text
stringlengths
1
377k
ngồi với nhau tại đây chờ cho bọn “chó săn chim mồi” đến bắt thật là đau đớn! Lão phu nói như vậy chẳng phải là nâng cái uy phong
của bọn chúng lên mà tự dìm đi cái chí khí của mình. Nhưng lão phu chỉ vọn vẹn được có hai thầy trò mà bọn chúng, theo lão phu biết thì đông lắm. Dầu cho con cọp mạnh cũng cũng khó chống nổi với bầy cáo đông cho nên chưa giao phong mà lão đã đoán trước được sự thắng bại. Với ai thì chẳn nói chi, chứ với Trương Siêu Trọng thì lão dám quả quyết trong chúng ta đây, không ai xứn là đối thủ của hắn. Còn như bên lão đệ cũng chỉ có hai người, một là vợ lão đệ, hai là sư đệ đồng chí, mà cả hai cũng đang bị thương ít nhiều. Đem cái yếu chống cái mạnh, cái mệt chống cái khỏe, và cái ít chống cái đông, lẽ tất nhiên khó mà chiếm được ưu thế. Lão phu dư hiểu là trong tình bằng hữu thường hay lấy nghĩa khí làm trọng. Nếu có phải chết đi chăng nữa há vì thế mà tiếc cái thân hay sao? Nhưng chỉ lo một điều là trong hai người nếu rủi một mạng có bề gì thì những người còn lại ắt phải thất điên bát đảo, lấy ai bảo vệ cho lão đệ tẩu thoát đây? Lão đệ cần phải sống vì trách nhiệm của lão đệ có liên quan đến sực tồn vong của dân tộc! Chúng ta không thể để cho lão đệ hy sinh được! Lão phu có chết đi cũng chẳng có gì hối tiếc cho cái thân già mục nát này. Nhưng lão tiếc cho đứa cháu gái của lão tuổi còn thanh xuân còn làm được nhiều việc hữu ích cho quốc gia dân tộc, chỉ vì người chồng quá chấp nê, muốn làm anh hùng hảo hán mà phải cùng hy sinh. Việc lớn chưa thành mà bao nhiêu người hữu dụng đã phải chết đi! Đó, lão tiếc là tiếc thế đó! Văn Thái Lai nghe Lục Phỉ Thanh nói đến đây thì mồ hôi xuất ra ướt đẫm, vẻ mặt trông rất bi thương, đau xót. Bị Lục Phỉ Thanh dùng những lời hợp tình hợp lý mà nói khích, người anh hùng thứ tư trong Hồng Hoa hội bỗng thấy mềm lòng, không còn giữ vững được cái ý chí cứng rắn như sắt đá được nữa. Chàng ta đã bắt đầu xiêu lòng, rồi bỗng dưng quá xúc động trở nên hôn mê bất tỉnh. Lạc Băng đang đứng một bên, thấy thế thì lo sợ, gục đầu vào ngực chồng mà khóc nức nở.
Lục Phỉ Thanh cũng hết sức hoang mang. Ông hoảng hốt kêu gọi một hồi, Văn Thái Lai mới tỉn lại, ngơ ngác như vừa trải qua một giấc mộng. Thấy chồng hồi tỉnh, Lạc Băng vui sướng quá đỗi, ôm lấy chàng, lấy khăn lau khô những giọt mồ hôi đầm đề trên trán. Văn Thái Lai biệt danh là Bôn Lôi Thủ, khét tiếng trong giới giang hồ là một cao thủ có bản lãn cao siêu, võ công trác tuyệt. Mới 15 tuổi, Văn Thái Lai đã dấn bước trong phong trần, đi khắp bốn bể, nổi danh là hiệp khách. Hai tay quyền của chàng đã đánh chết không biết bao nhiêu là tham quan ô lại của triều đình. Ý hợp tâm đầu, Văn Thái Lai chung sức vì dân trừ hại nên thường đi hành hiệp một cặp như đôi chim uyên ương. Cũng không ít cường hào ác bá đền tội ác dưới đôi tay vừa mềm vừa cứng của Lạc Băng... Nghe mấy lời chính trực của Lục Phỉ Thanh, lòng gan dạ của Văn Thái Lai như đã héo lại. Thế mới biết con người cho dù có cứng rắn đến đâu, cũng có lúc vẫn phải “anh hùng khí đoản, nhi nữ thường tình”. Nằm suy nghĩ một hồi lâu, Văn Thái Lai nghiêng đầu, quay qua nói với Lục Phỉ Thanh: - Những lời phân giải của tiền bối thật là chí lý. Phải, vãn bối chỉ vì cái sĩ khí cá nhân hão mà tí nữa quên mất đại nghĩa! Giờ đã hiểu rõ các điều lợi hại, xin hoàn toàn nghe theo lời tiền bối chỉ dạy. Lục Phỉ Thanh lại lấy bức thư viết cho Châu Trọng Anh đưa Văn Thái Lai xem. Trong thư đại khái nói đến lòng ngưỡng mộ của ông ta đối với Trang chủ, kế đến nói rõ việc mấy người bạn thân của Hồng Hoa hội đang gặp nạn nên ngỏ ý nhờ ông ta giúp đỡ. Trong thư tuyệt đối không đề cập đến tên họ Văn Thái Lai, tuyệt đối giữ bí mật cho chàng mặc dù Châu Trọng Anh là một người nghĩa khí đáng tin cậy. Xem thư xong, Văn Thái Lai nói mấy lời cảm tạ, thở ra một hơi nói: - Khi đến Thiết Đảm trang, Hồng Hoa hội lại có thêm một ân nhân nữa. Trong nội quy của Hồng Hoa hội có ghi rõ rằng: “ân phải đền, oán phải trả”. Do đó mà từ trước đến nay bất luận người nào có chút ân
mọn với Hồng Hoa hội thì bằng cách nào họ cũng phải đền đáp lại cho xứng đáng mới nghe. Ngược lại, kẻ nào làm việc gì tổn hại cho hội sẽ bị coi là kẻ thù, họ cũng quyết phải trả oán cho kỳ được mới chịu. Thù nhẹ thì trả nhẹ, thù nặng thì sẽ trả nặng chứ chẳng bao giờ bỏ
qua. Sở dĩ Trấn Viễn tiêu cục vừa nghe đến danh Hồng Hoa hội là hồn phi phách tán cũng vì biết rõ điều nội quy ân oán phân minh ấy. Nếu lỡ mà chuốc lấy oán rồi thì đừng mong Hồng Hoa hội bỏ qua. Lục Phỉ Thanh lại hỏi Dư Ngư Đồng phải đi đâu để báo tin cho bang chúng Hồng Hoa hội gửi người tiếp viện đến đón rước và hộ tống Văn Thái Lai về thì Dư Ngư Đồng đáp rằng: - Hồng Hoa hội có nhà trong ba gian, nhà ngoài ba gian gồm chánh phó hương chủ là 12 vị. Hiện tại trừ Văn tứ đương gia và Lạc thập nhất đương gia đang mắc nạn ở đây, tất cả người còn lại đều tập trung ở Tây An. Ai nấy đang chờ Thiếu đà chủ về bàn việc trọng đại của hội nhưng Thiếu đà chủ nhất định không nghe, cứ vịn lẽ còn nhỏ tuổi không dám đảm đang trọng trách của hội, thành thử cứ thoái thác mãi nên công việ chưa xúc tiến được. Thiếu đà chủ cứ một hai bảo rằng chỉ có Vô Trần đạo trưởng nhị đương gia là người có đủ tài đức và năng lực để gánh vác công việc của hội mà thôi. Mà Vô Trần đạo trưởng nhị đương gia đời nào chịu nên cứ thác qua thác lại với nhau mãi. Vì vậy phải chờ Tứ đương gia và thập nhất đương gia về đến nơi để chính thức bầu lên một tân Tổng Đà Chù cho Hồng Hoa hội. Ngờ đâu hai vị đương gia lại gặp nạn ở đây cho nên ai nấy vẫn nóng lòng còn đợi mãi ở Tây An. Để tiểu điệt lên đường về thẳng đấy mà báo tin là tiện nhất. Nói với Lục Phỉ Thanh xong, Dư Ngư Đồng lại xoay qua nói với Văn Thái Lai: - Thiếu đà chủ sai đệ đến Lạc Dương tìm vị Chưởng môn nhà họ Hàn để giãi bày một việc ngộ nhận cho rõ ràng. Bây giờ đệ phải kẹt ở đây rồi nên không có ai về Tây An báo tin cho Thiếu đà chủ biết. Theo ý Văn tứ ca thì phải làm sao đây? Địa vị trong Hồng Hoa hội của Dư Ngư Đồng ở dưới Văn Thái Lai nên chiếu theo quy tắc của hội thì khi gặp việc khó khăn nan giải thì người dưới phải hỏi ý kiến người trên chứ không được tự chuyên. Văn Thái Lai nghe hỏi thì trầm ngâm suy nghĩ chứ không đáp. Lục Phỉ Thanh biết nỗi khổ của Văn Thái Lai nên vội đỡ lời hộ:
- Theo ngu kiến của lão phu thì cả ba người nên gấp rút dùng ngựa mà đi thẳng đến Thiết Đảm trang thì hơn. Sau khi mọi việc xong xuôi đâu đó thì hiền điệt lập tức khởi hành đi Lạc Dương mà tiếp tục nhiệm vụ của Thiếu đà chủ giao phó. Còn như việc về An Tây báo tin thì cứ để mặc đó cho lão phu. Hiện tại tình thế thật là hết sức nghiêm trọng, không nên trì hoãn nữa. Chúng ta cần phải ra khỏi nơi đây sớm chừng nào hay chừng nấy! Những trang anh hùng mưu lược đều có khí phách cả, việc nào thấy đáng làm thì làm chứ chẳng cần phải cảm tạ khách sáo. Thấy ý kiến của Lục Phỉ Thanh thích hợp với hoàn cảnh nên Văn Thái Lai cho là phải, thuận theo ngay mà không cần phải nói đi nói lại nhiều lời. Liền sau đó, Văn Thái Lai rút cái túi nhỏ mang trước bụng ra, lấy một cành hoa đỏ bên trong trao cho Lục Phỉ Thanh dặn rằng: - Khi lão tiền bối đến An Tây thì lấy cành hoa này mà dát lên mão đội, tự động sẽ có người của hội đến đón lão tiền bối ngay mà không cần phải hỏi thăm ai cả! Lạc Băng liền đỡ Văn Thái Lai ngồi dậy. Dư Ngư Đồng ôm hai cái tử thi dưới đất đặt lên giường, để nằm đối diện nhau và lấy chăn đắp lên từ chân đến ngực rồi buông mùng xuống. Lục Phỉ Thanh mở rộng cánh cho mọi người ra hết rồi mới từ từ khép lại như cũ. Lục Phỉ Thanh phóng lên ngựa vọt nhanh như gió. Không đầy một khắc sau, Dư Ngư Đồng tay cầm ống sáo vàng dẫn đường đi trước, Lạc Băng một tay chống gậy, một tay dìu Văn Thái Lai đi sau. Đám người trong khách sạn đều biết ba người này không phải là phường trộm cướp hung ác mà là người của đảng phái cách mạng “phản Thanh phục Minh”. Họ đều là những người có tài năng phi thường, võ nghệ tuyệt luân, đảm lược quán chúng, đã từng đụng độ với quan quân triều đình trong nhiều trận ác chiến chứ không phải là những kẻ
tầm thường làm hành động ám muội gì. Vì vậy, hầu hết mọi người đem lòng kính phục, thầm biểu lộ đồng tình tuy ngoài mặt không nói năng hay tỏ ra một cử chỉ nào cả, chỉ nhìn ba người trân trân thôi mà không ai hỏi điều gì hay lên tiếng ngăn cản. Dư Ngư Đồng thấy vậy liền gọi đám tửu bảo, lấy một đỉnh bạc độ năm lượng quăng xuống đất nói: - Đó là tiền phòng và tiền ăn của bọn ta mấy ngày nay. Đồ đạc gì trong phòng chúng ta cứ để y nguyên chứ đừng đụng tới, vì sau này chúng ta sẽ còn lui tới nữa. Nếu có ai sinh sự điều gì với các ngươi, chúng ta sẽ có cách làm cho kẻ ấy phải biết tay. Cứ an tâm sống mà làm ăn, chẳng có gì phải lo sợ cả. Đám tửu bảo chỉ biết vâng dạ luôn miệng chứ nào dám rục rịch gì. Nhưng ít nhiều chúng cũng sinh hảo cảm với ba người vì thấy họ thanh toán tiền bạc sòng phẳng đâu ra đó chứ không hề có ý cướp giựt hay ăn quịt. Dư Ngư Đồng dắt lại ba con ngựa, giao cho Văn Thái Lai và Lạc Băng mỗi người một con. Văn Thái Lai vì thương tích quá nặng nên không thể đạp lên “chân đằng” được. Tay chàng ben vịn vào yên ngựa rồi phóng mình lên một cái nhẹ nhàng, ngồi trên lưng ngựa được vững vàng. Dư Ngư Đồng buột miệng khen lấy khen để: - Ối chà! Công phu của Văn tứ ca thật là tuyệt diệu! Trông anh bay lên ngựa mà khoái cả cặp mắt! Lạc Băng mỉm cười sung sướng lên ngựa. Dư Ngư Đồng cũng phóng lên yên. Một đoàn ba con tuấn mã sau đó phi nước đại tiến về hướng đông. Chờ một lúc thật lâu cho đoàn người đi thật xa, đám tửu bảo mới làm bộ chạy theo làm bộ hò hét để che mắt nhà chức trách để khỏi bị hạch hỏi sau này rằng để cho khâm phạm chạy thoát mà không chịu tri hô lên... Ba người kia đi khỏi thì một người lại trở về. Một chàng thanh niên chạy thẳng từ ngoài lộ vào thẳng cửa ngõ. Đó là người đã theo quấy phá trêu chọc Trương Siêu Trọng chuyến vừa qua. Người ấy không ai khác hơn là Lý Mộng Ngọc.
Nàng vừa vào đến nơi thì giáp mặt ngay với một người từ trong cửa đi ra hình dung trông chẳng khác gì một quỷ sứ, chính là tiêu sư của Trấn Viễn tiêu cục Đổng Triệu Hòa. Lý Mộng Ngọc không thèm để ý đến hắn mà về thẳng lại phòng riêng mà thay đổi lại y phục nữ nhân. Từ một “trang thiếu niên anh tuấn”, Lý Mộng Ngọc đã thoát xác mà trở về thành lại một “thiên kim tiểu thư” đài các, mỹ miều. Nàng nghĩthầm: - “Mình nên tạm thời đổi lại lốt thiếu nữ đi theo kiệu bà nội với mẹ ít ngày để tránh mặt Trương Siêu Trọng. Sức mình chưa thể địch nổi với ông ta, chi bằng lánh mặt trước vẫn hơn”. ***** Nhắc lại ba người Dư Ngư Đồng, Văn Thái Lai và Lạc Băng sau khi rời khỏi khách sạn, đi theo hướng Đông rồi rẽ sang hướng Đông nam, dọc đường vừa đi vừa hỏi thăm đường đến Thiết Đảm trang. Thoáng một cái đã đi được hơn 15 dặm đường. Thấy thoát khỏi tai ương, Lạc Băng lòng mừng phấn khởi. Nàng nghĩ rằng một khi đã đến Thiết Đảm trang rồi thì tánh mạng của chồng kể như không phải lo nữa. Châu Trọng Anh ở Thiết Đảm trang uy danh lừng lẫy, cho đến một đứa con nít miệng còn hôi sữa cũng còn biết nói chi là người có tên tuổi trên giang hồ. Cả hai phái Bạch đạo lẫn Hắc đạo chẳng ai mà không kính nể “Châu lão anh hùng”. Vì trượng nghĩa khinh tài, vì tính tình khoáng đạt rất hiếu khách, Châu Trọng Anh tự nhiên sẽ đặc biệt ưu đãi Văn Thái Lai. Như thế, chàng có thể yên tâm tĩnh dưỡng chờ khi Hồng Hoa hội được tin Lục Phỉ Thanh báo tới sẽ phái nhiều cao thủ tới đón rước. Tới chừng đó thì cho đừng nói gì một Trương Siêu Trọng cùng với bọn chó săn kia, mà cho dẫu huy động toàn bộ cao thủ của triều đình Mãn Thanh đi chăng nữa cũng vị tất làm được gì.
Lạc Băng đang đắc ý khi nghĩ đến những điều đó thì bỗng nghe có tiếng ngựa “lộc cộc” phi trên đường, rồi một đoàn ngựa cũng ba con từ đầu kia chạy lại. Đoàn người này gồm hai hán tử trông rất mạnh khỏe, dáng người thật là nho nhã và một cụ già đầu tóc bạc phơ, mắt sáng uy nghiêm, da dẻ hồng hào. Chỉ trông sơ qua cũng đoán được là một quắc thước anh hào. Lạc Băng hồ nghi đó là người trong Thiết Đảm trang. Khi hai bên vừa chạm mặt nhau, cụ già liếc mắt nhìn Văn Thái Lai một cái như ngạc nhiên và kinh hãi. Vì ngựa hai bên đều phi nước đại nên hai vừa chạm mặt nhau thì không còn trông thấy nhau được nữa. Cả người lẫn ngựa đều mờ trong cát bụi tung bay. Chỉ một thoáng vụt qua là đã cách xa ngay mấy trượng rồi. Dư Ngư Đồng thấy nghi nghi vội nói: - Này tứ ca, hình như cụ già cỡi ngựa qua mặt chúng ta đó là Châu Trọng Anh lão tiền bối, chủ nhân Thiết Đảm trang đó thì phải. Lạc Băng vội hỏi: - Vì lẽ nào thúc thúc lại nghi đó là Châu lão anh hùng? Dư Ngư Đồng đáp: - Chị không để ý trên tay ông ta cầm hai ngọn thiết đảm sao? Văn Thái Lai nói: - Ta cũng nghi đó là Châu Trọng Anh đến tám, chín phần. Chỉ vì chúng ta chưa gặp qua mặt ông ta lần nào, vả lại ngựa phi mau quá không trông rõ mặt được nên chưa thể quả quyết được là có đúng hay không. Chắc ông ta phải có việc gì gất rút lắm nên không tiện dừng ngựa lại. Hơn nữa, giữa đường giữa sá cũng không nên hỏi tên họ người chưa từng quen thân với mình nên ta cứ để mặc ngựa ông ta qua. Cứ chờ tới Thiết Đảm trang sẽ rõ. Sau đó ba người lại tiếp tục giục ngựa mà đi cho thật lẹ. Chẳng bao lâu, ba người đã đến Thiết Đảm trang.
Mé ngoài Thiết Đảm trang có một con sông nhỏ uốn khúc ven theo bờ triểng. Hai bên bờ sông đều trông trồng cây dương liễu xanh tươi, mát mẻ như cảnh trang nhã thanh tịnh của bậc ẩn sĩ chân tu. Cửa ngõ xây bằng đá gạch rất kiên cố, có cầu treo bắc ngang qua sông, trông ra xa có cả vọng lâu nữa. Cách thiết kế và bố trí của Thiết Đảm trang không khác gì một “tiểu hoàng thành” của một vị vương tước, không dễ gì cho bên ngoài lọt vào được. Bọn gia nhân tráng đinh của Thiết Đảm trang thấy có khách đến liền ra lễ phép hỏi thăm rồi mời thẳng vào trong nhà, pha trà hầu nước. Một người quản gia tự giới thiệu Tống Thiện Bằng ra tiếp đãi ân cần rồi lại hỏi tên họ ba người khách mới đến. Văn Thái Lai không giấu diếm, đem sự việc của mình nói ra tất cả. Tống Thiện Bằng nghe nói cả ba người đều là nhân vật có tên trong Hồng Hoa hội thì tỏ vẻ sợ sệt nói: - Quý vị từ Guang Nam băng rừng vượt núi đến vùng biên khu phía Bắc này thật gian lao khổ nhọc để tìm Trang chủ chúng tôi. Nhưng tiếc thay Trang chủ chúng tôi lại vừa ra khỏi nhà. Chẳng hay quý vị có điều chi dạy bảo? Tống Thiện Bằng vốn đã nghe danh Hồng Hoa hội từ lâu. Mà hắn được biết là Trang chủ y cùng Hồng Hoa hội chưa hề giao thiệp qua. Lần này lại có đến ba nhân vật Hồng Hoa hội bất thình lình tìm đến tìm Trang chủ hắn thật không hiểu có thiện ý hay ác ý. Do đó, câu hỏi của hắn tuy là tế nhị dò hỏi thử dụng ý của khách ra sao thôi, nhưn có phần do dự lãnh đạm chứ không vồn vã ân cần. Nghe Tống Thiện Bằng nói, Văn Thái Lai biết chắc là Châu Trọng Anh vừa ra khỏi cửa không có ở nhà nên phong thư của Lục Phỉ Thanh gửi cho Châu Trọng Anh chàng cũng không đưa ra, chỉ để ý xem sắc thái của Tống Thiện Bằng mà tùy cơ đối đáp. Thấy Tống Thiện Bằng bề ngoài tuy lễ mạo cung kính nhưng bên trong đối với khách phương xa không được tự nhiên, Văn Thái Lai không được mấy đẹp lòng. Chàng là người khảng khái, dù gặp lúc nguy khốn cũng không vì thế mà muốn hạ mình nhờ cậy một ai nên trước tình thế như
vậy, chàng liền chắp tay nói: - Nếu Châu lão anh hùng không có mặt ở nhà thì chúng tôi xin cáo lui thôi. Chẳng qua vì nghe đại danh của Châu lão anh hùng vang dội khắp gần xa nên chúng tôi hâm mộ, mong được gặp một lần cho thỏa bình sinh khát vọng mà thôi. Nhờ huynh đài về thưa lại cùng lão anh hùng như vậy cho. Nói xong, Văn Thái lai tay vịn thành ghế, chạm rãi đứng dậy. Tống Thiện Bằng liền nói: - Xin hãy khoan! Chúng tôi xin mời ba vị tạm dùng bữa cơm đạm bạc rồi hãy lên đường. Hắn xoay qua nói nhỏ cùng tên tráng đinh vài câu, tên ấy gật đầu đi xuống nhà sau. Văn Thái Lai đã quyết ra đi nên một mực từ chối, nhưng Tống Thiện Bằng nhất định giữ lại: - Mong quý vị ráng nán lại thêm một chút nữa không thì Trang chủ tôi khi về sẽ trách mắng chúng tôi sao dám đối xử thiếu lễ độ với khách của người... Tống Thiện Bằng chưa nói dứt câu thì tên tráng đinh ban nãy đã bưng lên một cái mâm thau. Trong mâm có vài ba món châu báu, một phong bạc gói lại ước độ chừng 30 lượng. Tống Thiện Bằng tiếp cái mâm ấy đưa đến trước mặt Văn Thái Lai thưa rằng: - Thưa Văn gia! Mấy món đạm bạc này thật không xứng với cái lễ kính khách của Trang chủ chúng tôi. Nhưng rủi vì ba vị đến viếng mà không có Trang chủ ở nhà nên chúng tôi tạm dùng chút vật mọn gọi là thành tâm, mong Văn gia nhận cho, đừng vì một lẽ gì mà từ chối. Chúng tôi lấy làm hân hạnh lắm. Văn Thái Lai nghe qua lửa giận phừng phừng lên, nói thầm: - “Bọn này tưởng ta trong lúc nguy cấp mới đến đây mong cứu giúp. Chúng đặt ta vào hạng vô sỉ trong giới giang hồ chỉ quen thói cầu cạnh, nhờ vả vào kẻ khác. Nhưng chúng đâu có biết ta hành hiệp trượng nghĩa, chỉ để cho kẻ khác cầu cạnh chứ đời nào chịu cầu cạnh vào ai! Lần này sở dĩ ta đến Thiết Đảm trang là vì công việc rắc rối không còn cách nào hơn, chứ muôn phần ta không muốn lấy một. Bây giờ gặp phải việc xảy ra thế này có ăn năn thì cũng đã muộn”.
