thời gian hoàn tất việc chuẩn bị về mặt quân sự và phối hợp với lực lượng của các quốc gia Ả Rập khác. Ngoài ra, việc Israel bác bỏ không nhất thiết là họ tỏ ra hiếu chiến, mà chỉ là thể hiện sự cấp thiết tình hình. Israel không có khả năng duy trì lệnh tổng động viên trong một thời gian dài. Ban lãnh đạo Israel quyết định là nếu như Hoa Kỳ không làm gì, và Liên Hợp Quốc án binh bất động, thì Israel phải hành động. Ngày 1/6/1967, "độc nhãn tướng quân" Moshe Dayan (ông này bị chột mắt phải) được cử làm bộ trưởng quốc phòng, đồng thời Israel thành lập nội các thống nhất với sự tham gia của các đảng phái đối lập. Trong 2 tuần trước chiến tranh, Israel ra lệnh tổng động viên, mọi công dân nam từ 18 đến 55 tuổi được lệnh sẵn sàng nhập ngũ, đa số các phương tiện cơ giới được trưng dụng. Ngày 4/6/1967, nội các Israel quyết định sẽ tập kích bất ngờ bằng không quân vào sáng ngày 5/6/1967. Tháng 5 năm 1967, chủ tịch quốc hội Ai Cập Anwar Sadat có chuyến thăm chính thức đến Liên Xô và hội kiến với chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Alexei Kosygin. Thứ trưởng bộ ngoại giao Liên Xô đã thông báo một tin quan trọng: Tình báo Xô Viết vừa cho biết Israel đang tập trung ít nhất 11 lữ đoàn sát biên giới với Syria. Phía Liên Xô muốn Sadat báo tin này cho tổng thống Ai Cập Nasser ngay lập tức. Liên Xô còn chia sẻ tin tình báo này với các nước khác trong khu vực, thậm chí là với cả chính Israel. Nhưng phía Ai Cập và Syria đã tỏ ra chủ quan, coi thường các tin tình báo này và đã không đặt quân đội trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu cao. Đây là một trong những nguyên nhân chính khiến liên quân Ả Rập hoàn toàn bị bất ngờ và thất bại nhanh chóng khi Israel tấn công phủ đầu. Lực lượng hai bên Liên quân Ả Rập Trước khi chiến sự nổ ra, Ai Cập tập trung khoảng 100 ngàn trong tổng số 160 ngàn quân về bán đảo Sinai, bao gồm toàn bộ bảy sư đoàn (4 sư đoàn bộ binh, 2 sư đoàn xe bọc thép và 1 sư đoàn cơ giới), cũng như bốn lữ đoàn bộ binh độc lập và bốn lữ đoàn thiết giáp độc lập. Không dưới một phần ba trong số đó là các binh lính kỳ cựu từ cuộc can thiệp của Ai Cập vào nội chiến Yemen cùng với khoảng một phần ba khác là quân dự bị. Lực lượng này có 950 xe tăng, 1.100 xe bọc thép và hơn 1.000 khẩu pháo. Cùng thời gian một số binh lính Ai Cập (15.000 - 20.000) vẫn còn tham chiến tại Yemen. Tuy trang bị khá tốt nhưng chất lượng huấn luyện, chỉ huy, tinh thần chiến đấu của quân Ai Cập lại kém. Những ranh giới cứng nhắc giữa sĩ quan và binh sĩ trong Quân đội Ai Cập đã dẫn đến sự "ngờ vực và khinh thường" lẫn nhau giữa các sĩ quan và binh lính phục vụ dưới quyền họ Trong Lực lượng vũ trang Ai Cập, sự trung thành chính trị được coi trọng hơn là năng lực quân sự Chỉ huy Ai Cập, Thống chế Abdel Hakim Amer, được bổ nhiệm hoàn toàn dựa trên tình bạn thân thiết với Tổng thống Nasser, dù thành tích quân sự của ông ta rất kém. Là một người nghiện rượu nặng, Amer đã cho thấy mình hoàn toàn không đủ năng lực để làm một vị tướng trong cuộc Khủng hoảng Suez năm 1956. Sự mâu thuẫn và bối rối của Ai Cập còn được thể hiện qua các mệnh lệnh mà Tổng thống Nasser đưa ra cho quân đội. Bộ chỉ huy thay đổi kế hoạch tác chiến bốn lần trong tháng 5 năm 1967, mỗi lần thay đổi như vậy lại phải tái triển khai binh lính, dẫn đến hao mòn xe cộ và làm binh lính mệt mỏi. Tới cuối tháng năm, Nasser nghiêm cấm bộ chỉ huy tiến hành kế hoạch Qahir ("Chiến thắng"), theo đó thiết lập một hàng rào bộ binh trang bị nhẹ tại các vị trí phòng ngự tiền tiêu, với đại bộ phận lực lượng còn lại được giữ lại ở phía sau để tiến hành một cuộc phản công lớn nhằm vào lực lượng tấn công chính của Israel, và hạ lệnh thiết lập hàng rào phòng ngự từ xa tại Sinai. Trong thời gian đó, ông tiếp tục tiến hành các hoạt động nhằm gia tăng mức động viên quân đội từ Ai Cập, Syria và Jordan, nhằm gia tăng sức ép lên Israel. Syria có quân đội gồm 75.000 người. Jordan có quân đội gồm 55.000 người, bao gồm 300 xe tăng, 250 trong số đó là các xe M48 Patton sản xuất tại Mỹ, một số lớn xe bọc thép M113, một tiểu đoàn bộ binh cơ giới và một tiểu đoàn lính dù huấn luyện trong một căn cứ Hoa Kỳ xây dựng. Họ cũng có 12 tiểu đoàn pháo binh và 6 khẩu đội cối 81mm và 120mm. Tài liệu mà phía Israel thu được từ phía Jordan cho thấy mệnh lệnh từ cuối tháng 5 cho Lữ đoàn Hashemite đánh chiếm Ramot Burj Bir Mai'in bằng cách đột kích bất ngờ trong đêm, mệnh danh "Chiến dịch Khaled". Mục tiêu của chiến dịch này là thiết lập một đầu cầu, cùng với các vị trí tại Latrun tạo điều kiện cho xe bọc thép đánh chiếm Lod và Ramle. Khẩu lệnh "tiến công" là Sa'ek, đáp lại là Nasser. Quân Jordan cũng lên kế hoạch đánh chiếm Motza và Sha'alvim trên hành lang Jerusalem chiến lược. Lữ đoàn bộ binh 27 đóng tại Ma'ale Adummim được giao nhiệm vụ đánh Motza: "Lữ đoàn dự bị sẽ mở màn chiến dịch đột kích ban đêm, phá hủy nó đến tận gốc rễ, không để bất cứ người nào trong số 800 cư dân sống sót". 100 xe tăng và một sư đoàn bộ binh Iraq cũng được đặt ở tình trạng báo động gần biên giới Jordan. Hai phân đội máy bay chiến đấu Hawker Hunter và MiG 21, cũng được chuyển về gần các căn cứ sát biên giới Jordan. Israel Quân Israel lúc tổng động viên, tức bao gồm cả quân dự bị, gồm 264.000 người, dù số quân đó không thể duy trì lâu dài được, vì quân dự bị đóng vai trò sống còn trong vận hành cuộc sống hàng ngày của đất nước. Tuy ít hơn về quân số, nhưng chất lượng huấn luyện và tinh thần chiến đấu của quân Israel cao hơn hẳn so với lính Ả Rập. James Reston, trong New York Times ngày 23 tháng 5 năm 1967, nhận xét: "Về mặt kỷ luật, huấn luyện, tinh thần, trang bị và năng lực nói chung, quân đội của Nasser và các lực lượng A Rập khác, không kể đến trợ giúp trực tiếp từ Liên Xô, không phải là đối thủ của người Israel... Ngay cả với 50 ngàn quân và các tướng lãnh giỏi nhất, cùng với không quân, tại Yemen, ông ta cũng không thể đạt được mục tiêu của mình trong cái quốc gia nhỏ bé và lạc hậu ấy, thậm chí nỗ lực của ông nhằm giúp đỡ lực lượng nổi dậy tại Congo cũng thất bại." Bộ trưởng quốc phòng Israel Moshe Dayan cũng là một vị tướng rất dày dạn trận mạc ngay từ thời Đệ nhị thế chiến. Năm 1966, Moshe Dayan thậm chí còn trực tiếp đến vùng chiến sự ở Việt Nam để khảo sát kinh nghiệm tác chiến của quân đội Mỹ nhằm rút ra bài học cho quân Israel, có thể nói ông giàu kinh nghiệm hơn hẳn những tướng lĩnh bên phía Ả Rập. Tối ngày 1 tháng 6, Bộ trưởng quốc phòng Israel Moshe Dayan liên lạc với Tham mưu trưởng Yitzhak Rabin và Tổng chỉ huy, thiếu tướng Yeshayahu Gavish để đệ trình kế hoạch đánh Ai Cập. Rabin lên kế hoạch theo đó Đạo quân phía nam sẽ đánh thọc qua Dải Gaza, chiếm vùng này làm con tin, cho tới khi Ai Cập đồng ý mở lại Eo biển Tiran, nhưng Gavish có một kế hoạch tổng thể hơn nhằm tiêu diệt hoàn toàn các lực lượng Ai Cập tại Sinai. Rabin thích kế hoạch của tướng Gavish hơn, rồi tướng Dayan cũng chuẩn y kế hoạch này, với cảnh báo là phải tránh việc cùng lúc đối đầu với quân Syria. Ngày 2 tháng 6, Jordan động viên sĩ quan dự bị, Chỉ huy vùng Bờ Tây gặp các chỉ huy khu vực để yêu cầu giúp đỡ và phối hợp với binh lính của mình khi chiến tranh nổ ra, cam kết với họ là "trong vòng 3 ngày chúng ta sẽ đến Tel-Aviv". Các mặt trận Israel không kích phủ đầu Hoạt động quân sự đầu tiên, và cũng là hoạt động quyết định của Israel là đòn đánh phủ đầu vào không quân Ai Cập. Lúc 7:45 sáng ngày 5 tháng 6, khi còi báo động vang lên trên toàn Israel cũng là lúc không quân Israel (IAF) mở chiến dịch Moked. Ngoại trừ 12 máy bay ở lại để bảo vệ không phận, còn lại tất cả 183 chiếc máy bay phản lực cất cánh rời Israel ào ạt tấn công các sân bay của Ai Cập. Trọng tâm của kế hoạch là thực hiện những cuộc tập kích bất ngờ vào các sân bay quân sự của quân Ả Rập bằng các đội hình nhỏ, ném bom đường băng và sau đó phá hủy các máy bay đang đậu trên mặt đất. Chiến tranh 6 ngày chính thức bắt đầu. Ai Cập có không quân lớn và hiện đại nhất trong số các quốc gia A Rập, với khoảng 450 máy bay chiến đấu của Liên Xô, với nhiều máy bay MiG-21 hiện đại bậc nhất lúc đó. Ban đầu, cả Ai Cập và Israel đều tuyên bố bị bên kia tấn công trước. Phía Israel đặc biệt quan tâm đến 30 máy bay ném bom tầm trung Tu-16 "Badger", có khả năng đánh phá nghiêm trọng các trung tâm dân sự và quân sự của Israel. Máy bay của Israel bay vòng ra Địa Trung Hải trước khi vòng lại hướng về Ai Cập. Các phi đội Israel bay sát mặt biển, và hoàn toàn không dùng radio nhằm tránh bị radar đối phương phát hiện, sau đó ngoặt lại về phía nam để xâm nhập không phận Ai Cập. Hành trình từ Israel đến các mục tiêu kéo dài khoảng 45 phút. Một đài radar của Jordan đã phát hiện được các phi đội Israel và gửi tin cảnh báo cho Ai Cập. Tuy nhiên bức điện này được mã hóa và Ai Cập không thể giải mã do vừa đổi mật mã ngày hôm trước. Các cơ sở phòng không của Ai Cập được chuẩn bị phòng thủ rất kém, không có sân bay nào được trang bị bong-ke bọc thép để bảo vệ máy bay. Không quân Ai Cập cũng rất chủ quan, máy bay của họ đậu sát nhau dọc theo đường băng, không hề có biện pháp nào để ngụy trang, phân tán lực lượng. Điều này càng khiến cho máy bay Israel dễ dàng trong việc không kích. Phía Ai Cập cũng tự làm hại mình bằng cách tắt toàn bộ hệ thống phòng không của họ, vì họ sợ lực lượng nổi dậy Ai Cập có thể bắn hạ máy bay chở Nguyên soái chiến trường Amer và Trung tướng Sidqi Mahmoud, đang trên đường từ al Maza tới Bir Tamada ở Sinai để gặp các chỉ huy tại đó. Dù thế nào đi chăng nữa thì việc đó cũng không làm tình hình thay đổi mấy, vì các phi công Israel bay rất thấp để tránh radar và bay dưới tầm mà tên lửa phòng không SA-2 có thể bắn được họ. Càng xui xẻo cho Ai Cập khi sáng hôm đó cả phó Tổng thống, nguyên soái Abdel Hakim Amer, bộ trưởng Bộ quốc phòng Shams Badran và nhiều sĩ quan cao cấp khác lại có chuyến thị sát đến Sinai. Bộ trưởng Badran nhớ lại sự bất ngờ của các lãnh đạo Ai Cập lúc đó: "Chúng tôi nhận được tin về các vụ không kích của Israel 10 phút sau khi cất cánh. Chúng tôi ngay lập tức bay trở lại Cairo. Nhưng đoàn xe vừa rời đi nên chúng tôi phải bắt taxi để quay về sở chỉ huy". Các phi công Israel phối hợp nhiều chiến thuật cùng lúc: ném bom và dùng hỏa lực oanh tạc các máy bay đang đậu trên đường băng, ném bom xuyên phá đường băng để máy bay Ai Cập không cất cánh được nữa, làm mồi ngon cho đợt không kích tiếp theo của máy bay Israel. Cuộc không kích thành công vượt mức, khiến quân Ai Cập hoàn toàn bị bất ngờ, phá hủy gần như toàn bộ không quân Ai Cập ngay trên mặt đất mà chỉ bị rất ít tổn thất. Hơn 300 máy bay Ai Cập bị phá hủy, hơn 100 phi công Ai Cập chết. Trong số máy bay bị phá hủy là tất cả các 30 máy bay Tu-16, 27 trong tổng số 40 máy bay ném bom Il-28, 12 chiến đấu cơ-máy bay ném bom Su-7, hơn 90 MiG-21, 20 MiG-19, 25 MiG-17 chiến đấu cơ, cùng 32 máy bay vận tải các loại và phi cơ. Phía Israel mất 19 máy bay, phần lớn do trục trặc kỹ thuật, hay tai nạn... Cuộc không kích mang lại cho Israel ưu thế áp đảo trên không cho đến hết cuộc chiến. Tiếp theo thành công của đợt không tập đầu tiên đánh vào quân Ai Cập, không quân Israel chiều hôm đó chuyển sang đánh các sân bay thứ yếu ở Ai Cập cũng như bắt đầu tấn công không lực Jordan, Syria, và Iraq, tiêu diệt hầu hết không quân các nước này. Tới tối, không quân Jordan gần như bị xóa sổ, mất hơn 20 máy bay chiến đấu Hunter, 6 máy bay vận tải và 2 máy bay trực thăng. Không quân Syria mất 32 MiG-21, 23 MiG-15 và MiG 17, 2 máy bay ném bom Ilyushin Il-28. Một số máy bay của Iraq cũng bị phá hủy tại sân bay H3 ở tây Iraq, gồm 12 trên tổng số 20 MiG-21, 2 MiG-17, 5 Hunter F6, và 3 Il-28. Một máy bay ném bom Tu-16 của Iraq bị bắn hạ trong ngày bởi hỏa lực phòng không Israel khi nó định ném bom Tel Aviv. Sáng ngày 6 tháng 6 năm 1967, một máy bay Hunter của Liban, trong tổng số 12 chiếc mà họ có, bị bắn rơi tại biên giới hai nước. Tới tối, Israel cho biết họ đã phá hủy 416 máy bay của phe A Rập, trong khi mất 26 máy bay trong hai ngày đầu chiến sự. Israel mất 6 trong số 72 chiến đấu cơ Mirage IIIC/J, 4 trong số 24 chiến đấu cơ Super Mystère, 8 trong số 60 Mystère IVA, 4 trong số 40 Ouragan, 5 trong số 25 máy bay ném bom tầm trung Vautour II. Số máy bay A Rập mà Israel tuyên bố phá hủy lúc đầu bị báo chí phương Tây tưởng là đã bị "phóng đại". Tuy nhiên, thực tế là không lực Ai Cập, Jordan, và các quốc gia A Rập khác hầu như vắng bóng trong những ngày tiếp theo của cuộc chiến chứng tỏ là con số tổn thất này có lẽ là xác thực. Trong suốt cuộc chiến, phi cơ của Israel tiếp tục bắn phá đường băng để ngăn phe địch đưa chúng vào hoạt động trở lại. Cùng lúc, đài phát thanh của chính phủ Ai Cập thì tuyên bố Ai Cập chiến thắng, tung tin giả là 70 máy bay Israel bị hạ chỉ trong ngày đầu giao chiến. Dải Gaza và Bán đảo Sinai Quân Ai Cập có bảy sư đoàn, gồm 4 sư đoàn xe bọc thép, hai sư đoàn bộ binh, một sư đoàn bộ binh cơ giới, tổng cộng khoảng 100 ngàn quân, 900-950 xe tăng, hỗ trợ bởi 1.100 xe bọc thép chở quân (APC) và 1.000 khẩu pháo. Quân Ai Cập bố trí theo học thuyết quân sự của Liên Xô, với lực lượng xe tăng và xe thiết giáp cơ động bố trí tại những vị trí chiến lược có chiều sâu, phòng thủ cơ động, trong khi bộ binh giao chiến tại những vị trí cố thủ của mình. Tuy vậy, quân đội Ai Cập tỏ ra thiếu tinh thần chiến đấu và có kỷ luật không tốt, trong khi các tướng lĩnh dễ dao động. Quân Israel tập trung dọc biên giới với Ai Cập có 6 lữ đoàn xe bọc thép, một lữ đoàn bộ binh, một lữ đoàn bộ binh cơ giới, 3 lữ đoàn dù, 700 xe tăng, tổng cộng là 70 ngàn quân, chia thành 3 sư đoàn xe tăng - thiết giáp (1 sư đoàn tăng - thiết giáp còn lại phụ trách chiến trường với Jordan và Syria). Về cơ cấu tổ chức, một lữ đoàn thiết giáp của Israel bao gồm 2 tiểu đoàn xe tăng, mỗi tiểu đoàn được trang bị 50 xe tăng, và ít nhất 1 tiểu đoàn bộ binh cơ giới. Những lữ đoàn này được kết hợp với các lữ đoàn cơ giới hoặc bộ binh để tạo thành các đơn vị cấp sư đoàn. Kế hoạch của Israel là gây bất ngờ cho quân Ai Cập cả về thời gian (tấn công cùng lúc không quân đánh vào các sân bay Ai Cập), lẫn địa điểm (tấn công theo hướng bắc và trung Sinai, chứ không như người Ai Cập tưởng họ sẽ lặp lại chiến thuật năm 1956, sử dụng đường tấn công phía nam và trung), cũng như phương thức (hợp đồng binh chủng đánh tạt sườn, thay vì đánh trực diện bằng xe tăng). Tướng Sharon quyết định giành thế chủ động, lên kế hoạch kỹ càng, phối hợp tác chiến và tiến hành tấn công. Ông đưa hai lữ đoàn về phía bắc Um-Katef, một để chọc thủng hệ thống phòng thủ tại Abu-Ageila về phía nam, và một để chặn đường về El-Arish và để bao vây Abu-Ageila từ phía đông. Cùng lúc, quân dù được trực thăng chuyển quân về phía sau tuyến phòng thủ, tiêu diệt pháo binh nhằm ngăn chặn chúng bắn phá xe tăng và bộ binh Israel. Quân Israel hợp đồng binh chủng gồm xe tăng, pháo binh, bộ binh, lính dù và công binh tiến công quân Ai Cập từ mọi hướng, cắt rời quân Ai Cập. Trận chiến có tính chất bước ngoặt này diễn ra liên tục trong ba ngày rưỡi cho tới khi Abu-Ageila thất thủ. Đến lúc này, tình hình vẫn chưa quá xấu đối với Ai Cập. Tại Sinai, nhiều đơn vị quân Ai Cập vẫn còn nguyên vẹn, và họ có thể giao chiến hoặc lập các tuyến phòng thủ để chặn quân Israel tiến về Kênh đào Suez. Tuy nhiên khi Bộ trưởng quốc phòng Ai Cập, nguyên soái Abdel Hakim Amer, nghe tin Abu-Ageila thất thủ, ông ta trở nên hoảng sợ. Thay vì đợi bộ tham mưu chuẩn bị kế hoạch tác chiến hoặc rút lui có trật tự, Amer tự mình liên lạc với các chỉ huy và hạ lệnh cho tất cả các đơn vị tại Sinai rút lui ngay. Lệnh rút lui được đưa ra vội vã mà không đi kèm các phương án bọc hậu và lý do trấn an, nó đã gây ra tai họa lớn: binh lính Ai Cập thấy toàn bộ mặt trận nhận lệnh tháo lui cùng lúc, nên họ nghĩ rằng đối phương chắc hẳn đang thắng áp đảo (dù thực ra, ưu thế quân số đang thuộc về Ai Cập và quân Israel vẫn chưa tiến được xa). Không có kế hoạch tổng thể, các đơn vị Ai Cập rút lui trong hỗn loạn, họ không có các đơn vị chặn hậu yểm trợ và cũng không thể hỗ trợ lẫn nhau. Trong điều kiện liên tục bị Israel công kích từ trên không, lính Ai Cập đã nhanh chóng trở nên hoảng loạn, mất hết tinh thần chiến đấu. Họ vứt bỏ hàng loạt các vũ khí hạng nặng còn nguyên vẹn để rút chạy một cách vô tổ chức. Vì quân Ai Cập rút chạy vô tổ chức, nên Bộ chỉ huy Israel quyết định không truy kích, thay vì đó đuổi vượt lên chiếm các con đèo ở Tây Sinai để rồi chặn đánh khi quân Ai Cập chạy qua. Vì vậy, trong hai ngày 6 và 7, cả ba sư đoàn của Israel cấp tốc tiến về phía tây. Sư đoàn của Sharon thoạt đầu hướng về phía nam, rồi rẽ sang hướng tây về phía đèo Mitla. Tiếp đó là các thành phần sư đoàn của tướng Yoffe, trong khi các đơn vị khác của sư đoàn này chặn đèo Gidi. Các đơn vị thuộc sư đoàn tướng Tal dừng lại tại nhiều vị trí khác nhau dọc theo Kênh Suez. Quân Israel chỉ phần nào thành công khi tìm cách chặn đánh quân Ai Cập, vì họ chỉ chiếm được đèo Gidi trước khi quân Ai Cập chạy qua, còn tại các con đèo khác, quân Ai Cập đều chạy đến trước và băng qua kênh Suez an toàn. Dù vậy, trong bốn ngày giao chiến, Israel cũng đã đánh bại đạo quân lớn nhất, trang bị mạnh nhất của người A Rập. Quân Ai Cập rút chạy quá vội vã và vô tổ chức, nên họ vứt bỏ lại sau lưng vô số xe cộ và vũ khí trên bán đảo Sinai. Hàng trăm đại bác, hàng chục hệ thống tên lửa bị vứt bỏ lại nguyên vẹn mà chưa hề bắn một phát đạn nào. Hàng trăm xe tăng còn đầy đủ đạn dược và xăng dầu, hàng trăm đại bác vẫn sẵn sàng nhả đạn, nhưng binh sỹ đã bỏ chạy nên chẳng còn ai để vận hành. Ai Cập có từ 10.000 đến 15.000 binh sĩ thương vong, 5.000 bị bắt làm tù binh. Trong số 935 xe tăng và pháo tự hành Ai Cập đóng ở Sinai, họ đã mất 820 xe (291 T-54, 82 T-55, 251 T-34-85, 72 IS-3M, 29 PT-76, 51 chiếc SU-100 và 50 M4 Sherman), chưa kể một số lượng lớn các xe bọc thép khác. Trong số các xe tăng bị mất, một số lượng lớn vẫn còn nguyên vẹn (do lính Ai Cập bỏ xe để chạy trốn) và đã rơi vào tay Quân đội Israel. Chiến lợi phẩm nhiều đến mức mà mặc dù không có các phụ tùng Xô Viết để thay thế, người Do Thái đã đưa chúng vào trang bị cho các đơn vị quân đội (trong đó có 81 T-54 và 49 T-55), chỉ thay động cơ và vũ khí của Phương Tây. Còn về phía mình, Israel mất trên bán đảo Sinai 122 xe tăng – ít hơn nhiều so với số xe tăng chiến lợi phẩm thu được. Cùng với số lượng lớn xe tăng thiết giáp, quân Israel cũng thu được hơn 20 hệ thống tên lửa phòng không hiện đại SAM-2 bị quân Ai Cập bỏ lại. Khoảng 430 đại bác, 50 pháo tự hành, 10.000 xe tải các loại cũng bị phá hủy hoặc rơi vào tay Israel. Ngày 8 tháng 6, Israel hoàn thành việc chiếm đóng Sinai bằng cách đưa hai đơn vị bộ binh tới Ras-Sudar trên bờ bắc của bán đảo này. Thị trấn Sharm El-Sheikh tại mũi phía nam cũng rơi vào tay các toán quân của Hải quân Israel vào ngày hôm trước. Những nhân tố góp vào chiến thắng chớp nhoáng của Israel bao gồm: một là việc không quân Israel làm chủ bầu trời; hai là quyết tâm áp dụng kế hoạch tấn công đầy sáng tạo; thứ ba là hàng loạt sai lầm mang tính chiến lược từ phía chỉ huy Ai Cập và thứ tư là tinh thần chiến đấu kém của binh sĩ Ai Cập. Đánh bại quân Ai Cập nhanh chóng cũng là nhân tố quyết định chiến thắng của Israel trên các mặt trận khác. Khu bờ Tây Jordan tham chiến miễn cưỡng, người ta cho rằng Tổng thống Ai Cập Nasser tung hỏa mù trong những giờ đầu cuộc chiến để thuyết phục vua Hussein là phe mình đang giành thắng lợi; ông tuyên bố các máy bay Israel mà radar nhìn thấy quay về là các máy bay Ai Cập trên đường không kích Israel. Một lữ đoàn quân Jordan đóng tại Bờ Tây được điều đến Hebron để hội quân với Ai Cập. Vua Hussein quyết