Lạc Băng nhìn sắc mặt chồng biến đổi thì lo sợ vô cùng. Kể từ khi sống chung với nhau, nàng còn lạ gì tính khí của chàng? Một khi đã bất bình chuyện gì thì việc lớn bằng trời cũng xem nhỏ như kiến mà thôi. Lạc Băng đưa tay vịn vào vai Văn Thái Lai an ủi chàng, ngầm ý bảo nén cơn giận xuống, đừng quá nóng nảy mà không khéo hỏng hết chuyện. Văn Thái Lai tay cầm hăi gói nguyên bửu lên nói với Tống Thiện Bằng: - Anh em chúng tôi đến quý trang không có lễ mọn nào để làm lễ tương kiến, lại hân hạnh được Tống bằng hữu tặng cho những món đáng giá thế này thì thật là quý hóa thay! Tống Thiện Bằng vội vã đáp lời: - Lời Văn gia dạy, tiểu đệ thật không dám... Sở dĩ Tống Thiện Bằng đem cả mâm châu báu và tiền bạc ra mà tặng Văn Thái Lai vì biết rõ uy danh Hồng Hoa hội rất lớn nên không dám xem thường. Giờ nghe Văn Thái Lai nói thế, hắn tưởng là thật. Ngờ đâu Văn Thái Lai cười nhạt mấy tiếng, để gói nguyên bửu vào mâm thau trở lại như cũ mà bảo với Tống Thiện Bằng rằng: - Đa tạ Tống bằng hữu có lòng tốt, nhưng chúng tôi xin để lại mấy món quà tặng lại cho quý Trang chủ để dùng vào việc khác. Thôi! Chúng tôi xin cáo từ! Tống Thiện Bằng liếc mắt nhìn xem hai gói nguyên bửu mà Văn Thái Lai vừa trả lại y nguyên trên mâm mà bất giác hoảng kinh. Tất cả
những nén bạc gói trong đó đều bị bàn tay của Văn Thái Lai bóp cho dẹp như bóp một cái bánh bằng bột. Hắn lấy làm bối rối vô cùng, biết là mình có mắt không tròng đã xem lầm người nên mới xảy ra chuyện rắc rối này. Hắn nói thầm trong bụng: - “Bản lãnh người này thật là cao siêu ghê gớm chứ không phải hạng võ công tầm thường. Giờ đây hắn ta giận đến như thế ắt sẽ tìm cách trả thù chứ chẳng phải chơi!” Lòng nghi vậy, Tống Thiện Bằng lại xoay qua nói nhỏ gì với bọn tráng đinh mấy câu, bọn chúng vội vã chạy vào hậu đường bẩm báo lại việc vừa xảy ra ở phòng khách cho người chị cả trong gia đình hay, còn tự hắn đích thân đưa tiễn khách ra tận cửa, cố dùng lời nhỏ nhẹ, hết sức năn nỉ về sự sơ sót vô ý thức của hắn. Văn Thái Lai chẳng thèm quay lại, mà cũng chẳng buồn nói thêm một lời nào nữa. Lúc ấy, ba tên tráng đinh của Thiết Đảm trang dắt ba con ngựa đến. Văn Thái Lai và Dư Ngư Đồng hướng về Tống Thiện Bằng đưa tay lên nói: - Chào “sư phụ”! Sau đó hai người nhảy lên yên ngựa. Lạc Băng lấy trong người ra một đỉnh vàng ròng chừng 20 lượng đưa cho tên tráng đinh đứng đàng trước nói: - Tôi có chút đỉnh gọi là đền đáp công lao khó nhọc của ba vị huynh đệ. Hãy nhận lấy mà chia đồng đều cho nhau. Nói xong, nàng lấy tay ngoắc hai tên kia chỉ cho thấy. Tống Thiện Bằng không ngờ việc xảy ra ngoài ý nghĩ của hắn. Số vàng ròng mấy chục lượng mà Lạc Băng cho ba tên tráng đinh giữ ngựa cho ba người so với số bạc và châu báu của Tống Thiện Bằng gọi là thay mặt Trang chủ tiễn khách còn giá trị hơn gấp mấy lần. Ba tên tráng đinh cả đời nghèo khổ, làm hùng hục như trâu, dù hết sức tiết kiệm dè xẻn còn chưa có được vài chục lượng bạc chứ nói chi vàng! Tự nhiên số hên, gặp được người hảo tâm cho quá nhiều như vậy, phải nói là gấp bao nhiêu lần tài sản hiện có của ba người cộng lại, bảo sao không vui mừng sung sướng cho được!
Tên tráng đinh cầm đỉnh vàng trong tay mà cảm thấy run run, miệm ngập ngừng mãi mà không nói ra được tiếng cám ơn. Hai tên kia cũng thế, chỉ biết nhìn Lạc Băng với ánh mắt vừa ngạc nhiên, vừa cảm kích. Lạc Băng nhoẻn miệng cười rồi phóng mình lên yên ngựa... Lạc Băng là con của Thần Đao Lạc Nguyên Thông, nguyên là một “độc hành đại đạo”. Một mình một đao, ông ta thường đánh cướp thường đánh cướp của những cự phú cường hào. Có lần trong một đêm, ông ta đánh cướp liên tiếp một lượt cả chục nhà cự phú quyền thế nhất trong thành Kim Lăng. Tên tuổi Lạc Nguyên Thông từ đấy làm rúng động giang hồ. Trước khi đánh cướp một nhà nào, Lạc Nguyên Thông đều điều tra thật kỹ lưỡng thân thế, đức độ người ấy ra sao. Nếu là người chuyên làm điều bất nghĩa, thì cho dù là người nào đi chăng nữa, Lạc Nguyên Thông sẽ cướp cho kỳ hết mới thôi, mặc cho kẻ đó có phòng bị cẩn thận đến thế nào. Cứ một lần Lạc Nguyên Thông ra tay thì số vàng bạc châu báu cướp được rất nhiều, chứa đầy kho. Tuy mang danh là đại đạo, nhưng Lạc Nguyên Thông rất được lòng người vì tính tình ông ta rất hào phóng, hay lấy của cải phân phát, giúp cho người nghèo. Lạc Nguyên Thông chỉ có được một mụn con gái là Lạc Băng nên rất là cưng chiều. Lạc Băng ra đời không bao lâu thì vợ mất, thành thử Lạc Nguyên Thông phải kiêm cả vai nghiêm phụ lẫn từ mẫu. Lạc Băng tuy kính sợ nhưng rất quý mến cha. Ngay từ lúc bé, nàng đã được thân phụ rèn luyện trở thành một nữ anh hào, tính khí giống hệt như Lạc Nguyên Thông. Trong nhà vàng bạc châu báu, ngọc ngà chất như núi, không thiếu một thứ gì cho nên Lạc Băng không bao giờ bị thiếu thốn về vật
chất. Từ cách tiêu xài cho đến lối ăn mặc, dẫu cho các thiên kim tiểu thư của hoàng thân quốc thích, công hầu khanh tướng cũng chưa chắc gì sánh được với nàng. Cũng như cha, Lạc Băng luôn đem vàng bạc, của cải ra giúp đỡ nghèo khổ, lại hay bênh vực những kẻ sức yếu, thế cô. Trong vùng, dân chúng ai ai cũng quý mến và cảm phục hai cha con Lạc Nguyên Thông, xem là ân nhân của họ. Lúc nhỏ, Lạc Băng hay cười. Một niềm vui nho nhỏ cũng có thể làm cho nàng cười cả nửa ngày không biết chán. Ai trông thấy Lạc Băng cười cũng phải tươi vui, khoan khoái. Khi lớn lên, lấy Văn Thái Lai làm chồng, tính tình nàng vẫn không hề thay đổi. Văn Thái Lai lớn hơn Lạc Băng đến 10 tuổi. Tính Văn Thái Lai vội vàng, hay nóng nảy. Trong Hồng Hoa hội, ngoại trừ vị cố Tổng đà chủ Vu Vạn Đình, bình sinh Văn Thái Lai chỉ phục có người vợ xinh đẹp mà chàng xem là “Ngọc Nữ tái” sinh hay “Hằng Nga giáng thế” là Lạc Băng mà thôi. Tống Thiện Bằng thấy Lạc Băng lấy ra đến mấy chục lượng vàng ròng thưởng cho bọn tráng đinh của hắn thì cảm thấy quá thẹn thùng khi nghĩ đến mâm đồ của hắn đem ra dùng để tiễn khách. Vừa lúc Văn Thái Lai định thúc ngựa lên đường thì nghe có tiếng vó ngựa dập dồn. Một người từ đâu phóng ngựa như bay đến trước đầu ngựa của Văn Thái Lai rồi vội vàng nhảy xuống lễ phép vòng tay hướng về Văn Thái Lai nói: - Có phải ba vị định viếng tệ trang phải không? Xin mời vào trong nhà cho chúng tôi được hầu chuyện. Văn Thái Lai nói: - Chúng tôi đã được hân hạnh vào trong, vừa mới trở ra tức thì. Thôi, xin hẹn ngày khác sẽ đến bái kiến sau. Người ấy lại nói: - Chúng tôi được gặp ba vị giữa đường. Lão Trang chủ đoán chừng ba vị đến thăm tệ trang nên định quay ngựa trở lại nhưng bởi vì
Trang chủ có việc gấp phải đi nên sai tiểu đệ một mình phi ngựa quay về để đón tiếp khách quý. Lão Trang chủ từ xưa đến nay rất thích giao du bằng hữu nên chỉ nhìn thoáng qua là đã sinh lòng ái mộ, hiểu ngay ba vị là những trang anh hùng, những đại hào kiệt. Lão Trang chủ nói rằng sớm muộn gì nội chiều nay phải về để hội kiến với ba vị mới thỏa lòng. Do đó, người sai tiểu đệ giá nào cũng phải cầm ba vị lại cho kỳ được. Nơi đây không phải là chỗ đứng tiếp ba vị. Xin mời vào nhà trong kẻo lỡ lão Trang chủ có về bất tử thì thế nào cũng mắng tiểu đệ là bất kính với khách quý, thì tiểu đệ làm sao mà ăn nói với lão Trang chủ đây? Văn Thái Lai nhận ra là một trong ba người mà lúc nãy gặp qua trên đường đi. Thấy chàng ta lễ phép, nói toàn những lời thành thật và ân cần thì nư giận cũng đã giảm đi quá phân nửa. Chàng ta tự giới thiệu là Mạnh Kiện Hùng, đại đệ tử của Thiết Đảm trang Châu Trọng Anh. Sau đó, Mạnh Kiện Hùng mời cả ba người vào trong. Tống Thiện Bằng luýnh quýnh, mời khách ngồi vào dùng trà với Mạnh Kiện Hùng. Một tên tráng đinh kề tai nói nhỏ điều gì, chỉ thấy Mạnh Kiện Hùng đứng dậy chắp ay thưa rằng: - Sư nương của tiểu đệ xin mời vị nữ hiệp vào nội đường nghỉ mệt. Lạc Băng bèn đứng dậy theo tên tráng đinh ấy vào trong. Đi đến nhà cầu thì có một đứa thị nữ chạy ra rước nàng, lại nghe có tiếng đàn bà nói lớn rằng: - Có khách quý đến chơi mà không ra tận nhà ngoài đón rước thì thật tệ quá! Một phụ nữ tuổi độ 40, trông vẫn còn xuân sắc đi đến cầm tay Lạc Băng ra chiều thân mật nói: - Vừa rồi được nghe mấy đứa trẻ cho biết có các vị anh hùng trong Hồng Hoa hội đến thăm. Nhưng chưa kịp ra đón tiếp thì lại nghe mấy vị từ giã mà đi rồi. Lòng tôi thật phân vân không hiểu vì sao các vị lại vội vàng quá vậy. May mắn thay được các vị quay gót ngọc trở lại. Ở địa phương này dân trí chưa được mở mang gì cho lắm nên kiến thức của người trong trang thật là kém cỏi, nếu chưa muốn nói là
tệ hại. Xin nữ hiệp rộng lượng mà tha thứ cho. Quay qua mấy đứa tỳ nữ, người đàn bà ấy nói: - Vị nữ hiệp đây ắt là sử kiếm lẹ làng vô cùng, tưởng sánh với tiểu thư chúng ta chưa biết ai hơn ai kém. Lạc Băng nghe cách xưng hô mà hết sức phân vân, không biết người đàn bà này là người thế nào trong gia trang nên hỏi: - Tiểu muội mới tới đây lần đầu nên thật không biết phải xưng hô với tỷ tỷ như thế nào? Tiểu muội họ Lạc, tên Băng, còn trượng phu họ Văn đang nói chuyện ở phòng khách. Người đàn bà liề đáp: - Vậy mà cứ tưởng nữ hiệp đây là em của vị tướng công kia. Sao trông còn trẻ măng, lại đẹp như tranh vẽ thế? Tôi đoán lầm, xin nữ hiệp tha thứ cho nhé! Thấy người đàn bà chưa nói rõ thân phận của mình, một đứa tỳ nữ bèn nói hớt: - Đây là chị lớn trong gia đình của chúng tôi, và cũng là Thiết Đảm trang nữ chủ nhân. Bấy giờ Lạc Băng mới biết người đàn bà này là vợ của Châu Trọng Anh. Mà nãy giờ nàng cứ tưởng là con gái của ông ta. May mà nàng ý nhị nên không vội nhanh nhẩu, chứ thiếu chút nữa mà xưng hô lầm thì thật là tai hại. Lạc Băng vui vẻ nói: - Nay đã biết nhau rồi, xin cứ xem nhau như chị em, xin đừng dùng tiếng nữ hiệp, tiểu muội thẹn lắm. Người đàn bà ấy cũng nói: - Ai lớn tuổi hơn là chị. Thôi, tôi là chị, cô là em nghe. Dùng tiếng chị em nghe cho thân mật. Nguyên người đàn bà này là vợ thứ nhì của Châu Trọng Anh. Đời vợ trước sinh được hai trai, nhưng cả hai đều lần lượt chết cả chỉ vì
tính khí kiên cường trong giới giang hồ. Người vợ kế này của Châu Trọng Anh chỉ hạ sinh được có một gái đặt tên là Châu Ý, năm nay được 18 cái xuân xanh. Châu Ý tính tình cương ngạnh, không chịu bị bó buộc trong gia đình nên thường ngày chỉ thích ra ngoài gây chuyện rắc rối. Vừa rồi, chính vì chuyện của Châu Ý gây họa mà đích thân Châu Trọng Anh phải đi dàn xếp cho yên. Châu Ý đánh người đến phải bị trọng thương. Dầu chịu hứa bồi thường nhưng gia đình của nạn nhân vẫn không bằng lòng. Châu Trọng Anh không phó thác được cho ai việc này nên đành phải xuống nước, hạ mình mà năn nỉ. Người vợ kế của Châu Trọng Anh sau khi sinh được một gái thì tuyệt nhiên ngưng hẳn, không còn đem đến một tin vui nào khác cho sự mong mỏi của chồng nữa. Châu Trọng Anh tưởng vợ mình niên kỷ đã cao nên không còn sinh đẻ gì được nữa, nên cho đó là số phận do trời định chứ cũng chẳng có gì phiền trách hay miễn cưỡng lại được. Ngờ đâu đến năm 40 tuổi, giữa lúc mọi hy vọng có tông đường nối dõi tiêu tán, không cầu trời khấn Phật chi cả, lại sinh được một cậu bé ngoan ngoãn dễ thương. Vợ chồng già mà sinh con muộn nên khi nhớ lại câu ví của thiên hạ là “con trai già sinh ngọc”, sự vui mừng sung sướng của Châu Trọng Anh càng gia tăng đến cực độ, cho rằng đời ông ta không còn sự việc nào vui hơn hay quan trọng hơn được nữa. Châu Trọng Anh cưng chiều cậu bé còn hơn tất cả những ngọc ngà quý báu trên trần gian. Ông ôm ấp trong lòng một cao vọng rằng sau này đứa con trai sẽ nối được chí cha, sẽ giữ vững được cơ nghiệp gia sản, sẽ làm rạng rỡ tông môn. Vì thế, Châu Trọng Anh quyết rèn luyện, uốn nắn con mình thành một trang nam tử hữu dụng. Ông mướn thầy dạy cho đạo nghĩa văn chương, lại tự mình đem những kỹ thuật cao siêu về võ học ra bí truyền lại cho. Vì vậy mà tuổi tuy còn nhỏ mà cậu bé đã có được một bản lãnh gia truyền đáng kể... Người kế thất của Châu Trọng Anh mời Lạc Băng ra ngồi dùng trà xong bèn gọi liền cho một con tỳ nữ là Ngọc Lan gọi đứa con trai ra
làm lễ tương kiến vị nữ hiệp của Hồng Hoa hội. Từ buồng trong bước ra một cậu bé với khuôn mặt rất dễ coi; mắt sáng, môi son, trán rộng cằm vuông, chân tay dài, thân hình vạm vỡ trông lanh lẹ và mạnh mẽ, to lớn hơn các đứa trẻ cùng trang lứa rất nhiều. Vừa trông thấy tướng mạo đứa nhỏ, Lạc Băng đã nghĩ thầm: - “Có được đứa con trai thế này chả trách Châu lão anh hùng một mực nuông chiều! Chỉ cần nhìn qua cách đi đứng cũng dư biết nó đã học qua những ngón võ công trác tuyệt của lão anh hùng truyền lại.” Cậu bé vừa trông thấy Lạc Băng liền lễ phép cúi đầu chào: - Cháu xin chúc thím được vạn phúc. Lạc Băng với tới nắm tay đứa bé kéo vào lòng mình, thân mật hỏi: - Cháu tên gì? Năm nay được bao nhiêu tuổi? Đứa bé ngoan ngoãn thưa rằng: - Dạ, cháu tên là Châu Anh Kiệt, năm nay được 10 tuổi. Lạc Băng lấy trong cái hộp đựng châu báu của nàng mấy hạt minh châu rất đẹp và quý giá vui vẻ đặt vào tay Châu Anh Kiệt nói: - Từ ngàn dặm xa xôi ghé đây nên không chuẩn bị trước mà đem theo những gì xứng đáng để cho cháu, chỉ có mấy hạt minh châu này cho cháu dùng mà gắn lên mão đội chơi. Người vợ kế của Châu Trọng Anh thấy mấy hạt minh châu vừa to, vừa tròn, màu sắc long lanh đệp đẽ, không một vết tích gì trầy trụa, đáng giá cả vạn lượng bạc trở lên thì lập tức dạy con cúi đầu lạy tạ ơn. Giữa lúc đang vui vẻ trò chuyện thì một con tỳ nữ hớt ha hớt hãi chạy từ ngoài vào nói với Lạc Băng: - Thưa nữ hiệp, Văn gia bệnh nặng, mê man sảng sốt. Xin nữ hiệp gất rút ra ngoài xem thử bệnh tình thế nào đặng sớm lo phương cách điều trị. Người vợ kế của Châu Trọng Anh vội vàng sai người đi rước lang y trứ danh của gia đình đến ngay để xem xét bệnh tình cho Văn Thái Lai. Lạc Băng cũng lập tức theo con nữ tỳ ra đàng trước đặng săn sóc cho Văn Thái Lai. Từ lúc chàng bị trọng thương, nàng không một
khắc nào rời khỏi chồng. Chẳng qua vì lần này vợ của Châu Trọng Anh mời vào trong uống trà đàm đạo nên nàng mới phải tạm để Văn Thái Lai ở ngoài với Dư Ngư Đồng hầu chuyện với Mạnh Kiện Hùng vậy thôi. Nay nghe tin chồng mê sảng, Lạc Băng hốt hoảng vô cùng. Văn Thái Lai từ lúc bị thương trầm trọng được Lạc Băng liều thân cứu mạng đem về tĩnh dưỡng ở khách sạn An Viễn. Tuy gọi là tĩnh dưỡng nhưng bọn công sai triều đình cứ theo dõi từng phút từng giây thành thử nhiều phen chàng đau có lúc nào yên tâm được! Văn Thái Lai tính lại nóng như lửa đốt nên rất dễ giận một khi gặp chuyện gì chạm đến danh dự. Và cứ mỗi lần giận dữ là một lần động đến các vết thương, vì vậy lại càng khó mà bình phục lại được. Đôi khi, chàng không nhịn nổi đến phải dùng cả sức lực nữa. Như lần chàng vừa hét lớn vừa ra tay điểm huyệt Đổng Triệu Hòa vì hắn nói năng đụng chạm đến cả Lạc Băng lẫn chàng. Rồi lại dùng quyền đánh gẫy xương bả vai của Ngô Quốc Đống. Mỗi lần sử dụng đến sức lực như vậy là một lần hao tổn nguyên khí không phải ít. Với người đang bị trọng thương thì chuyện hao tổn nguyên khí là một tai hại không phải nhỏ. Nghe theo lời Lục Phỉ Thanh bằng lòng tìm đến Thiết Đảm trang, Văn Thái Lai phần thì mệt mỏi bởi đường xa, và vì phải cỡi ngựa một thời gian khá lâu nên ít nhiều các vết thương lại bị động, rồi
giận Tống Thiện Bằng coi thường mình bèn vận nội công bóp dẹp túi bạc nên càng mất sức thêm. Đã vậy, trong lòng còn mang một trách nhiệm nặng nề, hận chưa về ngay được để thuật lại cho Thiếu đà chủ Hồng Hoa hội nghe. Văn Thái Lai không khi nào nằm yên mà trí óc không bận rộn. Cứ như thế mà các vết thương không những không lành, mà còn tăng thêm phần nguy hại là đàng khác! Chàng là người trọng nghĩa khí, quý danh dự, dám vì bằng hữu mà xem thường tánh mạng của mình. Khi phải đương đầu với kẻ địch, dù là Trương Siêu Trọng hay với thiên binh vạn mã của triều đình Mãn Thanh, Văn Thái Lai cũng chẳng hề rúng động hay sợ hãi gì mà trốn tránh. Bản tính hào kiệt của chàng khiến cho giới giang hồ kính phục, luôn cả kẻ đối đầu cũng phải nể vì, xem chàng như một “Quan Vũ tái sinh”... Khi được Mạnh Kiện Hùng thay mặt Châu Trọng Anh ân cần mời đón trở lại Thiết Đảm trang, dầu nộ khí của Văn Thái Lai có hạ xuống nhưng uất hận vẫ chưa tan nên lúc nằm nhỉ mệt, những việc đã qua lại làm cho chàng phiền não. Các vết thương trong người lại vì thế mà bộc phát trở lại nên Văn Thái Lai bị hôn mê... Lạc Băng chạy đến nơi nhìn sắc diện chồng không còn chút huyết sắc nào. Mặt thì tái mét, trán thì rịn mồ hôi, còn chân tay thì lạnh ngắt như đồng. Bỗng nhiên, Lạc Băng chợt cảm thấy như xây xẩm cả mặt mày. Lòng nàng vừa đau xót, vừa lo sợ mà chẳng biết làm gì hơn, mồm luôn tiếng gọi: - Tứ ca! Tứ ca! Mọi người xum lại, dùng đủ phương cách để cứu cấp. Một lát sau, Văn Thái Lai mới từ từ tỉnh lại được. Lạc Băng thấy chồng đã thoát khỏi cơn nguy hiểm nên mới định thần lại được.