định tham chiến. Trước chiến tranh, quân Jordan có 11 lữ đoàn, trang bị 300 xe tăng hiện đại của phương Tây. Có 9 lữ đoàn đóng ở Bờ Tây, gồm 45 ngàn quân, 270 xe tăng, 200 trọng pháo, với cả các trung đoàn bọc thép tinh nhuệ số 40 và 2 tại thung lũng Jordan. Lữ đoàn A Rập của quân Jordan là một lữ đoàn nhà nghề, thiện chiến được trang bị và huấn luyện rất tốt. Không quân hoàng gia Jordan có 24 máy bay chiến đấu Hunter, chất lượng tương đương với máy bay Dassault Mirage III - máy bay tốt nhất của không lực Israel. Để đối lại, Israel có 40 ngàn quân và 200 xe tăng (chia làm 8 lữ đoàn). Chủ lực của Israel tại chiến trường này là sư đoàn thiết giáp 36, gồm 1 lữ đoàn bộ binh và 2 lữ đoàn thiết giáp. Bộ chỉ huy Trung tâm của Israel gồm 5 lữ đoàn. Hai lữ đoàn đầu tiên đóng thường trực gần Jerusalem, gọi là lữ đoàn Jerusalem và lữ đoàn cơ giới Harel. Lữ đoàn dù 55 của tướng Mordechai Gur được điều về từ mặt trận Sinai. Một lữ đoàn bọc thép từ Bộ Tổng chỉ huy đóng vai trò lực lượng dự bị, hướng về Ramallah để đánh chiếm Latrun. Lữ đoàn bọc thép số 10 đóng ở phía bắc vùng Bờ Tây. Bộ chỉ huy Phía bắc của Israel có một sự đoàn (gồm 3 lữ đoàn), chỉ huy bởi tướng Elad Peled, đóng ở thung lũng Jezreel, phía bắc vùng Bờ Tây. Phía Israel dự định phòng ngự thụ động ở mặt trận này, để dồn sức cho mặt trận chính tại bán đảo Sinai. Tuy nhiên, này 5 tháng 6, quân Jordan bắt đầu pháo kích tây Jerusalem, Netanya, và ngoại vi Tel Aviv.Ngày 5 tháng 6, Israel gửi điện cho vua Hussein đề nghị ngưng bắn, nhưng vua Hussein trả lời mọi việc đã quá trễ. Mặc dù bị pháo kích, nhưng ban đầu quân Israel không có bất kỳ hoạt động nào đáp trả. Không quân hoàng gia Jordan cũng tấn công các sân bay Israeli. Ngày 6 tháng 6, quân Israel vội vã gom nhặt các toán quân còn lại tung vào trận chiến Bờ Tây để ngăn chặn quân Jordan. Chiều cùng ngày, không quân Israel (IAF) công kích và tiêu diệt Không quân hoàng gia Jordan. Tới tối, lữ đoàn bộ binh Jerusalem tiến về phía nam Jerusalem, trong khi quân dù các lữ đoàn Harel và Gur vây thành phố từ phía bắc. Lữ đoàn dù dự bị hoàn thành hợp vây Jerusalem sau trận chiến đẫm máu Ammunition Hill. E ngại các khu vực linh thiêng có thể bị hư hại và không muốn chiến đấu trong thành phố, tướng Dayan hạ lệnh cho binh sĩ của mình không tiến vào thành phố. Ngày 7 tháng 6, giao tranh khốc liệt tiếp diễn, lữ đoàn bộ binh tấn công pháo đài Latrun và hạ được nó lúc tảng sáng, tiến quân xuyên qua Beit Horon về Ramallah. Lữ đoàn Harel tiếp túc đánh về phía đồi núi ở tây bắc Jerusalem, nối liền khu Mount Scopus của trường đại học Hebrew với thành phố Jerusalem. Tới tối, lữ đoàn đã đánh tới Ramallah. Không quân Israel phát hiện và tiêu diệt lữ đoàn 60 Jordan khi nó đang trên đường tiếp viện cho Jerusalem từ Jericho. Ở phía bắc, một tiểu đoàn từ sư đoàn của tướng Peled được lệnh kiểm soát hoạt động hệ thống phòng thủ của quân Jordan tại thung lũng Jordan. Một lữ đoàn cũng thuộc sư đoàn này đánh chiếm miền tây của khu Bờ Tây, một lữ đoàn khác đánh Jenin và lữ đoàn thứ ba (trang bị bằng xe tăng hạng nhẹ AMX-13 của Pháp) giao chiến với xe tăng hạng nặng M48 Patton của quân Jordan về phía đông. Tướng Dayan hạ lệnh cho binh sĩ của mình không được tiến vào Jerusalem; tuy nhiên, sau khi nghe thông báo LHQ chuẩn bị tuyên bố ngưng bắn, ông thay đổi ý định, và không cần chờ Quốc hội cho phép, hạ lệnh đánh chiếm thành phố. Quân dù của Lữ đoàn Gur tiến vào Thành cổ Jerusalem qua Cổng Sư tử, đánh chiếm Bức tường than thở và Núi Đền. Lữ đoàn Jerusalem tiếp đó tới tăng viện cho họ, rồi tiến về hướng nam, đánh chiếm Judea, Gush Etzion và Hebron. Lữ đoàn Harel hành tiến về phía đông, đổ xuống sông River. Ở Bờ Tây, một lữ đoàn của tướng Peled hạ được Nablus; rồi nó được hợp với một lữ đoàn bọc thép thuộc Bộ chỉ huy trung ương đánh với quân Jordan trang bị mạnh hơn, và đông ngang với quân Israel. Một lần nữa, ưu thế không lực của Israel đóng vai trò quyết định, làm đối phương tê liệt, dẫn đến thất bại. Một lữ đoàn của tướng Peled hợp với một lữ đoàn khác thuộc Bộ chỉ huy trung ương từ Ramallah, hai lữ đoàn khác thì chặn các ngả vượt sông Jordan cùng với Trung đoàn số 10 của Bộ chỉ huy trung ương (đơn vị này đã vượt sông sang tận Bờ Đông để hộ tống cho công binh Israel phá cầu, nhưng nhanh chóng rút về dưới sức ép của Mỹ). Thực tế là phía Israel không hề chuẩn bị để đánh chiếm lãnh thổ từ tay Jordan. Sau khi Thành Cổ Jerusalem bị chiếm, tướng Dayan hạ lệnh cho binh sĩ đào công sự chuẩn bị phòng ngự thành phố. Khi một chỉ huy lữ đoàn thiết giáp tự tiến vào Bờ Tây, và cho biết từ đây có thể nhìn thấy thị trấn Jericho, Dayan hạ lệnh cho ông này phải quay lại. Chỉ sau khi tin tức tình báo cho thấy vua Hussein rút quân qua sông, tướng Dayan mới quyết định đánh chiếm vùng Bờ Tây. Theo Narkis: Một là, chính phủ Israel không có ý định chiếm vùng Bờ Tây. Không những thế, họ còn phản đối ý tưởng đó. Hai là, quân đội Israel không có bất kỳ hoạt động gây hấn nào. Ba là, họ chỉ tung quân ra khi mối đe dọa an ninh cho Jerusalem đã hiển hiện. Đó là những gì đã diễn ra trên thực tế ngày 5 tháng 6, dù rằng điều đó rất khó tin. Những gì diễn ra không hề được tính đến từ trước. Đây là mặt trận mà Israel phải đối phó với một đối phương gần tương đương về tinh thần quyết tâm và mức độ huấn luyện. Jordan mất hầu như toàn bộ 2 lữ đoàn thiết giáp của mình, với 179 xe tăng bị phá hủy. Nhưng ngược lại, phía Israel cũng chịu thiệt hại nặng, với 112 xe tăng bị loại khỏi vòng chiến. Các hoạt động tác chiến tại đây kết thúc ngày 7/6, Quân Jordany bị đánh bật sang bên kia sông Jordan. Người Israel lấy được vùng Latrun và Khu phố cổ tại Jerusalem. Chiến sự trên Cao nguyên Golan Tin tức sai lệch rằng quân Ai Cập chiến thắng, đánh tan nát quân Israel và dự đoán là pháo binh Ai Cập chẳng mấy chốc sẽ nã vào Tel-Aviv đã kích thích Syria tham chiến. Lãnh đạo Syria tuy vậy hành động thận trọng hơn, cho bắt đầu bằng cách pháo kích miền bắc Israel. Khi không lực Israel hoàn tất đánh phá Ai Cập, và chuyển hướng tấn công không quân Syria, Syria hiểu rằng thông tin mà họ nhận được từ phía Ai Cập không phải là tin thật. Tối ngày 5 tháng 6, các cuộc không kích của Israel đã phá hủy hai phần ba không quân Syria, và buộc số còn lại phải di tản về các sân bay ở xa, nên không đóng vai trò gì trong các trận chiến sắp tới. Một lực lượng nhỏ quân Syria định chiếm nhà máy nước Tel Dan, nhưng vài xe tăng Syria bị chìm trên sông Jordan. Từ nay, bộ chỉ huy Syria phải từ bỏ hy vọng tấn công trên bộ, thay vào đó bắn phá dữ dội các thị trấn trong thung lũng Hula của Israel. Quân Syria có 75.000 người, chia làm 9 lữ đoàn, hỗ trợ bởi xe tăng và pháo binh. Chủ lực phía Syria gồm 2 lữ đoàn thiết giáp 14 và 44 trong thế trận phòng ngự, với đa số xe tăng được giấu ở trong công sự, chỉ chừa phần tháp pháo bên trên mặt đất. Lực lượng xung kích của Israel bao gồm 2 lữ đoàn (một lữ đoàn bọc thép của tướng Albert Mandler và lữ đoàn Golan) ở phần phía bắc mặt trận, 2 lữ đoàn (một bộ binh và một của tướng Peled được gọi đến từ Jenin) ở trung tâm. Đến ngày 9/6, Israel đã điều động 3 lữ đoàn thiết giáp từ các mặt trận khác về phía biên giới với Syria. Địa hình đặc biệt của Cao nguyên Golan (sườn dốc, và cứ vài km lại bị chia cắt bởi các dòng suối song song nhau từ đông sang tây), không có đường sá, buộc hai bên bố trí lực lượng và di chuyển theo trục đông tây, giới hạn khả năng hỗ trợ tác chiến giữa các đơn vị với nhau. Quân Syria như vậy có thể di chuyển theo hướng bắc nam trên đỉnh cao nguyên, còn quân Israel có thể di chuyển theo hướng bắc - nam ở chân cao nguyên. Các sườn dốc đứng của cao nguyên Golan tạo thành một bức tường phòng thủ tự nhiên, và được Syria gia cố bằng mìn và các ụ súng chống tăng. Tuy nhiên quân Israel có lợi thế quan trọng là họ có được tin tức tình báo từ điệp viên của Mossad là Eli Cohen (về sau ông bị bắt và bị xử bắn tại Syria năm 1965) về bố trí lực lượng của Syria. Lực lượng quân đội Israel, vốn đã tấn công pháo binh Syria trong bốn ngày trước khi cuộc tấn công nổ ra, được lệnh tấn công tổng lực vào tất cả các vị trí của Syria. Trong khi các vị trí pháo binh được che chắn cẩn thận của Syria hầu như không bị thiệt hại, thì lực lượng bộ binh tại bình nguyên (6 trên tổng số 9 lữ đoàn) dần dần không thể tổ chức kháng cự được. Tối ngày 9 tháng 6, bốn lữ đoàn của Israel chọc thủng hàng phòng ngự tiến vào bình nguyên, nơi họ có thể được các đơn vị khác tiếp viện và thay thế. Đây chiến dịch khó khăn nhất đối với Israel trong suốt cuộc chiến tranh sáu ngày. Lực lượng tăng thiết giáp của Quân đội Syria tỏ ra có chiến thuật tốt hơn nhiều so với quân Ai Cập, họ chỉ mất tổng cộng 73 chiếc xe tăng bao gồm T-34-85, T-54 và Panzer IV (bao gồm 33 xe bị phá hủy và 40 xe bị thu giữ), trong khi đó phía Israel bị mất tới 160 chiếc xe tăng các loại. Tuy nhiên, chiến thắng của lực lượng xe tăng của Syria vẫn không thể đảo ngược được tình thế. Ngày hôm sau, cụm trung tâm và phía bắc hợp binh trong một cuộc điều binh tạo thành gọng kìm bao vây, nhưng họ chủ yếu chỉ chiếm được những vùng đất trống rỗng, vì quân Syria đã rút đi. Một số đơn vị kết hợp với quân của tướng Elad Peled trèo lên Golan từ phía nam, nhưng thấy các vị trí cũng hầu hết bị bỏ hoang. Cùng ngày, các đơn vị Israel dừng lại sau khi đã chiếm được vùng đất dụng võ nằm giữa vị trí của họ và dãy núi lửa ở phía tây. Phía đông, địa hình bằng phẳng, sườn dốc thoai thoải xuống, tuyến này sau lệnh ngưng bắn trở thành "tuyến tím". Tạp chí Time cho biết: "Để gây sức ép buộc Liên Hợp Quốc áp đặt lệnh ngừng bắn, Đài phát thanh Damascus tự làm hại quân mình bằng cách loan báo thành phố Quneitra thất thủ 3 tiếng trước khi sự việc thực sự xảy ra. Thông báo hấp tấp này làm tiêu tan tinh thần binh lính Syria vẫn còn chiến đấu trên mặt trận Golan." Ngày 10/6, Syria, thông qua Liên Hợp Quốc, chấp nhận một thỏa thuận ngừng bắn với Israel. Kết cục và tình hình sau chiến tranh Tới ngày 10 tháng 6, Israel kết thúc chiến dịch trên Cao nguyên Golan, ngày hôm sau, lệnh ngưng bắn được ký kết. Israel chiếm được Dải Gaza, bán đảo Sinai, vùng Bờ Tây sông Jordan (bao gồm cả Đông Jerusalem), và cao nguyên Golan. Tổng thể, lãnh thổ Israel rộng ra gấp ba, bao gồm cả một triệu người A Rập nay bị đặt dưới quyền kiểm soát của Israel trong các lãnh thổ mới chiếm được. Chiều sâu chiến lược của Israel kéo dài ra ít nhất 300 km về phía nam, 20 km lãnh thổ đồi núi hết sức hiểm trở ở phía bắc, một lá bài an ninh hết sức quan trọng trong cuộc chiến tranh Ả Rập-Israel 1973 sáu năm sau. Kết quả Tổn thất của Israel thấp hơn nhiều so với ước đoán của họ trước khi chiến tranh nổ ra. Theo phía Israel: họ tử trận khoảng 800 binh sĩ, trong đó 338 người ở mặt trận Ai Cập, 550 tại mặt trận Jordan, 141 người tại mặt trận Syria; 2.563 binh sĩ bị thương, 46 máy bay bị phá hủy. Tổn thất 800 binh sĩ là một giá đắt mà quân đội Israel phải trả, khi tính đến quy mô tương đối nhỏ của nhà nước Israel. Tuy nhiên, trước chiến tranh, Israel dự tính họ phải hy sinh nhiều hơn nhiều. Tướng Moshe Dayan ước tính các lực lượng vũ trang Israel sẽ phải chịu chừng 30 ngàn thương vong chỉ trên mặt trận Cao nguyên Golan nói riêng. Tổn thất của phía A rập cao hơn nhiều, khoảng 18 ngàn quân chết hoặc bị bắt, và 30 ngàn bị thương, trong số đó Ai Cập bị tổn thất lớn nhất: khoảng 10 ngàn quân và khoảng 1500 sĩ quan Ai Cập tử trận (rất nhiều trong số đó chết vì đói khát trong sa mạc do rút chạy vô tổ chức), và 20 ngàn quân Ai Cập bị thương. Khoảng 6 ngàn quân Ai Cập bị mất tích, đào ngũ hoặc bị bắt. Jordan mất 700 binh sĩ cùng khoảng 2.500 người bị thương. Syria mất khoảng 2.500 quân và 5.000 quân bị thương. Iraq mất 10 binh sĩ và 30 bị thương. Tổng cộng, có khoảng 6 ngàn quân A Rập bị bắt làm tù binh và 400 máy bay bị phá hủy. Ngay lập tức, các nước thuộc phe XHCN phản ứng cực kì dữ dội và (ngoài trừ Romania và Cuba) đã cắt đứt quan hệ ngoại giao với Israel. Thủ tướng Liên Xô mô tả cuộc xâm lăng các nước A rập của người Do Thái ở Trung Đông giống như cuộc xâm lược châu Âu của Hitler. Ở Ba Lan năm 1967-1968 xảy ra một cuộc thanh lọc chính trị và xã hội, cho rằng người Do Thái là thế lực chống cộng, tay chân của đế quốc Mỹ. 25 ngàn trong tổng số 30 ngàn người Do Thái bị trục xuất khỏi Ba Lan. Khi lãnh đạo các nước Ả Rập đổ lỗi thất bại là tại chất lượng vũ khí Liên Xô kém, Chủ tịch Xô Viết Tối cao (Quốc hội Liên Xô) N. Podgornyi đã nói thẳng: "Vấn đề không phải là máy bay và xe tăng của chúng tôi chất lượng thấp, mà là ở chỗ người A rập không đủ trình độ để sử dụng những loại vũ khí đó". Còn Đại sứ Liên Xô tại Beirut, Asimov, nói với Tổng thống Sirya Kh. Assad: "Chúng tôi đã cung cấp cho các ngài một số lượng khổng lồ các loại vũ khí mà các đồng chí Việt Nam của chúng tôi có nằm mơ cũng không thấy. Tuy nhiên, Quân đội Việt Nam, được trang bị những loại vũ khí lạc hậu hơn nhiều so với các ngài đang chiến đấu và chiến thắng một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới (Mỹ)" Ngày 11/6/1967 (tức ngay sau khi chiến tranh kết thúc), Chính phủ Liên Xô tuyên bố viện trợ không hoàn lại để bù đắp tất cả những tổn thất của Ai Cập trên bán đảo Sinai. Đến giữa năm 1968, số lượng máy bay của Không quân Ai Cập đã đạt mức trước chiến tranh và đến năm 1969 thì số lượng xe tăng của Quân đội Ai Cập đã vượt mức trước chiến tranh. Cả Ai Cập và Syria đều nung nấu ý định phát động chiến tranh để giành lại các lãnh thổ bị mất trong cuộc chiến sáu ngày. 6 năm sau, 2 nước này đã liên minh tấn công Israel trong Chiến tranh Yom Kippur năm 1973. Chú thích Tham khảo Aloni, Shlomo (2001). Arab-Israeli Air Wars 1947-1982. Osprey Aviation. ISBN 1-84176-294-6 Bar-On, Mordechai, Morris, Benny and Golani, Motti (2002). Reassessing Israel's Road to Sinai/Suez, 1956: A "Trialogue". In Gary A. Olson (Ed.). Traditions and Transitions in Israel Studies: Books on Israel, Volume VI (pp. 3–42). SUNY Press. ISBN 0-7914-5585-8 Bar-On, Mordechai, Never-Ending Conflict: Israeli Military History, ISBN 0275981584 Barzilai, Gad (1996). Wars, Internal Conflicts, and Political Order: A Jewish Democracy in the Middle East. New York University Press. ISBN 0-7914-2943 Bard, Mitchell G. (2002). The Complete Idiot's Guide to Middle East Conflict. Alpha books. ISBN 0028644107 Black, Ian (1992). Israel's Secret Wars: A History of Israel's Intelligence Services. Grove Press. ISBN 0-8021-3286-3 Boczek, Boleslaw Adam (2005). International Law: A Dictionary. Scarecrow Press. ISBN 0810850788 Bowen, Jeremy (2003). Six Days: How the 1967 War Shaped the Middle East. Luân Đôn: Simon & Schuster. ISBN 0-7432-3095-7 Bregman, Ahron (2002). Israel's Wars: A History Since 1947. Luân Đôn: Routledge. ISBN 0-415-28716-2 Christie, Hazel (1999). Law of the Sea. Manchester: Manchester University Press. ISBN 0-7190-4382-4 Cristol, A Jay (2002). Liberty Incident: The 1967 Israeli Attack on the U.S. Navy Spy Ship. Brassey's. ISBN 1-57488-536-7 Eban, Abba (1977). Abba Eban: An Autobiography. Random House. ISBN 0-394-49302-8 Ehteshami, Anoushiravan and Hinnebusch, Raymond A. (1997). Syria & Iran: Middle Powers in a Penetrated Regional System. Luân Đôn: Routledge. ISBN 0-415-15675-0 Gat, Moshe (2003). Britain and the Conflict in the Middle East, 1964-1967: The Coming of the Six-Day War. Praeger/Greenwood. ISBN 0-275-97514-2 Gelpi, Christopher (2002). Power of Legitimacy: Assessing the Role of Norms in Crisis Bargaining. Princeton University Press. ISBN 0-691-09248-6 Hammel, Eric (1992). Six Days in June: How Israel Won the 1967 Arab-Israeli War. Simon & Schuster. ISBN 0-7434-7535-6 Herzog, Chaim (1982). The Arab-Israeli Wars; Arms & Armour Press. Hussein of Jordan (1969). My "War" with Israel. Luân Đôn: Peter Owen. ISBN 0-7206-0310-2 Hopwood, Derek (1991). Egypt: Politics and Society. Luân Đôn: Routledge. ISBN 0-415-09432-1 Katz, Samuel M. (1991) Israel's Air Force; The Power Series. Motorbooks International Publishers & Wholesalers, Osceola, WI. Koboril, Iwao and Glantz, Michael H. (1998). Central Eurasian Water Crisis. United Nations University Press. ISBN 92-808-0925-3 Makiya, Kanan (1998). Republic of Fear: The Politics of Modern Iraq. University of California Press. ISBN 0-520-21439-0 Morris, Benny (1997). Israel's Border Wars, 1949-1956. Oxford: Oxford University Press. ISBN 0-19-829262-7 Morris, Benny (2001) Righteous Victims New York, Vintage Books. ISBN 978-0-679-74475-7 Mutawi, Samir (2002). Jordan in the 1967 War. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 0-521-52858-5 Oren, Michael (2002). Six Days of War. Oxford University Press. ISBN 0-19-515174-7 Phythian, Mark (2001). The Politics of British Arms Sales Since 1964. Manchester: Manchester University Press. ISBN 0-7190-5907-0 Pollack, Kenneth (2004). Arabs at War: Military Effectiveness, 1948-1991. University of Nebraska Press. ISBN 0-8032-8783-6 Pollack, Kenneth (2005). Air Power in the Six-Day War. The Journal of Strategic Studies. 28(3), 471-503. Prior, Michael (1999). Zionism and the State of Israel: A Moral Inquiry. Luân Đôn: Routledge. ISBN 0-415-20462-3 Quigley, John B. (2005). Case for Palestine: An International Law Perspective. Duke University Press. ISBN 0-8223-3539-5 Quigley, John B. (1990). Palestine and Israel: A Challenge to Justice. Duke University Press. ISBN 0-8223-1023-6 Rabil, Robert G. (2003). Embattled Neighbors: Syria, Israel, and Lebanon. Lynne Rienner Publishers. ISBN 1-58826-149-2 Rezun, Miron (1990). Iran and Afghanistan. In A. Kapur (Ed.). Diplomatic Ideas and Practices of Asian States (pp. 9–25). Brill Academic Publishers. ISBN 90-04-09289-7 Rikhye, Indar Jit (1980). The Sinai Blunder. Luân Đôn: Routledge. ISBN 0-7146-3136-1 Rubenberg, Cheryl A. (1989). Israel and the American National Interest. University of Illinois Press. ISBN 0-252-06074-1 Seale, Patrick (1988). Asad: The Struggle for Peace in the Middle East. University of California Press. ISBN 0-520-06976-5 Sela, Avraham (1997). The Decline of the Arab-Israeli Conflict: Middle East Politics and the Quest for Regional Order. SUNY Press. ISBN 0-7914-3537-7 Smith, Grant (2006). Deadly Dogma. Institute for Research: Middle Eastern Policy. ISBN 0-9764437-4-0 Stephens, Robert H. (1971). Nasser: A Political Biography. Luân Đôn: Allen Lane/The Penguin Press. ISBN 0-7139-0181-0 Stone, David (2004). Wars of the Cold War. Brassey's. ISBN 1-85753-342-9 van Creveld, Martin (2004). Defending Israel: A Controversial Plan Toward Peace. Thomas Dunne Books. ISBN 0-312-32866-4 Xung đột Ả Rập-Israel Chiến tranh liên quan tới Israel Chiến tranh liên quan tới Ai Cập Xung đột trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh Xung đột năm 1967 Chiến tranh liên quan tới Jordan Jordan năm 1967 Chiến tranh liên quan tới Syria Sự kiện sáu ngày Xâm lược Ai Cập Syria năm 1967 Ai Cập năm 1967 Israel năm 1967 Xâm lược của Israel
VI_open-0000000086
Sensitive_Subjects
Đoàn Thượng (chữ Hán: 段尚, 1181-1228) là vị tướng cuối thời nhà Lý đời vua Lý Cao Tông và Lý Huệ Tông. Ông là hào trưởng vùng Hồng và là chủ soái của sứ quân họ Đoàn ở lộ Hồng Châu, là một trung thần của nhà Lý, và không thần phục sự chuyển giao từ Nhà Lý sang nhà Trần do Trần Thủ Độ sắp đặt trong lịch sử Việt Nam. Ông cùng với tướng quân Nguyễn Phục được nhiều di tích sắc phong là Đông Hải Đại vương. Gia thế Theo ngọc phả ở Hải Dương, Đoàn Thượng sinh năm Tân Sửu (1181), là con của Đoàn Trung và bà Hoàng Thị Mỹ. Sử sách thống nhất ghi ông người làng Thung Độ (nay thuộc xã Đoàn Thượng), huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Tổ 5 đời của Đoàn Thượng là Đoàn Văn Khâm, Công bộ Thượng thư đời Lý Nhân Tông. Khi Nhà Lý suy vi Đoàn Thượng trở thành hào trưởng vùng Hồng. Theo Đại Việt Sử ký toàn thư, ông có cùng một vú nuôi với vua Lý Huệ Tông. Ông lớn lên lúc nhà Lý đã suy vi. Vua Lý Cao Tông chơi bời vô độ, tăng cường bóc lột dân chúng, vì thế nhân dân oán thán, nhiều nơi nổi dậy chống lại. Nhân lúc lòng dân chán nhà Lý, Đoàn Thượng cũng nổi dậy tại quê nhà vùng Hồng. Vùng Hồng, theo sách Đại Nam Nhất thống chí nói về phủ Bình Giang và Ninh Giang: "Xưa gọi là Hồng châu, cuối đời Trần chia làm châu Thượng Hồng và châu Hạ Hồng...". Vùng Hồng gồm các huyện Cẩm Giàng, Bình Giang, Thanh Miện, Gia Lộc, Ninh Giang và Tứ Kỳ ở phía nam tỉnh Hải Dương ngày nay. Sử sách chép không thống nhất về thời gian Đoàn Thượng nổi lên. Đại Việt sử lược khuyết danh tác giả viết vào thế kỷ 14 cho rằng ông nổi dậy vào năm 1207 là đúng, trong khi Đại Việt Sử ký Toàn thư cho rằng ông nổi dậy vào năm 1212 là không chính xác. Nội dung dưới đây lấy theo Đại Việt sử lược. Tháng 3 năm 1207, Đoàn Thượng và Đoàn Chủ nổi dậy bất tuân triều đình. Ông xây đắp thành, đắp lũy. Lý Cao Tông sai đem đại binh đi đánh. Đàm Dĩ Mông đem quân đạo Đại Thông (miền Hà Đông cũ dọc sông Đáy), Phạm Bỉnh Di đem quân đạo Khả Liễu, Trần Hinh đem quân đạo Phù Đái (Vĩnh Bảo, Hải Phòng), Bảo Trinh hầu đem quân đạo Nam Sách (Nam Sách, Hải Dương), cùng họp nhau đánh Đoàn Thượng. Thấy thế lực quân triều đình quá mạnh, Đoàn Thượng liền ngầm sai người đem của cải đút lót cho Thượng phẩm phụng ngự Phạm Du, nguyện xin đem quân chúng theo Du. Cuộc liên minh giữa Đoàn Thượng và Phạm Du bắt đầu từ đó. Phạm Du cố vì Thượng mà xin với Cao Tông tha cho ông. Tháng 10 năm 1208, Cao Tông sai Phạm Du coi việc quân ở châu Nghệ An. Du làm trái lệnh chống triều đình. Cao Tông liền sai Phạm Bỉnh Di lấy quân ở Đằng Châu (nay là thành phố Hưng Yên) để đánh Phạm Du. Du trở về Cổ Miệt (Hồng Châu) cùng với Đoàn Thượng, Đoàn Chủ ở hợp binh làm phản triều đình, đánh Đằng Châu. Bỉnh Di bị thua. Tháng 2 năm 1209, Bỉnh Di lại đem binh ở Đằng Châu, Khoái Châu đi đánh Du. Phạm Du thua trận bỏ trốn. Bỉnh Di tịch biên gia sản của Du rồi đốt hết. Tháng 3 năm 1209, Phạm Bỉnh Di đánh Đoàn Thượng và Đoàn Chủ tại Vệ Kiều. Quân đoàn Thượng thua trận, Đoàn Chủ bị hãm ở chỗ bùn lầy và bị tướng Hà Văn Lôi đâm chết. Tháng 4 năm 1209, Phạm Bỉnh Di lại đánh tan quân Đoàn Thượng. Tuy nhiên, trong lúc Đoàn Thượng suy yếu thì sự mê muội của vua Lý Cao Tông, tin theo gian thần Phạm Du khiến nhà Lý càng suy vi. Làm tướng nhà Lý Phạm Du ngầm sai người về kinh đút lót cho các quan lại trong triều, nói rằng Bỉnh Di tàn ác, giết hại người vô tội và kể lể tình oan, xin về kinh đợi tội. Cao Tông sai Trần Hinh triệu Phạm Du về kinh, lại triệu cả Bỉnh Di về triều. Phạm Du về kinh trước hầu Cao Tông, được vua tin theo; Bỉnh Di đến kinh sau, vào triều phụng mệnh. Cao Tông sai bắt Bỉnh Di và con là Phụ. Tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc nghe tin đó, đem binh lính phá cửa Đại Thanh kéo vào nội điện để cứu chủ. Du cùng em là bọn Phạm Kinh giết Bỉnh Di và con Bỉnh Di là Phụ rồi cùng Cao Tông chạy trốn. Quách Bốc liền tôn hoàng tử nhỏ là Thầm lên làm vua. Cao Tông chạy về Tam Nông (Phú Thọ) nương nhờ nhà Hà Vạn, một thủ lĩnh miền thiểu số có thế lực. Thái tử Sảm cùng mẹ là Nguyên phi Đàm thị và hai em gái chạy về Hải Ấp, Thái Bình, được thủ lĩnh địa phương là Trần Lý và Tô Trung Từ lập làm vua, tôn xưng là Thắng Vương. Thấy con gái của Trần Lý là Trần Thị Dung có nhan sắc, Lý Sảm bèn lấy làm vợ, nhân đó Trần Lý được phong làm Minh Tự, Tô Trung Từ làm Điện tiền Chỉ huy sứ. Biết tin Thái tử Sảm lập triều đình riêng và tự ý phong tước cho Trần Lý, Tô Trung Từ,... nên vua Lý Cao Tông ở Quy Hóa muốn đánh dẹp, bèn sai Phạm Du đi để liên lạc với Đoàn Thượng. Nhưng Du lại ham sắc, tư thông với công chúa Thiên Cực, nên lỡ hẹn với Thượng. Khi thuyền của Thượng đến đón không gặp Du bèn trở về. Khi Du lên thuyền khác đi gặp họ Đoàn, tới Ma Lãng thì bị quân của hào trưởng Bắc Giang là Nguyễn Nậu và Nguyễn Nải đón bắt và giết chết. Trần Lý và Tô Trung Từ bèn mang quân đánh về kinh thành dẹp Quách Bốc. Trần Lý tử trận, Tô Trung Từ đón vua Cao Tông về cung. Cao Tông chết, Thái tử Sảm lên ngôi tức là Lý Huệ Tông. Tô Trung Từ trở thành quyền thần trong triều. Sau một loạt biến cố, năm 1211, nhiều đại thần nhà Lý và cả Trung Từ bị giết. Cháu gọi Trung Từ bằng cậu là Trần Tự Khánh ở Hải Ấp lại mang quân về kinh, an táng Trung Từ. Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi nhân đó nói với vua Huệ Tông rằng: Trần Tự Khánh đem binh về kinh sư là muốn mưu đồ việc phế lập. Huệ Tông tin theo, nổi giận, bèn hạ chiếu cho các đạo binh đánh Trần Tự Khánh và giáng Nguyên phi Trần Thị Dung xuống làm Ngự nữ. Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi đem binh về kinh sư. Huệ Tông hạ chiếu tấn phong tước hầu cho Đoàn Thượng. Đoàn Thượng đem quân đánh anh em họ Trần ở ải Hoàng Điểm. Trần Tự Khánh sai bộ tướng Lại Linh cùng tướng Khoái Châu là Nguyễn Đường ra chống cự. Nguyễn Đường bị bắt. Tự Khánh bị thua, giận dữ phá đê cho nước sông chảy tràn vào các ấp rồi về. Miền Khoái Châu mất tin tưởng ở họ Trần, theo về với họ Đoàn. Tuy nhiên, Trần Tự Khánh là một tướng tài. Sau đó Tự Khánh hai lần đánh bại quân họ Đoàn của Đoàn Ma Lôi, đóng ở Đội Sơn (Duy Tiên, Hà Nam). Họ Trần kiểm soát được cả miền Lý Nhân (Hà Nam). Trần Tự Khánh tìm cách liên kết với hào trưởng Nguyễn Tự để đối địch với Đoàn Thượng. Năm 1213, Đoàn Thượng phối hợp với quân triều đình đụng độ với Trần Tự Khánh. Tuy nhiên, lực lượng họ Trần mạnh hơn, có nhiều tướng giỏi hơn; trong khi đó quân nhà Lý do vua Huệ Tông và Thái sư Đàm Dĩ Mông không có tài làm tướng chỉ huy nên nhanh chóng bị thua trận. Cánh quân Đoàn Thượng cử đi do Đoàn Cấm và Vũ Hốt chỉ huy bị bộ tướng của Tự Khánh là Nguyễn Nộn đánh bại. Lý Huệ Tông bỏ chạy lên Lạng châu, quân họ Đoàn rút khỏi kinh đô trở về vùng Hồng. Trở về Hồng châu Năm 1214, anh em họ Đoàn tấn công đất Bắc Giang do tướng của Tự Khánh là Nguyễn Nộn đóng giữ. Hai bên đánh nhau ở núi Đông Cứu (Gia Bình, Bắc Ninh), Nguyễn Nộn giết chết được Đoàn Nguyễn. Tuy nhiên lúc đó nội bộ phe Tự Khánh xảy ra phản loạn lớn. Tướng ở Cam Giá (thị xã Sơn Tây) là Đỗ Bị lại nổi lên chống cự. Miền Cam Giá lại tách khỏi phạm vi thế lực của anh em họ Trần, hình thành một thế lực mới. Cùng lúc đó, Nguyễn Nộn ở Bắc Giang sau khi đánh được họ Đoàn cũng phản lại Tự Khánh, xây dựng một thế lực rất lớn. Do việc cát cứ của Đỗ Bị, Nguyễn Nộn, kinh thành Thăng Long bị uy hiếp. Tự Khánh phóng hỏa đốt kinh đô rồi chạy về Lý Nhân (Hà Nam). Song lực lượng họ Trần vẫn rất mạnh. Sau hàng loạt biến cố khác, thế lực của Trần Tự Khánh ngày càng mạnh hơn, buộc vua Huệ Tông phải dựa vào họ Trần. Nhiều thế lực cát cứ lần lượt bị Trần Tự Khánh đánh dẹp. Tuy nhiên, bộ tướng của Khánh là Nguyễn Nộn lại phản họ Trần mà cát cứ ở Bắc Giang. Năm 1216, Huệ Tông sách phong Ngự nữ Trần thị làm Thuận Trinh Phu nhân (順貞夫人). Đàm thái hậu cho Trần Tự Khánh là kẻ phản trắc, nên ghét Trần Thị Dung, bảo vua đuổi bỏ đi, lại nhiều lần muốn làm hại, nhưng Huệ Tông đều che chở. Trước sức ép muốn giết con dâu của Đàm Thái hậu, Huệ Tông cùng với phu nhân lẻn đi đến chỗ quân của Tự Khánh ở bãi Cửu Liên. Từ đấy, Huệ Tông lại dựa vào Trần Tự Khánh. Tự Khánh bèn phế bỏ vua mới Lý Nguyên vương, tôn Huệ Tông là vua như cũ mà chuyên tâm bình định các thế lực: Nguyễn Nộn ở Bắc Giang, Hiển Tín vương Nguyễn Bát, Đoàn Văn Lôi và Đoàn Thượng ở Hồng châu và Hà Cao ở Qui Hóa (Yên Bái, Tuyên Quang). Năm 1218, Trần Thừa đem binh thuyền tiến đánh Nguyễn Nộn ở Bắc Giang. Ông cho người mở đê, để nước lan vào các thái ấp, rồi dùng binh thủy theo lối ấy mà đánh. Nộn thua to, chạy về Phù Ninh (Bắc Ninh). Năm đó, để yên Hồng châu, Trần Tự Khánh đưa em gái là Trần Tam Nương gả cho Hồng hầu là Đoàn Văn Lôi vốn là người có uy tín với người Hồng châu. Tháng 6 năm 1217, Đoàn Thượng thấy thế lực họ Trần mạnh, tạm quy hàng triều đình, được phong tước vương và vẫn giữ vùng Hồng châu. Sau khi Trần Tự Khánh chết (1223), em họ là Trần Thủ Độ lên thay, tiếp tục thao túng nhà Lý. Thủ Độ sắp đặt đưa cháu là Trần Cảnh (con Trần Thừa) lên thay ngôi nhà Lý, lập ra nhà Trần. Trần Thủ Độ mang quân đánh Đoàn Thượng nhưng không thắng, đành phải hứa hẹn phong tước cho ông. Thủ Độ định ngày hội họp, làm lễ minh thệ, nhưng Đoàn Thượng không đến họp. Năm 1228, Trần Thủ Độ ngầm giao ước cùng Nguyễn Nộn mưu hẹn gặp 3 bên ở xứ Đồng Đao để làm lễ minh thệ. Đoàn Thượng sơ suất cả tin, vô tình y hẹn, đã một mình một ngựa đến xứ Đồng Đao mắc phải mưu của Thủ Độ và Nguyền Nộn đã bố trận phục sẵn, bị quân của Nguyễn Nộn giết chết. Con ông là Đoàn Văn đem gia thuộc đến hàng Nguyễn Nộn. Tuy nhiên tháng 3 năm sau, Nộn cũng ốm chết. Cả nước thống nhất về tay nhà Trần. Lăng mộ/Thờ phụng Theo Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên thì Đoàn Thượng là một trung thần của nhà Lý, Anh liệt Chinh khí quân. Sau khi ông mất, được nhiều đời vua Nhà Trần, Nhà Lê, Nhà Nguyễn sắc phong là Đông Hải Đại vương Đoàn Thượng Thượng đẳng thần (xem Thảo luận: Đoàn Thượng). • Trong dân gian gọi Ông là Đức Thánh Đông Hải Đại vương Đoàn Thượng, có đền thờ ở rất nhiều nơi. Đền thờ chính ở thôn Thung Độ, xã Đoàn Thượng, Gia Lộc, tỉnh Hải Dương (là quê của ông) và ở làng Yên Phú, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên (nơi ông hóa (chết). • Tại thôn Bần - Yên Nhân nay là phường Bần Yên Nhân, thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên (là nơi ông hóa) có lập đền thờ ông. Ngài thường hay linh ứng trợ giúp dân chúng, dân chúng rất ghi ơn Ngài. • Đương thời, Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm trong một lần đến thăm và yết lễ tại đây đã cảm tác đề tặng một câu đối, sau được chạm khắc ở đền thờ Ngài. Câu đối này được viết bằng chữ Hán như sau: Thanh Miếu tuế thời hương, lăng cốc bất khai canh hoàn cục Hồng Châu kim cổ lộ, cương thường sức kởi vãng lai nhân. Bản dịch của Đoàn Trọng Hân như sau: Chí thời Thanh Miếu ngát hương, Thủy Nhật Nguyệt chiếu minh Gương Trung Nghĩa Kim cổ Hồng Châu qua lại, Khách Vãng Lai trông rõ Cột Cương Thường. • Hàng năm vào ngày 11 tháng 4 âm lịch tại đền thờ Ngài có mở hội, tế lễ. Dân chúng thôn Bần - Yên Nhân, dân làng Yên Phú và khách thập phương xa gần nô nức đi xem hội và yết lễ. • Trong dân gian còn có tín ngưỡng thờ đức thánh Ông Hoàng Cả tức Đông Hải Đại vương Đoàn Thượng trong Tứ phủ Quan Hoàng (gồm có mười vị Quan Hoàng, mà huyền tích về sự xuất hiện của họ thường có liên hệ mật thiết với các nhân vật lịch sử, danh tướng có công đánh dẹp giặc hay những người khai sáng, mở mang cho đất nước, địa phương nơi họ hiển linh). Giai thoại Ngày nay, tại vùng Bần Yên Nhân còn lưu truyền một truyền thuyết về Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng như sau : Sau khi bị đội quân của Trần Thủ Độ phục kích và bị chém gần đứt đầu nhưng Đoàn Thượng không chết mà vẫn giục ngựa chạy về mạn Hồng Châu (ngày nay là Hưng Yên ) thì gặp một bà bán nước ngồi dưới gốc đa. Đoàn Thượng ngạc nhiên vì cả vùng này vắng hoe, không có mấy người qua lại nhưng lại có bà hàng nước ở đây. Ông thấy lạ xuống ngựa hỏi thì bà ta nói là đợi ông ở đây đã lâu. Đoàn Thượng ngạc nhiên. Rồi bà bán nước sai con mổ gà làm cơm thết đãi ông nhưng đứa con còn nhỏ nên cắt cổ gà không đứt mà còn tuột tay để con gà chạy ra chỗ Đoàn Thượng. Ông cầm con gà nên thấy nó cùng cảnh ngộ với mình thì hỏi bà bán nước rằng gà đứt cổ mà vẫn sống thì liệu người đứt cổ còn sống không. Người đàn bà nhìn ông buồn bã lắc đầu, tức thì ông ngã vật ra chết. Người dân thương ông trung nghĩa với nhà Lý nên chôn cất tử tế lại lập miếu thờ, quanh năm hương khói nên ông rất linh thiêng thường hiển linh giúp nhân dân trong vùng. Ngày 11 tháng 4 âm lịch hàng năm trong vùng làm lễ hội to để tưởng nhớ ông. Tuy nhiên, cũng có một giai thoại khác nói rằng vì biết tài của Đoàn Thượng nên sau khi diệt nhà Lý thì Trần Thủ Độ sai sứ giả chiêu hàng Thượng, nếu quy hàng thì sẽ được gả công chúa phong hầu nhưng ông không nghe và viết chiến thư cho Trần Thủ Độ. Vốn có sức khỏe lại thạo nghề cung kiếm nên ông một mình một ngựa cầm đao xông vào bên quân của Trần Thủ Độ khiến cho ba quân khiếp vía. Trần Thủ Độ biết nếu đơn đấu sẽ rất khó hạ được Thượng nên đã cùng Nguyễn Nộn hợp sức đánh cho Thượng bị thua. Nguyễn Nộn chém đứt đầu ông rơi ở Hồng Châu ( tức Bần Yên Nhân ngày nay ) nhưng thân mình ông không ngã mà chạy về tận Mao Điền ( Cẩm Giàng, Hải Dương ngày nay ) mới ngã. Vì vậy trong nhân gian mới có câu " đầu Bần thân Mao ". Lịch sử vinh danh Tên ông được đặt tên cho một xã thuộc huyện Gia Lộc và một đường phố ở thành phố Hải Dương - quê hương ông. Tên ông cũng được đặt cho Trường THPT Đoàn Thượng - huyện Gia Lộc, các Trường THCS Đoàn Thượng và Trường Tiểu học Đoàn Thượng ở xã Đoàn Thượng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương Trong văn hóa Tướng quân Đoàn Thượng do diễn viên Tạ Minh Thảo thể hiện trong phim Thái sư Trần Thủ Độ Chú thích Tham khảo Đại Việt sử lược Đại Việt Sử ký Toàn thư Xem thêm Nhà Lý Sự suy vong của nhà Lý Lý Cao Tông Lý Huệ Tông Trần Tự Khánh Nguyễn Nộn Người Hải Dương Võ tướng nhà Lý Sinh năm 1181 Vương tước nhà Lý
VI_open-0000000088
News
Pi cổng là nhạc cụ hơi của nhiều dân tộc ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Pi cổng là tên gọi theo tiếng Thái. Nó là nhạc cụ thô sơ như pi nướng, nhưng có hai ống rạ tươi nối với nhau và đầu có mấu kín, sát mấu là lưỡi gà hình chữ nhật. Cách lưỡi gà khoảng 3,4 cm là một lỗ bấm. Gần cuối lỗ bấm thứ hai có thêm một lỗ bấm nằm phía sau mặt ống. Cuối ống thứ hai là một đoạn ống được cắt ra nhưng còn dính lại đôi chút với thân ống. Đoạn ống này có nhiệm vụ tạo ra âm thanh trầm hơn khi người ta chống đầu ống xuống mặt đất, đoạn ống này sẽ nối lại với thân ống, làm thân ống dài hơn. Khi người ta cầm thân ống song song hay hơi chúi xuống mặt đất thì đoạn ống cắt sẽ rời ra giúp ống phát ra âm cao hơn. Nhìn chung pi cổng được sử dụng như pi phướng và là nhạc cụ dành riêng cho nữ giới thổi trong mùa gặt. Nó không có bài bản riêng mà chơi lại giai điệu của những bài nhạc nào phù hợp với nó. Tham khảo Tây Bắc Bộ Nhạc cụ dân tộc Việt Nam
VI_open-0000000090
Arts_and_Entertainment
Rolbing là một xã trong vùng Grand Est, thuộc tỉnh Moselle, quận Sarreguemines, tổng Volmunster. Tọa độ địa lý của xã là 49° 10' vĩ độ bắc, 07° 26' kinh độ đông. Rolbing nằm trên độ cao trung bình là 300 mét trên mực nước biển, có điểm thấp nhất là 247 mét và điểm cao nhất là 348 mét. Xã có diện tích 5,97 km², dân số vào thời điểm 1999 là 250 người; mật độ dân số là 41 người/km². Thông tin nhân khẩu Tham khảo Xã của Moselle
VI_open-0000000091
Jobs_and_Education
Bữa ăn tối cuối cùng (tiếng Ý: Il Cenacolo hay L'Ultima Cena) là bức bích họa nổi tiếng của danh họa Leonardo da Vinci. Tác phẩm được sáng tác vào khoảng năm 1495 đến 1498. Bức bích họa nằm tại phòng tiệc của Tu viện Santa Maria ở thành phố Milano. Tiếng Việt gọi đề tài Thánh Kinh này là Bữa tiệc ly. Nội dung Theo các sách phúc âm, bữa ăn tối cuối cùng là bữa ăn sau cùng Chúa Giêsu chia sẻ với các môn đồ trước khi Ngài chịu chết. Bức tranh của Vinci mô tả lại một đoạn trong sách Kinh Thánh rằng: Giuđa — một trong số các môn đệ của Chúa Giêsu — nộp Thầy của mình cho các lực lượng đối lập với Chúa Giêsu lúc bấy giờ, là giới lãnh đạo tôn giáo và nhà cầm quyền La Mã để đổi lấy 30 đồng bạc. Ở bữa ăn tối cuối cùng, Chúa Giêsu (ở chính giữa bức tranh), đang nói với các môn đồ: "Trong các con có kẻ muốn nộp Ta". Đoạn này được mô tả trong cả 4 sách Tin mừng ; Tin mừng Mat-thêu 26, 20-25: "Chiều đến, Chúa Giêsu ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói: "Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy". Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người: "Thưa Thầy, có phải con không?" Người trả lời rằng: "Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy. Thực ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ sẽ nộp Con Người! Thà người đó đừng sinh ra thì hơn!" Giuđa, kẻ phản bội, cũng thưa Người rằng: "Thưa Thầy, có phải con chăng?" Chúa đáp: "Đúng như con nói"." Tin mừng Mac-cô 14,17-21: "Chiều đến, Chúa Giêsu cùng Mười Hai môn đệ tới. Và khi mọi người đang ngồi ăn, thì Chúa Giêsu nói: "Ta bảo thật các con, một trong các con đang ăn cùng Ta, sẽ nộp Ta". Các ông đều buồn rầu và lần lượt từng người thưa Ngài: "Thưa Thầy, có phải con không?" Người đáp: "Là một trong mười hai, kẻ cùng chấm một đĩa với Thầy. Con Người phải ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà nó đừng sinh ra thì hơn"." Tin mừng Luca 22,21-23: "Vả lại này tay kẻ nộp Ta đang ở gần Ta, ngay trên bàn này. Đành rằng Con Người sẽ ra đi như đã được ấn định, nhưng vô phúc cho kẻ nộp Người!" Bấy giờ các Tông Đồ bắt đầu hỏi nhau xem ai trong nhóm họ là kẻ làm điều đó." Tin mừng Gio-an 13,21-30 :21Chúa Giêsu nói thế rồi, tâm hồn Ngài xao xuyến và nói: "Amen, amen, Thầy cho các con biết: một người trong các con sẽ nộp Thầy". 22Các môn đệ nhìn nhau, phân vân không biết là Ngài đang nói về ai. 23Đang ở bàn ăn, trong số các môn đệ có một người được Chúa Giêsu yên mến, đang tựa vào lòng Chúa Giêsu, 24Simon Phêrô ra dấu cho môn đệ ấy để hỏi xem: "Ai đó, Thầy nói về ai vậy?". 25Môn đệ ấy nghiêng đầu vào ngực Chúa Giêsu và nói với Ngài: "Thưa Thầy, ai vậy?". 26Chúa Giêsu trả lời: "Đó là kẻ Thầy sẽ trao miếng bánh đã chấm trong đĩa này". Ngài chấm miếng bánh và trao cho Giuđa, con của Simon Iscariốt. 27Và khi nhận miếng bánh ấy, Satan nhập vào người ông. Chúa Giêsu nói với ông: "Con muốn làm gì thì làm mau đi". 28Những người đồng bàn không hiểu tại sao Ngài lại nói với ông ta như vậy; 29vì Giuđa giữ túi tiền chung nên vài người cho rằng Chúa Giêsu muốn bảo ông: "Hãy mua những gì chúng ta cần trong dịp lễ", hoặc bố thí cho người nghèo. 30Vậy sau khi nhận miếng bánh, Giuđa liền ra đi; và bấy giờ trời đã tối.'' Đối chiếu với sách diễn từ trong các sách Tin mừng, thì có vẻ diễn tả tin mừng Gio-an là phù hợp nhất với bối cảnh trong sách. Xem thêm Tiệc ly Tham khảo Liên kết ngoài Tranh vẽ Ý Tranh vẽ thời Phục Hưng Leonardo da Vinci
VI_open-0000000092
Arts_and_Entertainment
Corvallis (IPA: ) là một thành phố nằm trong miền trung tây Oregon, Hoa Kỳ. Nó là quận lỵ của Quận Benton và thành phố chính "Corvallis, Khu Thống kê Đô thị của Oregon" (Metropolitan Statistical Area) mà bao gồm tất cả Quận Benton. Đến ngày 1 tháng 7 năm 2006, thành phố có một dân số ước tính là 53.900. Địa lý Corvallis nằm ở cao độ 235 bộ. Nằm nửa đường trong Thung lũng Willamette, Corvallis cách khoảng 85 dặm Anh về phía nam Portland, 30 dặm Anh phia Nam thủ đô tiểu bang là Salem, 10 dặm phía tây Albany và Xa lộ liên tiểu bang 5, và 44 dặm phía bắc Eugene / Springfield. Du lịch bằng xe mất 1 giờ rưỡi để tới Portland, và 45 phút từ Eugene/Springfield sử dụng Xa lộ liên tiểu bang 5. Xa lộ Oregon 99W, một con lộ bắc nam thứ hai, cũng đi qua Corvallis. Theo Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ, thành phố có một tổng diện tích là 35,7 km² (13,8 mi²). 35,2 km² (13,6 mi²) là đất và 0,4 km² (0,2 mi²) là nước. Tổng diện tích mặt nước là 1,23%. Thành phố kết nghĩa Corvallis có hai thành phố kết nghĩa, như được ấn định bởi Hội thành phố kết nghĩa quốc tế: Gondar, Ethiopia Uzhhorod, Ukraina Tham khảo Liên kết ngoài City of Corvallis Corvallis Convention & Visitors Bureau Corvallis School District 509J Website Corvallis School Directory Corvallis Apartment Rental Information Thành phố của Oregon Quận lỵ Oregon
VI_open-0000000093