Mạnh Kiện Hùng sai tráng đinh ra ngoài thị trấn thỉnh lương y, đồng thời mua sẵn các vị thuốc tốt, đắt tiền để sau khi lương y chẩn mạch thì có sẵn thuốc mà sắc liền cho Văn Thái Lai uống. Vợ của Châu Trọng Anh cũng sai người phải tức tốc lên đường tìm Trang chủ mà báo tin này đặng ông ta sau này khỏi trách mắng là thiếu thành kính với khách quý đang bệnh nặng trú ngụ tại sơn trang. Thấy Mạnh Kiện Hùng và gia đình Châu Trọng Anh quả thật tâm quý trọng Văn Thái Lai, ân cần lo lắng cho bệnh tình của chồng, Lạc Băng rất cảm kích và thấy an tâm. Mạnh Kiện Hùng không hổ danh là đại đệ tử của Thiết Đảm trang. Chàng đích thân đứng ra điều động mọi việc thay Trang chủ, hiện đang tạm thời vắng mặt. Tất cả mọi người trong Thiết Đảm trang, từ trên xuống dưới đều răm rắp nghe theo lời chàng phán quyết mà thi hành. Tống Thiện Bằng thấy cách đối xử quá trọng vọng của Mạnh Kiện Hùng với Văn Thái Lai như vậy thì hết sức ăn năn về chuyện thất lễ của hắn vừa qua. Chỉ nội điểm này, Tống Thiện Bằng cũng đoán được Văn Thái Lai là nhân vật như thế nào rồi chứ không phải những khách tầm thường khác đến thăm Thiết Đảm trang. Để chuộc lại phần nào sự khiếm lễ đó, Tống Thiện Bằng cũng mau mắn, tận tình săn sóc cho Văn Thái Lai thật chu đáo như bất cứ một ai, cần sai bảo điều gì đã có hắn túc trực. Lạc Băng nhìn theo đám tráng đinh nhà Châu Trọng Anh cỡi ngựa phi ra ngã Thiện Gia Bảo, đang vừa muốn quay vào trong hỏi vợ Châu Trọng Anh xem bệnh tình Văn Thái Lai biến chuyển ra sao chợt trông thấy phía sau tàng cây dương liễu ngoài bờ sông trước ngõ trang trại có một bóng người thấp thoáng. Lạc Băng sanh nghi, mắt hướng về cây dương liễu ấy quan sát thật kỹ càng thì quả nhiên thấy một bóng người từ gốc cây, thoắt một cái nhảy lên cây lẹ làng như một con vượn. Cành lá trên cây khẽ rung động tựa như vừa có một cơn gió mạnh thổi tạt qua. Hành động lạ lùng ấy làm cho Lạc Băng trở nên bàng hoàng. Nàng đoán chừng bóng người ấy đã trông thấy nàng, sợ bại lộ tung tích
nên mới tìm cách trốn tránh như thế kia. Nghĩ vậy, Lạc Băng liền gọi Mạnh Kiện Hùng bảo riêng cho biết sự việc nàng vừa chứng kiến. Mạnh Kiện Hùng giả tảng làm như không để ý, bảo Lạc Băng cứ vào bên trong nói chuyện với vợ Châu Trọng Anh như thường mà chẳng phải lo ngại gì cả. Chàng khẽ cho biết là đã có chủ trương, phải cố hành động bình thường để cho bóng người trên cây khỏi nghi ngờ. Chàng cũng không quên trấn an Lạc Băng là có đủ phương tiện và khả năng để bảo vệ cho Văn Thái Lai dẫu cho có đụng phải cường địch. Lạc Băng tin tưởng vào lời nói đầy vẻ chân thật của người đại đệ tử Thiết Đảm trang. Thêm vào đó, sơn trang lại được thiết kế thật là kiên cố, cộng thêm với sự tuần phòng hết sức cẩn mật thì người ngoài có ý muốn đột nhập vào hay làm chuyện mờ ám thì không phải là một chuyện dễ. Lạc Băng vào trong rồi, Mạnh Kiện Hùng dùng mật hiệu gọi riêng một người tráng đinh tâm phúc để ý coi chừng từng hành động của bóng người núp trên nhành dương liễu kia, còn đích thân chàng leo lên vọng lầu mà quan sát. Từ một cái lỗ hổng bí mật trên vọng lầu, Mạnh Kiện Hùng mở rộng nhãn giới ra nhìn. Cái lỗ hổng đặc biệt này, nếu ở trên vọng lầu ghé mắt vào nhìn ra thì thì thấy bao quát đưọc hết chung quanh, nhưng ở bên ngoài thì tuyệt đối không biết và không tài nào phát hiện được. Quả nhiên, Mạnh Kiện Hùng trông thấy một đầu người ló ra trong đám cành lá dương liễu xanh um. Cái bóng ấy núp mình rất kín, nhờ khéo ẩn thân vào mấy nhánh dương liễu che áng bên trong nhìn ra nên ở phía dưới khó mà phát hiện được. Nhưng nếu ở trên vọng lầu trông xuống và trông xuyên qua thì cái đầu không làm sao che dấu được. Để ý nhìn thật kỹ, Mạnh Kiện Hùng thấy bóng người lay động từng hồi dường như đang chú tâm dò xét tỉ mỉ từng ly từng tí tất cả những sự việc gì đang xảy ra bên trong Thiết Đảm trang. Chàng nhận thấy người này có nhiều tà ý hơn là thiện ý, là một nhân vật hiểm ác chứ không phải bậc hiền nhân quân tử.
Mạnh Kiện Hùng bèn xuống khỏi vọng lầu gọi Châu Anh Kiệt đến ghé tai nói nhỏ vài câu. Châu Anh Kiệt lộ vẻ khoan khoái, miệng nói, môi cười: - Vậy thì thật thú vị cho cháu biết bao nhiêu! Dụng ý Mạnh Kiện Hùng đem Châu Anh Kiệt làm chuyện này vì cậu ta được một lợi điểm là mới 10 tuổi, không ai lưu tâm đến cậu ta cả. Nhìn Châu Anh Kiệt đứng sau lưng Mạnh Kiện Hùng trông chẳng khác gì châm chác núp bóng người khổng lồ. Mạnh Kiện Hùng dùng thuật khinh công bay vọt một cái tung lên như một con diều hâu trong một tư thế sắp sửa tấn công quắp một chú gà con. Chỉ trong nháy mắt chàng đã ra khỏi cửa ngõ, xẹt ngang đáp xuống trên nhánh cây dương liễu, giọng cười hăng hắc nói lớn: - Này huynh đệ, làm gì mà ngồi núp trên đây vậy? Rình mò cái giống gì mà kiên nhẫn từ nãy giờ không chịu xuống? Thôi, làm ơn xuống giùm đi! Có chuyện gì thú vị thì xin làm ơn kể cho tất cả mọi người cùng nghe chơi! Người ở trên cây nghe nói thì nhột nhạt quá không biết phải xử trí ra sao. Yđánh liều, từ trên cây dương liễu buông mình thả nhẹ xuống như một chiếc lá rụng. Chân vừa chạm đất, hắn đã dùng thuật khinh công chạy thoăn thoắt như một con mồi bị thợ săn đuổi. Nhưng hắn vừa chạy lại nghe ngay sau lưng có tiếng người đuổi sát nút, vừa rượt vừa kêu: - Vị thúc thúc kia! Xin đứng lại đi chứ đừng chạy đâu cho mệt, vì có biết “cân đấu vân” như Tề Thiên Đại Thánh và có chạy đến Nam Thiên Môn cũng không thoát khỏi tay tôi đâu! Số là sau khi Mạnh Kiện Hùng phi thân lên cây lật tẩy kẻ rình trộm trên đó thì Châu Anh Kiệt theo kế hoạch đứng chờ sẵn ở phía dưới. Khi kẻ rình trộm vừa nhảy xuống đất tức thì cậu ta chạy theo ngay, rượt bén gót.
Mạnh Kiện Hùng sợ Châu Anh Kiệt còn trẻ con vì thấy cậu ta tinh nghịch toan nắm lấy đầu tóc của người kia và suýt nữa đã nắm được. Chàng lo sợ nhỡ người kia bất thình lình quay lại dùng ám khí phóng ra thì còn gì là mạng của Châu Anh Kiệt nữa. Theo kế hoạch của Mạnh Kiện Hùng dự định là khi chàng nhảy lên trên cây dương liễu thì theo phản ứng tự nhiên, người kia phải nhảy xuống. Châu Anh Kiệt thì chực ngay gốc đàng sau gốc dương liễu, sẽ nhảy ra dùng một thế võ bí truyền của Châu Trọng Anh dạy khóa tay bắt sống lấy hắn, vừa bất ngờ, lại vừa được dịp cho cậu bé trổ tài làm rạng rỡ uy danh Thiết Đảm trang. Nghĩ như vậy nên Mạnh Kiện Hùng mới dám làm chuyện mạo hiểm đó, vì đinh ninh sau khi Châu Anh Kiệt bất ngờ khóa được tay kẻ ấy thì mọi việc sau đó đã có chàng lo liệu hết. Thế nhưng mọi việc xảy ra lại khác hẳn, ngoài sự tiên liệu của Mạnh Kiện Hùng. Người kia khi thấy Mạnh Kiện Hùng phi thân lên cây đột ngột thì hắn quả không biết có Châu Anh Kiệt đứng phục dưới gốc cây. Đáng lý phải nhảy xuống chỗ Châu Anh Kiệt đứng phục sắn, là chỗ an toàn hơn, thì trong lúc vội vàng liều lĩnh, hắn lại nhảy xuống phía bên kia gốc cây là nơi có một cái giếng đá khá sâu và những miếng đá nhọn như những mũi dao chổng lên. Từ trên cao cách mặt đất đến 15 thước, hoặc giả hắn rơi xuống giếng sâu hay nằm đè lên những miếng đá nhọn kia thì kết quả cũng chẳng khác nhau bao nhiêu. Nhưng quả thật là mạng hắn quá lớn nên rơi đúng vào khoảng đất trống rất nhỏ giữa những mẩu đá nhọn lởm chởm kia, chỉ vừa đủ cho hai bàn chân hắn đáp được an toàn. Vì thế, không những hắn thoát khỏi được tử thần trong đường tơ kẽ tóc mà còn thoát luôn cả việc bị bắt sống, thành ra mưu của Mạnh Kiện Hùng thất bại. Còn Châu Anh Kiệt không được dịp trổ tài dùng võ bí truyền khóa tay bắt sống được người kia thì tức lắm, nhất định rượt theo đến cùng vì cậy trong mình có võ nghệ.
Châu Trọng Anh bình nhật rất mực chiều chuộng đứa con trai nên cậu bé muốn học bất cứ thế võ nào ông ta cũng gắng công mà truyền hết cho. Mặc dầu bản lãnh Châu Anh Kiệt chưa đạt được đến mức siêu việt nhưng cũng không phải là tầm thường. Châu Trọng Anh lại dùng một thứ thuốc riêng đặc biệt tẩm vào tay chân Châu Anh Kiệt và luyện cho cậu ta thành “thạch thủ thiết túc”. Do đó mà chân tay của Châu Anh Kiệt còn cứng rắng hơn chân tay của người lớn. Một quyền hay một cước của cậu ta vào chỗ nhược có thể lấy mạng người như chơi. Đồng thời, Châu Trọng Anh còn dạy cho con cả nội gia lẫn ngoại gia công phu, luôn cả khinh công lẫn thuật phi hành. Do đó, những tay bản lãnh tầm thường trên giang hồ đương nhiên không làm sao sánh nổi với Châu Anh Kiệt. Tuy nhiên, với số tuổi còn non, lại chưa có kinh nghiệm chiến đấu ngộ trận nên chưa thể thắng được những kẻ giang hồ lão luyện, cho dù có bản lãnh cao cường. Đã có không biết bao nhiêu trường hợp xảy ra, kẻ mang bản lãnh cao siêu còn phải chết vì bản lãnh của mình nếu địch thủ dùng ngụy kế ám toán. Châu Anh Kiệt dầu sao vẫn còn trẻ con, tránh sao được tính háo thắng, thích nô đùa. Châu Trọng Anh lẽ nào không biết trước được như vậy mà không để ý ngăn ngừa! Chẳng qua là vì ông ta tin tưởng có mình kềm chế ở nhà luôn một bên, lại dặn trước các đệ tử đừng xúi Châu Anh Kiệt làm điều gì nguy hiểm nên chắc cũng không đến nỗi xảy ra điều gì đáng tiếc phải ân hận. Châu Trọng Anh truyền dần các môn võ công tuyệt đỉnh của mình cho con không phải để ứng dụng bây giờ, mà là vì ôm ấp hoài bãi, hy vọng rằng sau này Châu Anh Kiệt sẽ có được một bản lãnh phi thường để nối chí ông ta, và sẽ đem tài sức ra làm những việc hữu ích cho xã hội lẫn quốc gia.
Tính tình Châu Anh Kiệt cũng ngoan ngoãn thuần thục nên Châu Trọng Anh rất mừng, không sợ ngày sau trở thành phường gian manh làm mất thanh danh không những cho chính mình và gia đình mà còn làm nguy hại cho đồng bào tổ quốc nữa! Chính vì những nhận xét ấy mà Châu Trọng Anh cưng con hơn hầu hết những người làm cha khác.
Đối với Mạnh Kiện Hùng cũng vậy. Chàng ta là cao đồ đắc ý nhất của Châu Trọng Anh. Ông rất tin cậy Mạnh Kiện Hùng và thương yêu chàng ta như con ruột. Tất cả những gì Châu Trọng Anh biết, ông đều dạy lại hết cho Mạnh Kiện Hùng, vì ông ta đã tính đến chuyện ngày nào rủi có bị chết bất ngờ thì đã có người thay thế ông ta mà chăm nom, giáo huấn cho Châu Anh Kiệt. Võ công tuyệt đỉnh của Thiết Đảm trang sẽ không vì đó mà bị thất truyền. Ông vẫn thường gọi Mạnh Kiện Hùng ra nói riêng: - Thầy xem con cũng như là con ruột của thầy vậy. Con phải xem Châu Anh Kiệt như em ruột của con. Hai đứa đều là con ruột yêu quý của thầy. Thầy chỉ ước ao sau này hai con sẽ làm nên những chuyện “kinh thiên vĩ địa” mà người ta không tách rời hai đứa ra được. Và trên giang hồ sẽ đồn mãi biệt danh “Thiết Đảm trang song kiệt”. Tất cả mọi công việc lớn nhỏ, Châu Trọng Anh đều giao cả cho Mạnh Kiện Hùng. Chàng làm việc đâu vào đó rất chu đáo nên Châu Trọng Anh càng tin tưởng... Nhắc lại chuyện Châu Anh Kiệt rượt theo kẻ lạ rình rập, Mạnh Kiện Hùng rối hết cả ruột gan lên vì không biết làm cách nào ngăn được Châu Anh Kiệt. Mạnh Kiện Hùng liền lập tức phóng xuống, dùng khinh công toàn lực rượt theo Châu Anh Kiệt, bất kể chuyện gì. Hai người đang đuổi bắt nhau kịch liệt chợt nghe có tiếng gió vùn vụt ở đàng sau nên biết là Mạnh Kiện Hùng đang rượt theo. Thế nhưng cả hai đã sẵn đà nên cứ thế mà tiếp tục chạy mà không thể dừng lại được. Và rồi, trước sau có tất cả ba người, kẻ chạy, kẻ đuổi, người rượt... Mạnh Kiện Hùng tài nghệ cũng như khinh công đều cao hơn nên dù chạy sau, nhưng chỉ trong chớp nhoáng đã gần bắt kịp Châu Anh Kiệt. Chàng sợ đến toát cả mồ hôi nhưng bụng mừng thầm là Châu Anh Kiệt vẫn bình an, chưa bị hạ độc thủ. Mạnh Kiện Hùng gọi lên thật lớn: - Kiệt đệ, dừng lại đi! Đừng rượt theo hắn làm chi nữa cho mệt, để đó cho anh!
- Kiệt đệ, dừng lại đi! Đừng rượt theo hắn làm chi nữa cho mệt, để đó cho anh! Đang mải mê rượt kẻ địch, Châu Anh Kiệt không nghe rõ nên không ngừng, không đáp, mà cũng không quay đầu lại, cứ dốc toàn lực mà đuổi theo. Cậu bé chỉ thích một việc là trước sau phải nắm được cái “đuôi chuột” níu lại nghịch chơi như giật đuôi ngựa. Nhưng vì Châu Anh Kiệt còn nhỏ quá nên với không tới thành ra cứ chộp hụt hoài. Mạnh Kiện Hùng vừa lo vừa sợ hết hồn nhưng khó mà nín cười được. Chàng muốn lên tiếng nói rõ lý do không nên rượt, nhưng sợ làm như vậy lại hóa ra mách nước cho kẻ địch ám toán thành ra lại thôi. Chính chàng cũng thắc mắc không hiểu tại sao người kia lại không dùng đến cái lợi khí nguy hiểm của kẻ giang hồ khi gặp lúc nguy cấp để thoát thân hay tự cứu mạng. Những phút lo sợ là những phút sống hồi hộp nhất của con người. Mạnh Kiện Hùng không biết phải chăng hắn vì quá gấp mà quên mất hay đang chờ cơ hội, hoặc sắp sửa hành động. Đang nghĩ ngợi, Mạnh Kiện Hùng bỗng tái mặt lại khi thấy người kia đang chạy thật lẹ bỗng giảm tốc lực chậm lại. Ý nghĩ đầu tiên hiện lên trong trí óc chàng là người kia cố ý chạy chậm lại để phóng ám khí. Thình lình, Mạnh Kiện Hùng há hốc kinh ngạc vì thấy Châu Anh Kiệt bỗng chồm tới ôm được eo ếch người kia. Chàng mừng quá, định chạy tới giúp sức thì người kia đã vùng mạnh một cái đứt cả vạt áo rồi lại tiếp tục chạy nữa. Lúc đó, Mạnh Kiện Hùng cũng đã lướt tới bắt kịp, chân vừa đuổi, bụng vừa nghĩ thầm: - “Nếu mình có phải chết vì ám khí cũng không ân hận gì!” Châu Anh Kiệt đã ôm được người kia nhưng lại bị sẩy mất nên càng rượt gấp hơn mà quyết bắt cho kỳ được. Mạnh Kiện Hùng vẫn lo ngại không ít, nghĩ thầm: - “Nếu hắn dùng “Mai Hoa châm” hay “Phù Dung châm” thì cả hai đứa cùng lãnh đủ hết!” Chàng bèn lướt ra phía trước, vừa chạy vừa cản đường Châu Anh Kiệt để sẵn sàng chịu ám khí nếu người kia phóng ra. Thế nhưng
Châu Anh Kiệt không chịu nhường mà cứ sấn tới, theo sát Mạnh Kiện Hùng, không bị chàng bỏ xa bao nhiêu. Mạnh Kiện Hùng nhận ra là khinh công của Châu Anh Kiệt chẳng kém chàng là bao nhiêu. Đã mấy lần chàng muốn bứt xa cậu ta mà không được. Bứt xa Châu Anh Kiệt có nghĩa là có dụng ý tốt muốn che chở chứ không phải là muốn tranh tài cùng cậu ta. Và những gì Mạnh Kiện Hùng đoán đã trở thành sự thật. “Vèo vèo” mấy tiếng, người kia bất thình lình xoay lại phóng ra mấy mũi phi tiêu. Vì đã sớm đề phòng từ trước, Mạnh Kiên Hùng đưa tay bắt được một mũi dễ dàng. Bắt xon mũi phi tiêu, chàng liếc sang nhìn Châu Anh Kiệt thì thấy cậu ta cũng đang tươi cười cầm một mũi phi tiêu trên tay. Mạnh Kiện Hùng thấy thế khen thầm: - “Không ngờ Châu Anh Kiệt lại có được bản lãnh như một cao thủ giang hồ đã từng bôn tẩu nhiều năm! Thật là giỏi!” Châu Anh Kiệt định phóng mũi phi tiêu trả lại người kia nhưng Mạnh Kiện Hùng cản lại: - Sư đệ! Không nên! Oán nên giải chứ không nên kết! Sư phụ sẽ không tha cho chúng ta đâu! Châu Anh Kiệt dừng tay, nhưng lại “vèo” một tiếng nữa, Mạnh Kiện Hùng định đưa tay ra bắt thì ám khí đã nằm gọn trong bàn tay của Châu Anh Kiệt rồi. Mạnh Kiện Hùng lại thêm một phen ngạc nhiên, nghĩ thầm: - “Chẳng lẽ mắt và tay chân của Châu Anh Kiệt còn lẹ hơn cả mình nữa hay sao? Mạnh Kiện Hùng vì thế mà cũng bớt lo ngại cho tính mạng của Châu Anh Kiệt như lúc đầu. Chàng hiểu rõ là ít nhiều Châu Anh Kiệt cũng biết đường mà tự vệ. Chàng cương quyết tập trung tinh thần lại để bắt cho được tên dọ thám này. Nhưng chàng cũng không hề có ý định dùng ám khí để hại hắn vì nhớ lời Châu Trọng Anh thường dặn: - “Kẻ anh hùng không bao giờ dùng ám khí hại đối phương nhất là khi không bị đe dọa đến tánh mạng.” Kẻ dọ thám kia chạy đến một ngã ba đường thì bí lối tựa như lạc vào “Bát Quái trận” của Khổng Minh. Ybất giác la lên một tiếng tuyệt vọng: - Trời ơi! Đến đây sao không còn ngã nào chạy được nữa? Chẳng lẽ mạng ta tuyệt rồi hay sao?