Jobs_and_Education
Indoxyl là một hợp chất hữu cơ của nitơ với công thức tổng quát C8H7NO. Indoxyl là đồng phân với oxindol và thu được như là một chất lỏng dạng dầu ở điều kiện phòng. Danh pháp IUPAC: 1H-indol-3-ol. Số CAS: 480-93-3. Phân tử gam: 133,14728 g/mol. Indoxyl được sản xuất từ indican, một glicozit. Sự thủy phân của indican sinh ra β-D-glucoza và indoxyl. Thuốc nhuộm màu chàm (Indigotin) là sản phẩm của phản ứng giữa indoxyl với các chất oxy hóa vừa phải, chẳng hạn oxy trong không khí. Tham khảo Indol
VI_open-0000000094
Science
Phú Tân là một huyện thuộc tỉnh An Giang, Việt Nam. Địa lý Huyện Phú Tân nằm ở phía đông của tỉnh An Giang, có vị trí địa lý: Phía đông giáp huyện Thanh Bình và huyện Hồng Ngự thuộc tỉnh Đồng Tháp Phía tây giáp thành phố Châu Đốc và huyện Châu Phú Phía nam giáp huyện Chợ Mới Phía bắc giáp thị xã Tân Châu. Bốn phía Phú Tân được bao bọc bởi các con sông. Sông Tiền ở phía Đông, Sông Hậu ở phía Tây, kênh Vĩnh An (nối sông Tiền với sông Hậu) ở phía Bắc và Tây Bắc, nhánh sông Vàm Nao (nối sông Tiền với sông Hậu) ở phía Nam và Tây Nam. Địa hình, thổ nhưỡng Phú Tân nằm trên cù lao Kết khá bằng phẳng có độ cao từ 1 đến 2 mét giống hình con Quy giữa hai con sông lớn, đó là sông Tiền và sông Hậu, là một trong 04 huyện cù lao của tỉnh An Giang thuộc vùng đồng bằng phù sa màu mỡ, với hệ thống sông ngòi chằng chịt. Đất đai ở Phú Tân chủ yếu là loại đất phù sa. Hành chính Huyện Phú Tân có 18 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Phú Mỹ (huyện lỵ), Chợ Vàm và 16 xã: Bình Thạnh Đông, Hiệp Xương, Hòa Lạc, Long Hòa, Phú An, Phú Bình, Phú Hiệp, Phú Hưng, Phú Lâm, Phú Long, Phú Thành, Phú Thạnh, Phú Thọ, Phú Xuân, Tân Hòa, Tân Trung với 74 ấp và 14 khóm. Dân số Năm 2009, Phú Tân có 221 nghìn người. Sống chủ yếu ở nông thôn, người Kinh là dân tộc chiếm đa số (98%). Ngoài ra còn có người Hoa, người Chăm. Người dân huyện Phú Tân phần đông theo tín ngưỡng đạo Phật giáo Hòa Hảo (chiếm 85% dân số) và các tôn giáo khác như: Phật giáo, Tin Lành, Thiên Chúa, Cao Đài, Hồi giáo … Lịch sử Trước năm 1956 Dưới thời Chúa Nguyễn, các thôn ấp ở địa bàn Phú Tân thuộc quyền cai quản của Tân Châu đạo thuộc dinh Long Hồ theo chế độ quân quản. Từ khi Gia Long lên ngôi (1802) cho đến năm 1831, Phú Tân thuộc địa phận huyện Vĩnh An, trấn Vĩnh Thanh. Năm 1832, vua Minh Mạng chia trấn thành các tỉnh, trong đó có tỉnh An Giang ở miền Tây Nam Kỳ. Năm 1836, vùng đất Phú Tân ngày nay thuộc địa bàn các thôn: Bình Thạnh Đông, Hoà Lạc, Mỹ Lương của tổng An Lương và các thôn: Long Sơn, Phú Lâm của tổng An Thành; thuộc huyện Đông Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang. Lỵ sở huyện Đông Xuyên đặt tại Long Sơn trên nền thành cũ của Bảo Tân Châu (nay còn địa danh Giồng Thành). Năm 1867, Thực dân Pháp chiếm tỉnh An Giang và chia thành nhiều hạt, trong đó có hạt Châu Đốc. Năm 1889, địa bàn Phú Tân thuộc tỉnh Châu Đốc, nằm trong bốn xã của quận Tân Châu là Long Sơn, Phú Lâm, Phú An, Hoà Hảo và bốn xã của quận Châu Phú là Hoà Lạc, Hưng Nhơn, Hiệp Xương, Bình Thạnh Đông. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chính quyền kháng chiến của Việt Minh đặt địa bàn Phú Tân thuộc hai huyện Châu Phú và Tân Châu của tỉnh Châu Đốc. Giai đoạn 1948 - 1950, huyện Tân Châu thuộc tỉnh Long Châu Tiền và huyện Châu Phú thuộc tỉnh Long Châu Hậu. Từ giữa năm 1951, địa bàn Phú Tân thuộc quận Tân Châu, tỉnh Long Châu Sa. Tháng 10 năm 1954, Phú Tân trở lại thuộc tỉnh Châu Đốc. Giai đoạn 1956-1975 Sau năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đặt vùng đất này thuộc quận Châu Phú và quận Tân Châu, tỉnh An Giang, cụ thể như sau: Quận Châu Phú gồm các xã: Bình Thạnh Đông, Hiệp Xương, Hoà Lạc, Hưng Nhơn thuộc tổng An Lương và xã Châu Giang thuộc tổng Châu Phú. Quận Tân Châu gồm các xã: Hoà Hảo, Phú An, Phú Lâm thuộc tổng An Lạc và xã Long Sơn thuộc tổng An Thành. Ngày 1 tháng 10 năm 1964, khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa quyết định tái lập tỉnh Châu Đốc, vùng đất này lại thuộc quận Châu Phú và quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Địa giới này được giữ nguyên cho đến năm 1975. Giữa năm 1957, chính quyền Cách mạng đặt vùng đất Phú Tân thuộc tỉnh An Giang, nhưng chưa thành huyện. Tháng 12 năm 1968, chính quyền Cách mạng thành lập huyện Phú Tân thuộc tỉnh An Giang, trên cơ sở 4 xã của huyện Tân Châu là Long Sơn, Phú Lâm, Phú An, Hoà Hảo và 5 xã của huyện Châu Phú là Châu Giang, Hoà Lạc, Bình Thạnh Đông, Hiệp Xương, Hưng Nhơn. Tên Phú Tân xuất phát từ việc ghép tên của hai huyện Châu Phú và Tân Châu. Tháng 5 năm 1974, huyện Phú Tân thuộc tỉnh Long Châu Tiền. Tháng 9 năm 1974, Phú Tân nhận thêm một số xã của huyện Hồng Ngự, huyện Thanh Bình và chia thành hai huyện là Phú Tân A và Phú Tân B. Huyện Phú Tân A gồm 6 xã là: Long Sơn, Phú Lâm, Hoà Lạc, Châu Giang, Long Thuận, Phú Thuận. Huyện Phú Tân B gồm 8 xã là: Phú An, Hoà Hảo, Hưng Nhơn, Hiệp Xương, Bình Thạnh Đông, Tân Huề, Tân Quới, Tân Long. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ vẫn duy trì các huyện Phú Tân A và Phú Tân B cùng thuộc tỉnh Long Châu Tiền. Tháng 5 năm 1975, huyện Phú Tân A giao xã Long Thuận và Phú Thuận về cho huyện Hồng Ngự; huyện Phú Tân B giao 3 xã Tân Huề, Tân Quới, Tân Long về huyện Tam Nông, giao xã Châu Phong về huyện Phú Châu. Sau năm 1975 Tháng 2 năm 1976, chính quyền lập lại tỉnh An Giang, giải thể 2 huyện Phú Tân A và Phú Tân B, lập huyện mới Phú Tân gồm 10 đơn vị hành chính là các xã: Bình Thạnh Đông, Châu Giang, Hiệp Xương, Hòa Hảo, Hòa Lạc, Hưng Nhơn, Long Sơn, Phú An, Phú Lâm và thị trấn Mỹ Lương (huyện lỵ). Ngày 25 tháng 4 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 181-CP năm 1979 về việc thành lập một số xã và thị trấn thuộc huyện Phú Tân. Theo đó: Tách ấp Phú Mỹ Thượng của xã Phú Lâm, ấp Hòa Bình và ấp Hòa An của xã Hòa Lạc lập thành xã Phú Thành. Tách ấp Phú Thạnh của xã Phú Lâm lập thành xã Phú Thạnh. Tách ấp Phú Hữu của xã Phú Lâm và ấp Phú Xương của xã Phú An lập thành thị trấn Chợ Vàm. Tách ấp Phú Mỹ Hạ, một phần ấp Phú Mỹ Thượng của xã Phú An lập thành xã Phú Thọ. Tách các ấp Bình Phú 1, Bình Phú 2 và ấp Bình Tây 1 của xã Bình Thạnh Đông lập thành xã Phú Bình. Ngày 23 tháng 8 năm 1980, đổi tên xã Hòa Hảo thành Tân Hòa, xã Châu Giang thành xã Phú Hiệp, xã Hưng Nhơn thành xã Phú Hưng và thị trấn Mỹ Lương chuyển thành xã Phú Mỹ. Như vậy, huyện Phú Tân có 1 thị trấn: Chợ Vàm (huyện lỵ) và 14 xã: Phú Mỹ, Bình Thạnh Đông, Phú Hiệp, Hiệp Xương, Tân Hòa, Hòa Lạc, Phú Hưng, Long Sơn, Phú An, Phú Lâm, Phú Bình, Phú Thọ, Phú Thành và Phú Thạnh. Ngày 12 tháng 1 năm 1984, thành lập xã Phú Xuân trên cơ sở tách một phần đất dọc theo bờ kênh Thần Nông của các xã Phú An, Phú Thọ, Hiệp Xương; thành lập xã Phú Long trên cơ sở tách ấp Long Hậu của xã Long Sơn và phần lớn đất của ấp Phú Thượng thuộc xã Phú Thành. Ngày 16 tháng 6 năm 1997, thành lập thị trấn Phú Mỹ trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Phú Mỹ. Lúc này, huyện có 15 xã và 2 thị trấn. Ngày 19 tháng 5 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định 53/2003/NĐ-CP, thành lập xã Long Hòa trên cơ sở 780 ha diện tích tự nhiên và 8.757 nhân khẩu của xã Long Sơn. Ngày 17 tháng 10 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định 119/2003/NĐ-CP, thành lập xã Tân Trung trên cơ sở 790,15 ha diện tích tự nhiên và 11.163 nhân khẩu của xã Tân Hòa. Huyện Phú Tân có 2 thị trấn và 17 xã. Ngày 24 tháng 8 năm 2009, chuyển xã Long Sơn về thị xã Tân Châu mới thành lập quản lý và chuyển thành phường Long Sơn. Từ đó, huyện còn lại 2 thị trấn và 16 xã, giữ ổn định cho đến nay. Ngày 2 tháng 2 năm 2016, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định 97/QĐ-BXD về việc công nhận thị trấn Phú Mỹ là đô thị loại IV. Văn hóa Ở Phú Tân có một số di tích lịch sử và văn hóa Chăm. Trên địa bàn huyện có 01 di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh là Đình Bình Thạnh Đông và 01 di tích lịch sử cách mạng cấp tỉnh là Thánh thất Cao Đài Phú Lâm. Bên cạnh đó, huyện còn có rất nhiều Chùa, Đình, Miếu, hàng năm đến những ngày lễ hội thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài tỉnh đến tham quan. Đây là nơi khởi sinh đạo Hòa Hảo. Ngoài ra, các làng nghề truyền thống, cho đến nay địa phương vẫn còn gìn giữ và phát triển như: nghề rèn Phú Mỹ, nghề làm bánh phồng Phú Mỹ, nghề bó chổi cọng dừa và nghề bó chổi bông sậy Cồn Nhỏ ở Phú Bình. Kinh tế Tốc độ tăng trưởng GDP của huyện bình quân hàng năm giai đoạn 2001-2005 là 10,79%. Năm 2005, khu vực thứ nhất của nền kinh tế chiếm tỷ trọng 41,6%, khu vực thứ hai chiếm 20,8%, khu vực dịch vụ chiếm 37,6%. Phát triển đô thị - Huyện đang trong giai đoạn hoàn thiện các dự án trọng điểm như : + Quy hoạch chung đô thị thị trấn Phú Mỹ + Quy hoạch chung đô thị thị trấn Chợ Vàm + Xây dựng khu công nghiệp Tân Trung giai đoạn 2 + Tiếp tục hoàn thiện các chương trình xây dựng Nông Thôn Mới - Ngoài ra huyện còn có đề án phát triển đô thị Hoà Lạc đến năm 2045 Danh nhân Giáo chủ Phật giáo Hoà Hảo Huỳnh Phú Sổ Tham khảo Liên kết ngoài Trang điện tử của huyện Phú Tân
VI_open-0000000096
People_and_Society
Họ Mồ hôi, trong các tài liệu về thực vật học tại Việt Nam gọi là họ Vòi voi (lấy theo chi Heliotropium) (danh pháp khoa học: Boraginaceae Juss. 1789), là họ của các loài cây như mồ hôi, lưu ly, vòi voi, bao gồm các dạng cây bụi, cây thân gỗ và cây thân thảo. Khi hiểu theo nghĩa rộng, họ này có tổng cộng khoảng gần 2.740 loài trong 148 - 149 chi phân bố rộng khắp thế giới, trong hiểu theo nghĩa hẹp thì nó chứa khoảng 94 chi với gần 1.800 loài. Tuy nhiên, nếu họ Heliotropiaceae được công nhận như là một họ tách biệt với Boraginaceae nghĩa hẹp thì tên gọi họ Vòi voi chỉ có thể áp dụng cho Heliotropiaceae. Họ Boraginaceae theo như APG II, thuộc về nhánh Cúc thật sự I (euasterids I), bao gồm trong đó các bộ như Gentianales, Lamiales, Solanales, nhưng việc gán nó cho một trong các bộ này hay vào chính bộ của riêng nó (Boraginales) vẫn chưa rõ ràng. Theo hệ thống Cronquist nó được đặt trong bộ Hoa môi (Lamiales), nhưng hiện nay một điều rõ ràng là sự tương tự của nó với các họ khác trong bộ này không nhiều hơn sự tương tự của nó với các họ khác trong một số các bộ khác của nhánh Cúc (asterids). Họ Boraginaceae là cận ngành với họ Hydrophyllaceae và họ này đã được gộp vào trong họ Mồ hôi theo như phân loại trong hệ thống APG II, III và IV. Trong một số hệ thống phân loại gần đây họ Boraginaceae được chia ra thành một số họ, bao gồm Boraginaceae nghĩa hẹp (sensu stricto), Cordiaceae, Ehretiaceae, Heliotropiaceae, Hydrophyllaceae, Lennoaceae. Phần lớn (với một ít ngoại lệ) các thành viên trong họ này lá với lông tơ. Đặc trưng thô của các lông tơ là do sự tồn tại của dioxide silic và cacbonat calci trong lá. Ở một số loài, các anthocyanin làm cho hoa đổi màu từ đỏ sang xanh lam khi già. Đây có lẽ là tín hiệu cho những loài côn trùng thụ phấn biết rằng các hoa già đã cạn kiệt phấn hoa và mật hoa (Hess, 2005). Nói chung, họ này theo nghĩa rộng hay được chia ra thành các phân họ như Boraginoideae (112 -113 chi, 1.600 loài), Cordioideae (3 chi, 330 loài), Ehretioideae (8 chi, 170 loài), Heliotropioideae (5 chi, 405 loài), Hydrophylloideae (17 chi, 225 loài), Lennooideae (3 chi, 7 loài). Phát sinh chủng loài Biểu đồ chỉ ra mối quan hệ phát sinh chủng loài của họ Mồ hôi nghĩa rộng với các bộ khác trong nhánh Cúc như sau: Phân loại Boraginaceae nghĩa rộng Họ Mồ hôi nghĩa rộng chia ra thành các phân họ và các chi chưa xếp trong phân họ nào như sau: Boraginoideae Actinocarya (bao gồm cả Glochidocaryum) Adelocaryum (bao gồm cả Brandella) Afrotysonia (bao gồm cả Tysonia) Alkanna (bao gồm cả Baphorhiza, Camptocarpus, Campylocaryum, Onochiles, Rhytispermum) Amblynotus Amphibologyne Amsinckia Anchusa (bao gồm cả Buglossum, Hormuzakia, Lycopsis, Phyllocara) Anchusella. Có thể là đồng nghĩa của Anchusa. Ancistrocarya Anoplocaryum Antiotrema (bao gồm cả Henryettana) Antiphytum (bao gồm cả Amblynotopsis, Chamissioniophila, Chamissoniophila) Arnebia (bao gồm cả Aipyanthus, Arnebiola, Echioides, Leptanthe, Macrotomia, Munbya, Toxostigma) Asperugo Auxemma Borago (bao gồm cả Borrachinea): Mồ hôi Bothriospermum: Hạt sùi Brachybotrys Brunnera Buglossoides. Có thể là đồng nghĩa của Lithospermum. Caccinia (bao gồm cả Anisanthera) Carmona: Cùm rụm, bùm sụm, ruối huầy Cerinthe Chionocharis Choriantha Craniospermum Cryptantha (bao gồm cả Eremocarya, Greeneocharis, Johnstonella, Krynitzkia, Oreocarya, Wheelerella) Cynoglossopsis Cynoglossum (bao gồm cả Austrocynoglossum, Crucicaryum, Paracynoglossum): Khuyển thiệt. Cynoglottis Cystostemon (bao gồm cả Cystistemon, Vaupelia) Dasynotus Decalepidanthus Echiochilon (bao gồm cả Echiochilopsis, Leurocline, Tetraedrocarpus) Echiostachys Echium (bao gồm cả Megacaryon) Elizaldia (bao gồm cả Massartina) Embadium Eritrichium (bao gồm cả Metaeritrichium) Gastrocotyle Gyrocaryum Hackelia. Có thể là đồng nghĩa của Eritrichium. Halacsya (bao gồm cả Zwackhia) Heliocarya Heterocaryum Huynhia Ivanjohnstonia Lacaitaea Lappula (bao gồm cả Echinospermum, Sclerocaryopsis) Lasiocaryum (bao gồm cả Oreogenia) Lepechiniella Lindelofia Lithodora Lithospermum (bao gồm cả Aegonychon, Batschia, Lasiarrhenum, Macromeria, Nomosa, Onosmodium, Psilolaemus) Lobostemon (bao gồm cả Echiopsis, Isorium, Lobostema, Oplexion, Penthysa, Traxara) Maharanga Mairetis Mattiastrum Mertensia (bao gồm cả Pneumaria) Metaeritrichium Microcaryum Microula (bao gồm cả Schistocaryum) Mimophytum Moltkia (bao gồm cả Gymnoleima, Paramoltkia) Moltkiopsis Moritzia Myosotidium Myosotis: Lưu ly (lưu li) Neatostema Nesocaryum Nogalia Nonea (bao gồm cả Nephrocarya, Paraskevia) Ogastemma (bao gồm cả Megastoma) Omphalodes Omphalolappula Omphalotrigonotis Onosma (bao gồm cả Colsmannia, Podonosma) Oxyosmyles Paracaryopsis. Có thể là đồng nghĩa của Cynoglossum. Paracaryum (bao gồm cả Microparacaryum) Pardoglossum Pectocarya (bao gồm cả Harpagonella) Pentaglottis (bao gồm cả Caryolopha) Perittostema (bao gồm cả Perittostemma) Plagiobothrys (bao gồm cả Allocarya, Allocaryastrum, Echinoglochin, Glyptocaryopsis) Pontechium. Có thể là đồng nghĩa của Echium. Pseudomertensia (bao gồm cả Oreocharis) Pulmonaria Rindera (bao gồm cả Bilegnum, Cyphomattia, Mattia) Rochelia (bao gồm cả Cervia, Maccoya, Raclathris) Scapicephalus Selkirkia Sericostoma Setulocarya. Có thể là đồng nghĩa của Microcaryum. Sinojohnstonia (bao gồm cả Sinojohstonia) Solenanthus (bao gồm cả Kuschakewiczia) Stenosolenium Stephanocaryum Suchtelenia Symphytum (bao gồm cả Procopiana, Procopiania): Liên mộc, cây sẹ Thaumatocaryon Thyrocarpus: Lọng quả, thuẫn quả Tianschaniella Trachelanthus Trachystemon Trichodesma (bao gồm cả Boraginella, Borraginoides, Friedrichsthalia, Octosomatium): Mao ty Trigonocaryum Trigonotis (bao gồm cả Endogonia, Havilandia, Pedinogyne): Tam giác nhĩ Ulugbekia Valentiniella Wellstedia Cordioideae Phân họ này hiện nay là họ Cordiaceae và Coldeniaceae. Coldenia: 1 loài cáp điền bò (Coldenia procumbens). Cordia (bao gồm cả Cerdana, Cordiada, Cordiopsis, Gerascanthus, Lithocardium, Patagonula, Rhabdocalyx, Saccellium, Sebesten, Sebestena): Tâm mộc, ngút, phỉ tử. Varronia. Có thể là đồng nghĩa của Cordia. Ehretioideae Phân họ này hiện nay là họ Ehretiaceae. Bourreria (bao gồm cả Beurreria) Cortesia. Có thể gộp trong Ehretia. Ehretia (bao gồm cả Gaza, Traxilum): Cườm rụng, dót Halgania Lepidocordia (bao gồm cả Antrophora) Menais. Có thể gộp trong Ehretia. Rochefortia Rotula (bao gồm cả Rhabdia): Rù rì, rì rì. Có thể gộp trong Ehretia. Tiquilia (bao gồm cả Eddya, Galapagoa, Monomesia, Ptilocalyx, Stegnocarpus, Tiquiliopsis) Heliotropioideae Phân họ này hiện nay được nâng cấp thành họ Heliotropiaceae. Euploca Heliotropium (bao gồm cả Beruniella, Bourjotia, Bucanion, Cochranea, Euploca, Lithococca, Meladendron, Parabouchetia, Valentina): Vòi voi. Ixorhea Myriopus Nogalia. Có thể gộp trong chi Heliotropium. Tournefortia (bao gồm cả Argusia, Ceballosia, Mallotonia, Messerschmidia, Messersmidia, Spilocarpus): Bọ cạp, tuân phát, thuốc mọi, phong ba, bạc biển, ru bi. Có thể gộp chung trong chi Heliotropium. Hydrophylloideae Phân họ này hiện nay là các họ Hydrophyllaceae, Codonaceae và Namaceae. Draperia Ellisia Emmenanthe Eucrypta Hesperochiron Hydrophyllum (bao gồm cả Decemium) Nemophila (bao gồm cả Nemophilla, Viticella) Phacelia (bao gồm cả Eutoca, Howellanthus, Miltitzia, Whitlavia) Pholistoma Romanzoffia Tricardia Codon: Hiện tại xếp riêng trong họ Codonaceae. Eriodictyon: Hiện tại xếp trong họ Namaceae. Nama (bao gồm cả Andropus, Conanthus, Lemmonia): Hiện tại xếp trong họ Namaceae. Turricula: Hiện tại xếp trong họ Namaceae. Wigandia: Hiện tại xếp trong họ Namaceae. Lennooideae Hiện tại được coi là họ Lennoaceae hoặc gộp trong họ Ehretiaceae. Lennoa Pholisma (bao gồm cả Ammobroma) Khác Hoplestigma: Hiện nay được coi là xếp riêng trong họ Hoplestigmataceae hay thuộc họ Cordiaceae. Boraginaceae nghĩa hẹp Họ Boraginaceae nghĩa hẹp là tương đương phân họ Boraginoideae của họ Boraginaceae nghĩa rộng, trừ Wellstedia được coi là xếp trong họ riêng với danh pháp Wellstediaceae. Nó được phân chia như sau: Echiochiloideae Gồm 3 chi với khoảng 30 loài. Antiphytum Echiochilon Ogastemma: 1 loài (Ogastemma pusillum). Boraginoideae Boragineae Anchusa (gồm cả Anchusella, Hormuzakia, Lycopsis, Phyllocara) Borago Brunnera Cynoglottis Gastrocotyle Melanortocarya: 1 loài (Melanortocarya obtusifolia). Moritzia Nonea Pentaglottis: 1 loài (Pentaglottis sempervirens). Pulmonaria Symphytum Thaumatocaryon Trachystemon: 1 loài (Trachystemon orientalis). Lithospermeae Aegonychon Alkanna Arnebia (gồm cả Huynhia). Buglossoides Cerinthe Cystostemon Echiostachys Echium (gồm cả Megacaryon) Glandora Halacsya: 1 loài (Halacsya sendtneri) Lithodora Lithospermum Lobostemon Maharanga Mairetis: 1 loài (Mairetis microsperma) Moltkia Moltkiopsis: 1 loài (Moltkiopsis ciliata) Neatostema: 1 loài (Neatostema apulum) Onosma Choriantha: 1 loài (Choriantha popoviana). Có thể gộp trong Onosma. Paramoltkia: 1 loài (Paramoltkia doerfleri). Podonosma: 3 Pontechium: 1 loài (Pontechium maculatum) Stenosolenium: 1 loài (Stenosolenium saxatile) Cynoglossoideae Chưa rõ vị trí Ancistrocarya: 1 loài (Ancistrocarya japonica). Nesocaryum: 1 loài (Nesocaryum stylosum). Oncaglossum: 1 loài (Oncaglossum pringlei). Lasiocaryeae Chionocharis: 1 loài (Chionocharis hookeri). Lasiocaryum Microcaryum: 1 loài (Microcaryum pygmaeum). Trichodesmeae Caccinia Heliocarya: 1 loài (Heliocarya monandra). Có thể gộp trong Caccinia. Trichodesma Asperugeae Anoplocaryum Asperugo: 1 loài (Asperugo procumbens). Memoremea: 1 loài (Memoremea scorpioides). Mertensia Omphalodeae Gyrocaryum: 1 loài (Gyrocaryum oppositifolium). Iberodes Mimophytum Myosotidium: 1 loài (Myosotidium hortensia). Omphalodes (gồm cả Omphalotrigonotis, Sinojohnstonia). Selkirkia Rochelieae Eritrichium (gồm cả Amblynotus, Sauria, Tianschaniella). Hackelia (gồm cả Embadium, Austrocynoglossum). Lappula (gồm cả Lepechiniella, Omphalolappula, Rochelia). Pseudoheterocaryum Pseudolappula: ? Heterocaryum: 1 loài + 1 loài lai ghép (Heterocaryum laevigatum, Heterocaryum × irregulare). Suchtelenia: 1 loài (Suchtelenia calycina). Craniospermeae Craniospermum Myosotideae Brachybotrys: 1 loài (Brachybotrys paridiformis). Decalepidanthus (gồm cả Pseudomertensia). Myosotis Trigonocaryum: 1 loài (Trigonocaryum involucratum). Có thể gộp trong Myosotis. Trigonotis Stephanocaryum: Có thể gộp trong Trigonotis. Cynoglosseae Amsinckiinae Adelinia: 1 loài (Adelinia grande). Amsinckia Amphibologyne: 1 loài (Amphibologyne mexicana). Có thể gộp trong Amsinckia. Andersonglossum Cryptantha (gồm cả Eremocarya, Greeneocharis, Johnstonella, Oreocarya). Dasynotus: 1 loài (Dasynotus daubenmirei). Harpagonella Pectocarya Plagiobothrys Bothriosperminae Antiotrema: 1 loài (Antiotrema dunnianum). Bothriospermum Nihon Chuyển đi Pteleocarpa: Chi này hiện nay được đặt trong họ Gelsemiaceae thuộc bộ Gentianales. Hydrolea: Chi nay hiện tại được APG tách ra thành họ Hydroleaceae, đặt trong bộ Solanales. Tham khảo Diane N., H. Förther và H. H. Hilger. 2002. A systematic analysis of Heliotropium, Tournefortia, and allied taxa of the Heliotropiaceae (Boraginales) based on ITS1 sequences and morphological data. American Journal of Botany 89: 287-295 (tóm tắt trực tuyến tại đây ). Gottschling M., H. H. Hilger, M. Wolf, N. Diane. 2001. Secondary Structure of the ITS1 Transcript and its Application in a Reconstruction of the Phylogeny of Boraginales. Plant Biology (Stuttgart) 3: 629-636. Hess, Dieter. 2005. Systematische Botanik. ISBN 3-8252-2673-5 Liên kết ngoài Boraginaceae trong L. Watson và M.J. Dallwitz (1992 trở đi). Các họ thực vật có hoa: Miêu tả, minh họa, nhận dạng, thông tin tra cứu. http://delta-intkey.com Boraginaceae trong ITIS B
VI_open-0000000099
Science
Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam, thường gọi tắt là Nhã Nam là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ văn hóa và xuất bản phẩm tại Việt Nam. Công ty được thành lập vào năm 2005 với một nhóm nòng cốt say mê văn chương, sách vở, cuốn sách best-seller đầu tiên là Nhật ký Đặng Thùy Trâm, tiêu thụ 500.000 bản ngay trong năm đầu tiên. Cuốn sách đã tạo nên một cú huých cực mạnh đưa cái tên Nhã Nam đến với nhiều độc giả hơn, đánh dấu thời kỳ chuyển mình của thương hiệu này. Phạm vi hoạt động Nhã Nam là một trong những công ty cổ phần làm về xuất bản. Bắt đầu từ việc tập trung vào ba mảng sách: Văn - Sử - Triết, Nhã Nam đã dần mở rộng sang nhiều thể loại khác: sách thiếu nhi, sách kinh doanh, sách kỹ năng - tham khảo v.v. Các đầu sách bao gồm cả mảng hư cấu và phi hư cấu, sách trong nước và sách dịch. Ở mảng sách văn học dịch, được coi là một trong những thế mạnh chủ đạo của mình, Nhã Nam thường chọn những tác phẩm có giá trị nổi bật nhưng chưa được dịch sang tiếng Việt, trong đó có nhiều tác phẩm của các tác giả được giải Nobel như: Gabriel García Márquez, Ernest Hemingway, Albert Camus, Kawabata Yasunari, Patrick Modiano, Kazuo Ishiguro, Alice Munro, Orhan Pamuk, John Steinbeck, Samuel Beckett; Booker như: Hilary Mantel, Margaret Atwood, Anna Burns, Julian Barnes, Yann Martel, George Saunders; Goncourt như: Marcel Proust, Romain Gary, Marguerite Duras, Éric Vuillard, Pierre Lemaitre, Gilles Leroy, Laurent Gaudé; và các tác giả ăn khách như Murakami Haruki, Higashino Keigo, Marc Levy, Guillaume Musso, Nicholas Sparks... Các ấn phẩm và tác phẩm dịch tiêu biểu Những cuốn sách mà công ty Nhã Nam đã xuất bản, tiêu biểu nhất có thể kể đến: Nhật ký Đặng Thùy Trâm Cuộc đời của Pi (Life of Pi) Thiếu nữ đánh cờ vây (La joueuse de go) Búp bê Bắc Kinh (北京娃娃, Bắc Kinh oa oa) Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa (Balzac et la petite tailleuse chinoise) Rừng Na Uy (ノルウェイの森, Noruwei no mori) Nếu em không phải một giấc mơ (Et si c'était vrai...) Bắt trẻ đồng xanh (The Catcher in the Rye) Giết con chim nhại (To Kill a Mockingbird) Chúa Ruồi (Lord of the Flies) Đại gia Gatsby (The Great Gatsby) Bạch dạ hành (白夜行 Byakuyako) Phía sau nghi can X (容疑者Xの献身 Yōgisha Ekkusu no Kenshin) Chuyện con mèo dạy hải âu bay (Historia de una gaviota y del gato que le enseno a volar) Hoàng tử bé (Le Petit Prince) Hãy chăm sóc mẹ (엄마를 부탁해) Đời nhẹ khôn kham (The Unbearable Lightness of Being) Nhà giả kim (The Alchemist) Sự im lặng của bầy cừu (The Silence of the Lambs) Homo Deus: Lược sử tương lai (Homo Deus: A Brief History of Tomorrow) Chiến binh cầu vồng (The Rainbow Troops) Bức xúc không làm ta vô can Bộ sách Việt Nam danh tác Danh hiệu và giải thưởng Giải thưởng cho doanh nghiệp 2016: Bằng khen của Bộ trưởng Bộ TT&TT cho tập thể đạt thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua trong lĩnh vực xuất bản in và phát hành. Giải thưởng cho cá nhân 2018: Ngài Étienne Rolland-Piègue, Tham tán hợp tác và hoạt động văn hóa Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam, đã trao tặng Huân chương Hiệp sĩ Văn học và Nghệ thuật cho ông Nguyễn Nhật Anh, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam. Giải thưởng cho sách Giải Sách Hay 2012 Hạng mục Thiếu nhi: Chuyện con mèo dạy hải âu bay (Luis Sepúlveda, do Phương Huyên dịch). 2013 Hạng mục Thiếu nhi: Tottochan bên cửa sổ (Tetsuko Kuroyanagi, do Anh Thư dịch). 2014 Hạng mục Thiếu nhi: Bộ sách Nhóc Nicolas (Goscinny - Sempé, do Trác Phong, Hương Lan, Tố Châu dịch). Hạng mục Văn học: Bắt trẻ đồng xanh (J. D. Salinger, do Phùng Khánh dịch). Hạng mục Phát hiện mới: Ngàn năm áo mũ (Trần Quang Đức). 2015 Hạng mục Văn học: Những đứa con của nửa đêm (Salman Rushdie, do Nham Hoa dịch). 2016 Hạng mục Thiếu nhi: Chuyện con ốc sên muốn biết tại sao nó chậm chạp (Luis Sepúlveda, do Bảo Chân dịch). Sách cho người trẻ do Cộng đồng sách trẻ bình chọn (đây là một "hoạt động song song/hoạt động cộng đồng" của Giải Sách Hay 2016, không phải là một hạng mục giải thưởng): Bắt trẻ đồng xanh (J. D. Salinger, do Phùng Khánh dịch). 2017 Hạng mục Văn học: Bảo tàng ngây thơ (Orhan Pamuk, do Giáp Văn Chung dịch). Hạng mục Phát hiện mới: Mộ phần tuổi trẻ (Huỳnh Trọng Khang). 2018 Hạng mục Văn học: Chuyện ngõ nghèo (Nguyễn Xuân Khánh), Đời nhẹ khôn kham (Milan Kundera, do Trịnh Y Thư dịch). Hạng mục Phát hiện mới: Homo Deus: Lược sử tương lai (Yuval Noah Harari, do Dương Ngọc Trà dịch). 2019 Hạng mục Văn học: Vết nhơ của người (Philip Roth, do Phạm Viêm Phương và Huỳnh Kim Oanh dịch). Sách cho người trẻ do Cộng đồng sách trẻ bình chọn (đây là một "Hoạt động song song/hoạt động cộng đồng" của Giải Sách Hay 2019, không phải là một hạng mục giải thưởng): Nhà giả kim (Paulo Coelho, do Lê Chu Cầu dịch). Hoàng tử bé (Antoine De Saint-Exupéry, do Trác Phong dịch). Giết con chim nhại (Harper Lee, do Huỳnh Kim Oanh và Phạm Viêm Phương dịch). Bức xúc không làm ta vô can (Đặng Hoàng Giang). 2020 Hạng mục Văn học: Chết chịu (Céline, do Dương Tường dịch). 2022 Hạng mục Giáo dục: Nghề thầy (Hoàng Đạo Thúy). Hạng mục Văn học: Những ngã tư và những cột đèn (Trần Dần), Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian (Ocean Vuong, do Khánh Nguyên dịch). Hạng mục Thiếu nhi: Chuyến phiêu lưu diệu kỳ của Edward Tulane (Kate DiCamillo, do Phương Huyên dịch). Giải của Hội Nhà văn Hà Nội Giải Văn học dịch, năm 2003-2004: Cuộc đời của Pi (Yann Martel, do Trịnh Lữ dịch). Giải Thơ, năm 2007: Gửi V.B (Phan Thị Vàng Anh). Giải Văn học dịch, năm 2007: Biên niên ký chim vặn dây cót (Haruki Murakami, do Trần Tiễn Cao Đăng dịch). Giải Văn học dịch, năm 2008: Nửa kia của Hitler (Éric-Emmanuel Schmitt, do Nguyễn Đình Thành dịch). Giải Thành tựu trọn đời về thơ, năm 2008: Trần Dần - Thơ. Giải Văn học dịch, năm 2020: 2666 (Roberto Bolaño, do Trần Tiễn Cao Đăng và Quân Khuê dịch). Giải của Hội Nhà văn Việt Nam Giải Văn học dịch, năm 2005: Cuộc đời của Pi (Yann Martel, do Trịnh Lữ dịch). Giải Văn học dịch, năm 2008: Tên tôi là Đỏ (Orhan Pamuk, do Phạm Viêm Phương và Huỳnh Kim Anh dịch). Giải Văn học dịch, năm 2016: Lâu đài sói (Hilary Mantel, do Nguyễn Chí Hoan dịch). Giải Sách Quốc gia 2020 Giải C: Bộ sách Giáo dục đa giác quan (4 cuốn): Ú òa, sa mạc và nước xiết; Ú òa, rừng rậm và tuyết phủ; Ái chà, kỳ thú rừng xanh; Ái chà, bí mật vườn nhà. Tác giả: Pavla Hanácková. Minh họa: Linh Dao, Irene Gough. Người dịch: Hoàng My. NXB Hà Nội và Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam liên kết xuất bản. 2021 Giải B: Tập thơ Bài thơ của một người yêu nước mình. Tác giả: Trần Vàng Sao. NXB Hà Nội và Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam liên kết xuất bản. Giải B: Nghệ thuật Huế. Tác giả: Le'opold Cadière. NXB Thế giới và Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam liên kết xuất bản. Hoạt động Nhã Nam cũng là một trong những công ty tư nhân hoạt động trong lĩnh vực xuất bản gặp phải nhiều rắc rối với các ấn phẩm của mình. Vào đầu năm 2008, tập Trần Dần - Thơ do Nhã Nam liên kết với NXB Đà Nẵng xuất bản bị đình chỉ phát hành, phạt hành chính vì bị cho là vi phạm luật xuất bản. Tháng 10 năm 2011, cuốn sách tranh Sát thủ đầu mưng mủ: Thành ngữ sành điệu bằng tranh do Thành Phong minh họa, Nhã Nam liên kết với NXB Mỹ thuật ấn hành đã gây nhiều tranh cãi và bị thu hồi cũng như đình chỉ phát hành chỉ vài tuần sau đó. Ngoài ra, Nhã Nam còn được biết đến là một trong những công ty xuất bản có số lượng đầu sách bị in lậu nhiều nhất Việt Nam. Đơn cử là cuốn Nhật Ký Đặng Thùy Trâm bị in lại với 5 bản giả trên cả ba miền Việt Nam. Chú thích và tham khảo Liên kết ngoài Trang web của công ty Công ty thành lập năm 2005
VI_open-0000000100
Books_and_Literature
Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản, gọi tắt là Tự Vệ Đội (; - JSDF), cũng được gọi là Lực lượng Phòng vệ (SDF) hay gọi với các tên không chính thức là Lực lượng Vũ trang Nhật Bản hay Quân đội Nhật Bản, là lực lượng quân sự thống nhất của Nhật Bản được thành lập bởi Luật Lực lượng phòng vệ ký ban hành chính thức vào năm 1954. Các lực lượng này do Bộ Quốc phòng kiểm soát, với Tổng lý là tổng tư lệnh tự vệ đội. Trong những năm gần đây,JSDF đã tham gia vào các hoạt động gìn giữ hòa bình quốc tế cùng với Liên Hợp Quốc. Căng thẳng, đặc biệt là với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, đã dấy lên cuộc tranh luận về địa vị của JSDF và mối quan hệ của nó với xã hội Nhật Bản. Kể từ năm 2010, JSDF đã ngừng tập trung chống lại Liên Xô cũ với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa; tăng cường hợp tác quân sự với Úc, Ấn Độ, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và Hoa Kỳ; mua mới, lên đời các trang thiết bị quân sự. Lịch sử Thế kỉ 20 Sau khi thua trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Đại Nhật Bản Đế quốc bị giải tán. Nhật Bản bị Hoa Kỳ chiếm đóng và chỉ có một đội cảnh sát để trị an và phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, tình thế căng thẳng trầm trọng thêm ở châu Á và châu Âu cùng các cuộc đình công và biểu tình của phe chủ nghĩa xã hội khiến cho một vài lãnh tụ bảo thủ đòi lập lại quân đội. Giới chính trị Nhật Bản càng tin đất nước cần phải có quân đội riêng khi Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, quân chiếm đóng tham chiến, Nhật Bản mất gần hết năng lực quốc phòng. Hoa Kỳ tán thành kế hoạch tự vệ của Nhật Bản. Tháng 7 năm 1950, chính phủ Nhật thiết lập bao gồm 75.000 nhân sự mang vũ khí bộ binh hạng nhẹ. Năm 1952, thành lập . Người Nhật biết rõ, để giữ gìn đất nước cần phải có Hoa Kỳ trợ giúp. Ngày 8 tháng 9 năm 1951, hai nước kí Hiệp ước Bảo an. Hiệp ước cho phép quân đội Hoa Kỳ đóng ở Nhật Bản hành động khi nước ngoài lấn áp Nhật Bản, còn các mối đe dọa trong nước và thiên tai thì do các lực lượng của Nhật phụ trách đối phó. Hoa Kỳ được ra tay để gìn giữ hoà bình ở Đông Á và can thiệp chính trị nội bộ của Nhật Bản. Giữa năm 1952, Đội Dự bị Cảnh sát được mở rộng lên 110.000 người và đổi tên thành Lực lượng Bảo an Quốc gia. Đội Cảnh bị Bờ biển được sát nhập vào cục Bảo an Quốc gia để trở thành tiền đề của Lực lượng phòng vệ biển. Hiến pháp năm 1947 được chính quyền chiếm đóng phê chuẩn cấm Nhật Bản tuyên chiến để giải quyết tranh chấp quốc tế và không cho giữ lục quân, hải quân, không quân, hay bất kì tiềm năng quân sự nào khác. Tuy nhiên những chính phủ về sau cho rằng Nhật Bản vẫn còn quyền tự vệ và dần dần phát triển Lực lượng Phòng vệ, được Hoa Kỳ khuyến khích. Ngày 1 tháng 7 năm 1954, Sở Phòng vệ thành lập. Sau đó Đội Dự bị Cảnh sát được cải tổ thành Lực lượng Phòng vệ Đánh bộ tức là lục quân, Đội Cảnh bị Bờ biển cải tổ thành Lực lượng Phòng vệ Đánh biển tức là hải quân, và Lực lượng Phòng vệ Đánh không tức là không quân được thành lập. Tướng Hayashi Keizō được bổ nhiệm làm chủ tịch đầu tiên của Hội đồng Tham mưu. Ngày 6 tháng 1 năm 1955, Không lực Viễn Đông của Không quân Hoa Kỳ thông báo sẽ giao 85 máy bay cho không quân mới của Nhật Bản, trang bị quân sự đầu tiên của lực lượng. Ngày 19 tháng 1 năm 1960, Hoa Kỳ và Nhật Bản kí Hiệp ước Hợp tác và Bảo an. Hoa Kỳ phải báo Nhật Bản trước khi điều động quân đội và không được can thiệp chính sự nội bộ của Nhật Bản. Hai nước phải giúp đỡ lẫn nhau nếu lãnh thổ Nhật Bản bị tấn công. Hiệp ước quy định một nước lâm nguy là cả Hoa Kỳ lẫn Nhật Bản đều gặp nguy hiểm, nên hai nước cần phải có năng lực kháng chiến; Hoa Kỳ có cớ đặt căn cứ quân sự ở Nhật Bản vậy. Liên minh giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ tồn tại lâu hơn bất kỳ liên minh nào khác giữa hai cường quốc kể từ năm 1948. Năm 1983, Nội các Tổng lý Đại thần Nakasone Yasuhiro hứa sẽ biến Nhật Bản thành "tàu sân bay không thể chìm ở Thái Bình Dương" để giúp Hoa Kỳ chống máy bay ném bom của Liên Xô. Mặc dù không bị hiến pháp cấm có vũ khí hạt nhân, vì là nước duy nhất bị đánh bom hạt nhân nên Nhật Bản quyết tâm không bao giờ mắc lại tai hoạ nguyên tử. Luật Năng lượng hạt nhân năm 1956 cấm nghiên cứu, phát triển và sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích không hoà bình. Từ năm 1956, Nhật Bản thi hành chính sách "ba không": không sở hữu vũ khí hạt nhân, không sản xuất vũ khí hạt nhân, không nhập khẩu vũ khí hạt nhân. Năm 1976, Nhật Bản phê chuẩn Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân và nhắc lại sẽ không bao giờ "phát triển, sử dụng vũ khí hạt nhân hay cho phép vận chuyển qua lãnh thổ Nhật Bản". Tuy nhiên tục xem Nhật Bản là "có năng lực hạt nhân", tức là có thể phát triển vũ khí hạt nhân trong một năm nếu tình huống chính trị xấu kém thêm đáng kể, do sở hữu công nghệ cao cấp cùng nhiều nhà máy điện hạt nhân. Nhiều nhà phân tích xét Nhật Bản là nước hạt nhân trên thực tế, đùa rằng chỉ cần chìa vít là có được vũ khí hạt nhân, bom thực ra nằm trong tầng hầm. Ngày 28 tháng 5 năm 1999, Nhật Bản thông qua luật cho phép Lực lượng Phòng vệ tham gia "hậu phương" nếu Hoa Kỳ tiến hành chiến tranh liên hệ tới "vấn đề của khu vực." Thế kỉ 21 Ngày 29 tháng 10 năm 2001, Luật về Các Biện pháp Đặc biệt Chống khủng bố chính thức được thông qua. Luật này cho phép JSDF tự mình đóng góp vào các nỗ lực quốc tế nhằm ngăn chặn và tiêu diệt khủng bố. Trong khi thực hiện nhiệm vụ, JSDF hoàn toàn có thể sử dụng vũ khí trang bị để tự vệ cùng những lực lượng khác mà JSDF đang kiểm soát. Trước đây, chính sách của Nhật Bản về vấn đề này là nhất định không can dự. Vào ngày 27 tháng 3 năm 2004, Cơ quan Phòng vệ Nhật Bản thành lập Nhóm Hoạt động Đặc biệt (特殊作戦群) với sự ủy nhiệm của Lực lượng Phòng vệ Mặt đất, với tư cách là đơn vị Chống khủng bố. Ngày 9 tháng 1 năm 2007, Cục Phòng vệ (防衛庁) trực thuộc Phủ Nội các được nâng cấp thành Bộ Quốc phòng (防衛省). Hoạt động nước ngoài của Lực lượng Phòng vệ được liệt từ "việc khác" thành "nhiệm vụ cơ bản", về cơ bản thay đổi bản chất của lực lượng vì không còn chỉ mang tính chất quốc phòng nữa. Nay Lực lượng Phòng vệ Biển có thể hoạt động trên toàn thế giới, như phòng chống cướp biển. Cùng năm, Tổng lý Abe Shinzō tuyên bố hiến pháp Nhật Bản không cấm tất cả vũ khí hạt nhân miễn là được giữ ở mức ít nhất và mục đích có hạn. Các tàu thuyền của Lực lượng Phòng vệ Biển đã có thể điều động trên phạm vi toàn cầu, chẳng hạn như trong các hoạt động chống cướp biển. Căn cứ hải ngoại đầu tiên sau cuộc đại chiến của JSDF được thành lập tại Djibouti (tháng 7 năm 2010). Tháng 7 năm 2010, căn cứ nước ngoài đầu tiên của Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai cuối cùng cũng chính thức được thành lập ở Djibouti, Somalia. Ngày 18 tháng 9 năm 2015, Quốc hội Nhật Bản thông qua luật cho phép Lực lượng Phòng vệ tự vệ tập thể các nước đồng minh trong lúc chiến đấu lần đầu tiên kể từ năm 1947. Lực lượng Phòng vệ được cung cấp vật liệu cho các nước đồng minh tham chiến trên phạm vi quốc tế và bảo vệ các cơ sở vũ khí nước ngoài góp phần bảo vệ Nhật Bản. Lý do đưa ra là không bảo vệ hay trợ giúp nước đồng minh sẽ làm suy yếu liên minh giữa các nước và gây nguy hiểm cho Nhật Bản. Đây là những thay đổi quốc phòng lớn nhất của Nhật Bản kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai. Đạo luật JSDF này được sửa đổi vào năm 2015 là nhằm nghiêm cấm nhân sự của JSDF tham gia vào các hoạt động phối hợp tập thể hay chỉ huy lực lượng mà không có thẩm quyền, hoặc vi phạm mệnh lệnh, vốn được cho là lý do tại sao Nhật Bản tiến hành can thiệp vào Trung Quốc trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Một cuộc khảo sát của Credit Suisse được công bố vào năm 2015 đã xếp Nhật Bản là quốc gia có quân đội mạnh thứ 4 thế giới sau Nga, Trung Quốc và Hoa Kỳ. Kể từ tháng 3 năm 2016, Pháp luật về Hòa bình và An ninh của Nhật Bản cho phép JSDF phản ứng liền mạch với bất kỳ tình huống nào, để bảo vệ cuộc sống và sinh kế của công dân Nhật Bản. Nó cũng tăng cường đóng góp chủ động cho hòa bình và an ninh trên thế giới và làm sâu sắc hơn tình hữu nghị với các đối tác. Điều này đã nâng cao mối quan hệ liên minh Nhật-Mỹ với tư cách là đối tác toàn cầu, nhằm thúc đẩy hòa bình và an ninh trong khu vực, cũng như cộng đồng quốc tế. Tháng 5 năm 2017, Tổng lý Abe Shinzo hứa sẽ sửa đổi Điều 9 Hiến pháp trước khi năm 2020 kết thúc, là điều khoản cấm Nhật Bản tuyên chiến để giải quyết tranh chấp quốc tế. Tổng lý Shidehara Kijūrō viết Điều 9 dưới sự giám sát của chính quyền chiếm đóng. Nhật Bản cuối cùng đã thành lập , là đơn vị thủy quân lục chiến đầu tiên của họ kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai, vào ngày 7 tháng 4 năm 2018. Lực lượng này được huấn luyện để chống lại bất cứ thế lực nào xâm lược chiếm đóng các đảo của Nhật Bản. Bộ Quốc phòng cho biết, bắt đầu từ ngày 1 tháng 10 năm 2018, độ tuổi tối đa của người nhập ngũ và hạ sĩ quan sẽ được nâng từ 26 lên 32 để đảm bảo "nguồn cung cấp ổn định cho Lực lượng Phòng vệ trong bối cảnh nhóm tân binh đang ngày càng thấp đi do sự giảm xuống tỷ lệ sinh trong thời gian gần đây." Tháng 3 năm 2019, Bộ Quốc phòng dự định thành lập đơn vị an ninh mạng khu vực đầu tiên trong Tập đoàn quân Tây Bộ của Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản (JGSDF), nhằm bảo vệ hệ thống thông tin liên lạc quốc phòng khỏi các cuộc tấn công điện tử, chẳng hạn như cho binh sĩ được triển khai trên các hòn đảo xa xôi. thiết lập đường dây an toàn. Bộ Quốc phòng đã và đang phát triển bom lượn siêu thanh giúp tăng cường khả năng phòng thủ ở những hải đảo xa xôi của Nhật Bản, bao gồm cả quần đảo Senkaku. Khả năng tấn công chống mặt đất sẽ được sử dụng để giúp ích cho các hoạt động đổ bộ, tái chiếm các đảo xa của Lữ đoàn Cơ động Thủy lục. Binh lính Anh thuộc Đại đội Pháo binh Danh dự (HAC) lần đầu tiên tiến hành một cuộc tập trận thực địa cùng với các binh sĩ Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản tại đinh Oyama, tỉnh huyện Shizuoka vào ngày 2 tháng 10 năm 2018. Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử, các binh sĩ ngoại quốc không phải người Mỹ có mặt trên thực địa, diễn tập trên đất Nhật Bản. Mục đích là để cải thiện quan hệ đối tác chiến lược và hợp tác an ninh giữa hai nước. Lực lượng Phòng vệ Mặt đất cùng Lục quân Ấn Độ cũng đã tiến hành cuộc tập trận chung đầu tiên tại bang Mizoram của Ấn Độ từ ngày 27 tháng 10 đến ngày 18 tháng 11 năm 2018, thực hành các cuộc diễn tập chống khủng bố và cải thiện hợp tác song phương giữa 60 sĩ quan Nhật Bản và Ấn Độ. Nhật Bản và Hoa Kỳ đã tiến hành loạt cuộc tập trận lớn nhất vòng quanh Nhật Bản cho đến nay tại Keen Sword hai năm một lần, từ ngày 29 tháng 10 đến ngày 2 tháng 11 năm 2018. Tập trận bao gồm tổng cộng 57.000 thủy thủ, thủy quân lục chiến và cả không quân, 47.000 quân nhân trong biên chế đến từ JSDF và 10.000 từ Quân đội Hoa Kỳ. Một tàu tiếp liệu hải quân và hộ tống hạm của Hải quân Hoàng gia Canada cũng tham gia. Ngoài ra còn có sự xuất hiện của các hoạt động mô phỏng không chiến, phòng thủ tên lửa đạn đạo và đổ bộ thủy lục. Nhật Bản công bố tàu ngầm lớp Taigei (大鯨) dài 84 m, nặng 2.950 tấn vào ngày 4 tháng 10 năm 2018. Đây là lớp tiềm thủy đỉnh đầu tiên của Nhật Bản chạy bằng pin lithium-ion, được phát triển bởi Mitsubishi Heavy Industries. Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản tiến hành sử dụng nó lần đầu tiên vào tháng 3 năm 2020. Chính phủ Nhật Bản đã thông qua công văn đầu tiên của JSDF tới một hoạt động gìn giữ hòa bình mà không do Liên hợp quốc lãnh đạo. Hai sĩ quan Lực lượng Phòng vệ Mặt đất theo dõi giám sát lệnh ngừng bắn giữa Israel và Ai Cập tại Bộ chỉ huy Lực lượng liên quốc gia & Quan sát viên ở bán đảo Sinai từ ngày 19 tháng 4 đến ngày 30 tháng 11 năm 2019. Bộ trưởng Quốc phòng Iwaya Takeshi công bố kế hoạch triển khai mẫu tên lửa đất đối hạm Kiểu 12 vào tháng 3 năm 2020. Tên lửa này có tầm bắn 300 km và sẽ được sử dụng để bảo vệ Quần đảo Nansei (Ryukyu) ở phía nam. Nhật Bản cũng đang phát triển một loại tên lửa lượn tốc độ cao, có tầm bắn lên đến 1000 km. Vào ngày 10 tháng 9 năm 2020, Nhật Bản và Ấn Độ đã kí một hiệp ước quân sự có tên là Thỏa thuận Mua lại và Phục vụ chéo (ACSA). Hiệp ước cho phép trao đổi hỗ trợ hậu cần và vật tư giữa hai quốc gia. Mục đích là hợp tác chặt chẽ hơn, một khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương Tự do và Mở và cũng để ngăn chặn sự xâm lược của Trung Quốc ở châu Á. Nhật Bản cũng đã có các thỏa thuận như vậy từ trước với các nước Úc, Canada, Pháp, Anh và Mĩ. Ngày 5 tháng 5 năm 2022, Nhật Bản và Vương quốc Anh kí kết quan hệ đối tác phòng thủ làm sâu sắc thêm quan hệ quân sự, nhằm chống lại các cường quốc chuyên quyền, bá quyền ở châu Âu và khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Hai Thủ tướng Kishida Fumio và Boris Johnson đều nhất nhất lên án Nga xâm lược Ukraina. Tổ chức Nội các Tổng lý Đại thần là tổng tư lệnh của Lực lượng Phòng vệ. Dưới quyền Tổng lý là Bộ trưởng Quốc phòng. Tổng Tham mưu trưởng (統合幕僚長, Tōgō Bakuryō-chō) có nhiệm vụ tham mưu cho Thủ tướng và Bộ trưởng Quốc phòng, đồng thời là người đứng đầu Bộ Tham mưu Liên quân (統合幕僚監部, Tōgō Bakuryō Kanbu). Bộ Tham mưu bao gồm Cố vấn cao cấp của Tổng Tham mưu trưởng, Phó Tổng Tham mưu trưởng, Phó Tham mưu trưởng Hành chính, và nhiều phòng ban và nhân viên đặc biệt. Mỗi nhánh quân đội có Tham mưu trưởng riêng đứng đầu. Tổng Tham mưu trưởng là sĩ quan cấp cao nhất của Lực lượng Phòng vệ và phụ trách thi hành mệnh lệnh của Bộ trưởng Quốc phòng dưới chỉ đạo của Thủ tướng. Tổng Tham mưu trưởng giám sát các nhánh quân đội và nắm quyền chỉ huy vào thời chiến, nhưng trong thời bình chỉ được hoạch định chính sách và phối hợp quốc phòng. Tham mưu trưởng của mỗi nhánh quân binh chủng có quyền quản lý lực lượng của họ. Nhánh quân chủng Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Lực lượng Phòng vệ Biển Lực lượng Phòng vệ Trên không Nhánh đơn vị Năm tập đoàn quân Năm vùng hải quân Bốn lực lượng phòng không Chính sách quốc phòng Hội đồng An ninh Quốc gia Ngày 4 tháng 12 năm 2013 Hội đồng An ninh Quốc gia thành lập để cho Thủ tướng được thảo luận các vấn đề an ninh quốc gia thường xuyên và khi cần thiết. Điều 9 Hiến pháp Mặc dù Điều 9 Hiến pháp cấm Nhật Bản lập quân đội và tuyên chiến để giải quyết tranh chấp giữa các nước, từ năm 2000 có đề nghị làm suy yếu hay thậm chí xoá Điều 9. Hiện nay giới chính trị Nhật Bản giải thích hiến pháp cho thành lập quân đội để tự vệ, nên Lực lượng Phòng vệ chỉ được phụ trách quốc phòng và không có năng lực tấn công tầm xa. Ngân sách Năm 1976, Thủ tướng Miki Takeo tuyên bố nên giữ chi tiêu quốc phòng ở mức 1% tổng sản phẩm quốc nội của Nhật Bản, giữ nguyên đến năm 1986. Năm 2005 ngân sách quân đội của Nhật Bản ở mức khoảng 3% ngân sách quốc gia; khoảng một nửa chi cho chi phí nhân sự, trong khi phần còn lại dành cho các chương trình vũ khí, chi phí bảo trì và vận hành. Năm 2011 Nhật Bản có ngân sách quân đội lớn thứ tám trên thế giới. Năm 2015, Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản có ngân sách 4,98 nghìn tỷ Yên, tăng 2,8% so với năm trước. liên_kết=|nhỏ Triển khai tên lửa chống đạn đạo Sau khi Triều Tiên phóng vệ tinh Quang Minh Tinh 1 vào tháng 8 năm 1998, nghi là vụ thử tên lửa dẫn đường, thì Nhật Bản quyết định tham gia chương trình phát triển tên lửa chống đạn đạo của Hoa Kỳ. Tháng 8 năm 1999 chính phủ Nhật Bản, Đức và Hoa Kỳ đồng ý hợp tác nghiên cứu và phát triển Hệ thống phòng thủ tên lửa dẫn đường Aegis. Năm 2003 chính phủ Nhật triển khai ba loại hệ thống Aegis là phương tiện phòng không, Aegis trên biển và Aegis PAC-3 trên đất liền. Ngày 30 tháng 7 năm 2018 Nhật Bản thuê Lockheed Martin chế tạo máy radar trị giá 1,2 tỷ USD cho hai trạm phòng không chống đạn đạo trên mặt đất. Cùng ngày Bộ Quốc phòng Nhật Bản cho biết đang suy xét rút các đơn vị đánh chặn tên lửa PAC3 từ khu vực phía bắc và phía tây của nước trong bối cảnh ngớt căng thẳng với Triều Tiên. Viên chức Bộ nói khả năng Triều Tiên bắn tên lửa dẫn đường giảm sau cuộc họp thượng đỉnh với Hoa Kỳ vào tháng trước. Tuy nhiên cũng cho biết sẽ vẫn bắn hạ bất kỳ tên lửa nào bay tới và nói thêm là sẽ sẵn sàng triển khai lại các đơn vị PAC3 nếu tình hình thay đổi. Lực lượng Thủy quân lục chiến Năm 2016 Nhật Bản bắt đầu thành lập Lữ đoàn Thủy quân lục chiến cơ động để tiến hành các hoạt động đổ bộ và chiếm lại bất kỳ đảo Nhật nào bị kẻ thù chiếm đoạt do căng thẳng về quần đảo Senkaku, là đơn vị lính thủy đánh bộ đầu tiên kể từ Thế chiến lần thứ hai. Ngày 7 tháng 4 năm 2018, lữ đoàn Thủy quân lục chiến cơ động được kích hoạt ở Trại Ainoura của Lực lượng Phòng vệ Đánh bộ tại Sasebo, trên đảo Kyushu phía tây nam Nhật Bản. Lữ đoàn phụ trách bảo vệ các đảo do Nhật Bản làm chủ hay tranh chấp dọc theo rìa Biển Hoa Đông, đặc biệt khi Trung Quốc chi tiêu quốc phòng và để ý tới khu vực ngày càng nhiều. Để bảo vệ các đảo phía tây nam, Nhật Bản bắt đầu biến hạm đội hai tàu khu trục loại Izumo từ "tàu khu trục chở trực thăng" thành tàu sân bay có khả năng phóng máy bay F-35B, là tàu sân bay đầu tiên của Nhật Bản kể từ Thế chiến lần thứ hai. Thuật cận chiến Thuật cận chiến của lính Lực lượng Phòng vệ tên là Võ thuật Lực lượng Phòng vệ (自衛隊格闘術, Jieitaikakutōjutsu). Ra đời vào năm 1959, lấy các thuật dùng dao và lưỡi lê của lính Lục quân Đế quốc làm nền móng, có bổ sung cách đánh tay đôi dựa trên Quyền pháp Nhật Bản (Nippon Kempo) và Tomiki-Ryu Aikido tức là Shodokan Aikido hiện nay. Từ năm 2006 đến năm 2007 được cải tiến, vào năm 2008 bộ thuật mới được giới thiệu, đặt nặng động tác ném, khoá họng, và phòng thủ bằng dao. Nhiệm vụ và hoạt động Lực lượng Phòng vệ có vai trò cứu trợ thiên tai theo Điều 83 của Luật tổ chức Lực lượng Phòng vệ năm 1954. Các đơn vị phải giúp các thống đốc tỉnh dập lửa, tìm kiếm cứu nạn và chống lũ lụt bằng cách gia cố các bờ bao và những con đê nếu được yêu cầu. Cuối tháng 6 và đầu tháng 7 năm 2014 Thủ tướng Abe Shinzo cùng nội các dỡ bỏ lệnh cấm quân đội Nhật Bản hoạt động ở nước ngoài, thi hành từ cuối Thế chiến lần thứ hai, để củng cố vị thế của Nhật Bản trước Trung Quốc ngày càng lấn áp và vụ thử vũ khí hạt nhân của Triều Tiên. Tuy được xem là phù hợp với Điều 9 Hiến pháp, chính phủ báo hiệu có thể tìm cách giải thích lại điều khoản này trong tương lai. Gìn giữ hoà bình Tháng 6 năm 1992, Quốc hội Nhật Bản thông qua Luật hợp tác gìn giữ hoà bình Liên hợp quốc cho phép Lực lượng Phòng vệ tham gia những hoạt động y tế, đưa đi hồi hương người tị nạn, hậu cần, tái thiết cơ sở hạ tầng, giám sát bầu cử, và trị an của Liên hợp quốc theo các điều kiện nghiêm ngặt. Lực lượng Phòng vệ ở Campuchia cùng nỗ lực ngoại giao của Nhật Bản góp phần thực hiện thành công Hiệp định Hoà bình Paris năm 1991. Chánh văn phòng Nội các Machimura Nobutaka đã nói rằng đang thảo luận với Bộ trưởng Quốc phòng Ishiba Shigeru và Bộ trưởng Ngoại giao Komura Masahiko về khả năng làm luật cho phép Lực lượng Phòng vệ gia nhập các đoàn gìn giữ hoà bình ở nước ngoài. Theo tờ báo Mainichi Shimbun chính phủ đã xem xét thông qua luật gìn giữ hoà bình. Năm 2014 không có tiến triển do Đảng Công Minh lo rằng Lực lượng Phòng vệ có thể bị cử tham gia đoàn gìn giữ hoà bình không liên hệ tới Nhật Bản. Năm 2004 chính phủ Nhật Bản ra lệnh triển khai một đội của Lực lượng Phòng vệ đến trợ giúp xây dựng lại Iraq theo yêu cầu của Hoa Kỳ, một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Nhật Bản vì là lần đầu tiên Nhật Bản đưa quân ra nước ngoài kể từ Thế chiến lần thứ hai, trừ một vài hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc. Công chúng tranh cãi nhau dữ dội, đặc biệt là vì hiến pháp quy định quân đội Nhật Bản chỉ được tự vệ, trong khi hoạt động ở Iraq dường như chẳng liên quan gì đến nhiệm vụ đó. Mặc dù có vũ khí, vì bị hiến pháp hạn chế nên Lực lượng Phòng vệ phải được các đơn vị Lực lượng Đặc nhiệm Nhật Bản và các đơn vị Úc bảo vệ. Lính Nhật ở Iraq chỉ làm công tác nhân đạo và tái thiết và không được bắn trừ khi bị bắn trước. Năm 2006 Nhật Bản lui binh. Lực lượng Nhật Bản thường xuyên có mặt trong các đội cứu trợ thiên tai quốc tế: Rwanda (1994), Honduras (1998), Thổ Nhĩ Kỳ (1999), Tây Timor (1999–2000), Afghanistan (2001), Iraq (2003), Iran (2003–2004), Thái Lan (2004–2005), Indonesia (2005, 2006, 2009), Nga (2005), Pakistan (2005, 2010), Haiti (2010), New Zealand (2011). Sau trận động đất ở Haiti thì Nhật Bản triển khai một đội bao gồm kỹ sư, máy ủi, và máy móc hạng nặng để giúp đỡ Phái bộ Bình ổn của Liên hợp quốc tại Haiti. Nhiệm vụ của họ là gìn giữ hoà bình, dọn dẹp đống đổ nát, và xây dựng lại đường xá nhà cửa. Lực lượng Phòng vệ có tiến hành các hoạt động ở nước ngoài như phái lực lượng gìn giữ hòa bình tới Campuchia. Năm 2003 Nhật Bản ban hành luật đối phó với các cuộc tấn công vũ trang và sửa đổi Luật tổ chức Lực lượng Phòng vệ. Hoạt động hải quân ở nước ngoài Lực lượng Phòng vệ Trên biển đã triển khai lực lượng ngoài khơi Somalia để bảo vệ các tàu Nhật khỏi cướp biển Somalia, bao gồm hai tàu khu trục có khoảng 400 thủy thủ, trực thăng tuần tra, tàu cao tốc, tám sĩ quan của Đội Cảnh vệ Bờ biển để thu thập bằng chứng tội phạm và xử lý các nghi phạm cướp biển, một lực lượng biệt kích từ Đơn vị Lên máy bay Đặc biệt tinh nhuệ, và máy bay tuần tra P-3 Orion ở Vịnh Aden. Ngày 19 tháng 6 năm 2009 Quốc hội Nhật Bản thông qua luật chống cướp biển, cho phép quân Nhật bảo vệ các tàu thuyền không phải của Nhật Bản. Tháng 5 năm 2010 Nhật Bản thông báo ý định xây dựng căn cứ hải quân thường trực ở Djibouti để cung cấp an ninh cho các tàu Nhật chống lại cướp biển Somali. Ngày 1 tháng 7 năm 2011 Căn cứ Lực lượng Phòng vệ ở Djibouti khai trương. Ban đầu chứa khoảng 170 nhân viên Lực lượng Phòng vệ và bao gồm các cơ sở hành chính, nhà ở, y tế, nhà bếp ăn uống, và giải trí cũng như nhà chứa bảo dưỡng máy bay và sân đỗ. Hiện tại có khoảng 200 nhân viên và hai máy bay P-3C. Quân phục, quân hàm và phù hiệu Binh chủng mà các quân nhân Lực lượng Phòng vệ Mặt đất biên chế vào được biểu thị bằng cấp ngạch và lon có màu sắc đặc biệt: đối với bộ binh là màu đỏ; pháo binh là màu vàng; thiết giáp là màu da cam; kĩ thuật là màu tím; bom mìn là màu xanh lá cây nhạt; quân y là màu xanh lá cây; không lực (không quân lục quân) là màu xanh nhạt; thông tin là màu xanh lam; hậu cần là nâu; vận tải là màu tím sẫm; không vận là màu trắng; những ngoại lệ thì phân chia vào màu xanh đậm. Phù hiệu trên mũ của Lực lượng Phòng vệ Mặt đất là bông hoa anh đào, có hai nhánh cây thường xuân bên dưới, một hình chữ V ở phía dưới giữa gốc của các nhánh; phù hiệu trên mũ của Lực lượng Phòng vệ Trên biển là hình mỏ neo bị vướng, bên dưới một bông hoa anh đào bao quanh bởi các dây leo thường xuân ở hai bên và dưới cùng; phù hiệu huy hiệu trên mũ của Lực lượng Phòng vệ Trên không có hình đại bàng, bên dưới là ngôi sao và hình lưỡi liềm, được viền bên dưới với biểu tượng đôi cánh cách điệu. Có chín cấp bậc sĩ quan hiện hành trong JSDF, cùng với một cấp bậc quân nhân chuyên nghiệp, năm cấp bậc hạ sĩ quan và ba cấp bậc binh nhì. Cấp bậc cao nhất của hạ sĩ quan là trung sĩ nhất (trong JMSDF là thượng sĩ hải quân và trong JASDF là thượng sĩ nhất), được thành lập vào năm 1980 để cung cấp nhiều cơ hội thăng tiến hơn và thời hạn phục vụ ngắn hơn như trung sĩ hạng nhất, trung sĩ nhất hải quân hoặc thượng sĩ. Theo hệ thống trước đó, hạ sĩ quan trung bình chỉ được thăng cấp hai lần trong khoảng ba mươi năm phục vụ và duy trì ở cấp bậc cao nhất trong gần mười năm. Vai trò trong xã hội Nhật Bản Do phong trào chống chủ nghĩa quân phiệt, ủng hộ chủ nghĩa hòa bình lan rộng khắp Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Lực lượng Phòng vệ là đối tượng bị quần chúng chế giễu và khinh bỉ hàng đầu trong những năm đầu thành lập. Lực lượng này bị gọi một cách công khai là "bọn ăn trộm thuế" và quân nhân mặc quân phục có khi còn bị ném đá khi ra ngoài nơi công cộng. Sự đánh giá cao đối với JSDF lại tăng lên trong những năm 1980, với hơn một nửa số người được hỏi trong cuộc khảo sát năm 1988 bày tỏ sự quan tâm của mình đến JSDF, hơn 76% trong số đó cho thấy rằng họ có ấn tượng tốt. Mặc dù đa số (63,5%) người được hỏi đều nhận thức được rằng mục đích chính của JSDF là duy trì an ninh quốc gia, tuy nhiên vẫn có một số lượng lớn hơn (77%) coi hoạt động cứu trợ thiên tai đã là chức năng hữu ích nhất của JSDF. Do đó, Lực lượng Phòng vệ tiếp tục dành nhiều thời gian và nguồn lực của mình để cứu trợ thiên tai và làm thêm một vài hoạt động dân sự khác. Từ năm 1984 đến năm 1988, theo yêu cầu của các thống đốc tỉnh, JSDF đã hỗ trợ khoảng 3.100 hoạt động cứu trợ thảm họa, với sự tham gia của khoảng 138.000 nhân sự, 16.000 phương tiện, 5.300 máy bay và 120 tàu thuyền các loại. Loạt hoạt động cứu trợ thiên tai đã làm gia tăng sự yêu mến của quần chúng đối với lực lượng. Ngoài ra, JSDF còn tham gia vào những hoạt động phòng, chống thảm họa động đất và xử lí lượng lớn vật liệu nổ còn sót lại từ Chiến tranh thế giới thứ hai, đặc biệt là ở tỉnh huyện Okinawa. Lực lượng cũng tham gia vào nhiều dự án công trình công cộng, hợp tác quản lí các sự kiện thể thao, tham gia thám hiểm Nam Cực hàng năm, cũng như thực hiện khảo sát trên không để báo cáo về tình trạng băng giá cho ngư dân, hình thành địa lí cho các dự án xây dựng. Đặc biệt nhạy cảm trong việc duy trì mối quan hệ hài hòa với những cộng đồng gần các căn cứ quốc phòng, JSDF đã xây dựng nhiều con đường mới, mạng lưới thủy lợi và trường học ở những khu vực đó. Ngoài ra, hệ thống cách âm cũng được lắp đặt trong nhà và các công trình công cộng gần sân bay ồn ào. Ngày Kỉ niệm Lực lượng Phòng vệ là ngày kỉ niệm thành lập Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản, bắt đầu từ năm 1966. Mỗi năm Lực lượng Phòng vệ Mặt đất, Biển, và Trên không thay phiên nhau tổ chức duyệt binh. Bên cạnh đó còn có sự kiện âm nhạc dài ba ngày gọi là Lễ hội diễu hành Lực lượng Phòng vệ. Duyệt hạm Cuộc duyệt binh của Hạm đội 28 được tổ chức tại Vịnh Sagami vào ngày 18 tháng 10 năm 2015. 42 hạm tham gia hành trình kỷ niệm, gồm mẫu hạm JS Izumo và sáu hạm từ Úc, Pháp, Ấn Độ, Hàn Quốc và Hoa Kỳ. 37 máy bay của Lực lượng Phòng vệ Trên không và không lực Hoa Kỳ đã bay qua. Trong Ngày Kỉ niệm Lực lượng Phòng vệ năm 2018, Tổng lý Abe Shinzō đã duyệt binh JSDF tại Doanh trại Asaka. 4.000 quân lính, 260 xe tăng, phương tiện quân sự và 40 máy bay chiến đấu đã tham gia. Theo Abe, họ đã có được sự tin tưởng, trông cậy của quần chúng, và trách nhiệm của các chính khách nay là phải sửa đổi được hiến pháp năm 1947 cho JSDF, mang lại cho họ cảm giác tự hào. Bảo tàng Lực lượng Phòng vệ Đây là những bảo tàng giới thiệu về JSDF, trưng bày những truyền thống, vật chứng lịch sử của lực lượng này. Bảo tàng Hải thượng Tự vệ Đội Kure (海上自衛隊呉史料館) - giới thiệu về Lực lượng Phòng vệ Biển và gồm cả tiềm thủy đĩnh Akishio (SS-579) thuộc lớp Yūshio đã nghỉ hưu. Trung tâm Thông tin Công cộng JGSDF - cơ sở này có một bảo tàng trung bày các thiết bị và phương tiện chiến đấu thực sự của Lực lượng Phòng vệ Mặt đất. Căn cứ không quân Hamamatsu (浜松基地) - nơi đây có bảo tàng về Lực lượng Phòng vệ Trên không với máy bay, công nghệ hàng không, tokusatsu và lịch sử quân sự của đất nước Nhật Bản. Bảo tàng Lực lượng Phòng vệ Biển Sasebo - nơi có nhiều tư liệu lịch sử và trưng bày trang thiết bị của Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản. Bảo tàng Căn cứ Không quân Kanoya (海上自衛隊鹿屋航空基地史料館) - là bảo tàng lịch sử của Lực lượng Phòng vệ Trên không Nhật Bản ở thành phố Kanoya, tỉnh huyện Kagoshima. Hình ảnh Xem thêm Bộ Quốc phòng Nhật Bản Nhật Bản Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Lực lượng Phòng vệ Biển Lực lượng Phòng vệ Trên không Ghi chú Tham khảo Nguồn Liên kết ngoài Bộ Quốc phòng Nhật Bản Joint Staff Website Trang web Lực lượng Phòng vệ Đánh bộ Trang web Lực lượng Phòng vệ Đánh biển Trang web Lực lượng Phòng vệ Đánh không Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai Quân sự Nhật Bản Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản
VI_open-0000000102
Sensitive_Subjects
Ngày 25 tháng 7 năm 1993, quân Israel mở cuộc tấn công kéo dài 7 ngày vào Liban, gọi là Chiến dịch Hạch tội (tiếng Anh: Operation Accountability), với 3 mục đích: đánh nhóm Hezbollah, tàn phá nơi trú ẩn của nhóm này, và đuổi dân tị nạn Palestine để tạo áp lực bắt Liban phải trừng trị Hezbollah. Thường dân Liban và Palestine bị ảnh hưởng chiến tranh rất nặng nề. Chú thích Xung đột tại Trung Đông
VI_open-0000000104
Sensitive_Subjects
Quận 4 (còn có tên là arrondissement de l'Hôtel-de-Ville - quận của tòa thị chính, nhưng tên gọi này ít được dùng trong đời sống thường nhật) nằm ở trung tâm Paris, hữu ngạn sông Seine. Nó được bao quanh bởi quận 1, 3, 11 và 12. Một phần phía đông đảo Île-de-la-Cité và cả đảo Île Saint-Louis thuộc Quận 4. Với vị trí trung tâm, Quận 4 có sự hiện diện của nhiều công trình quan trọng: Nhà thờ Đức Bà Paris, Tòa thị chính Paris, Trung tâm Pompidou... Vào thế kỷ 19, khu phố Marais đã thu hút cộng đồng người Do Thái. Đến thập niên 1990, những người đồng tính luyến ái cũng tập trung ở khu phố gần Tòa thị chính với nhiều nhà hàng, quán bar. Năm 1999, dân số của quận là 30.675 người với diện tích 160 ha, tức 19.172 người/km². Xem thêm Tham khảo Liên kết ngoài Quận nội thị của Pháp
VI_open-0000000111
People_and_Society
Ciego de Ávila là một tỉnh của Cuba, trước đây nó là một phần của tỉnh Camagüey. Thủ phủ tỉnh này là Ciego de Ávila nằm ở Carretera Central (xa lộ miền trung), và thành phố thứ hai là Morón, nằm về phía bắc. Ngoài khơi phía bắc của tỉnh này có quần đảo Jardines del Rey được phát triển làm khu nghỉ mát du lịch, chủ yếu là Cayo Coco và Cayo Guillermo. Bờ biển nam là các rừng đước. Giữa Morón và bờ bắc có nhiều hồ, bao gồm Laguna de Leche ("Phá sữa", vì nước có màu trắng do có lượng lớn đá vôi nằm dưới đáy hồ. Central Ciego de Ávila là nơi nuôi gia súc, trồng mía đường, các loại cây chanh cam, bưởi chùm. Tỉnh này được tách từ tỉnh Camagüey năm 1975. Các đô thị Source: Population from 2004 Census. Area from 1976 municipal re-distribution. Dân số Năm 2004, tỉnh Ciego de Ávila có dân số 416.370. Với tổng diện tích , mật độ dân số . Tham khảo Liên kết ngoài Ciego de Ávila Tỉnh của Cuba