- Trời ơi! Đến đây sao không còn ngã nào chạy được nữa? Chẳng lẽ mạng ta tuyệt rồi hay sao? Gặp đường cùng, tứ bề là rừng rậm, không còn cách nào chạy thì đành đứng lại ngước mặt lên trời nhìn than thở rồi kêu hết tổ lại gọi đến tông mà khấn vái. Mạnh Kiện Hùng cả cười. Chàng cũng dừng lại nhìn hắn nói: - Em tôi đã bảo anh đừng chạy đi đâu cho mệt, tại anh không chịu nghe lời thành ra mới đến nước này! Thôi, hãy chịu bó tay cho xong chuyện! Một cánh tay từ đâu với tới nắm gọn lấy gã dọ thám. Thì ra đó là Châu Anh Kiệt sử dụng một tuyệt chiêu của thân phụ dạy cho bắt sống được hắn. Khi truyền dạy thế võ này, Châu Trọng Anh dặn con rất rõ ràng là không được dùng nó để giết người. Vì vậy, Châu Anh Kiệt chỉ dùng chiêu thức này để khóa chặt hai tay địch thủ mà thôi chứ không làm tổn hại đến một cọng lông của y. Đột nhiên gã dọ thám vặn mình lộn trái lại như một con mèo, hất hai chân trước đảo ngược ra đàng sau, thoát được khỏi đôi tay của Châu Anh Kiệt mà co giò chạy trống. Chuyện xảy ra thật bất ngờ. Không những Châu Anh Kiệt phải sửng sốt mà chính Mạnh Kiện Hùng cũng không dằn được la lên: - Miêu quyền của Hàn gia thật là lợi hại! Gã dọ thám chỉ còn một đường duy nhất là lui về ngã cũ mới mong thoát thân được vì phía trước đã bít kín hết cả rồi. Và nhờ hắn búng ngược hai chân ra đàng sau cho nên khi vừa chạm đất, hắn đã ở sẵn vị trí thuận lợi, cứ thế mà chạy chứ không phải xoay đầu lại. Mạnh Kiện Hùng cả giận, vừa rượt theo vừa hét lớn: - Giỏi lắm! Đố mi chạy thoát được đó!
Nghe sau lưng có tiếng người rượt theo, gã dọ thám thọc tay vào người lấy ra năm viên phi đạn tròn có gai để sẵn trên tay chờ cơ hội ám toán. Nhưng hắn chưa kịp phóng thì “ạch” một tiếng, đã bị Mạnh Kiện Hùng dùng thế song phi từ đàng sau tới tống cho hai cước vào ngay bàn tọa nằm chúi đầu xuống lộ. Mạnh Kiện Hùng sau đó mới tới trước mặt y lay cho tỉnh dậy rồi mới ôn tồn nói rằng: - Vì đại huynh có những hành động ám muội cho nên chúng tôi mới đành phải đắc tôi mà trót mạo phạm. Đó là một việc bất đắc dĩ, ngoài dụng tâm của chúng tôi, mong huynh đài tha thứ cho. Chẳng hay đại ca có bị thương tích gì không xin nói cho biết để dùng thuốc mà chữa trị ngay. Gã dọ thám mặt mày nhăn nhó như một con khỉ đột, vừa rên vừa nói: - Cánh tay tôi đau nhức... như dần... có lẽ... là xương bả vai chăng? Ối cha! Đau chết đi được! Mạnh Kiện Hùng bèn đỡ hắn dậy, một tay vịn vào nách gã cho khỏi bị ngã, một tay xoa bóp vào chỗ gã kêu đau. Gã dọ thám kêu rên thảm thiết, nước mắt chảy ròng ròng. Mạnh Kiện Hùng lại nói: - Để tôi đưa lão huynh về Thiết Đảm trang dùng thương cao dược, vừa uống vừa đắp may ra mới khỏi được. Dẫu cho xương gẫy hay gân đứt, thứ thuốc này của sư phụ tôi có thể làm liền lại, chỉ trong vòng nửa tháng là lâu nhất. Gã dọ thám không cách nào từ chối được đành phải gắng gượng theo Mạnh Kiện Hùng và Châu Anh Kiệt về Thiết Đảm trang. Hắn bất giác e thẹn vì hành động của hắn, đã không bị để bụng mà còn được người ta dùng lòng tốt đáp lại. Luôn cả việc định ám toán của hắn cũng không ai buồn truy xét làm gì. Mạnh Kiện Hùng nhờ Châu Anh Kiệt giúp chàng một tay dìu gã dọ thám từng bước một về đến Thiết Đảm trang. Sau đó Mạnh Kiện Hùng đem hắn vào một căn phòng rộng rãi khang trang, trải giường êm cho hắn nằm nghỉ. Càng được săn sóc bao nhiêu, hắn lại càng cảm thấy lương tâm cắn rứt bấy nhiêu... Thấy gã dọ thám đã hoi khỏe lại, Mạnh Kiện Hùng mới hỏi:
Thấy gã dọ thám đã hoi khỏe lại, Mạnh Kiện Hùng mới hỏi: - Chẳng hay huynh đài đi đâu mà lạc bước đến tệ trang, xin nói thật cho rõ chứ đừng giấu diếm làm gì! Nếu giải quyết được, chúng tôi sẽ cố gắng hết mình để làmthỏa lòng lão huynh. Gã dọ thám nói: - Tôi đi lạc ở giữa ngã ba đường chưa biết phải rẽ ngã nào nên hỏi một chị đàn bà chăn dê ở đó. Tính tôi cấp tháo nên lời nói không được tế nhị cho lắm nên có lẽ vì thế mà chị ấy không ưa nên mới cố ý chỉ trật đường cho lạc vào quý sơn trang cho bõ ghét. Khi qua khỏi bờ tường tôi mới biết là đã lầm đường nên mới leo lên cây dương liễu để nhắm định phương hướng. Chẳng ngờ tôi bị hai vị trông thấy cho tôi là kẻ gian nên quyết bắt lại cho bằng được. Lúc nghe huynh đài gọi trên cây, tôi hoảng hốt nhảy bừa xuống định chạy trốn nhưng lại bị vị tiểu huynh đệ kia chực sẵn mà rượt theo. Trong lúc nguy cấp, tôi không kịp suy nghĩ nên lỡ dùng ám khí, thật là đắc tội! Mong huynh đài và tiểu bằng hữu tha thứ cho. Mạnh Kiện Hùng cười nhạt nói: - Như quả lời đại huynh nói thì thì thật chúng tôi đắc tội với lão huynh vô cùng. Thế này chắc không tránh khỏi bị Trang chủ trách mắng nặng nề rồi. Bây giờ xin lão huynh nằm yên để tôi cởi áo ngoài xem xét các vết thương để dễ bề điều trị. Đến nước này, gã dọ thám kia chẳng còn cách nào hơn là vâng lời. Hắn biết một khi cởi áo ngoài ra thì rất có thể bị lột mặt nạ không chừng. Mạnh Kiện Hùng tuy nói là để xem xét các vết thương mà điều trị nhưng trên thực tế, chàng muốn khám phá ra những bí mật bên
trong chiếc áo ngoài của hắn. Mạnh Kiện Hùng tuy còn nhỏ tuổi nhưng việc làm của chàng lúc nào cũng hết sức là tinh tế nên mới nghĩ ra mưu kế xem xét các vết thươn để tìm hiểu về “con người bí mật” này. Cởi xong lớp áo ngoài, Mạnh Kiện Hùng còn phải cởi thêm một lớp áo nữa. Chàng thấy có một mũi dao ngắn bén nhọn đút trong cái túi da giắt trong lưng quần. Mạnh Kiện Hùng xem kỹ lưỡi dao thì nhận thấy quả là một vũ khí lợi hại, có thể giết người trong chớp nhoáng. Chàng tự nhủ thầm: - Kẻ này quyết không phải là một nhân vật tầm thường. Nếu chẳng phải là một võ lâm cao thủ thì một kẻ thủ đoạn trong giới hắc đạo. Căn cứ vào lưỡi dao của hắn thì có lẽ hắn thuộc phe hắc đạo nhiều hơn vì chỉ có phường hắc đạo mới chuyên dùng ám khí và dấu vũ khí ám toán thật kỹ trong người mà thôi. Rõ ràng đây là những hành động ám muội. Mạnh Kiện Hùng lại xem xét vết thương trên bả vai và đầu gối của hắn thì bất chợt giật mình kinh hãi. Các vết thương tuy lành nhưng dấu tích vẫn còn in rõ rệt là hắn có bị một cao thủ võ lâm nào đó điểm huyệt. Một kẻ như hắn bị điểm huyệt mà không bị tuyệt mạng, cũng không bị tê liệt tứ chi hay toàn thân bất toại thì trừ khi có nội công thâm hậu, ngoại công ghê gớm thì làm sao chịu nổi? Chàng thầm nghĩ: - “Sẵn cơ hội này, lúc hắn chưa cử động lại được như thường mà không trừ phứt hắn đi để di họa về sau thì ăn năn sao kịp?” Mạnh Kiện Hùng giả đò xem xét vết thương. Khi bàn tay chàng ta sờ đến huyệt “phong trì” ở sau mép tay gã dọ thám thì dùng một ngón tay điểm nhẹ xuống nhắt thử xem hắn có đau không, vì nếu đau tức là hắn có bị thương ở chỗ ấy và hắn không nghi ngờ chàng ra tay điểm huyệt. Lần mò xuống huyệt “trung phù” ở xương gân, Mạnh Kiện Hùng lại dùng ngón tay trỏ điểm thêm một huyệt nữa. Lần này gã dọ thám đau nhói lên và hỏi: - Ở đây cũng có vết thương nữa sao? Mạnh Kiện Hùng đáp: - Có, nhưng không nặng. Chỉ phớt sơ qua, hơi bầm một tí thôi.
Mạnh Kiện Hùng đáp: - Có, nhưng không nặng. Chỉ phớt sơ qua, hơi bầm một tí thôi. Đến bàng quang của hắn ngay huyệt “vị trinh”, Mạnh Kiện Hùng lại điểm thêm một cái nữa. Gã dọ thám nhột quá giẫy lên cười nắc nẻ: - Thôi! Thôi! Đừng tìm nữa! Vừa đau lại vừa nhột chịu không nổi! Chơi cái gì kỳ cục vậy? Bộ huynh đài định phá Đổng Triệu Hòa sao chớ? Thì ra gã dọ thám đó không phải ai khác hơn là Đổng Triệu Hòa, tiêu sư của Trấn Viễn tiêu cục. Là một tên hiếu sắc đa dâm, mới thấy Lạc Băng đã dở thói nham nhở đến nỗi bị Văn Thái Lai điểm huyệt cho đến nỗi các tiêu sư đồng nghiệp phải đi hạ mình cầu xin cho hắn. Sau đó, nhờ Trương Siêu Trọng giải huyệt cho mới còn sống sót. Thế mà tính phách lối ngang tàng vẫn không chừa. Ấy thế mà trong lúc dưỡng thương, hắn vẫn không quên được nhan sắc diễm lệ của Lạc Băng, lúc nào cũng mơ tưởng đến nàng. Hắn còn bịa ra những chuyện hết sức khả ố như đi nói với các bạn tiêu sư là trong giấc mộng đã cùng với Lạc Băng giao hoan thật là khoái lạc. Hắn thề rằng trước sau phải cướp cho bằng được nàng về làm vợ mới nghe. Cũng chỉ vì nuôi mãi ý định ấy mà không khi nào hắn chịu rời mắt khỏi phòng của nàng trong khách sạn... Hôm ấy nhìn thấy Dư Ngư Đồng và Lạc Băng dìu Văn Thái Lai ra khỏi khách sạn thì hắn tin rằng cả ba người dự định trốn đi. Do đó, hắn ngồi dậy ra khỏi phòng đưa mắt nhìn theo. Thấy ba người sau đó lên đường, hắn cũng lên ngựa đuổi theo. Vì hắn khôn khéo biết giữ
đúng khoảng cách nên ba người kia không biết được có kẻ đang cố tâm theo sau để dọ thám. Đổng Triệu Hòa được chứng kiến từ đầu đến cuối, kể từ lúc ba người vào Thiết Đảm trang rồi sau đó trở ra. Lại thấy Mạnh Kiện Hùng phi ngựa đến rồi mấy người lại trở vào sơn trang thêm một lần thứ hai. Đổng Triệu Hòa mừng rỡ vì sực nghĩ ra một điều “Nhất cử lưỡng tiện”. Hắn vừa theo dõi Lạc Băng và cũng vừa biết được tung tích của đám Hồng Hoa hội rõ ràng. Nếu đem việc này về báo cáo thì công lao của hắn rất là lớn. Đổng Triệu Hòa mừng quá đến độ quên cả đói bụng nên không vội trở về lữ quán, còn cố dọ thám thêm vài chi tiết khác nữa. Hắn định rằng để đến tối sẽ trở về trình báo tự sự cho Trương Siêu Trọng nghe để ông ta kéo rốc đám thị vệ cùng Ngự lâm quân hợp cùng binh lính địa phương mà vây chặt Thiết Đảm trang lại thì bọn Văn Thái Lai có cánh cũng không bay khỏi. Và sau đó, công của hắn sẽ được Trương Siêu Trọng thưởng cho cái thể xác đẹp đẽ thơm tho của giai nhân mỹ miều Lạc Băng kia. Hắn nghĩ tới chừng lúc đó thì hắn sẽ dùng bạo lực mà chiếm đoạt thể xác kia dù chỉ được một đêm thôi cũng không sao. Một đêm hoan lạc bên Lạc Băng đối với hắn chẳng khác gì một đêm của Tương Vương với Vu San Thần Nữ. Chẳng may cho hắn, bị Lạc Băng phát giác nên phải nhảy lên cây dương liễu để trốn tránh và tin rằng không một ai phát giác được. Nhưng đúng là “Thiên bất dung gian”, Đổng Triệu Hòa bị Mạnh Kiện Hùng và Châu Anh Kiệt rượt theo đến cùng để bắt cho được, để rồi sau cùng nếm phải hai cước của Mạnh Kiện Hùng vào bàn tọa... Thấy Đổng Triệu Hòa nhột quá cười bò càng ra, Mạnh Kiện Hùng cũng cười mà nói rằng: - Trông lão huynh thân thể ốm nhom ốm nhách sao lại có cái bụng phì như Đổng Trác thế kia? Tiểu đệ lấy làm lạ nên nhấn xem thử cái gì đựng trong đó mà sình chương lên như củ trướng vậy? Đổng Triệu Hòa nói:
Đổng Triệu Hòa nói: - Huynh đài có ý bảo rằng lão Đổng ta ham ăn mà không mập đấy chứ gì! Không phải đâu! Lão Đổng không chứa đồ ăn ngon ở đó đâu, mà chỉ chứa toàn mưu mô và trí dũng thôi. Nhờ cái bụng này mà lão Đổng danh chấn giang hồ đó! Nghe giọng nói khoe khoang tự thị của Đổng Triệu Hòa như thế, tuy là lời nói đùa nhưng Mạnh Kiên Hùng cảm thấy đáng ghét vô cùng. Nhưng chàng cũng làm bộ kính phục nói: - Đại huynh là một cao thủ trên giang hồ. Nhưng nếu không nói cho đệ biết các vết thương trên châu thân thì rồi đệ cũng biết mà thôi. Đổng Triệu Hòa khoái chí nói: - Thế à! Huynh đài có cặp mắt tinh đời đến mức ấy sao? Vì đâu mà biết được vậy? Mạnh Kiên Hùng cười nói: - Nếu không phải là tay có bản lãnh siêu việt thì làm sao chịu nổi những vết thương nặng nề như thế kia? Nếu tiểu đệ không lầm thì lão huynh bị đối phương điểm huyệt. Đang đau nằm trên giường, Đổng Triệu Hòa cũng ráng chỏi tay ngồi dậy nói: - Đúng vậy! Lão Đổng này có coi mấy vết điểm huyệt ấy ra gì đâu! Cứ cho địch thủ tha hồ điểm, lão Đổng chỉ vận dụng nội ngoại công mà chịu là xong. Chờ cho đối phương điểm huyệt xong thì sẽ tự mình giải huyệt lấy. Tuy vậy cũng hơi bị mất sức và nếu bị động đến thì cũng hơi đau chút. Sở dĩ lão Đổng làm như vậy là muốn cho địch thủ khiếp vía chơi. Có được mấy cao thủ mà không sợ Bôn Lôi Thủ Văn Thái Lai điểm huyệt? Chỉ có lão Đổng này là dám coi thường mà thôi, nên Văn Thái Lai sau khi điểm huyệt xong thì đâm ra thất vọng. Nhờ mấy câu khoe khoang này của Đổng Triệu Hòa mà Mạnh Kiện Hùng biết được hắn bị Văn Thái Lai điểm huyệt và một trong
những lý do khiến hắn bỏ công đi dọ thám cũng là vì mối hận này thôi chứ không ngoài mục đích nào khác. Nhưng chàng lại thắc mắc rằng tại sao Văn Thái Lai đã điểm vào người Đổng Triệu Hòa như thế mà lại không kết liễu được tánh mạng hắn? Xưa nay khi nhắc đến tài điểm huyệt của Văn Thái Lai ai lại không tán đởm kinh tâm? Nhưng chàng lại tự nghĩ và cười thầm: - “Hắn tự thị coi thường những huyệt đạo bị điểm nhưng hắn có biết đâu những huyệt đạo của hắn vừa bị ta điểm nhẹ toàn là những yếu huyệt có thể kết liễu tánh mạng hắn dễ dàng! Nếu quả như lời hắn nói thì sao vận nội ngoại công cho ta thấy mà sao lại bảo là ta “thọc léc” cho hắn cười!” Chỉ nội những lời phách lối của Đổng Triệu Hòa và những hành động ám muội của hắn cùng những ám khí tàng trữ trên người hắn, Mạnh Kiện Hùng đã đoán được ngay là kẻ lưu manh, bất chánh. Nhìn vào bản mặt quái gở như quỷ sứ của hắn, nhất là cặp mắt láo liên kia, chàng lại càng thêm ghét! Chàng tự nghĩ: - Một kẻ hèn hạ khiếp nhược như tên này thì có giết chết hắn đi cũng chẳng có gì phải hối hận cả! Nhưng chứa hắn trong nhà thêm giờ phút nào thì càng bất lợi thêm phút ấy. Chi bằng tống cổ hắn ra khỏi nhà cho hắn đi đâu thì đi, chết bờ chết bụi đâu thì chết cho đáng số! Mạnh Kiện Hùng ghét cay ghét đắng Đổng Triệu Hòa đến độ không thèm hỏi cả tên họ. Và mặc dầu hắn đã tự xưng tên nhưng chàng cũng chẳng thèm để ý. Hắn cố xưng tên để gợi chuyện cho chàng hỏi để có dịp khoe khoang, đem danh Trấn Viễn tiêu cục cùng với Uy Chấn Hà Sóc Vương Duy Dương ra để nói. Nhưng Mạnh Kiện Hùng vẫn thản nhiên như không, mà chẳng thèm biết gì thêm. Xưa nay, Đổng Triệu Hòa chỉ thích mượn danh Vương Duy Dương để xưng hùng, giống như con dê mượn lót cọp để đi dọa nát những con thú khác vậy. Tuy nhiên, thiên hạ chỉ nể sợ Vương Duy Dương thôi chứ chẳng ai thèm để ý gì đến hắn cả!