VI_open-0000000112
Travel_and_Transportation
Lavochkin-Gorbunov-Goudkov LaGG-1 (Лавочкин-Горбунов-Гудков ЛаГГ-1) là một máy bay tiêm kích của Liên Xô trong Chiến tranh Thế giới II. Dù đây là một loại máy bay chiến đấu không được thành công, nhưng hình dáng của nó lại là thiết kế cơ bản cho một số máy bay chiến đấu nổi tiếng của Liên Xô trong chiến tranh. Lịch sử LaGG-1 được thiết kế vào năm 1938 như một máy bay hạng nhẹ sử dụng động cơ Klimov M-105 và gỗ dán trong chế tạo để hạn chế sử dụng các nguyên liệu kim loại đang rất khan hiếm vào thời điểm đó. Nguyên mẫu đầu tiên vào ngày 30 tháng 3 năm 1939, và sau một số khó khăn ban đầu nó đã được chứng minh là một mẫu máy bay chiến đấu đầy hứa hẹn bởi những nhà thiết kế. Trong giai đoạn này, nhu cầu về những máy bay hiện đại để hiện đại hóa Không quân Xô Viết đã được thực hiện do những mất mát trong Chiến tranh Mùa đông với Phần Lan, và những máy bay lúc đầu được gọi là I-22 đã được chấp nhận để sản xuất hàng loạt. Khoảng 100 chiếc đã được gửi tới những phi đội để thử nghiệm đánh giá, tại đây những khuyết điểm đã nhanh chóng bộc lộ. Máy bay không có động cơ đủ mạnh, thiếu khả năng cơ động và tầm hoạt động. Hơn nữa, trong khi 7 nguyên mẫu được chế tạo cẩn thận theo đơn đặt hàng riêng và kết thúc thử nghiệm với tiêu chuẩn chất lượng đạt rất cao, thì những chiếc được sản xuất hàng loạt này lại tương đối chưa hoàn thiện, và những chiếc máy bay này chỉ góp phần thêm vào tình trạng yếu kém hiện có trong Không quân Xô Viết. Những báo cáo về các vấn đề của LaGG-1 đã được gửi tới đội thiết kế, và một loạt những cải tiến đã được thực hiện dẫn đến sự xuất hiện của LaGG-3. Quốc gia sử dụng Không quân Xô Viết Thông số kỹ thuật (LaGG-1) Đặc điểm riêng Phi đoàn: 1 Chiều dài: 8.81 m (28 ft 11 in) Sải cánh: 9.80 m (32 ft 2 in) Chiều cao: 4.40 m (14 ft 5 in) Diện tích cánh: 17.5 m² (188 ft²) Trọng lượng rỗng: 2.478 kg (5.463 lb) Trọng lượng cất cánh: 2.968 kg (6.543 lb) Trọng lượng cất cánh tối đa: 3.380 kg (7.452 lb) Động cơ: 1× động cơ V-12 làm lạnh bằng chất lỏng Klimov M-105P, 820 kW (1.100 hp) Hiệu suất bay Vận tốc cực đại: 605 km/h (377 mph) Tầm bay: 556 km (346 mi) Trần bay: 9.600 m (31.500 ft) Vận tốc lên cao: 14.3 m/s (2.804 ft/min) Lực nâng của cánh: 170 kg/m² (35 lb/ft²) Lực đẩy/trọng lượng: 270 W/kg (0.17 hp/lb) Vũ khí 2x súng máy 7.62 mm ShKAS đặt phía trên động cơ 1x pháo 20 mm ShVAK Tham khảo Chú thích Thư mục Abanshin, Michael E. and Gut, Nina. Fighting Lavochkin, Eagles of the East No.1. Lynnwood, WA: Aviation International, 1993. ISBN unknown. Gordon, Yefim. Lavochkin's Piston-Engined Fighters (Red Star Volume 10). Earl Shilton, Leicester, UK: Midland Publishing Ltd., 2003. ISBN 1-85780-151-2. Gordon, Yefim and Khazanov, Dmitri. Soviet Combat Aircraft of the Second World War, Volume One: Single-Engined Fighters. Earl Shilron, Leicester, UK: Midland Publishing Ltd., 1998. ISBN 1-85780-083-4. Green, William. Warplanes of the Second World War, Volume Three: Fighters. London: Macdonald & Co. (Publishers) Ltd., 1961 (seventh impression 1973). ISBN 0-356-01447-9. Green, William and Swanborough, Gordon. WW2 Aircraft Fact Files: Soviet Air Force Fighters, Part 1. London: Macdonald and Jane's Publishers Ltd., 1977. ISBN 0-354-01026-3. Keskinen, Kalevi; Stenman, Kari and Niska, Klaus. Venäläiset Hävittäjät (Suomen Ilmavoimien Historia 7) (in Finnish with English Summary). Espoo, Finland: Tietoteos, 1977. ISBN 951-9035-25-7. Stapfer, Hans-Heiri. LaGG Fighters in Action (Aircraft in Action Number 163). Carrollton, TX: Squadron/Signal Publications, Inc., 1996. ISBN 0-89747-634-7. Nội dung liên quan Máy bay có cùng sự phát triển LaGG-3 Lavochkin La-5 Lavochkin La-7 Máy bay có tính năng tương đương Messerschmitt Bf 109 Supermarine Spitfire Curtiss P-40 Kawasaki Ki-61 Trình tự thiết kế LaGG-1 - LaGG-3 - La-5 - La-7 Xem thêm Danh sách máy bay quân sự của Liên bang Xô viết và CIS Danh sách máy bay trong Chiến tranh Thế giới II Danh sách máy bay tiêm kích Máy bay Lavochkin Máy bay quân sự Liên Xô thập niên 1930 Máy bay tiêm kích Liên Xô và Nga Máy bay cánh dưới Máy bay một động cơ cánh quạt
VI_open-0000000113
Autos_and_Vehicles
Sông Chindwin (tiếng Myanmar chuyển ngữ: Chindwin Myit) là một dòng sông ở Myanmar và là chi lưu lớn nhất của sông Ayeyarwady. Sông có chiều dài 1207 km. Nguồn của sông này ở đỉnh Shwedaunggyi (trong dãy núi Kumon phía Bắc Myanmar) cao 1134 m so với mực nước biển. Sông Chidwin có các chi lưu lớn là sông Uyu (hợp với Chidwin ở gần thị trấn Homalin, Tây Bắc Myanmar), sông Uy, sông Myittha. Chindwin đổ vào Ayeyarwady tại điểm có tọa độ địa lý là . Do sông Chindwin thường chảy giữa các hẻm và thung lũng cao với rừng rậm bao phủ, nên việc tiếp cận dòng sông này không dễ và vì thế nó chưa được khai thác nhiều. Sông này cùng dãy núi cao phía Tây của nó là bức thành tự nhiên của Myanmar. Tham khảo Liên kết ngoài Sông Chidwin Sông Myanmar
VI_open-0000000115
Travel_and_Transportation
Quần đảo Sunda Lớn (tiếng Indonesia: Kepulauan Sunda Besar) là một nhóm các đảo nằm trong bán đảo Mã Lai. Các đảo bao gồm trong nhóm này bao gồm (từ tây sang đông): Sumatra, Java, Borneo, Sulawesi và các đảo phụ cận nhỏ hơn. Nhóm đảo này thuộc các quốc gia Brunei, Indonesia, và Malaysia. Cùng với quần đảo Sunda Nhỏ ở phía đông, chúng tạo nên quần đảo Sunda. Chú thích Quần đảo Đông Nam Á Quần đảo của Indonesia Quần đảo quốc tế Đông Nam Á hải đảo Quần đảo vòng cung núi lửa
VI_open-0000000116
Travel_and_Transportation
Liên đoàn bóng đá quốc gia Eritrea () là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Eritrea. Liên đoàn quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Eritrea và tổ chức giải vô địch bóng đá Eritrea. Liên đoàn bóng đá Eritrea gia nhập CAF năm 1994 và FIFA năm 1998. Tham khảo Liên kết ngoài Eritrea trên trang chủ của FIFA. Eritrea Bóng đá Eritrea
VI_open-0000000117
Sports
Lampang là một thành phố, thủ phủ của tỉnh Lampang, Thái Lan. Thành phố Lampang có diện tích km2, dân số năm 2006 là: 60.591 người. Thành phố này đã có các tên Wiang Lakon và Khelang Nakhon. Đây là thành phố lớn thứ 3 tại phía bắc Thái Lan. Lampang nằm ở trong Thung lũng của sông Wang, giáp dãy núi Khuntan về phía tây và dãy núi Pi-Pan-Num về phía đông. Sông Wang, một chi lưu chính của sông Chao Phraya chảy xuyên quan thành phố này. Tham khảo Liên kết ngoài Thành phố của Thái Lan Tỉnh Lampang
VI_open-0000000118
Travel_and_Transportation
Vụ phát hành tập thơ "Trần Dần – Thơ" là diễn trình sự kiện và vụ việc liên quan đến việc phát hành tập thơ của cố nhà thơ Trần Dần, nhân vật được coi là đi đầu trong phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm (1955 – 1958), xảy trong những tháng đầu năm 2008 tại Việt Nam mà chủ yếu từ sau khi xuất hiện bức Thư ngỏ do các nhà văn, nhà nghiên cứu đồng ký tên đề nghị thu hồi quyết định ngừng phát hành tập thơ. Tập Trần Dần – Thơ tập hợp các bài thơ của Trần Dần được Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam phối hợp với Nhà Xuất bản Đà Nẵng phát hành dưới sự cấp phép của Cục Xuất bản Việt Nam nhưng ngay sau đó đã xảy ra một số rắc rối xung quanh vấn đề phát hành thi tuyển này. Liên quan đến vụ việc, ngày 5 tháng 3 năm 2008, 134 người là các nhà văn hóa, tác giả văn học và nhà nghiên cứu ở trong cũng như ngoài nước (Việt Nam) đồng ký tên vào một bức thư ngỏ gửi đến Quốc hội cùng Văn phòng Thủ tướng Chính phủ Việt Nam, v.v..., kiến nghị nhà nước xem xét lại quyết định đình chỉ việc lưu hành tập thơ mang tên "Trần Dần – Thơ" của Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam, mặc dù tập thơ này đã có giấy phép do Cục xuất bản cấp và đã phát hành được vài ngày. Cuối cùng quyết định chính thức của Cục Xuất bản Việt Nam là xử phạt hành chính công ty Nhã Nam 15 triệu đồng và tiếp tục cho lưu hành tập thơ. Bối cảnh Khi được Cục xuất bản cấp phép, Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam đã dành khá nhiều công sức cho việc giới thiệu quyển thơ của Trần Dần, nhân vật được coi là đi đầu trong phong trào Nhân văn Giai phẩm, một thời gian dài bị lên án, bị cấm tại Việt Nam. Nhưng gần đây thơ Trần Dần được công nhận trở lại, được đánh giá công trạng, tháng 3 năm 2007 Trần Dần được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học là phần thưởng cao quý cấp nhà nước. Tuy vậy, giới lãnh đạo văn nghệ tại Việt Nam có vẻ vẫn còn ít nhiều e dè với cả lý lịch lẫn tư tưởng cách tân của nhà thơ Trần Dần. Sau khi cuốn sách do Nhã Nam hợp tác với nhà xuất bản Đà Nẵng đã được phát hành, nhưng tại Ngày thơ Việt Nam lần thứ VI (ngày 21 tháng năm 2008) ở Hà Nội tổ chức tại Văn Miếu, tập Trần Dần – Thơ đã không được phép đưa vào bán bình thường như các cuốn sách khác, theo một lệnh miệng từ Cục xuất bản . Tiếp theo, ngày 26 tháng 2 năm 2008, Bộ Văn hóa Thông tin và Truyền thông ra lệnh phong tỏa tất cả số sách còn lại nằm trong kho của hai cơ sở này với lý do là giấy phép của Cục Xuất Bản không hợp lệ. Với quyết định này, Bộ Thông tin và Truyền thông tỏ ra bất nhất đối với một nhà thơ đã chết và đã trả đủ nợ Nhân văn Giai phẩm với nhiều năm tù và chết trong cô đơn chỉ vì một bài thơ, nhưng đã được minh định lại với phần thưởng cao quý là giải thưởng Nhà nước về văn học. Sau khi sự việc xảy ra lập tức một làn sóng phản đối nổi lên khắp nơi, đặc biệt là tại thủ đô Hà Nội nơi sinh trưởng của nhà thơ và cũng là nơi tập trung nhiều nhà hoạt động văn hóa, văn nghệ trong nước. Các nhà văn hóa trong đó có giáo sư, nhà văn, dịch giả, Phó chủ tịch Hội Nhà văn Hà nội,... đã viết bức thư ngỏ, lúc đầu chỉ có tám người ký tên, ngày 5 tháng 3 năm 2008 đã có 134 người ký tên kiến nghị nhà nước thu hồi quyết định ngưng cho phát hành tập thơ. Lý do vụ việc Công ty Nhã Nam cho biết vào ngày 25 tháng 2, công ty này nhận được công văn từ Bộ Thông tin và Truyền thông về việc yêu cầu báo cáo và giải trình việc xuất bản cuốn thơ Trần Dần không theo đúng quy định xuất bản, bởi "quyết định xuất bản số 573/QĐ-ĐaN ngày 10 tháng 8 năm 2007 do ông Nguyễn Đức Hùng, Phó Giám đốc – Tổng biên tập ký không có hiệu lực để thực hiện xuất bản cuốn Thơ của tác giả Trần Dần". Nhưng theo quan điểm của Nhã Nam thì tập Trần Dần – Thơ đã hoàn toàn tuân thủ mọi quy trình xuất bản do Nhà xuất bản Đà Nẵng đề ra. Thông tin này được BBC ghi nhận trong bài viết "Trao thư ngỏ về vụ thơ Trần Dần". Thông tin chính thức trên báo chí cho biết phía quản lý Nhà nước khẳng định cho ngưng tập thơ không vì "nội dung" hay "vì Trần Dần" mà chỉ thuần túy là do các thủ tục hành chính. Theo ông Nguyễn Đức Hùng (tức nhà văn Đà Linh) – Phó GĐ kiêm Tổng biên tập Nhà xuất bản Đà Nẵng- thì tập thơ đã đăng ký đề tài xuất bản từ năm 2006, và đã được chủ quản là Ủy ban Nhân dân Thành phố Đà Nẵng thông qua, sau đó được Cục Xuất bản chấp nhận bằng Văn bản số 816-2006/CXB/05/79/DaN (ngày 2/11/2006). Nhưng do một số lý do không chuẩn bị kịp, sang năm 2007, bản thảo này được đăng ký lại, ủy ban thành phố lại một lần nữa thông qua, sau đó lại được Cục Xuất bản chuẩn y theo kế hoạch xuất bản hàng năm bằng Văn bản số 279-2007/CXB/33-27/DaN (vào ngày 17 tháng 4 năm 2007). Chính ông Hùng ký quyết định xuất bản. Điều ngạc nhiên đến ngày 11 tháng 8 năm 2007, ông Nguyễn Hữu Chiến là giám đốc mới, mới về mhậm chức Giám đốc Nhà xuất bản Đà Nẵng trước đó 10 ngày, lại ký một quyết định khác thu hồi quyết định cho xuất bản do ông Hùng đã ký trước đó 1 ngày. Ông Chiến ký quyết định thu hồi nhưng không hề trao đổi với ông Nguyễn Đức Hùng -người đã ký quyết định cho xuất bản trước đó- về quyết định thu hồi này. Mặt khác, tuy quyết định ngưng việc xuất bản "Trần Dần – Thơ" đã được ông Nguyễn Hữu Chiến ký từ ngày 11 tháng 8 năm 2007, nhưng mãi đến 25 tháng 2 năm 2008, Cục Xuất bản mới nhận được. Vì lý do trên, Nhã Nam đã bị Chánh thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam yêu cầu báo cáo, giải trình bởi không đúng quy định xuất bản. Ông Hùng phó giám đốc trực kiêm bí thư đảng ủy Nhà xuất bản nói:"Suốt 23 năm qua tại Nhà xuất bản Đà Nẵng tôi đã từng ký xuất bản hàng trăm cuốn sách, nhưng chưa khi nào xảy ra sự việc như thế này... Là Phó GĐ trực – Tổng biên tập kiêm Bí thư Đảng ủy, từ trước tới nay giữa các đời giám đốc và tôi cùng chịu trách nhiệm như nhau trong mọi quyết định của Nhà xuất bản, điều này hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Luật Xuất bản...". Ngày 26 tháng 2 năm 2008, một đoàn cán bộ Bộ Thông tin và Truyền thông, Cục Xuất bản... tới công ty Nhã Nam lập biên bản ngừng phát hành tập thơ, niêm phong toàn bộ sách trong kho. Tuy nhiên số sách này, nói như ông Chánh thanh tra Bộ thì "hình như họ in nhiều, giờ trong kho chẳng còn đáng mấy". Ngày 5 tháng 3 năm 2008, 134 người là các nhà văn hóa, học giả, khoa học lên tiếng đề nghị thu hồi lại quyết định ngừng phát hành tập thơ, viết thư ngỏ gửi đến Quốc hội và Chính phủ Việt Nam. Lý do họ viết thư ngỏ bởi vì, theo như họ viết trong thư: "chúng tôi lấy làm hoài nghi lý do được đưa ra để ngưng phát hành Trần Dần – Thơ", họ sợ rằng "Trần Dần Thơ" sẽ lại bị thu hồi và thủ tiêu với lý do vi phạm hành chính giống như tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000 của nhà văn Bùi Ngọc Tấn (2000) và việc gỡ bỏ tác phẩm đang triển lãm của hai họa sĩ Trương Tân và Nguyễn Quang Huy (2007). "Hai vụ việc này đều được thực hiện với lý do vi phạm hành chính, mặc dù ai cũng hiểu bản chất thực của việc cấm đoán là gì", mà "không bao giờ có một văn bản đàng hoàng nói rõ lý do sách hoặc tranh bị cấm ra mắt công chúng". Xử lý của cơ quan chức năng: Nhắc nhở và phạt chính thức Ngày 7 tháng 3, công văn số 145/QĐ- XPHC do ông Nguyễn Thanh Hải ký, không nói gì đến tiêu hủy hay đình chỉ, mà là: nhắc nhở và phạt Nhã Nam "Xuất bản Thơ Trần Dần không có quyết định của Giám đốc Nhà xuất bản". Cụ thể: Công ty cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam không kiểm tra giấy ủy quyền của Phó Giám đốc, đã ký hợp đồng với Phó Giám đốc vào ngày 10 tháng 8 năm 2007, nên đã thực hiện hợp đồng vô hiệu. Phạt Nhã Nam tiền mặt 15 triệu đồng và hình thức phạt bổ sung là: Tịch thu 19 cuốn "Thơ Trần Dần" (vốn bị niêm phong từ hôm 26/2) và tiếp tục cho phát hành tập thơ. Ý kiến Giáo sư Nguyễn Huệ Chi (Nguyên Chủ tịch Hội đồng khoa học, Viện Văn học Việt Nam) người giữ trọng trách biên tập và gửi bức thư ngỏ nói: "Chúng tôi thấy việc làm như thế là tùy tiện và hoàn toàn không có cơ sở. Đặt vấn đề thu hồi một cuốn sách, mà một cuốn sách đó chỉ có thêm giá trị văn hóa cho đất nước này thôi. Cho nên chúng tôi làm việc ấy cũng chỉ với thiện chí làm muốn tránh cho nhà nước khỏi một dư luận, mà dư luận đấy theo tôi là sẽ không hay, sẽ rất không hay cho nhà nước này"."Bởi vì việc này từ trước không ai dám nói, đối với những cuốn sách trước nó cũng chẳng có chuyện gì cả thế mà cũng đùng đùng thu hồi. Và người ta vẫn cứ im lặng chịu đựng chuyện ấy. Bây giờ thì chúng tôi phải lên tiếng và lên tiếng một cách minh bạch và có phép tắc hẳn hoi. Chúng tôi sẽ đến gặp Quốc hội để trình thư ngỏ này với 134 nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà văn, văn nghệ sĩ". Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên (Phó chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội, Trưởng phòng văn học so sánh, Viện Văn học (Việt Nam)) cũng là một người ký tên vào thư nói:"Cái bức xúc thứ nhất thường là không nêu rõ lý do vì sao như vậy. Hoặc là lý do nó ẩn đàng sau đó nhưng lại quy về các vấn đề hành chính, chớ không chịu nói thẳng ra rằng là tác phẩm này là xấu, là vi phạm cái này cái khác. Tất cả những vụ việc thường chỉ được quy về lý do hành chính, lý do bên ngoài. Đó là một sự gây bức xúc. Thế thì từ xuất phát tình hình đó thì nhóm nhà văn, nghệ sĩ trong đó có nhà thơ dịch giả Chân Tường, nhà văn nhà giáo dịch giả Phạm Toàn, Châu Diên, giáo sư Nguyễn Huệ Chi và tôi nghĩ rằng là ở đây dù có thể giải quyết về vụ vi phạm hành chính nhưng nó có thể không còn là tiền lệ nữa mà nó là lập lại một cái một vấn đề mà lâu nay ứng xử của các cơ quan nhà nước quản lý về tác phẩm văn học nghệ thuật như vậy thì nên có một tiếng nói của giới văn nghệ sĩ gởi đến những người có trách nhiệm để thứ nhất giải tỏa việc này". Nhà thơ Bùi Minh Quốc gửi thư cho Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông CHXHCN Việt Nam, Tổng Thanh tra Chính phủ CHXHCN Việt Nam, Ban Tuyên giáo Trung ương và Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam cùng toàn thể các đồng nghiệp trong Hội. Ông viết: "Việc bắt phải ngừng phát hành tập sách Trần Dần – Thơ với lý do "vi phạm hành chính về xuất bản" cần phải được công bố công khai trên các báo đài trong nước để "dân biết, dân bàn"". "Theo nhận xét của riêng tôi, việc bắt phải ngừng phát hành tập sách Trần Dần – Thơ với lý do "vi phạm hành chính về xuất bản" thực chất chỉ là hành vi tiếp tục vùi dập một công trình văn hóa bị buộc phải cất kỹ trong ngăn kéo đằng đẵng bao năm qua, trong khi đáng ra công trình ấy cần được đưa tới bạn đọc càng sớm càng tốt". "Nhà thơ Trần Dần đã được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (cùng với các bạn ông trong nhóm Nhân văn-Giai phẩm là Phùng Quán, Hoàng Cầm, Lê Đạt), đấy là biểu hiện một bước nhích tới rất đáng khích lệ của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc đổi mới. Hành vi của một số người chủ chốt trong đoàn thanh tra liên ngành do Bộ Thông tin–Truyền thông cầm đầu thực chất là hành vi chống đổi mới, làm tổn thương danh dự của Đảng và Nhà nước ta trước giới trí thức văn nghệ sĩ cả nước và toàn thế giới"."Vì vậy, tôi khẩn thiết yêu cầu Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt nam cần có thái độ về vụ việc này đồng thời tổ chức ngay một hội thảo chuyên đề về hai tác phẩm bị cấm, bị nghiền là Trần Dần – Thơ và tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000".Ông Nguyễn Đức Hùng – Phó giám đốc, Tổng biên tập Nhà xuất bản Đà Nẵng cho rằng: "Luật xuất bản chỉ là hành lang pháp lý, còn thực tiễn áp dụng lại phụ thuộc vào tình hình thực tế của từng Nhà xuất bản".Ông Nguyễn Kiểm, Cục trưởng Cục Xuất bản cho biết việc ông Hùng tự ý ra quyết định xuất bản Trần Dần – thơ, mà không có ủy quyền của giám đốc là sai thẩm quyền: "Sự phối hợp không ăn ý giữa những người tổ chức thực hiện và đối tác liên kết đã dẫn đến việc một số ấn bản Trần Dần - thơ bị thu hồi, gây dư luận không tốt là Nhà nước cấm đoán. Cục Xuất bản khẳng định không cấm xuất bản Trần Dần - thơ. Việc cho in bài này, không in bài kia là "gu" của từng giám đốc Nhà xuất bản. Phó giám đốc có thể không tâm phục nhưng phải chấp thuận vì quyền hạn, trách nhiệm đã được quy định. Còn giám đốc Nhà xuất bản có đủ năng lực, trình độ hay không thì lại là việc khác". Chú thích Xem thêm Trần Dần Liên kết ngoài Toàn văn nội dung "Trần Dần – Thơ": Thư Giới thiệu của Hội Luận Nhiều bất cập trong liên kết xuất bản- Ai mới được ký giấy phép xuất bản? tác giả Y Vân, bài đăng trên Thanhnien Online. Xử lý hành chính Văn chương án Năm 2008
VI_open-0000000120
Books_and_Literature
Sharp LH-0080 là một phiên bản tương thích hoàn toàn với phiên bản gốc NMOS của bộ xử lý ZiLOG Z80. Nó được sử dụng trong một vài máy tính gia đình ở Nhật Bản và máy tính cá nhân sản xuất bởi Sharp và các nhà sản xuất khác. Tham khảo Vi xử lý
VI_open-0000000121
Computers_and_Electronics