Nằm nghỉ ở phòng hướng Đông mà mắt Đổng Triệu Hòa cứ liếc mãi sang các phòng ở phía Tây và phía Nam là cốt ý để tìm xem cho bằng được dung nhan của Lạc Băng. Không nhìn thấy được bóng dáng của nàng, Đổng Triệu Hòa cứ luôn luôn lấp ló, liếc mắt khắp nơi khiến cho Mạnh Kiện Hùng càng tăng thêm nỗi nghi ngờ về hắn. Chàng nghĩ thầm: - “Có lẽ nào mình lại dẫn một kẻ cướp vào để rình rập đồ đạc trong nhà?” Nghĩ vậy, chàng không cần phải đắn đo nữa bèn nói xẵng vào ngay mặt Đổng Triệu Hòa: - Này ông bạn! Có biết rõ nơi này là đâu chưa? Tôi chắc là chưa biết đó! Đổng Triệu Hòa làm bộ ngơ ngác nói: - Quả như lời huynh đài nói, lão Đổng vô tình không biết đây là đâu, không biết đây là cõi ma hay cõi Phật. Xin huynh đài chỉ giáo cho! Câu nói xấc xược của Đổng Triệu Hòa khiến cho Mạnh Kiện Hùng không dằn nổi cơn giận. Chàng nắm tay Đổng Triệu Hòa dắt thẳng ra cửa phòng nói rằng: - Cũng không cần phải nói cho ngươi biết đây là đâu làn gì! Chỉ cần mời người ra khỏi nơi này là được rồi! Đi đi!... Sau khi tống cổ Đổng Triệu Hòa ra như tống cổ ôn hoàng dịch lộ ra ngoài, Mạnh Kiện Hùng cười gằn nói theo: - Nhớ đừng có mon men trở lại đây mà rình rập kẻo mà chết mất đất đấy nhé! Đây là ta thương hại mà phóng sinh cho một lần đặng để đức lại cho con cháu. Nhưng báo trước cho biết là không còn lần thứ nhì nữa đâu đấy nhé! Đổng Triệu Hòa chợt thấy thái độ của Mạnh Kiện Hùng bỗng nhiênlại khinh khi hắn ra mặt như thế thì nhịn nhục không được thét vang lên rằng:
- Đường đường là một trang nam tử như ta mà để cho một đứa trẻ ranh làm nhục đến thế này, tức chết đi được! Nếu không trả được thù này ta thề không làm người đứng trên thế gian nữa! Mạnh Kiện Hùng đã ghét cay ghét đắng Đổng Triệu Hòa giờ lại nghe hắn nói thêm câu trả thù thì lửa giận lại phừng lên, nói thầm trong bụng rằng: - “Tưởng ngươi không thèm trả thù thì ta còn để người sống thêm một thời gian ngắn nữa, chứ còn nếu người muốn trả thù thì ta cho xuống gấp âm ty để trả thù với Diêm Vương dưới đó!” Nghĩ vậy, thuận tay, Mạnh Kiện Hùng đấm mạnh vào vai Đổng Triệu Hòa một cái miệng nói lớn: - Thôi đi đi! Đừng nhiều chuyện! Đoạn chàng xô hắn một cái chúi nhủi rồi đi thẳng vào trong sơn trang, miệng cười khinh bỉ không thèm ngó lại. Đổng Triệu Hòa bị một đấm như trời giáng ngay vai đau thấu cốt tủy, vụt miệng chửi đổng lên. Nhưng rồi lại sợ rủi Mạnh Kiện Hùng nổi giận quay trở lại thì chỉ có nước mà ốm đòn mà chuốc thêm lấy sự nhục nhã nên đành đi vội đến chỗ cột ngựa gắng gượng lên yên phi một hơi về An Viễn Khách Sạn. Về đến nơi, Đổng Triệu Hòa thấy Trương Siêu Trọng, Ngô Quốc Đống cùng đầy đủ cả mặt bọn tiêu sư của Trấn Viễn tiêu cục ngồi bàn tính công chuyện. Ngoài mấy người quen ra, Đổng Triệu Hòa còn thấy bảy, tám người lạ mặt nữa nhưng hắn không nhận được là ai. Câu chuyện mấy người này bàn không ngoài các đề tài như: Văn Thái Lai sau khi đánh chết Phùng Huy và Hàn Xuân Lâm thì trốn đi đàng nào?... Lão già bí mật trợ giúp bọn Văn Thái Lai kia là ai?... Đổng Triệu Hòa nghe được chuyện thì khoái chí mừng lắm. Hắn bèn đem những việc đi dọ thám được ở Thiết Đảm trang ra sao thuật lại cho Trương Siêu Trọng cùng cả bọn nghe rõ. Đang cao hứng kể chuyện bỗng hắn cảm thấy xây xẩm mặt mày rồi ngã quỵ xuống.
Trương Siêu Trọng thấy vậy vội vàng nhanh tay đỡ lấy hắn. Ylấy làm lạ bèn cởi áo ngoài Đổng Triệu Hòa ra xem thật kỹ lưỡng. Vốn là một đại cao thủ trong võ lâm từng trải giang hồ nên chỉ cần xem sơ qua là Trương Siêu Trọng đã biết ngay là Đổng Triệu Hòa bị điểm huyệt trong khi chính bản thân Đổng Triệu Hòa lại không hay biết một tí gì cả. Người điểm huyệt Đổng Triệu Hòa chuyến này tuy không lợi hại bằng Bôn Lôi Thủ Văn Thái Lai lần trước nhưng lại chọn vào những huyệt đạo chính yếu mà điểm chẳng khác nào một thầy địa lý chọn đất, nếu không kịp thời giải huyệt thì chỉ nội trong một tháng, tánh mạng Đổng Triệu Hòa chỉ có đường theo ông theo bà về chầu Diêm tổ mà thôi! Trương Siêu Trọng lập tức giải hết tất cả huyệt đạo cho Đổng Triệu Hòa rồi sai người đem vào phòng riêng cho hắn tĩnh dưỡng. Phải một lúc khá lâu, Đổng Triệu Hòa mới dần dần tỉnh lại được. Trương Siêu Trọng liền hỏi hắn từ đầu đến đuôi câu chuyện. Khi nghe thuật lại, Trương Siêu Trọng vừa mừng vừa tức giận. Mừng là vì biết được tung tích Văn Thái Lai; giận là vì Thiết Đảm trang dám cả gan chứa chấp khâm phạm triều đình lại còn ra tay hạ độc thủ. Trương Siêu Trọng quy tụ tất cả mọi người lại bảo rằng: - Chúng ta hãy tức tốc lên đường đến Thiết Đảm trang. Đổng lão đệ hãy đi trước làm hướng đạo. Đổng Triệu Hòa tuy được giải huyệt nhưng vẫn còn lắm. Trương Siêu Trọng lấy trong mình ra một viên thuốc màu hồng hòa với nước trong cho hắn uống. Thật là một viên “thần đan”! Uống xong, Đổng Triệu Hòa thấy tinh thần gai tăng bội phần, sức lực như đã có lại đầy đủ như cũ. Còn Ngô Quốc Đống sau khi bị Văn Thái Lai đánh gẫu xương bả vai, lại trúng phải một phi đao của Lạc Băng, được Trương Siêu Trọng cứu chữa bằng cách dùng thuốc vừa bó vừa rắc lên các vết thương nên cũng đã bình phục rồi. Mặc dù thương tích vẫn còn hành chút
đỉnh nhưng hắn cũng gắng gượng mà đi theo. Chờ cho đông đủ mặt tất cả, Trương Siêu Trọng mới giới thiệu mấy người lạ mặt cho Đổng Triệu Hòa biết. Nghe giới thiệu, Đổng Triệu Hòa thất kinh vì đó toàn là những cao thủ võ lâm quy thuận triều đình làm quan lớn cả. Một người làm chức Đại nội Chưởng xuyên tẩu mã ngoại, tứ phẩm thị vệ tên Đoàn Đại Lâm; một người làn chức Thị vệ Tổng giáo tập trong phủ Trịnh Thân Vương tên Văn Khánh Nhuận; một người làm chức Tổng binh, thuộc phủ Cửu Môn đề đốc Thành Khoáng; một người làm Chưởng môn ở phủ Thần Châu tỉnh Hồ Nam tên Bá Cao. Mấy người còn lại thì chức tước nhỏ hơn, nhưng cũng đều là Bổ khoái ở Thiên Tân và Bảo Định. Tất cả những người này đều thừa lệnh của vua Càn Long theo giúp Trương Trọng Siêu để bắt cho được Văn Thái Lai. Đổng Triệu Hòa đi trước dẫn đường. Một đoàn người theo sau sát khí đằng đằng oai phong lẫm liệt, trông chẳng khác gì một cuộc hành quân, nhắm hướng Thiết Đảm trang tiến thẳng tới...
THƯ KIẾM ÂN CỪU LỤC KimDung www.dtv-ebook.com Chương 5 Miếu Hắc Hổ, Thần Uy Kinh Mãnh Thú - Thành An Tây Tương Kiến Hội Quần Anh Đây nói về Lục Phỉ Thanh từ khi đưa bọn Văn Thái Lai ra khỏi An Viễn khách sạn thì một người một ngựa tung gió, đạp tuyết, xung sương mà nhắm hướng Tây đi thẳng tới. Khi qua khỏi ngọn núi Tu Di thì trời vừa đúng ngọ. Núi Tu Di có một cái hang lớn, lại dài và sâu thăm thẳm chẳng khác gì một cái hang thuồng luồng tối đen và lạnh buốt. Nơi đây là sào huyệt của độc xà và mãnh hổ. Phàm người đi qua núi đều phải đi ngang qua cửa hang này. Vì đó là con đường “độc đạo” duy nhất. Từ trước đến nay, đã không biết bao nhiêu người đem thân nạp mạng cho độc xà ác thú tại nơi đây mà quan quân vẫn không làm cách nào bảo đảm được an ninh cho khách lữ hành lui tới. Theo những lời đồn đãi, có nhiều người bị cọp ăn thịt hóa thành “ma trành” lộng hành, nhất là vào giờ mặt trời đứng bóng thì lại cành linh thiêng ghê gớm, ai cũng phải khiếp sợ. Vì vậy, ở ngay trước miệng cửa hang, một cây cổ thụ “táo lão”, thân cây có đến mấy người ôm, cành lá xum xuê, dân địa phương có lập một cái miếu thờ thần Hắc Hổ, tạc hình tượng một con cọp đen trông như sống để khách qua núi cúng vái, cầu cho được toàn sinh mạng. Trước sân miếu lại đáp hình những con ma trành đủ hạng lớn, bé, già, trẻ, nam, nữ, nhảu múa ca xang diễn lại cái cảnh dưới ánh trăng khuya, ma trành làm trò vui cho thần hổ tiêu khiển. Chưa biết là miễu Thần Hổ có linh ứng hay không. Chỉ cần thấy cái cảnh ghê rợn của miễu và hình tượng quái gở của bầy ma trành, khách qua đường yếu bóng vía nhìn vào cũng đủ ngã xỉu chết giấc. Theo dân địa phương và những nhóm hắc đạo giang hồ kể lại thì trong hang có vô số những mãnh hổ cùng với mãng xà. Nhưng chúa tể của chúng là một con hổ đen ba chân to như con bò mộng, đôi mắt sáng như đồng linh, miệng đỏ như chậu máu, có tiếng cà um vang dội xa đến mấy dặm đường.
Con hắc hổ này sống đã lâu, vì ăn thịt người quá nhiều nên đã biến thành tinh. Nó hóa ra được hình người, nói được tiếng người, hành động như người, lại đủ cả mưu mô xảo quyệt gạt người đi đường mà nhai sống. Nó có linh tính đến nỗi nghe xa được, đoán trước được nên binh mã của triều đình, tên đạn, bẫy lưới của của các tay thiện xạ vẫn không làm gì được nó. Chỉ có một lần, cách đây không bao lâu, nó bị hiệp sĩ Viên Sĩ Tiêu, bẻ gãy hết một chân nên chỉ còn lại ba. Nhưng từ đó, con hổ tinh này lại càng hung hăng lên gấp trăm lần. Hễ ai đi ngang qua miệng hang là nạp mạng cho nó chứ đừng mong mà cầu khẩn hay van xin như trước nữa. Mà nó thù nhất là những khách giang hồ mang võ công trác tuyệt. Hợp sức với con hắc hổ này là con đại mãng xà vương, chúa tể các loài rắn rết sống trong hang này. Nói chung, cái trở ngại cho khách lữ hành qua núi Tu Di là hang Thần Hổ này. Đừng nói là khách thương tầm thường, dầu là những cao thủ võ lâm khi phải đi ngang chốn này còn phải lo lắng e ngại. Mỗi lần muốn qua miệng hang Thần Hổ, khách lữ hành phải hợp đoàn đến vài ba trăm người. Phụ nữ, lão, ấu, thì đi giữa, còn những
trai tráng mạnh khỏe có sức lực và võ nghệ đều thủ sẵn khí giới đi chung quanh, tiền phong lẫn hậu tập. Dầu vậy, cũng chưa bao giờ có đoàn nào dám đi qua núi vào lúc mặt trời đứng bóng vào hai giờ tý và ngọ, là những giờ tìm mồi ăn trưa của chúa sơn lâm thần hổ. Tuy nhiên, mỗi đoàn đi qua miệng hang thế nào cũng phải để lại cho vài ba mạng. Nó gầm lên một tiếng rồi từ trong miệng hang phóng ra. Rồi chẳng biết nó bắt người bằng cách nào, hồi nào, đến khi đoàn kiểm điểm lại người khi qua núi rồi mới hay là thiếu. Đó là khách thương. Còn những khách giang hồ có võ công muốn đi qua miệng hang cũng phải đợi có được vài mươi người, phân công cho nhau tìm cách kháng cự chu đáo rồi mới dám khởi hành. Nhưng rốt cuộc cũng phải có một hai người làm mồi tế hắc hổ. Đại hiệp Viên Sĩ Tiêu nghe chuyện hắc hổ hoành hành, giết hại khách đi đường qua núi Tu Di nên quyết vì dân trừ hại và trả thù cho một số võ lâm đồng đạo bị ăn thịt mới một mình đến ngay miệng hang Thần Hổ vào giờ mặt trời đứng bóng mà khiêu khích. Hắc hổ thoát được tử thần nhưng bị bẻ gãy một chân bên trái. Chờ luôn ba ngày không thấy hắc hổ về lại hang, đại hiệp Viên Sĩ Tiêu cũng không còn cách nào trừ tuyệt được nên đành chờ dịp khác. Viên Sĩ Tiêu đi rồi, hắn hổ mới dám trở lại chỗ cũ. Từ đó nó trở nên hung hăng hơn trước, hễ thấy có bóng dáng người võ lâm là gầm thét lên dữ dội, quyết định ăn thịt cho bằng được. Do đó mà lâu nay núi Tu Di vắng khách qua lại. Quan địa phương ra châu tri cho dân chúng hay, mỗi tháng có hai lần qua núi, chia ra, đầu tháng thì bên này sang, giữa tháng thì bên kia sang. Ai có việc cần qua núi Tu Di thì tới đúng kỳ hẹn đến dưới chân núi chờ sẵn. Sau đó, đoàn người sẽ đi vào giữa, trước sau, hai bên đều có quân lính đi hộ tống, giương dáo mác, cờ xí ngập trời. Đạo quân hộ tống này có đến cả 5000 binh sĩ, do một viên Tổng binh và một viên Tham tướng chỉ huy, đám đi tiên phong, đám đi đoạn hậu, chẳng khác gì một cuộc hành quân quan trọng...
Lần này có việc khẩn cấp, Lục Phỉ Thanh phải qua núi Tu Di. Cái danh từ “hang Thần Hổ” đã đồn đãi khắp giang hồ từ lâu nên cũng không xa lạ gì với Lục Phỉ Thanh. Kể về tài năng, Lục Phỉ Thanh vẫn tin tưởng ông ta thừa sức đối phó được với hắc hổ. Nhưng xưa nay, ông ta là người tinh tế, làm việc gì cũng muốn cho chắc chắn chứ không thích mạo hiểm cầu may. Vì vậy, ông ta vẫn có ý định chờ xem có cao thủ giang hồ nào qua lại sẽ rủ đi chung cho có bạn. Chờ một hồi khá lâu mà vẫn nhìn thấy bốn bề vắng ngắt, không một bóng người hay thú vật nào qua lại, Lục Phỉ Thanh mới nhận thấy quả con hắc hổ này quả đã gieo vào lòng người và muông thú niềm sợ hãi khủng khiếp. Chẳng những thế, luôn cả các loài dã thú cũng chẳng dám bén mảng. Núi Tu Di đã trở thành giang san riêng của “Hắc hổ”. Hang Thần Hổ là triều đình của nó, độc xà, mãnh thú còn ở tại núi Tu Di là thần dân bộ hạ của nó. Lục Phỉ Thanh nghĩ thầm: - Ta là một cao thủ võ lâm. Cái uy danh của Miên Lý Châm Lục Phỉ Thanh đã từng nhiều phen vang rền trong thiên hạ. Đáng lý ra ta phải noi gương Viên Sĩ Tiêu tìm đến hang Thần Hổ mà trừ đại họa cho nhân dân, lẽ nào lại e dè không dám qua một mình mà phải chờ có đồng bạn đi chung? Như vậy võ công cao siêu của ta rèn luyện để làm gì? Há chẳng phải vô dụng lắm sao? Nghĩ vậy, Lục Phỉ Thanh trở nên can đảm lạ thường, ngồi trên lưng ngựa, cầm thương, lưng đeo cung tên, túi đựng sẵn kim châm, mang theo bảo kiếm trông oai phong lẫm liệt, không hổ thẹn là một đại cao thủ của phái Võ Đang.
Đến miệng hang Thần Hổ vừa đúng giờ ngọ, Lục Phỉ Thanh nhìn vào miếu thờ Hắc hổ thấy cảnh tượng thật là ghê gớm; nào là tượng cọp đen giương nanh vuốt; nào là hình tượng ma trành tay chân nhảy múa... Ông nhìn cái cảnh tượng trong miếu kia mà hình dung được tình cảnh của non sông hiện tại. Thật là một cái họa do người Mãn Thanh gieo rắc vào Hán tộc. Hắc hổ kia chính là vua Càn Long cùng triều đình Mãn Thanh và lũ ma trành kia chính là những tên tẩu cẩu. Phải, những tên “ma trành” tẩu cẩu chỉ cần làm vừa lòng “hắc hổ” là vua Càn Long, sẽ sẵn sàng giết hại vô số đồng bào và các nhà cách mạng ái quốc. Con “ma trành” chúa tể hiện tại là Trương Siêu Trọng, sư đệ của Lục Phỉ Thanh, một cao đồ của phái Võ Đang lại cam tâm đi uốn gối triều đình Mãn Thanh trong khi chính ông ta đã đóng góp
bao nhiêu công sức cho các công cuộc “phản Thanh phục Minh”. Bao nhiêu đồng chí trong Đồ Long hội của ông ta đã phải hy sinh, người thì tuẫn tiết, kẻ bị truy nã... Chính bản thân Lục Phỉ Thanh đã phải trốn chui trốn nhủi hết 10 năm trời! Ông ta chẳng phải tham sống sợ chết, chỉ là muốn dành cái mạn sống để chờ cơ hội tốt mà tiếp tục tranh đấu vì dân vì nước để giành lại chủ quyền, tự do no ấm cho dân tộc. Hiện tại, Lục Phỉ Thanh nhận thấy chỉ có Hồng Hoa hội là đảng cách mạng duy nhất tiếp tục được công việc cứu quốc của Đồ Long hội trước kia. Ông hoàn toàn không thân Hồng Hoa hội nhưng cảm khái trước chí khí bất khuất của bọn Văn Thái Lai và cảm phục chính nghĩa của Hồng Hoa hội, và lại có cảm tình với người bạn cũ là Triệu Bán Sơn. Vì vậy, nếu phải hy sinh tánh mạng để đem tin đến Hồng Hoa hội mà xin viện binh đến trợ giúp cho bọn Văn Thái Lai, Lục Phỉ Thanh cũng chẳng từ nan. Ông ta nghĩ: - “Việc của Hồng Hoa hội là việc chung của tất cả người dân trong nước.” Một khi đã nhận lời làm hộ, nhất định Lục Phỉ Thanh không thể để thất bại được. Vì vậy việc đi An Tây làm ông ta nóng ruột không ít. Một phút trì hoãn là một phút thì giờ quý báu phí phạm. Lục Phỉ Thanh định bụng bỏ qua câu chuyện trừ Hắc hổ mà cấp tốc tiếp tục cuộc hành trình đi An Tây. Ông ta vừa phóng ngựa qua khỏi hang Thần Hổ thì một mùi hôi tanh từ đâu bốt lên bay vào mũi và một luồng gió lạnh tạt đến đàng sau lưng. Lục Phỉ Thanh nghi chắc Hắc hổ núp đâu đây rình lúc ông ta không để ý sẽ nhảy ra “làm hỗn”. Loài hổ luôn dùng cái thế “tiên hạ thủ vi cường”, nhưng một khi đã “thành tinh” thì hổ chỉ vồ người lén lút, không như hổ thường, trước khi vồ mồi thường hay gầm lên một tiếng để lấy trớn thị uy. Con hắc hổn này đã thành tinh rồi nên rất khôn ngoan, thường hành động một cách im lìm khi con mồi không đề phòng đúng như binh pháp “xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị”.
Ngửi thấy mùi tanh và nghe thoảng hơi gió, Lục Phỉ Thanh quay người lại đánh một quyền như búa bổ vào thinh không. Những cao thủ cỡ Lục Phỉ Thanh khi tung ra một ngọn quyền hay một ngọn cước đều không phải như cao thủ bình thường đánh gió vì trong quyền hay cưóc đó luôn luôn có một kình lực nhắm vào một mục tiêu. Cho nên, nhiều lúc họ không cần phải chạm vào người đối thủ mà vẫn đánh trúng chỗ nhược như thường, tựa như một tay thiện xạ bắn trúng hồng tâm. Lục Phỉ Thanh ngồi trên lưng ngựa ngó về đàng trước nhưng luôn luôn đề phòng sau lưng và hai bên. Ngọn quyền đánh trái ra sau lưng như va vào một vật gì mềm và xù xì lông lá. Bỗng nghe một tiếng “bịch” như vật ấy rơi xuống đất nhưng hình như lại bật ngay mình trở dậy. Thì ra đó chính là con hắc hổ. Lục Phỉ Thanh nhìn con vật mỉm cười. Nó đã thành tinh nên khôn ngoan ranh mãnh vô cùng. Nó có thể trông vào người mà biết được người đó có bản lãnh cao siêu hay không. Từ khi bị Viên Sĩ Tiêu bẻ lọi một giò, con hắc hổ căm thù những cao thủ trong giang hồ vô cùng. Bị qua một lần như thế, chính nó cũng tởn thần nên cũng học thêm được ít kinh nghiệm, hễ thấy các cao thủ võ lâm là luôn luôn cẩn thận đề phòng và hễ rình được cơ hội là sẽ vồ ngay. Nó vừa căm thù và cũng vừa sợ hãi những tay cao thủ, nó vẫn luôn đề phòng vì linh cản sẽ có ngày Viên Sĩ Tiêu trở lại quyết giết nó cho bằng được như lời thề của ông ta trên miệng hang Thần Hổ trước khi rời khỏi núi. Nhờ có kinh nghiệm và biết đề phòng nên khi Lục Phỉ Thanh đến trước miếu Hắc hổ, nó không dám liều lĩnh xông ra làm càn. Trông bộ tịch, tướng tá, cách trang phục và trang bị của ông ta nó cũng biết là một cao thủ ghê gớm rồi. Từ khi bị Viên Sĩ Tiêu bẻ gãy chân, Hắc hổ không còn dám ngồi chực ở miệng hang mà cũng không dám nhìn chung quanh lối đó, chỉ leo lên chân ba của cây táo ở trước miếu liếc mắt xem chừng động tĩnh bốn phương mỗi khi nghe tiếng động. Nó có tài trèo cây rất giỏi. Tin đồn cọp không biết trèo cây thật là lầm to!
Khi Lục Phỉ Thanh đi ngang qua, hắc hổ vẫn lẳng lặng đứng yên trên cây, đợi cho ngựa ông ta vừa đi ngang qua đúng tầm thì phóng từ trên cây xuống, giương nanh vuốt định móc vào cổ họng ông ta. Chẳng ngờ Lục Phỉ Thanh lẹ quá, chỉ cần ngửi thấy mùi hôi tanh và nghe hơi gió sau lưng là đã biết ngay, do đó mới tung một quyền đánh trúng ngay yết hầu của hắc hổ. Tuy bị một quyền nhưng nó đã vùng lên được ngay dễ dàng đôi mắt nhìn thẳng vào Lục Phỉ Thanh để cướp tinh thần, miệng thì gầm lên một tiếng như muốn xé nát cả rừng. Sau đó, hai chân trước chống, hai chân sau phục ngồi xuống lừa thế, đợi thời. Cái thế ngồi này trong võ thuật gọi là Hổ Phục, thế thủ cực kỳ lợi hại của giống hổ. Giá mà Lục Phỉ Thanh dùng vũ khí hay ám khí mà tấn công nó trong lúc này thì sẽ cầm chắc cái thắng trong tay. Nếu hắc hổ không chết thì cũng sẽ bị trọng thương. Nhưng Lục Phỉ Thanh lại muốn xem tài lanh lẹn của nó đến thế nào do đó ông ta quyết định dùng quyền cước để đối phó với nó. Thấy ngồi trên lưng ngựa bất tiện, Lục Phỉ Thanh ngảy xuống đất trong khi con mãnh thú vẫn trong tư thế “hổ phục”. Lục Phỉ Thanh không chần chờ tấn công liền ngay, chân đá móc vào ngực con hắc hổ, tay đánh một quyền ngay tam tinh nó. Con hắc hổ kinh hoàng, nó nhảy lùi ra sau tránh được cả quyền lẫn cước của Lục Phỉ Thanh rồi gầm lớn chồm lên giương nanh vuốt định xé xác ông ta ra. Lục Phỉ Thanh chỉ chờ có thế, tay trái ông ta tung ra một quyền móc ngược vài hàm con mãnh thú. Hắc hổ đau quá, bật ngửa ra sau. Nhưng không đầy một giây nó đã đứng ngay dậy được, quay người phóng nhanh vào bụi rậm trốn mất. Mọi việc xảy ra quá bất ngờ làm Lục Phỉ Thanh phải ngạc nhiên không ít. Ông vẫn đinh ninh rằng con hắc hổ sẽ vồ tới tấn công tiếp chứ không ngờ là nó sẽ bỏ chạy. Định rút châm phóng theo nhưng bóng Hắc hổ đã mất hút. Lục Phỉ Thanh lắc đầu, thầm tiếc bỏ lỡ cơ hội giết ác thú trừ hại cho nhân dân.
Nghĩ rằng có chờ hắc hổ trở lại cũng chẳng ích gì vì sau khi bị một vố như thế, chắc hẳn là nó tìm đường trốn biệt rồi còn đâu. Sợ việc đi An Tây bị đình trệ thêm, Lục Phỉ Thanh vội vàng lên ngựa phóng một mạch qua hang Thần Hổ. Khi đi qua khỏi núi Tu Di được vài dặm, Lục Phỉ Thanh nhìn thấy dọc theo hai bên triền núi còn in lại dấu máu của cuộc ách chiến hôm trước giữa người Duy và đám tiêu sư của Trấn Viễn tiêu cục. Trận mưa làm máu loang ra nhuộm đỏ một khoảng dài. Lục Phỉ Thanh bất giác thấy ngậm ngùi, thở dài một tiếng. Ông ta lại nhận rõ được dấu chân con hắc hổ còn in rành rành trên mặt đất, chứng tỏ sau cuộc ác chiến nó đã đánh hơi được mùi tanh của máu đổ thịt rơi nên đã tới đây tìm mồi. Và bên cạnh dấu chân hắc hổ trên lớp máu hồng có rất nhiều dấu chân ngựa đi song song trông rất đều. Lục Phỉ Thanh thầm đếm kỹ có đến 20 cặp chân ngựa của 10 con tuấn mã hẳn hòi. Ông thầmnghĩ: - “Chắc chắn đây là dấu vết của những đương gia Hồng Hoa hội đi từng cặp tham dự cuộc “thiên lý tiếp long đầu” mà mình đã gặp qua giữa đường chỉ còn thiếu có Văn Thái Lai và Lạc Băng là đủ 12 cặp như ta đã ức đoán. Cứ theo vó ký này mà đi ắt ta không sợ bị lạc và sẽ sớm tới được An Tây. Tiết kiệm được thêm giờ phút nào thì hay giờ phút đó.” Đến một khúc vắng vẻ khác, Lục Phỉ Thanh lại thấy có những vùng đất nới thì trũng sâu xuống, chỗ thì tung tóe ra, nhiều cành cây nằm ngổn ngang, đá sỏi thì đầy dẫy, lại thêm cả những dấu chân của người, ngựa, lạc đà và cả hổ nữa. Điều đó chứng tỏ nơi đây vừa diễn ra một cuộc ác chiến mới, chỉ chưa biết rõ cuộc ác chiến kia xảy ra giữa người và người hay là giữa người và mãnh thú. Lục Phỉ Thanh nhĩ thầm:
- “Con đường độc đạo đi qua núi Tu Di này giờ đây khác hẳn với con đường 10 năm về trước ta thường đi công tác qua lại! Không ngờ này nay lại trở thành “sân khấu” của những cuộc xô xát liên miên. Quân Mãn Thanh xâm lược thật đã gieo rắc loạn lạc đến khắp nơi, ngay cả đến chốn rừng xanh núi thẳm cũng không tránh khỏi những cảnh thê lương ảm đạm! Ngày nào quân cướp nước chưa bị diệt là ngày ấy
non sông còn đượm màu tang tóc, chưa thể có hòa bình được. Ta chỉ mong sao công cuộc cách mạnh của Hồng Hoa hội sớm phát động và thành công để cái tuổi già này được chứng kiến ngày quốc gia độc lập, nhân dân được tự do no ấm thì dẫu có phải nhắm mắt ngay cũng chẳng còn gì phải ân hận nữa!” Nhờ ý nghĩ ấy thúc giục mà Lục Phỉ Thanh quên cả nhọc nhằn, quyết đi thật lẹ đến An Tây để đem tin tức của Văn Thái Lai báo cho Hồng Hoa hội biết. Chính nghĩa hình như đã gắn liền Lục Phỉ Thanh với tổ chức cách mạng mà ông chỉ mới nghe nói đến tên cách đây không bao lâu. Đối với những tấm lòng nhiệt thành yêu nước thì cần phải có ai kêu gọi mà vẫn tự mình tìm đến để chia sẻ, cùng nhau gánh vác trách nhiệm. Từ khi nghe tên và biết được đường hướng của Hồng Hoa hội, lòng Lục Phỉ Thanh như trẻ hẳn lại. Sức thanh niên bỗng trổi dậy trong thân thể già nua kia khiến ông ta hối tiếc đã ẩn dật trên 10 năm làm mất đi bao nhiêu thì giờ quý báu. Ông ta lại cảm thấy càng hổ thẹn với lương tâm khi nghĩ đến người bạn cũ trong Đồ Long Bang là Triệu Bán Sơn đã đem tấm thân bảy thước cùng với lòng ái quốc kia qua Hồng Hoa hội để mong được đền đáp núi sông. Tấc lòng son của họ Triệu kia thật là đáng quý, và đáng bội phục. Chỉ trong khoảnh khắc mà Lục Phỉ Thanh đã qua khỏi núi Tu Di non 45 dặm đường. Đến một thị trấn nhỏ, ông tạm dừng lại cho ngựa dưỡng sức, ăn cỏ và uống nước vì từ lúc rời khác sạn An Viễn, con tuấn mã của ông chạy không ngừng, có lẽ cũng có phần mỏi mệt. Lục Phỉ Thanh cảm thấy phấn khởi tinh thần. Bao nhiêu sức lực của thời trai trẻ như lại vùng dậy, cho thấy rằng tuổi già của ông ta chưa phải là vô dụng. Dù chỉ còn một hơi thở, Lục Phỉ Thanh cũng quyết hy sinh cho tổ quốc thân yêu và dân tộc...
Nhìn con chiến mã, Lục Phỉ Thanh chợt lo âu. Con vật trung thành đã bao năm theo ông tung hoành ngang dọc khắp nơi đã không còn được phong độ như xưa nữa. Trông nó gầy, ốm yếu và chậm chạp đi rất nhiều. Thật khó mà có thể đòi hỏi nó rút ngắn lại lộ trình đi đến An Tây như ý muốn được! Đưa được Lục Phỉ Thanh tới đây, con ngựa đã cố sức lắm rồi. Giờ đây trông nó thật hết sức thảm não, nếu muốn nó tiếp tục phải đi nhanh nữa thì có khác nào đem nó mà giết đi! Nhưng làm cách nào đổi được một con “vạn lý long câu” để hoành thành công tác của Văn Thái Lai ủy nhiệm? Mặc dù Lục Phỉ Thanh không phải là người của Hồng Hoa hội nhưng Văn Thái Lai dám đem công việc quan trọng bí mật của đảng gửi gắm cho ông. Lòng khảng khải biết người kia cũng đủ nói lên tấm lòng tri kỷ sơ giao, càng làm cho Lục Phỉ Thanh cảm phục thêm muôn phần... Lục Phỉ Thanh ngồi trên yên ngựa rong cương từ từ mà không khỏi mang những ý nghĩ mông lung. Việc gất rút phải đi đến An Tây kia như đốt cháy lá gan lão kiệt. Mặt trời đã ngả dần về Tây. Bức màn màu vàng nhạt của hoàng hôn âm thầm phủ lên cảnh vật đưa dần một ngày tươi sáng đi vào bóng đen hắc ám của một đêm dài... Phần thì lo cho Văn Thái Lai, phần thì thương con ngựa đuối sức không còn phi nổi nước đại. Chỉ đi chậm rãi từng bước một mà mồ hôi của con vật tuôn ra ướt đẫm. Công việc thì cấp bách như cứu hỏa. Nếu cứ thế này thì bao giờ mới đến được An Tây! Lục Phỉ Thanh hận mình không mọc được cánh để bay... Đang lúc lo nghĩ hoang mang, Lục Phỉ Thanh chợt bắt gặp từ phía chợ đi lại một người Duy cao lớn, tay dắt hai con ngựa trông cực kỳ hùng vĩ mạnh khỏe, một con hồng mã toàn sắc đỏ chói như ngựa Xích Thố của Quan Vân Trường và một con bạch mã lông trắng toát như con Thoại Long Câu của Tiết Nhân Quý. Người Duy kia chẳng rõ muốn tìm ai mà đôi mắt như láo liên đưa mãi nhìn quanh khắp chốn.
Đang lúc cần ngựa, Lục Phỉ Thanh đưa mắt nhìn hai con ngựa như một người tham của bị chóa mắt trước một kho tàng. Trông gương mặt người Duy, Lục Phỉ Thanh thấy quen quen như đã gặp ở đâu rồi. Tuy vậy, ông cũng không bận để ý suy nghĩ thêm làm gì. Ông ta chỉ thiết tha với hai con tuấn mã kia hơn bất cứ vật gì trên đời hiện tại. Hai con tuấn mã này, con nào con nấy trông cao lớn, mạnh mẽ phi
thường. Quả thật là hai con thiên lý mã. Con ngựa hồng toàn sắc đỏ như lửa có bốn chân trắng như tuết trông chẳng khác gì bốn đóa bạch mai. Con bạch mã thì chỉ một màu trắng toát toàn thân, không có một sợi lông nào khác màu ở bất cứ chỗ nào. Lục Phỉ Thanh nhìn hai con tuấn mã đắm đuối, chỉ ao ước làm sao chiếm được một con. Nhìn hai thân hình cao lớn của đôi ngựa đi giữa cảnh hoàng hôn chẳng khác nào một bức tranh “Song Mã” giữa nền đỏ thật là tuyệt đẹp. Bốn mắt của đôi ngựa rực lên như hào quang, càng làm cho Lục Phỉ Thanh động tâm. Chẳng nói chẳng rằng, Lục Phỉ Thanh liền thúc ngựa đến chặn ngay trước đầu người Duy ấy lại rồi nắm tay y lại hỏi xem có chịu bán ngựa hay không. Thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, trông rất đạo mạo, có vẻ tiên phong đạo cốt hỏi mua ngựa một cách đột ngột, người Duy phải ngạc nhiên, ngơ ngác nhìn ông ta từ đầu đến chân. Có lẽ y cảm thấy rằng ông già này là một người đáng kính nên không tỏ ra một vẻ bất bình hay muốn sinh sự về thái độ mua ngựa sỗ sàng của Lục Phỉ Thanh mà chỉ lắc đầu lia lịa, không đáp. Thấy người Duy không chịu bán ngựa, Lục Phỉ Thanh thất vọng vô cùng. Nhưng ông vẫn không chịu bỏ cuộc, đánh liều móc trong người ra một đỉnh bạc độ chừng 60 lượng trao tận tay hắn. Xưa nay, chưa có một ai chịu trả giá một con tuấn mã cao thế này nên Lục Phỉ Thanh tin chắc người Duy kia sẽ tham tiền mà nhường bớt lại cho ông ta một con. Chẳng ngờ người Duy kia vẫn lắc đầu như chưa đúng giá. Quyết mua ngựa cho bằng được, Lục Phỉ Thanh chẳng chút đắn đo, lấy hết tiền bạc trong người ra rồi giũ túi cho người Duy thấy rồi cầm tất cả số bạc trao vào tay y. Số bạc này tổng cộng cũng hơn 60 lượng, vị chi trước sau là trên 120 lượng. Nhưng người Duy đẩy tay Lục Phỉ Thanh lại, chẳng những lắc đầu mà còn lấy tay vẫy gạ đi, tỏ ý không chịu bán ngựa dù được trả với bất cứ giá nào đi chăng nữa.
Hoàn toàn thất vọng, Lục Phỉ Thanh không còn cách nào hơn là cất lại tiền bạc vào túi như cũ. Trong lúc vội vàng, ông ta đánh rơi một vật giữ làm “kỷ niệm” lâu nay. Vật ấy vô tình đập vào mắt người Duy kia. Ycúi xuống lượm vật ấy lên rồi đưa lên tận mắt mà xem. Rồi người Duy bỗng giật mình kinh ngạc đến cực độ, hai tay cầm trao trả lại cho Lục Phỉ Thanh. Sau đó, y rón rén nhìn xem dung mạo ông ta thêm lần nữa cho thật kỹ càng với một cử chỉ thân thiện và kính nể. Lục Phỉ Thanh lấy làm lạ không hiểu rõ lý do gì. Ông đưa tay đón lấy vật người Duy trao trả. Thì ra đó là mũi Thiết Liên Tử mà đàng sau có gắn một chiếc lông chim trĩ rất tinh vi trông thật đẹp. Nguyên mũi Thiết Liên Tử này là do Tiêu Thanh Đồng dùng để ném Lục Phỉ Thanh đêm nọ lúc ông ta theo dõi cái bóng đen vào tận trong rừng và sau đó được nghe lén cuộc hội nghị của người Duy thích huyết ăn thề phải chiếm lại Khả Lan Kinh cho bằng được. Khi biết việc không có can hệ gì đến mình, Lục Phỉ Thanh toan bỏ đi thì lại bị Tiêu Thanh Đồng phát giác tưởng là gian nhân nên dùng Thiết Liên Tử mà phóng. Mũi thứ nhất, Lục Phỉ Thanh tránh khỏi được. Mũi thứ nhì quá cận không thể tránh nên ông bèn dùng ly trà đang cầm ra mà hứng lấy. Sau đó Lục Phỉ Thanh cất mũi Thiết Liên Tử này vào người làm kỷ niệm, lần này vô ý để rơi nó ra ngoài cho người Duy trông thấy chẳng qua cũng chỉ là một sự ngẫu nhiên không hơn không kém... Người Duy sau khi trông thấy mũi Thiết Liên Tử rơi từ trong mình Lục Phỉ Thanh thì chẳng hiểu sao trong lòng như rất phân vân. Lục Phỉ Thanh thoáng hiểu nên lanh trí cầm mũi Thiết Liên Tử trên tay, rút bảo kiếm ra chặt đứt mũi nhọn để tỏ lòng ngay thẳng, ngụ ý bảo là bạn chứ không phải thù. Hình như người Duy ấy hiểu được ý nghĩa trong cử chỉ ấy của Lục Phỉ Thanh nên mặt mày hớn hở, gật đầu lia lịa, tin tưởng rằng ông ta là bằng hữu của vị công chúa xứ mình chứ không phải người xa lạ hay kẻ thù.
Người Duy không biết nói tiếng Hán, mà Lục Phỉ Thanh cũng chỉ biết nghe sơ sơ, bập bẹ được vài tiếng Duy hai người đàm thoại với
nhau bằng dấu hiệu nhiều hơn. Người Duy dắt hai con ngựa đến trước mặt Lục Phỉ Thanh ra dấu bảo ông ta cứ tự ý chọn lấy một. Cả hai con ngựa đều cao lớn, đẹp đẽ và mạnh mẽ như nhau cả. Nếu bảo phải chọn một thì thật là khó tính. Tuy nhiên, suy đi tính lại, Lục Phỉ Thanh quyết định chọn con ngựa hồng với bốn vó trắng vì tiện hơn cho ông ta đi vào ban đêm hơn. Ngựa trắng đi trong đêm sẽ dễ bị nhận diện hơn và tiện cho kẻ địch hơn trong việc dùng ám khí. Nghĩ vậy, ông liền ra dấu chỉ con ngựa hồng. Người Duy gật đầu tỏ ý ưng thuận. Lục Phỉ Thanh mừng rỡ khôn xiết. Ông lấy hết túi tiền trao cho người Duy như khi nãy ông ta đã định giá. Cũng giống như lần trước, người Duy lắc đầu lia lịa và vẫy tay gạt đi. Nhưng lần này thì ý khác hẳn. Cử chỉ lần này như nói với Lục Phỉ Thanh là y khảng khái biếu ngựa chứ nhất định không bán mà cũng chẳng chịu nhận tiền. Lục Phỉ Thanh đành phải cất bạc lại vào mình rồi ra dấu nhờ người ấy dắt giùm con ngựa của mình về mà nuôi dưỡng để dùng vì nó cũng là một con chiến mã hữu dụng, không ngoan, lại trung thành. Người Duy cúi đầu khẽ gật rồi hai tay dắt hai con ngựa đi về phía thị trấn. Lụ Phỉ Thanh mừng có được thiên lý mã nên tin tưởng chỉ nội trong đêm là có thể đến được An Tây. Ông nhảy lên lưng con tuấn mã, bụng nghĩ thầm: - “Không ngờ thanh thế của cô bé áo vàng kia đối với người Duy lại ghê gớm đến như vậy! Mũi Thiết Liên Tử của nàng có giá trị tương đương với một lệnh kim bài của một Đại nguyên soái. Ban đầu người Duy kia nhất định không bán ngựa mặc dù được trả giá trên trăm lượng thế mà khi nhìn thấy mũi Thiết Liên Tử này thì lại một mực biếu không tuấn mã cho mình trong khi chưa biết rõ mình là ai cả, đồng thời trên trăm lượng bạc ròng cũng chẳng thèm lấy nữa!” Vì chưa hiểu rõ lai lịch của Tiêu Thanh Đồng nên Lục Phỉ Thanh nào biết được nàng là một Công chúa, ái nữ của Tù trưởng Mộc Trác Luân, thủ lãnh của dân tộc Duy.
Người Duy tặng ngựa kia lại chính lại thuộc bộ lạc dưới quyền cai trị của Mộc Trác Luân nên đối với Tiêu Thanh Đồng tự nhiên là kính nể. Hầu như tất cả dân tộc Duy đều biết vụ Tiêu Thanh Đồng bố trí kế hoạch nhằm mục đích đoạt lại Khả Lan Kinh cho dân tộc họ nên ai nấy đều phấn khởi tinh thần, tìm đủ mọi cách yểm trợ, đóng góp, không bằng hình thức này thì bằng hình thức khác. Vì vậy, khi nhìn thấy ngọn Thiết Liên Tử có khắc dấu hiệu của công chúa họ, người Duy kia tin là Lục Phỉ Thanh là người của phe bên mình nên không chút nghi ngờ. Lại thấy Lục Phỉ Thanh nhắm hướng Tây mà đi thì lại càng tin là ông ta đi theo để hợp sức vói Tiêu Thanh Đồng mà đối phó với cường địch để thâu hồi Khả Lan Kinh do đó mà vui vẻ tặng tuấn mã không chút do dự... Con ngựa hồng bốn vó hoa mai phi như bay, chẳng khác gì một mũi tên lửa xẹt đi. Lục Phỉ Thanh nhận thấy rằng dù cho con ngựa hồng của Lý Khả Tú tướng quân được vua Càn Long ban cho, có tiếng là một “thiên lý thoại long câu” đời nay cũng không thể nào bì kịp. Lục Phỉ Thanh vui mừng hớn hở còn hơn được ngọc quý. Ông một mình một ngựa phóng như bay qua những con đường vắng trong hoàng hôn... Con ngựa của Lục Phỉ Thanh đang cỡi nguyên là một giống ngựa quý, hiếm có của Mộc Trác Luân bao năm huấn luyện thành thục để dùng trong việc chinh chiến, chỉ riêng những người thân tín hay các võ tướng mới được dùng mà thôi. Trong mười con ngựa quý nhất của bộ lạc Mộc Trác Luân, con Hồng Hoa tông mã này đứng hạng thứ 5, chỉ thua có ngựa của Mộc Trác Luân, của Tiêu Thanh Đồng, của Hương Hương công chúa, và của con trai lớn Mộc Trác Luân mà thôi. Cả mười con ngựa quý nhất đều được đóng dấu ấn tín. Chẳng mấy chốc, Lục Phỉ Thanh đã ra khỏi được thị trấn đếm mấy trăm dặm. Dưới bóng trăng vằng vặc, Lục Phỉ Thanh lòng khoan khoái nhìn gương mặt tròn, trong sáng của “chị Hằng Nga” đang lấp ló xuyên qua từng kẽ lá như soi thấu lòng người anh hùng nặng tình ưu ái với non sông.