Chiyotaikai Ryūji (千代大海龍二, Thiên Đại Đại Hải Long Nhị), tên thật là Hiroshima Ryūji (廣嶋龍二, Quảng Đảo Long Nhị), là một lực sĩ Sumo chuyên nghiệp người Nhật Bản, xuất thân từ thành phố Ōita, tỉnh Ōita. Anh mang cấp Ōzeki và đã từng ba lần đoạt chức vô địch. Chiyotaikai sinh ngày 29 tháng 4 năm 1976, hiện cao 181 cm và nặng 158 kg. Từ nhỏ, Chiyotaikai đã có thân hình cao to hơn các bạn cùng tuổi. Trước khi đến với Sumo, anh đã từng tập Judo và Karate. Khi đang học năm thứ hai trung học, anh đã đoạt giải ba vô địch Judo học sinh trung học năm thứ hai toàn quốc. Năm sau, anh khai gian tuổi để dự giải vô địch Kyokshin Karate toàn Kyushu và đoat giải ba, nhưng sau đó bị phát giác và bị thu hồi giải. Hết trung học, Chiyotaikai bắt đầu làm quen với Sumo tại lò võ Kokonoe của yokozuna Chiyonofuji Mitsugu. Tháng 11 năm 1992, Chiyotaikai bắt đầu thi đấu trong giải sumo nhà nghề. Mùa giải tháng 1 năm 1999, anh thắng 13 trận và thua 2 trận, đoạt chức vô địch đầu tiên và được phong Ōzeki. Chức vô địch gần đây nhất của anh là vào mùa giải tháng 3 năm 2003. Tham khảo Lực sĩ Sumo Ōita Nhân vật còn sống
VI_open-0000000123
Sports
Tân Giới (, ) là một trong ba khu vực chính của Hồng Kông, bên cạnh đảo Hồng Kông và bán đảo Cửu Long. Khu vực này chiếm 86,2% diện tích và khoảng một nửa dân số của vùng lãnh thổ này. Tân Giới được nhà Thanh cho Anh Quốc thuê 99 năm theo một điều ước được ký vào năm 1898. Lịch sử Ngày 9 tháng 6 năm 1898, Anh Quốc và triều đình Mãn Thanh ký kết điều ước "Mở rộng địa giới Hồng Kông" tại Bắc Kinh, thuê nhượng vùng đất từ phía bắc đường giới tuyến Cửu Long đến bờ nam sông Thâm Quyến, cùng 233 hòn đảo lân cận như Đại Tự Sơn, Nam Nha, Trường Châu và Bình Châu, kỳ hạn 99 năm cho đến năm 1997 thì chấm dứt hiệu lực. Vì vùng đất mới thuê nhượng chưa có một danh xưng thống nhất, cho nên người Anh mới gọi luôn là New Territories (tạm dịch: "Vùng lãnh thổ mới"), phiên sang tiếng Trung là "Tân Giới", có thể ngụ ý là "đường biên giới mới". Đường giới tuyến cũ phân cách vùng đất thuê nhượng (Tân Giới) và vùng đất cắt nhượng (Cửu Long), sau này được phát triển thành con đường lớn mang tên Phố Giới Hạn. Tân Giới vốn chỉ vùng đất từ Phố Giới Hạn đến bờ nam sông Thâm Quyến, nhưng do sự phát triển của thành thị, khu vực từ phía bắc của Phố Giới Hạn đến phía nam núi Sư Tử đã được sáp nhập vào các khu vực của Cửu Long (còn gọi là Tân Cửu Long). Địa lý và phân hoạch hành chính Căn cứ văn bản được công bố vào tháng 12 năm 2003 của Tổng cục Địa chánh Hồng Kông, diện tích của toàn Tân Giới vào khoảng 747,18 km². Tính luôn cả đảo Đại Dữ Sơn và 233 đảo lân cận, tổng diện tích ước khoảng 975,23 km². Theo Bách khoa toàn thư Britannica, diện tích Tân Giới là 952 km². Phân định hành chính có chín khu (quận), mỗi đều có một nghị hội khu của riêng mình, đó là: Khu Ly Đảo (các đảo ngoài khơi) Khu Quý Thanh Khu Bắc Khu Tây Cống Khu Sa Điền Khu Đại Bộ Khu Thuyên Loan Khu Đồn Môn Khu Nguyên Lãng Về phân chia khu vực bầu cử hội đồng lập pháp, Tân Giới lại chia làm hai khu: Tân Giới Đông: bao gồm Khu Bắc, Đại Bộ, Sa Điền và Tây Cống (được 07 ghế) Tân Giới Tây: bao gồm khu Thuyên Loan, Đồn Môn, Nguyên Lãng, Quý Thanh và Ly Đảo (được 08 ghế). Nhân khẩu Căn cứ bản điều tra nhân khẩu Hồng Kông năm 2011, tổng dân số của Tân Giới là 3.691.093 người, chiếm 52,2% dân số Hồng Kông; mật độ 3.801 người/km². Tham khảo Khởi đầu năm 1898 Tranh chấp lãnh thổ của Trung Hoa Dân Quốc Bán đảo Trung Quốc
VI_open-0000000124
Law_and_Government
Andipatti Jakkampatti là một thị xã panchayat của quận Theni thuộc bang Tamil Nadu, Ấn Độ. Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Andipatti Jakkampatti có dân số 22.992 người. Phái nam chiếm 51% tổng số dân và phái nữ chiếm 49%. Andipatti Jakkampatti có tỷ lệ 74% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 82%, và tỷ lệ cho phái nữ là 66%. Tại Andipatti Jakkampatti, 11% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. Tham khảo Thành phố thuộc bang Tamil Nadu ta:ஆண்டிப்பட்டி ஜக்கம்பட்டி
VI_open-0000000125
People_and_Society
Baghpat là một thành phố và là nơi đặt ban đô thị (municipal board) của quận Baghpat thuộc bang Uttar Pradesh, Ấn Độ. Địa lý Baghpat có vị trí Nó có độ cao trung bình là 223 mét (731 foot). Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Baghpat có dân số 36.365 người. Phái nam chiếm 53% tổng số dân và phái nữ chiếm 47%. Baghpat có tỷ lệ 46% biết đọc biết viết, thấp hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 54%, và tỷ lệ cho phái nữ là 38%. Tại Baghpat, 20% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. Tham khảo Thành phố thuộc bang Uttar Pradesh
VI_open-0000000126
People_and_Society
Bhalswa Jahangir Pur là một thị trấn thống kê (census town) của quận North West thuộc bang Delhi, Ấn Độ. Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Bhalswa Jahangir Pur có dân số 151.427 người. Phái nam chiếm 55% tổng số dân và phái nữ chiếm 45%. Bhalswa Jahangir Pur có tỷ lệ 59% biết đọc biết viết, thấp hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 67%, và tỷ lệ cho phái nữ là 50%. Tại Bhalswa Jahangir Pur, 17% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. Tham khảo Thành phố thuộc lãnh thổ Delhi
VI_open-0000000127
People_and_Society
Chak Enayetnagar là một thị trấn thống kê (census town) của quận South Twentyfour Parganas thuộc bang Tây Bengal, Ấn Độ. Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Chak Enayetnagar có dân số 5661 người. Phái nam chiếm 50% tổng số dân và phái nữ chiếm 50%. Chak Enayetnagar có tỷ lệ 54% biết đọc biết viết, thấp hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 60%, và tỷ lệ cho phái nữ là 47%. Tại Chak Enayetnagar, 17% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. Tham khảo Thành phố thuộc bang West Bengal
VI_open-0000000128
People_and_Society
Dasna là một thị xã và là một nagar panchayat của quận Ghaziabad thuộc bang Uttar Pradesh, Ấn Độ. Địa lý Dasna có vị trí Nó có độ cao trung bình là 207 mét (679 feet). Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Dasna có dân số 24.428 người. Phái nam chiếm 54% tổng số dân và phái nữ chiếm 46%. Dasna có tỷ lệ 45% biết đọc biết viết, thấp hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 56%, và tỷ lệ cho phái nữ là 32%. Tại Dasna, 22% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. Tham khảo Thành phố thuộc bang Uttar Pradesh
VI_open-0000000129
People_and_Society
Islampur là một thành phố và khu đô thị của quận Uttar Dinajpur thuộc bang Tây Bengal, Ấn Độ. Địa lý Islampur có vị trí Nó có độ cao trung bình là 21 mét (68 feet). Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Islampur có dân số 52.766 người. Phái nam chiếm 54% tổng số dân và phái nữ chiếm 46%. Islampur có tỷ lệ 63% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 68%, và tỷ lệ cho phái nữ là 57%. Tại Islampur, 15% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. Tham khảo Thành phố thuộc bang West Bengal en:Islampur new:इस्लामपुर
VI_open-0000000130
People_and_Society
Gubbi là một thị xã panchayat của quận Tumkur thuộc bang Karnataka, Ấn Độ. Địa lý Gubbi có vị trí Nó có độ cao trung bình là 767 mét (2516 feet). Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Gubbi có dân số 16.802 người. Phái nam chiếm 51% tổng số dân và phái nữ chiếm 49%. Gubbi có tỷ lệ 76% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 80%, và tỷ lệ cho phái nữ là 71%. Tại Gubbi, 11% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. Tham khảo Thị trấn thuộc huyện Tumkur
VI_open-0000000131
People_and_Society
Jambai là một thị xã panchayat của quận Erode thuộc bang Tamil Nadu, Ấn Độ. Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Jambai có dân số 14.999 người. Phái nam chiếm 51% tổng số dân và phái nữ chiếm 49%. Jambai có tỷ lệ 54% biết đọc biết viết, thấp hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 63%, và tỷ lệ cho phái nữ là 45%. Tại Jambai, 9% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. Tham khảo Thành phố thuộc bang Tamil Nadu
VI_open-0000000132
People_and_Society
Kankavli là một thị trấn thống kê (census town) của quận Sindhudurg thuộc bang Maharashtra, Ấn Độ. Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Kankavli có dân số 14.725 người. Phái nam chiếm 52% tổng số dân và phái nữ chiếm 48%. Kankavli có tỷ lệ 77% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 79%, và tỷ lệ cho phái nữ là 74%. Tại Kankavli, 12% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. Tham khảo Thành phố thuộc bang Maharashtra
VI_open-0000000133
People_and_Society
Lambha là một thị trấn thống kê (census town) của quận Ahmadabad thuộc bang Gujarat, Ấn Độ. Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Lambha có dân số 16.725 người. Phái nam chiếm 54% tổng số dân và phái nữ chiếm 46%. Lambha có tỷ lệ 72% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 79%, và tỷ lệ cho phái nữ là 63%. Tại Lambha, 13% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. Tham khảo Thành phố thuộc bang Gujarat
VI_open-0000000134
People_and_Society
Marathakkara là một thị trấn thống kê (census town) của quận Thrissur thuộc bang Kerala, Ấn Độ. Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Marathakkara có dân số 17.934 người. Phái nam chiếm 49% tổng số dân và phái nữ chiếm 51%. Marathakkara có tỷ lệ 81% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 83%, và tỷ lệ cho phái nữ là 79%. Tại Marathakkara, 12% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. Tham khảo Thành phố thuộc bang Kerala
VI_open-0000000135
People_and_Society
Nagapattinam là một thành phố và khu đô thị của quận Nagapattinam thuộc bang Tamil Nadu, Ấn Độ. Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Nagapattinam có dân số 92.525 người. Phái nam chiếm 50% tổng số dân và phái nữ chiếm 50%. Nagapattinam có tỷ lệ 74% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 80%, và tỷ lệ cho phái nữ là 69%. Tại Nagapattinam, 12% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. Tham khảo Thành phố thuộc bang Tamil Nadu Thành phố cảng Ấn Độ
VI_open-0000000136
People_and_Society
Othakalmandapam là một thị xã panchayat của quận Coimbatore thuộc bang Tamil Nadu, Ấn Độ. Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Othakalmandapam có dân số 9681 người. Phái nam chiếm 51% tổng số dân và phái nữ chiếm 49%. Othakalmandapam có tỷ lệ 70% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 78%, và tỷ lệ cho phái nữ là 61%. Tại Othakalmandapam, 9% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. Tham khảo Thành phố thuộc bang Tamil Nadu Ngoại ô Coimbatore
VI_open-0000000137
People_and_Society
Phulwari Sharif là một thành phố và là một khu vực quy hoạch (notified area) của quận Patna thuộc bang Bihar, Ấn Độ. Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Phulwari Sharif có dân số 53.166 người. Phái nam chiếm 53% tổng số dân và phái nữ chiếm 47%. Phulwari Sharif có tỷ lệ 63% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 70%, và tỷ lệ cho phái nữ là 56%. Tại Phulwari Sharif, 15% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. Tham khảo Thành phố thuộc bang Bihar
VI_open-0000000138
People_and_Society
Rasulabad là một thị xã và là một nagar panchayat của quận Unnao thuộc bang Uttar Pradesh, Ấn Độ. Địa lý Rasulabad có vị trí Nó có độ cao trung bình là 131 mét (429 feet). Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Rasulabad có dân số 7235 người. Phái nam chiếm 53% tổng số dân và phái nữ chiếm 47%. Rasulabad có tỷ lệ 41% biết đọc biết viết, thấp hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 49%, và tỷ lệ cho phái nữ là 31%. Tại Rasulabad, 19% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. Tham khảo Thành phố thuộc bang Uttar Pradesh
VI_open-0000000139
People_and_Society
Savner là một thành phố và là nơi đặt hội đồng đô thị (municipal council) của quận Nagpur thuộc bang Maharashtra, Ấn Độ. Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Savner có dân số 26.631 người. Phái nam chiếm 51% tổng số dân và phái nữ chiếm 49%. Savner có tỷ lệ 73% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 79%, và tỷ lệ cho phái nữ là 68%. Tại Savner, 14% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. Tham khảo Thành phố thuộc bang Maharashtra
VI_open-0000000140
People_and_Society
Sugnu là một thị xã của quận Thoubal thuộc bang Manipur, Ấn Độ. Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Sugnu có dân số 4507 người. Phái nam chiếm 50% tổng số dân và phái nữ chiếm 50%. Sugnu có tỷ lệ 61% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 72%, và tỷ lệ cho phái nữ là 50%. Tại Sugnu, 14% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. Tham khảo Thành phố thuộc bang Manipur
VI_open-0000000141
People_and_Society
Tondi Fatehpur là một thị xã và là một nagar panchayat của quận Jhansi thuộc bang Uttar Pradesh, Ấn Độ. Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Tondi Fatehpur có dân số 10.099 người. Phái nam chiếm 54% tổng số dân và phái nữ chiếm 46%. Tondi Fatehpur có tỷ lệ 48% biết đọc biết viết, thấp hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 62%, và tỷ lệ cho phái nữ là 31%. Tại Tondi Fatehpur, 17% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. Tham khảo Thành phố thuộc bang Uttar Pradesh
VI_open-0000000142
People_and_Society
Wadi ACC là một thị xã của quận Gulbarga thuộc bang Karnataka, Ấn Độ. Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Wadi ACC có dân số 4706 người. Phái nam chiếm 65% tổng số dân và phái nữ chiếm 35%. Wadi ACC có tỷ lệ 78% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 82%, và tỷ lệ cho phái nữ là 71%. Tại Wadi ACC, 6% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. Tham khảo Thị trấn thuộc bang Karnataka
VI_open-0000000143
People_and_Society
Khargapur là một thị xã và là một nagar panchayat của quận Tikamgarh thuộc bang Madhya Pradesh, Ấn Độ. Địa lý Khargapur có vị trí Nó có độ cao trung bình là 305 mét (1000 feet). Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Khargapur có dân số 12.412 người. Phái nam chiếm 53% tổng số dân và phái nữ chiếm 47%. Khargapur có tỷ lệ 50% biết đọc biết viết, thấp hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 59%, và tỷ lệ cho phái nữ là 40%. Tại Khargapur, 18% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. Tham khảo Thành phố thuộc bang Madhya Pradesh
VI_open-0000000144
People_and_Society
Antonov An-8 (tên ký hiệu của NATO: "Camp") là một máy bay vận tải quân sự hai động cơ turbin phản lực cánh quạt hạng nhẹ được phát triển vào đầu thập niên 1950 và được chế tạo tại nhà máy GAZ-34 ở Tashkent. Loại máy bay này ngừng hoạt động trong các nhiệm vụ quân sự tiền tuyến vào thập niên 1970 và rất nhiều chiếc được chuyển cho hãng hàng không Aeroflot. Một số máy bay đã được phát hiện đang hoạt động ở Châu Phi, dù Antonov đã rút giấy phép chứng nhận bay của loại máy bay này vào năm 2004, như vậy kết thúc bất kỳ việc sử dụng máy bay hợp pháp nào đối với loại máy bay này. Các quốc gia sử dụng Sky Cabs Air Mark Aeroflot Không quân Xô viết Air Cess Santa Cruz Imperial Thông số kỹ thuật (Antonov An-8) Đặc điểm riêng Phi đoàn: 6 Sức chứa: 48 người Chiều dài: 100 ft 10 in (30.74 m) Sải cánh: 121 ft 4 in (37 m) Chiều cao: n/a Diện tích cánh: 117.2 m² (1261.53 ft²) Trọng lượng rỗng: 24400 kg (53793 lb) Trọng lượng cất cánh: n/a Trọng lượng cất cánh tối đa: 43400 kg (95681 lb) Động cơ: 2× động cơ turbin phản lực cánh quạt Progress AI-20D, 4.190 hp (3.863 kW) mỗi chiếc Hiệu suất bay Vận tốc cực đại: 520 km/h (323 mph) Vận tốc hành trình: 450 km/h (280 mph) Tầm bay: 1000 km (621 dặm) với tối đa tải, 3900 km (2423 dặm) với tối đa nhiên liệu Trần bay: 9600 m 31500 ft Vận tốc lên cao: Lực nâng của cánh: Lực đẩy/trọng lượng: Vũ khí 2× pháo 23 mm ở đuôi. Các biến thể Izdeliye D: Là tên nội bộ được Phòng Thiết kế Thí nghiệm Antonov (Antonov OKB) sử dụng trong phiên bản đầu tiên. Izdeliye N: Là tên nội bộ được Phòng Thiết kế Thí nghiệm Antonov (Antonov OKB) sử dụng cho phiên bản chở khách thân tròn với sức chứa 57 hành khách. An-8: Là tên gọi chính thức khi ra mắt. An-8M: Hậu tố M là viết tắt của Morskoy - Hải quân. Đây là phiên bản dành riêng cho Tác chiến Chống ngầm. An-8T: Hậu tố T là viết tắt của Toplivovoz - Bồn chứa. Đây là phiên bản được thiết kế cho các nhiệm vụ chở nhiên liệu lỏng, bao gồm nhiên liều cho ô tô, máy bay, tên lửa. Biến thể này mang theo 2 bồn chứa, mỗi bồn có dung tích 5,300 lít (1100 gallon) cho việc chuyên chở nhiên liệu. Ngoài ra còn có thể hay thế bằng 1 bồn chứa 5000 lít để chở các chất lỏng có tính oxi hóa cao như Acid Nitric khói đỏ (RFNA), Acid Nitric hoặc Oxi lỏng. An-8RU: Hậu tố RU là viết tắt của Raketnymi Ooskoritelyami - Tên lửa đẩy. Phiên bản được thử nghiệm năm 1964, được gắn thêm 2 tên lửa đẩy, tăng giới hạn khối lượng khi cất cánh (MTOW) lên 42 tấn (93,000 lb). Tuy nhiên sau đó, dự án này đã bị hủy bỏ do xảy ra một số sự cố. An-8Sh: Hậu tố Sh là viết tắt của Shtoormanskiy - Hoa tiêu. Đây là biến thể được thiết kế riêng cho việc huấn luyện hoa tiêu trên máy bay. An-8PS: Hậu tố PS là viết tắt của Poiskovo-Spasahtel'nyy - Tìm kiếm và Cứu nạn. Đây là biến thể cho các nhiệm vụ cứu nạn cứu hộ trên biển. ham khảo Liên kết ngoài Hình ảnh của An-8 Nội dung liên quan Trình tự thiết kế Antonov An-4 - Antonov An-6 - Antonov An-8 - Antonov An-10 - Antonov An-12 - Antonov An-14 An-008 Máy bay quân sự Liên Xô thập niên 1950 Máy bay chống tàu ngầm Liên Xô 1950–1959 Máy bay quân sự Máy bay vận tải Máy bay chống tàu ngầm Máy bay hai động cơ cánh quạt Máy bay cánh trên Máy bay động cơ tuốc bin cánh quạt
VI_open-0000000146
Autos_and_Vehicles
Methyl salicylat (công thức hóa học C6H4(HO)COOCH3 còn được gọi là salicylic acid methyl ester, methyl-2-hydroxybenzoat) là sản phẩm tự nhiên của rất nhiều loại cây, được dùng làm thuốc giảm đau, chống viêm. Methyl salicylat có tác dụng gây xung huyết da, thường được phối hợp với các loại tinh dầu khác dùng làm thuốc bôi ngoài, thuốc xoa bóp, cao dán giảm đau. Sinh tổng hợp và xuất hiện Hợp chất methyl salicylat lần đầu tiên được phân lập (từ cây Gaultheria procumbens) vào năm 1843 bởi nhà hóa học người Pháp Auguste André Thomas Cahours (1813–1891), người đã xác định nó là một ester của acid salicylic và methanol. Loài cây Gaultheria procumbens tổng hợp chất này. Sinh tổng hợp methyl salicylat phát sinh thông qua quá trình hydroxyl hóa của acid benzoic bởi một cytochrome P450 tiếp theo là methyl hóa bởi một enzyme methylase. Methyl salicylat có thể được sản xuất như một cách chống động vật ăn cỏ. Nếu cây bị côn trùng ăn cỏ ăn, việc tiết ra methyl salicylat có thể hoạt động như một sự trợ giúp trong việc tuyển dụng côn trùng có lợi để tiêu diệt côn trùng ăn cỏ. Ngoài độc tính của nó, methyl salicylat cũng có thể được sử dụng bởi thực vật như một pheromone để cảnh báo các loại thực vật gây bệnh khác như vi rút khảm thuốc lá. Tham khảo Liên kết ngoài MedlinePlus - Methyl salicylat overdose MedlinePlus - Sports cream overdose CNN - Medical examiner: Sports cream caused teen's death NLM Hazardous Substances Databank – Methyl salicylat Xem thêm Thuốc chống viêm non-steroid Aspirin Thuốc chống viêm không steroid Hương liệu
VI_open-0000000147
Health
Đảo Động Đầu (tiếng Trung: 洞头岛) là đảo chính của nhóm đảo Động Đầu của tỉnh Chiết Giang, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đảo này nằm cách khu vực cửa sông Âu Giang đổ ra biển 39 hải lý về hướng đông, thuộc quản lý của huyện Động Đầu. Đảo này là một khu vực có phong cảnh hỗn hợp núi, hồ, biển, rừng đặc sắc gồm 7 cảnh quan: Sơn Điệp Nham, đảo Đại Cù, đảo Đại Môn, Tây hồ trên biển, Trúc Tự, Đông Sa. Tham khảo Ôn Châu Đảo Trung Quốc
VI_open-0000000148
Travel_and_Transportation