Trước mặt Lục Phỉ Thanh là vài dãy núi cao chập chờn. Sau lưng là một giòng suối bạc lững lờ. Tiếng nhạn đêm... Tiếng hạc kêu sương... Đèn thuyền hiu hắt... Phong cảnh như khơi động lòng hoài cảm của khách chinh y. Lục Phỉ Thanh cho ngựa leo theo triền núi gồ ghề, bất giác nhớ lại chuyện cũ 10 năm dư... Những lúc xông pha gió bụi, dãi dầu phong sương đem tấm thân bảy thước mong đáp bồi ơn cây cỏ... Gặp vận không may, Đồ Long Bang tan rã, công cuộc cách mạng không thành. Một số bang chúng đền nợ nước; một số vẫn còn đang đeo đuổi chí tang bồng; còn thân mình thì nay đây mai đó, những tưởng đã chôn vùi tuổi trời trong chốn yên tịnh. Lần này ra biên ải gặp lại bạn cũ chí còn hăng say, đem chính nghĩa góp công sức vào Hồng Hoa hội làm cho Lục Phỉ Thanh thẹn thùng mà thức tỉnh. Ông quyết phen này ra sức đua tài để phục hồi lại chí khí năm xưa. Vì vậy, ông lại càng nóng lòng mà đi An Tây để được tận mắt nhìn thấy các nhân vật ưu tú trong Hồng Hoa hội đồng thời có dịp nhận xét tổ chức cách mạng này ra sao... Non xanh nước biếc, gió mát trăng thanh không thể cầm chân được Lục Phỉ Thanh lại nơi đây để thưởng thức cảnh vật hữu tình. Nhưng trong giây lát, lòng Lục Phỉ Thanh thấy cảm hứng lạ thường. Ông sực nhớ lại một bài thơ của Nhạc Phi đời Tống bèn đem ra ngâm vang lên giữa cảnh hoang vu. Niên lai trần thỏ mãn chinh y, Đắc đắc nhàn khan thượng thúy vi. Hảo cảnh, hảo sơn, khan bất tuyệt, Mã đề thời sấn nhạn nam phi. Hoàn cảnh Nhạc Vũ Mục thật giống với cảnh của Lục Phỉ Thanh ngày nay. Tuy mến cảnh nhưng lại không có thì giờ thưởng ngoạn vì tiếng nhạn phương Nam như thúc giục người yêu nước mau mau lên đường làm bổn phận thiêng liêng. Tiếng ngâm của Lục Phỉ Thanh ngân lên giữa đêm vắng. Tiếng dư âm như vọng lại, dường như lời của non sông đáp lại cùng ông...
Qua khỏi ngọn núi, một xóm nhà tranh của chốn thôn dã hiện ra ngay dưới chân núi với một vài ngọn đèn đêm lờ mờ. Lục Phỉ Thanh đến một vách lá quạnh hiu, dắt ngựa vào sân và lên tiếng gọi cửa. Một cụ già trạc ngoài lục tuần cầm đè bước ra. Thấy Lục Phỉ Thanh tướng mạo đường bệ, oai phong lẫm liệt, cụ già vui vẻ mời vào nhà... Sau một tuần trà, Lục Phỉ Thanh thú thật là phải đi ngàn dặm xa xôi vì có việc cần nên tình cờ ghé ngang qua đây xin nghỉ chân vài tiếng vì người đói, ngựa mỏi, rồi sau đó lại tiếp tục lên đường. Hai người tiếp tục ngồi hàn huyên, mỗi lúc một thêm tương đắc. Lục Phỉ Thanh mới hay cụ già này trước kia, lúc còn trẻ cũng là một nhân vật giang hồ. Lúc Đồ Long hội khởi cuộc kháng Thanh, cụ có chiêu mộ một số thanh niên trong vùng đón đường quan quân đánh nhiều trận du kích làm cho bin triều phải khiếp sợ. Khi được biết Lục Phỉ Thanh là một trong các cựu lãnh tụ của Đồ Long hội, cụ già mừng rỡ vô cùng, lấy chân tâm mà đối xử chứ không còn khách sáo nữa. Cụ già trải chiếu, bảo Lục Phỉ Thanh nằm nghỉ lưng đỡ, gọi vợ con thức dậy làm một bữa cơm đạm bạc đãi đằng, còn đích thân cụ lo cỏ rơm cho ngựa. Sự tiếp đãi ân cần ấy làm cho Lục Phỉ Thanh hết sức cảm động. Ông nghĩ rằng trong chốn “thâm sơn cùng cốc” mà còn có được những bậc anh hùng vô danh ẩn tích thế này thì vận mạng của Hán tộc chưa đến nỗi phải tuyệt vọng. Lục Phỉ Thanh không cần giấu diếm nữa, liền nói cho cụ già hay là ông đi An Tây tìm Hồng Hoa hội để thực hiện một công tác rất quan trọng, có thể được là cứu dân cứu nước. Cụ già tự giới thiệu tên họ là Trần Đại Dụng, biệt danh là Vô Ngã, người thôn Kinh Trang. Ông ta hứa với Lục Phỉ Thanh rằng lúc nào “khai quân cần vương” thì chính ông ta sẽ đứng ra chiêu mộ nghĩa quân vùng này tiếp chiến. Không cần phải đắn đo suy nghĩ, Trần Đại
Dụng tuyên bố sẽ tình nguyện làm một mật báo viên và nguyện đem thảo trang của mình làm trạm nghỉ chân và trụ sở liên lạc cho tất cả người của Hồng Hoa hội có thể ghế đến bất cứ lúc nào. Lục Phỉ Thanh không ngờ lại tìm thêm được một người đồng chí mới nữa. Đôi bên ý hợp tâm đầu chẳng khác gì đôi bạn thâm giao, quen nhau từ lâu lắm rồi. Trần Đại Dụng lại tâm sự, kể chuyện cho biết rằng ông ta là môn đồ của Yên Chi Hòa Thượng thuộc phái Thanh Thành nên tài năng kiếm pháp của ông ta một dạo cũng từng được các phái võ lâm biết đến và ca ngợi khá nhiều. Sau khi được tin Đồ Long hội tan rã, Trần Đại Dụng một mình ẩn tích nơi đây, không còn muốn nhúng tay vào chuyện giang hồ nữa mà chỉ đứng trung lập, không thuận ai mà cũng chẳng nghịch ai. Nhưng hầu hết các giang hồ đồng đạo biết tài của ông ta đều tông trọng ông ta chứ chẳng dám đụng đến. Ngay cả Uy Chấn Hà Sóc Vương Duy Dương kia còn phải nể nang Trần Đại Dụng. Cứ mỗi lần có tiêu hàng tải qua vùng này, họ Vương đều cho một vài tiêu sư đại diện Trấn Viễn tiêu cục đến báo tin trước, đồng thời kính biếu ông ta một ít vàng bạc khá hậu hĩnh. Đối với các tiêu sư trong Trấn Viễn tiêu cục, Trần Đại Dụng quen mặt và biết tên gần hết. Người ông ta ghét nhất là Đổng Triệu Hòa, và hắn cũng gườm ông ta nhất. Có một lần hắn giở thái độ ngạo mạn, đến vùng này mà quen thói lỗ mãng và hách dịch xem thường nên Trần Đại Dụng đã sửa trị hắn một trận nên thân. Nếu không nhờ Diêm Thế Chương xuống nước hết lời năn nỉ chắc lưỡi kiếm “Can Tương” của ông ta đã cho hắn một nhát rụng đầu rồi... Nghe nhắc đến tên “Can Tương”, Lục Phỉ Thanh thích lắm liền yêu cầu Trần Đại Dụng cho xem thử vì xưa nay ông chỉ được nghe nhắc đến tên thôi mà chưa hân hạnh được thấy lần nào.
Trần Đại Dụng liền vào trong đem ra một cái bao da bọc gấm lấy Can Tương kiếm cho Lục Phỉ Thanh xem. Lưỡi kiếm dài độ sáu tấc, mỏng như lá lúa. Kiến quang long lanh một màu hồng như ánh dương mới mọc. Kiếm khí lạnh như tuyết giá. Thật là một thanh kiếm báu hy hữu. Cao hứng, Lục Phỉ Thanh xin mượn kiếm múa thử một vài đường. Trước sân rộng dưới ánh trăng, Lục Phỉ Thanh múa kiếm vùn vụt. Kiếm quang rực sáng che lấp cả bóng người sử dụng. Trần Đại Dụng vừa xem vừa trầm trồ khen ngợi, trong lòng hết sức thán phục là kiếm thuật phi thường... Múa kiếm xong, Lục Phỉ Thanh xoay nguợc chuôi kiếm, cung kính trao trả lại. Nhưng Trần Đại Dụng lắc đầu cười, khảng khái đem ngay bảo kiếm Can Tương tặng cho Lục Phỉ Thanh, với ngụ ý rằng kiếm báu dùng để tặng tráng sĩ đặng giết giặc cứu nước. Lục Phỉ Thanh cả kinh, đời nào dám nhận lấy. Nhưng có nói cách nào mãi vẫn không xong. Trần Đại Dụng một hai bắt Lục Phỉ Thanh phải nhận lấy. Sau cùng, không còn cách nào từ chối được, Lục Phỉ Thanh đành nhận lấy với lời thề long trọng cùng chủ nhân là nếu không chu toàn trách nhiệm trừ gian diệt bạo cho nhân dân thì thà là chết với bảo kiếm chứ quyết không để nhục. Đã được tặng tuấn mã, giờ lại được tặng thêm bảo kiếm, Lục Phỉ Thanh tron lòng khoa khoái đến cực độ. Ông ta tự nhủ: - “Với chiến mã và bảo kiếm, từ nay ta có thể tái xuất giang hồ được rồi. Cho dù là Trương Siêu Trọng thì đã sao? Ta há sợ nó? Chỉ tiếc sư phụ quá cưng chiều nên truyền cho hắn bản lãnh phi phàm để hại nước, hại dân, làm nhục cả đến sư môn. Phải chi Trương Siêu Trọng chịu theo chính nghĩa, đứng về phía hàng ngũ cách mạng thì thật may cho phái Võ Đang biết mấy! Lúc đó cả uy danh của môn phái lẫn sư phụ ai lại không cảm phục? Lịch sử lẽ nào quên ghi tên?”
Lúc ấy, cả người lẫn ngựa đã no nê được nghỉ đủ. Lục Phỉ Thanh bèn ngỏ ý từ giã Trần Đại Dụng để lên đường đi An Tây cho kịp. Lúc chia tay, hai đầu bạc tỏ ra quyến luyến nhau, cùng hẹn ngày tái ngộ. Trần Đại Dụng gói cho Lục Phỉ Thanh một ít lương khô, lại không quên kèm theo một bao thóc cho ngựa đồng thời tiễn khách quý ra xa ngoài ba dặm mới chịu quay đầu trở lại...
Lục Phỉ Thanh lại tiếp tục cuộc hành trình. Phải đi thêm hai ngày một đêm nữa, tính ra trước sau có trên 1000 dặm đường, Lục Phỉ Thanh mới đến được địa phận An Tây. Đó là cũng nhờ vào một phần lớn ở sức lực con thiên lý mã. Sau ba ngày ba đêm dầm sương dãi nắng, ăn qua loa, ngủ cầm chừng, khởi nguồn từ khách sạn An Viễn, Lục Phỉ Thanh cảm thấy chân tay rã rời, mệt mỏi, tinh thần suy kém rất nhiều. Lúc ấy mặt trời đã bắt đầu lặn. Vào đến cửa Đông thành An Tây, Lục Phỉ Thanh chợt nhớ tới lời dặn của Văn Thái Lai nên lấy cái hoa mai đỏ gắn vào chót mão của mình. Lục Phỉ Thanh liền xuống ngựa, cầm cương dắt đi chậm rãi vào thành. Chỉ vì ông ta sợ ngồi trên lưng ngựa đi giữa một thành phố giàu có, tấp nập dân cư, từ xe ngựa cho đến khách bộ hành. Đó là chưa kể sẽ có kẻ rong cương qua, người cỡi ngựa đi lại, rất có thể che lấp mất cái hoa mai đỏ trên mão mình nên người của Hồng Hoa hội khó mà nhận ra được. Với lớp áo pha màu bụi đường, ngựa ướt đẫm mồ hôi, Lục Phỉ Thanh khó tránh được những cặp mắt sửng sốt đổ dồn về mình. Biết là bất tiện cho mình, nhưng không còn cách nào hơn nên Lục Phỉ Thanh đành phải tiếp tục mà dắt ngựa đi tiếp, chỉ mong sao sớm gặp được người của Hồng Hoa hội ra đón. Đi ngang qua một con đường khá náo nhiệt, Lục Phỉ Thanh nhìn thấy đầu kia có hai chàng thanh niên cao lớn, mặt mũi sáng sủa đang hấp tấp băng qua đường hướng thẳng về phía ông ta mà đi tới đón đầu. Lục Phỉ Thanh cứ giả vờ như không hề để ý đến hai người ấy. Ông vẫn tiếp tục dắt ngựa đi nép theo mé đường. Hai thanh niên kia đến trước mặt Lục Phỉ Thanh cúi đầu lễ phép chào rồi mời ông theo họ vào một tửu lầu uống rượu. Thái độ và cử chỉ ấy của hai thanh niên ấy không làm cho Lục Phỉ Thanh ngạc nhiên chút nào vì ông tin chắc rằng họ là người của Hồng Hoa hội đã nhận được dấu hiệu hoa mai đỏ trên mão mình. Nếu không là vậy thì tại sao chưa hề quen biết gặp mặt nhau sao lại tự nhiên mời vào quán như gặp người quen như vậy?
Không chút do dự, Lục Phỉ Thanh nhận lời ngay. Một trong hai người thanh niên đưa tay tiếp lấy giây cương dắt hộ ngựa cho Lục Phỉ Thanh để ông ta thoải mái đi người không. Dọc đường có không biết bao nhiêu là tửu lầu đủ hạng, sang trọng bình dân, lớn nhỏ... Nhưng hai người không đưa Lục Phỉ Thanh vào bất cứ nơi nào. Họ đưa ông đi hết con đường đó, rồi đến cuối một con đường khác nữa thì mới tới một tửu lầu trên tấm bảng hiệu có bốn đại tự sắc xảo, màu đỏ thếp vàng: TẬP HIỀN TỬU LẦU. Lục Phỉ Thanh nghĩ bụng: - “Chắc đây là tửu lầu của Hồng Hoa hội lập ra để đón rước người trong tổ chức của họ.” Nhưng vì chưa nghe hai chàng thanh niên mở miệng ra nói một câu gì nên Lục Phỉ Thanh chỉ im lặng mà đi theo, không một lời gặn hỏi hay thắc mắc. Thấy có khách vào, một tên tửu bảo chạy ra đón tiếp, một tên khác dẫn ngựa ra sau mà không đợi cho hai chàng thanh niên kia phải sai bảo điều gì. Lục Phỉ Thanh thấy vậy lại nghĩ: - “Họ có nội quy, kỷ luật hẳn hòi đâu ra đó như đã xếp đặt sẵn từ trước, cứ phận sự ai nấy làm.” Hai chàng thanh niên mời Lục Phỉ Thanh lên thẳng tầng thứ nhất, ngồi vào bàn ở góc trái, có tấm vách mỏng ngăn ra. Tập Hiền Tửu Lầu rộng rãi, và khoảng khoát, lại vô cùng sạch sẽ. Mặt trước tửu lầu day ra phía bờ sông nên gió chiều thoảng vào mát mẻ, thật dễ chịu. Tầng lầu này cũng có đầy đủ bàn ghế như tầng dưới, chỉ khác chỗ là tầng dưới khách ra vào đông nghẹt, còn tầng này thì gần như là trống trơn ngoại trừ hai bàn, mỗi bàn với bốn người khách ngồi vừa uống rượu vừa nói chuyện. Còn cái phòng có dựng
bức bình phong mỏng mà họ mời Lục Phỉ Thanh vào thì hoàn toàn không có ai cả. Mấy người khách đang ngồi uống rượu bỗng nghe có tiếng chân người đi lên thì đều ngước mắt, quay mặt lại nhìn. Nhưng khi thấy hai chàng thanh niên kia đưa Lục Phỉ Thanh vào phòng có vách mỏng ngăn thì họ lại tiếp tục uống, cười đùa tự nhiên mà không cần phải liếc ngó nữa. Lục Phỉ Thanh lại nghĩ trong bụng: - “Chắc đây toàn là nguời của Hồng Hoa hội, dầu thấy ta là người lạ mặt nhưng tin chắc là người trong hội nên chẳng cần phải e ngại mà để ý gì nữa.” Lục Phỉ Thanh vừa ngồi xuống ghế thì tửu bảo đã bưng vào một mâm rượu. Một chàng thanh niên mời Lục Phỉ Thanh uống rượu còn người kia vòng tay lại nói: - Tiền bối! Tiểu sinh cam thất lễ với người. Xin kiếu! Nói xong, chàng ta đứng dậy cúi đầu lễ phép chào Lục Phỉ Thanh rồi lẹ chân bước mau ra ngoài. Chàng thanh niên còn lại ân cần mời Lục Phỉ Thanh uống mấy chén tẩy trần. Chàng ta chỉ mời Lục Phỉ Thanh dùng rượu với đồ nhắm, tuyệt đối không đề cập đến chuyện gì khác nên ông cũng chưa biết rõ được hư thực như thế nào, chỉ ngồi yên uống rượu và nhắm đồ với người này. Một tên tửu bảo lại xô cửa bước vào. Chàng thanh niên lại nâng ly mời Lục Phỉ Thanh nói: - Lão tiền bối chắc chưa dùng cơm. Xin cạn thêm một vài chén trong khi chờ đợi tửu bảo bưng đồ ăn lên. Xin lão tiền bối cứ tự nhiên vì chúng tôi bao giờ cũng thật tình đãi khách. Lục Phỉ Thanh bèn tạ lại rằng: - Vâng! Uống mấy chén rượu thế này cũng đủ rồi. Xin cho tôi được dùng chút cơm vì hiện tại đang đói bụng. Không chậm trễ, chàng thanh niên quay qua tửu bảo dặn: - Mau dọn gấp một bữa ăn với đầy đủ các món thật tươm tất nhé! Lục Phỉ Thanh thấy thế vội ngăn lại: - Không cần phải thịnh soạn chi cả! Chỉ cần một bữa cơm thật đạm bạc là quý lắm rồi! Chẳng đáng gì! Xin lão tiền bối đừng ngại. Tên tửu bảo vừa đi khỏi, chàng thanh niên lại mời Lục Phỉ Thanh uống tiếp một chung rượu mới:
Tên tửu bảo vừa đi khỏi, chàng thanh niên lại mời Lục Phỉ Thanh uống tiếp một chung rượu mới: - Rượu thuốc này đặc biệt lắm! Lão tiền bối uống vào dùng cơm sẽ rất ngon miệng, dễ tiêu hóa, và đi đường xa sẽ bớt mệt nhọc, giãn gân giãn cốt, bớt nhức mỏi. Lục Phỉ Thanh tự hỏi: - “Sao hắn không hỏi chuyện gì cả mà chỉ mời ăn uống không như thế? Đã tốn thì giờ lại càng khiến ta thêm nóng ruột!” Một ý nghĩ đáng sợ khiến cho Lục Phỉ Thanh đâm ra hoài nghi. Ông lo ngại nghĩ thầm: - “Hay bọn này không phải là người của Hồng Hoa hội? Không khéo ta tin lầm mà mắc bẫy đây! Nếu chúng là bọn “tẩu cẩu” của Càn Long phái đi dọ thám Hồng Hoa hội, đồng thời lại phát giác được lai lịch của ta mà dụ tới đây để gài bẫy thì nguy to! Chưa gặp được Thiếu đà chủ để báo tin của Văn Thái Lai mà lại bị bắt thì thật là rắc rối không ít! Thành tích và lai lịch của ta thì bọn triều đình mấy ai không rõ, nhất là Trương Siêu Trọng. Tốt hơn hết ta phải đề phòng ngay từ giờ phút này!” Lục Phỉ Thanh đang phân vân chưa biết phải làm gì thì một ý nghĩ khác lại nảy ra trong đầu: - Tổng hành dinh của Hồng Hoa hội nằm ở An Tây này thì có lẽ nào bọn Trương Siêu Trọng lại dám tự tung tự tác như thế? Mình bất
tất phải lo xa như vậy!” Nhìn nét mặt ưu tư và bơ phờ của Lục Phỉ Thanh, chàng thanh niên hình như cũng đoán được phần nào bèn nói như trấn an: - Lão tiền bối đã đến được An Tây này thì chẳng có gì phải e dè lo ngại cả! Xin lão tiền bối dùng cơm rượu cho no rồi nghỉ cho khỏe rồi chúng tôi sẽ xin hầu chuyện cùng tiền bối sau. Lục Phỉ Thanh chưa kịp bày tỏ ý kiến của mình theo lời nói của chàng thanh niên kia thì cánh cửa phòng rượu lại được mở ra. Một chàng thanh niên khác từ bên ngoài chậm rãi bước vào hướn vào Lục Phỉ Thanh vái dài một cái rất trịnh trọng và lễ phép. Chàng thanh niên này mặc một chiếc áo dài màu lam, tuổi chỉ chừng khoảng 30 trở lại. Mặt chàng ta rất sáng sủa, dáng người trông rất thanh, nhất là đôi mắt tinh anh như có hào quang, trông đầy vẻ uy nghiêm khiến người nào trông vào cũng phải có ý kiêng nể ngay. Chàng mời Lục Phỉ Thanh ngồi rồi cũng tự ý kéo ghế ngồi đối diện, nhưng hơi xê dịch qua mọt bên chút đỉnh để tỏ ý tôn trọng bậc trưởng bối. Sau đó chàng lễ phép thỉnh danh tánh của Lục Phỉ Thanh. Ông ta cũng khiêm tốn khai thật tên họ mình cùng với biệt hiệu Miên Lý Châm mà không cần phải giấu diếm làm gì. Chàng ta nghe xong tỏ vẻ kính nên đứng dậy nói: - Thế ra đây là Lục lão tiền bối của phái Võ Đang mà vãn bối không hay biết gì cả! Xin tha cho tội thất lễ. Lục Phỉ Thanh nói: - Lão phu không dám. Xin huynh đài cứ tự nhiên an tọa để cho lão phu được tiếp chuyện. Khi ấy chàng ta mới dám ngồi xuống ghế lại như cũ rồi tiếp tục nói: - Tiểu đệ thường nghe Triệu tam ca luôn luôn nhắc nhở đến đại danh của lão tiền bối, lòng vốn ngưỡng mộ từ lâu. Ngày nay được hân hạnh bái kiến thì thật là vinh hạnh biết bao nhiêu. Lục Phỉ Thanh khiêm tốn đáp lễ và hỏi: - Xin huynh đài cho lão phu được thỉnh cao danh quý tánh. Chàng thanh niên liền đáp: - Vãn bối là Vệ Xuân Hoa. Chàng thanh niên bồi rượu Lục Phỉ Thanh lúc nãy đứng dậy hướng về Lục Phỉ Thanh thưa: Xin lão anh hùng ngồi bàn chuyện với Vệ huynh. Cho phép vãn bối được cáo thoái!
Xin lão anh hùng ngồi bàn chuyện với Vệ huynh. Cho phép vãn bối được cáo thoái! Đoạn chàng ta cúi đầu chào Lục Phỉ Thanh và Vệ Xuân Hoa rồi bước ra ngoài đi thẳng xuống thang lầu. Vệ Xuân Hoa nói với Lục Phỉ Thanh: - Cả Thiếu đà chủ cùng các anh em Hồng Hoa hội chúng tôi phần đông đều có mặt ở đây. Họ nghe tin tiền bối có mặt nơi này sẽ lần lượt kéo đến nghinh tiếp. Vãn bối được đặc phái tới trước để dâng tiệc rượu vì lo ngại bọn em út thô thiển sơ sót mà đắc tội với lão tiền bối. Còn lại mấy người kia sẽ đến sau. Khi ấy, một bữa cơm thịnh soạn đủ sơn hào hải vị, chẳng thiếu món ngon vật lại nào được dọn lên. Vệ Xuân Hoa tự tay rót rượu Bồ Đào và chung, trịnh trọng đứng dậy chắp tay kính cẩn mời Lục Phỉ Thanh. Chàng ta để Lục Phỉ Thanh ngồi vào ghế chánh vị, còn mình ngồi ở cái ghế sau xa tiếp. Thấy người của Hồng Hoa hội đối với mình quá trọng vọng, tiếp đãi thật ân cần, Lục Phỉ Thanh lấy làm cảm kích vô cùng, cố chối từ địa vị mà Vệ Xuân Hoa nhượng cho mình. Ông yêu cầu Vệ Xuân Hoa ngồi đối diện với mình nhưng chàng ta nhất định không nghe, thưa rằng:
- Lão tiền bối là một bậc anh hùng vang danh bốn bể mà Hồng Hoa hội bấy lâu thường ao ước được một phen cung nghinh đón tiếp. Không ngờ sở vọng ấy hôm nay được toại nguyện. Thiếu đà chủ đã có lệnh sai bảo, vãn bối nào dám cãi lời! Tổng đà chủ lúc sanh tiền vẫn thường nói chuyện với Triệu tam ca rất nhiều về đại đức và tài nghệ cao siêu của tiền bối. Cho đến Viên Sĩ Tiêu đại hiệp cũng không lúc nào quên nhắc nhở đến uy danh của tiền bối nên bọn vãn bối đây tuy chưa được gặp mặt nhưng đã một lòng ngưỡng mộ. Vậy xin lão tiền bối cứ tự nhiên để cho vãn bối được bồi tiếp. Lục Phỉ Thanh không còn cách nào từ chối được, đành phải nghe theo. Vệ Xuân Hoa bưng rượu Bồ Đào thơm ngát lên mời Lục Phỉ Thanh rồisau đó mớidámuống. Vừa dùng cơm vừa uống rượu mà chuyện trò, Lục Phỉ Thanh thầm nghĩ rằng Hồng Hoa hội có được những nhân vật như Văn Thái Lai, Dư Ngư Đồng, Vệ Xuân Hoa mà ông ta được biết qua thì thật là điều đáng mừng. Đây là những người thanh niên trai tráng khí khái, nhiệt huyết đầy mình, hăng say hoạt động, dám đem bản thân ra hy sinh cho dân tộc. Họ mới chỉ là một số ít ông ta tình cờ gặp qua thôi, lẽ tất nhiên số thanh niên tuấn tú ấy hẳn trong Hồng Hoa hội còn rất nhiều. Hồng Hoa hội thật xứng là một nơi quy tụ đầy những mầm non của đất nước. Đã vậy mà Hồng Hoa hội lại còn có những lão anh hùng hiên ngang nghĩa khí như bạn cũ của ông ta là Triệu Bán Sơn cùng với bao nhiêu tay hào kiệt trượng phu khác như Viên Sĩ Tiêu, Vô Trần đạo nhân... Đây toàn là những bậc tiền bối cầm đầu những môn phái trong võ lâm giỏi tài ba thao lược, giàu khinh nhgiệm đấu tranh, nguyện đem tấm thân hiến dâng cho đại nghĩa. Chỉ cần nhìn bấy nhiêu đó mà suy, thế lực của Hồng Hoa hội chắc chắn mạnh hơn Đồ Long hội khi xưa rất nhiều. Một tổ chức phản Thanh Phục Minh như Hồng Hoa hội mà đứng ra lãnh đạo nhân dân thì tiền đồ Hán tộc hẳn đã đến hồi hưng vượng.
Lục Phỉ Thanh nghĩ tới đó bỗng chợt khoái chí uống vùi mấy chén với Vệ Xuân Hoa, quên hết cả những mệt nhọc đi đường, đội mưa đạp tuyết... Tinh thần ông ta như phục hồi lại hoàn toàn, cảm thấy hăng hái bội phần. Vệ Xuân Hoa hỏi: - Chẳng hay lão tiền bối quá bước đến đây là do sự tình cờ hay có mục đích chi dạy bảo cho Hồng Hoa hội? Dám xin lão tiền bối cho biết. Lục Phỉ Thanh đáp: - Lão phu vượt núi trèo non, đi ngàn dặm đường đến đây dĩ nhiên không phải là do sự tình cờ. Nhưng chung quy tất cả vẫn là do một sự tình cờ mà ra. Vệ Xuân Hoa chưa hiểu rõ được ẩn ý của câu nói lạ lùng ấy. Chàng vẫn im lặng để tai lắng nghe. Lục Phỉ Thanh nói tiếp: - Không phải là một sự tình cờ vì mục đích nguyên thủy của lão phu không phải tìm đến An Tây này mà chỉ vì có một công vụ cấp bách phải hộ tống một đoàn người ra biên ải. Nhưng do một sự tình cờ mà lão phu phải bỏ dở công vụ của mình để gấp rút đi An Tây tìm Thiếu đà chủ và các vị đương gai của Hồng Hoa hội... Vệ Xuân Hoa nghe Lục Phỉ Thanh nói đến đây lòng thấy xao xuyến lạ thường, vẻ mặt đầy kinh hoàng lo âu nhưng chưa dám hỏi rõ, chỉ để tâm mà nghe Lục Phỉ Thanh giãi bày cho rành mạch. Lục Phỉ Thanh lại nói tiếp: - Lão phu phải tìm Thiếu đà chủ và các vị đương gia của Hồng Hoa hội đông đủ là vì một việc vô cùng nguy ngập không thể chần chừ hay trì hoãn thêm được nữa. Báo tin xong cho tất cả các vị, lão phu còn phải tiếp tục lo công vụ của mình nữa.
Vệ Xuân Hoa nghe có việc gấp đến thế chợt thấy nóng lòng như lửa đốt dầu sôi. Chàng ta không dám hối thúc Lục Phỉ Thanh ăn cho lẹ nhưng chính chàng lại ăn uống một cách vội vã chứ không từ tốn như lúc mới nhập tiệc nữa. Lục Phỉ Thanh ăn uống thật no say kỹ càng cho no bụng để xong việc ông ta còn trở lại tiếp tục cuộc hành trình hẹn ước với Lý Mộng Ngọc. Cơm nước xong xuôi, không đợi Vệ Xuân Hoa nhắc, Lục Phỉ Thanh hối hả đề nghị trước: - Ờ đây lão phu thấy có điều bất tiện khi Thiếu đà chủ và cácvị đương gia đến. Nhất lại càng bất tiện cho lão phu phải trình bày mọi chuyện cho các vị nghe, vì dầu sao ta cũng phải đề phòng tai mắt của bọn “tẩu cẩu” cho cẩn thận. Vệ Xuân Hoa nói: - Lúc ban đầu, theo tin mật báo đưa về có một cụ già đạo mạo cỡi ngựa hồng có dắt hoa hồng ở mão vào thành An Tây, bọn vãn bối mới phái người tâm phúc đưa lão tiền bối vào đây tức tửu lầu riêng của Hồng Hoa hội. Khi được biết tên họ của lão tiền bối thì Thiếu đà chủ mừng lắm sai vãn bối đến đây đón tiếp lão tiền bối trước rồi người sẽ đưa các anh em đến ra mắt sau. Không ngờ tiền bối đến đây không phải là một sự tình cờ mà vì một chuyện cấp bách có quan hệ đến Hồng Hoa hội nên vãn bối đã báo tin về cho Thiếu đà chủ rằng đừng đưa các anh em đến đây nữa mà có thể bị lộ chuyện ra ngoài. Mặc dù ở đây Hồng Hoa hội làm chủ tình hình và nắm được lòng người chứ không phải như ở Bắc Kinh. Nhưng dù sao vẫn phải đề phòng bọn “chó săn chim mồi”. Thà là lúc nào cũng phải có cảnh giác còn hơn là khinh địch! Vậy xin lão tiền bối đi theo vãn bối. Còn con tuấn mã với hành lý thì tiền bối khỏi lo, đã có người của Hồng Hoa hội đảm đang, giữ gìn thật chu đáo. Vệ Xuân Hoa sau đó ra ám hiệu cho mọi người trong tửu lầu rồi vội vàng bước xuống dưới. Lục Phỉ Thanh đi theo chàng bén gót.
Do những đường ngoằng nghoèo khúc khuỷu như ruột dê uốn theo các đường lớn trong châu thành, Vệ Xuân Hoa đưa Lục Phỉ Thanh đi mau như chạy. Đó là những con đường tắt của Hồng Hoa hội từ ngoài phố về trụ sở mà chỉ có người trong Hồng Hoa hội biết. Dọc theo đường đi, Lục Phỉ Thanh thấy có rất nhiều trai tuấn tú, gái nhu mì dắt cánh hoa hồng trên chóp nón. Chính họ là những tai mắt của Hồng Hoa hội nên có bất cứ một người lạ nào hay một việc gì xảy ra trong thành phố tức thì trụ sở chính của Hồng Hoa hội sẽ biết ngay. Cách tổ chức xếp đặt của Hồng Hoa hội thật là chu đáo và hết sức quy mô, Lục Phỉ Thanh thán phục vô cùng... Lục Phỉ Thanh rất nóng lòng được tiếp xúc với Thiếu đà chủ này của Hồng Hoa hội xem là nhân vật thế nào mà mỗi lần đề cập đến ba tiếng “Thiếu đà chủ”, các nhân vật của Hồng Hoa hội đều tỏ ra nghiêm trang kính cẩn tuyệt đối, bằng một thái độ rất là trịnh trọng. Ông nghĩ rằng nhân vật ấy chắc phải có bản lãnh siêu quần, tài năng thao lược xuất chúng và đức độ có thừa thì mới có thể khiến cho tất cả mọi người tôn sùng, đưa lên địa vị tối cao để đại diện cho chính nghĩa của công cuộc phản Thanh phục Minh. Nhưng mà người ấy là ai? Lục Phỉ Thanh tự hỏi câu này bao nhiêu lần mà vẫn không trả lời được. Vệ Xuân Hoa đưa Lục Phỉ Thanh ra khỏi cửa chánh, phía Tây của thành An Tây thì đã có hai thanh niên lực lưỡng dắt tới hai con ngựa, yên cương chuẩn bị sẵn sàng. Thấy chủ nhân, con ngựa của Lục Phỉ Thanh hí vang lên reo mừng. Ông vỗ nhẹ vào đầu nó. Con tuấn mã như rất sung sướng được chủ thương. Con ngựa của Vệ Xuân Hoa cũng là một tuấn mã, cao lớn không kém gì ngựa của Lục Phỉ Thanh, lông vàng mướt, mỗi chân có một hoa mai trắng. Hai người sau đó cùng lên ngựa phi nước đại nhắm về hướng Tây Nam do Vệ Xuân Hoa dẫn đường. Dọc đường, Vệ Xuân Hoa hỏi: - Lão tiền bối chắc có gặp Văn tứ ca và Văn tứ tẩu của vãn bối phải không? Lục Phỉ Thanh đáp: - Quả đúng thế! Nhưng vì sao huynh đài lại biết được?
Vệ Xuân Hoa đáp: - Nhìn đóa hoa hồng trên, mão của lão tiền bối có bốn cánh tức khắc biết được liền, vì đó là biểu hiệu của Văn tứ ca. Lục Phỉ Thanh lấy đóa hoa hồng xuống xem lại thì thấy quả nhiên có bốn cánh. Ông ta hiểu ngay là nếu muốn biết địa vị của người nào trong Hồng Hoa hội thì chỉ cần đếm số cánh hoa của người ấy; cánh càng ít, vai vế càng cao; cánh càng nhiều, vai vế càng thấp. Hai người đi được vài chục dặm đường thì đến trước một ngôi chùa nguy nga đồ sộ giữa một khu rừng rậm, rộng lớn mênh mông, với những cây cổ thụ cao ngất trời, bóng mát rợp đất. Cảnh chùa trông thật hùng vĩ, khó có nơi nào sánh được. Cổng chùa là hai cây trụ thật lớn, có đến vài người ôm. Ngay cổng là một tấm hoành phi treo ở trên sơn son thếp vàng với bốn đại tự: “NGỌC HƯ ĐẠO VIỆN”. Nơi đây có hai người trai tráng to lớn vạm vỡ đứng gác. Vòng ngoài có một bức tường đá cao dày đến ba thước, chẳng khác nào lối thiết kế của một hoàng cung nho nhỏ. Lục Phỉ Thanh không ngờ ở một nơi biên khu, hoang vu cô tịch lại có được một đạo viện quy mô đến như thế. Hai người lực lưỡng đứng gác ấy là hai đạo nhân. Vừa trông thấy Vệ Xuân Hoa, cả hai tỏ thái độ hết sức cung kính. Cả hai cùng chạy đến đỡ lấy giây cương của hai con ngựa. Vệ Xuân Hoa mời Lục Phỉ Thanh đi thẳng vào nơi phương trượng của chùa. Nơi đây tuy có phần tịch mịch nhưng rất rộng rãi và sạch sẽ. Một tiểu đồng từ đâu bưng trà đến. Vệ Xuân Hoa lại mời Lục Phỉ Thanh giải khát. Vệ Xuân Hoa nói nhỏ mấy tiếng vào tai tiểu đồng, cậu ta gật đầu rồi đi ra đàng sau. Lục Phỉ Thanh đang nhâm nhi trà bỗng nghe ở nội đường có tiếng nói lớn vang ra: - Lục đại ca! Lâu quá rồi không được tin tức gì của nhau! Chắc anh nghi là tiểu đệ chết mất rồi phải không? Câu nói vừa dứt thì một bóng người từ đâu đứng sừng sững trước mặt Lục Phỉ Thanh. Người ấy chẳng phải ai khác hơn là Triệu Bán Sơn, một anh em cũ trong Đồ Long hội khi xưa, một người mà Lục Phỉ Thanh hằng mong ước được gặp lại.
Không cần phải nói cũng biết được nỗi vui mừng của hai người bạn thân cũ lâu năm mới gặp lại. Triệu Bán Sơn liên tiếp hỏi chuyện Lục Phỉ Thanh: - Cách nhau từ độ ấy, anh lưu lạc ở phương trời nào? Vì sao hôm nay không hẹn mà đến nơi đây gặp lại nhau? Lục Phỉ Thanh không trực tiếp trả lời Triệu Bán Sơn. Ông nói với một giọng đầy vội vã: - Triệu hiền đệ! Chuyện riêng tư của chúng ta sau này sẽ còn nhiều cơ hội kể cho nhau nghe. Lão huynh có một việc công hết sức là cấp bách phải nói trước cho thật lẹ, vì chậm phút nào là nguy nan phút đó. Triệu Bán Sơn nghe nói bất giác đâm ra lo lắng, liền hỏi lại ngay: - Lục đại ca! Chuyện cấp bách ra sao mau nói cho đệ nghe gấp kẻo đệ nóng ruột quá rồi! Lục Phỉ Thanh chỉ chờ có thế nên nói ngay: - Hiện tại Văn tứ đương gia đang gặp đại nạn! Cả Triệu Bán Sơn lẫn Vệ Xuân Hoa nghe xong đều biến sắc, mồ hồi đổ xuống trán, tim đập thật mạnh, mắt đổ hào quang, chừng như chính hai người đang sống trong những giây phút kinh hoàng lo lắng. Vệ Xuân Hoa bỗng vụt một cái biến đi mất để một mình Triệu Bán Sơn ở lại. Sau đó, Triệu Bán Sơn liền hỏi Lục Phỉ Thanh cặn kẽ từ đầu đến đuôi ra sao. Lục Phỉ Thanh tỉ mỉ thuật lại những tai nạn của Văn Thái Lai và Lạc Băng ra sao, cho đến việc gặp gỡ Dư Ngư Đồng thế nào, không bỏ sót một chi tiết nhỏ nào. Hai người đang bàn chuyện thì nghe hình như có tiếng cãi vả qua lại giữa Vệ Xuân Hoa và một người nào đó.
Tiếng người kia nói lớn: - Vệ cửu ca, anh coi đệ chẳng ra gì sao chứ? Anh khinh đệ không bảo vệ được Văn tứ ca về đây hay sao? Và anh khinh đệ không đủ bản lãnh để đương đầu với lũ người đốn mạt ấy sao? Đệ nói thật, nếu phen này mà không diệt được hết lũ đầu trâu mặt ngựa theo Càn Long liếm gót để trả thù cho Văn tứ ca thì quyết không thèm làm người sống trên thế gian này nữa! Lại nghe tiếng Vệ Xuân Hoa nói: - Tính chú mày nóng như lửa, làm việc chẳng chịu đắn đo suy nghĩ, không thể giao phó công việc quan trọng lớn lao như thế được! Chuyện đi cứu Văn tứ ca không phải dễ dàng như chú mày nghĩ đâu! Bọn Trương Siêu Trọng lúc nào chẳng theo dõi rình rập chờ ra tay? Nếu đối phó với chúng dễ như vậy thì Văn tứ ca đâu cần đến chúng ta cứu viện làm gì! Anh em phải thương lượng với nhau trước rồi mới vạch định kế hoạch và quyết đoán sau. Còn việc đi cứu viện đón rước Văn tứ ca là quyền quyết định tối hậu của Thiếu đà chủ. Chú mày tháo thứ, tự chuyên, trách nhiệm không phải nhỏ, nếu có bề gì sơ sót thì tội lội cũng khó mà giảm khinh tha thứ được! Người ấy vẫn không chịu nghe mà cứ tiếp tục cãi bướng. Nhưng lời y rất quả quyết, giọng hăng hái vô cùng, nhưng rõ ràng là một người nóng nảy, nghĩ sao là muốn làm vậy, chẳng cần phải đắn đo lợi hại. Triệu Bán Sơn bè nắm tay Lục Phỉ Thanh đứng dậy đi ra ngoài, thẳng về phía hai người đang tranh cãi. Đến nơi, Lục Phỉ Thanh thấy một người có cái bướu đàng sau lưng đang gân cổ cãi nhau với Vệ Xuân Hoa. Lục Phỉ Thanh nhận ra là người hôm nọ gặp trên đường đã sử dụng bàn tay như một lưỡi dao sắc xén đứt đuôi ngựa của Lý Mộng Ngọc. Thấy Triệu Bán Sơn và Lục Phỉ Thanh ra đến nơi, Vệ Xuân Hoa đứng dậy vỗ mạnh vào vai người có bướu rồi lấy tay chỉ Lục Phỉ Thanh giới thiệu với y: - Hiền đệ mau làm lễ chào mừng Lục lão tiền bối đi! Người có bướu vừa đứng dậy hướng về phía Lục Phỉ Thanh bỗng nhiên nhìn ông ta trân trân một hồi, miệng chẳng mở ra nói một lời nào cả. Dường như khi nhìn thấy Lục Phỉ Thanh y lại nhớ đến một sự việc nào đó.
Thấy y đứng yên lặng không nói một lời, Lục Phỉ Thanh thầm nghĩ chắc rằng hắn cũng nhận ra được diện mạo của ông ta hôm ấy cùng đi chung đường với Lý Mộng Ngọc. Khi trông thấy hình dung của y, Lý Mộng Ngọc bật cười mà buông lời chế nhạo. Lục Phỉ Thanh chưa biết phải dùng lời gì giải thích cho người có bướu về thái độ bất kính của đứa đồ đệ mình hôm ấy để cho đẹp lòng y thì bỗng y lên tiếng: - Công người hai ngày hai đêm mệt nhọc đội sương đạp tuyết, vượt núi trèo non đi hơn ngàn dặm để đem tin tức của Văn tứ ca cùng Văn tứ tẩu tới đây cho biết, tại hạ Chương Tấn, thằng có bướu này xin cúi đầu đa tạ. Dứt lời, y quỳ xuống hướng về phía Lục Phỉ Thanh lạy bốn lạy, hai lạy thế cho Văn Thái Lai và hai lạy thế cho Lạc Băng để tạ ơn. Lục Phỉ Thanh tức tốc chạy đến đỡ Chương Tấn dậy, chẳng muốn cho làm thế nhưng không kịp. Lục Phỉ Thanh đành quỳ xuống lạy trả lại bốn lễ. Chương Tấn cũng không sao tránh kịp thành thử hai bên cùng lạy nhau một lượt. Lạy nhau xong, Chương Tấn không nói gì thêm một lời nào với Lục Phỉ Thanh mà chỉ nhìn thẳng vào mặt Triệu Bán Sơn và Vệ Xuân Hoa nói: - Triệu tam ca! Vệ cửu ca! Hai anh ở lại đây nhé! Còn đệ thì lòng nóng như lửa đốt, không thể nào chờ được nữa, phải đi ngay bây giờ đây! Triệu Bán Sơn toan khuyên giải mấy câu đạng dằn bớt tính nóng nảy của Chương Tấn xuống để chờ cuộc thảo luận chung và sự
quyết định của Thiếu đà chủ, nhưng chưa kịp làm gì thì y đã chạy thẳng một mạch ra khỏi đạo viện mà không hề quay đầu ngó lại. Vệ Xuân Hoa chạy theo gọi thế nào y cũng không nghe, chỉ trong khoảnh khắc đã biến mất. Triệu Bán Sơn và Vệ Xuân Hoa thấy vô cùng bực tức về cái tính nỏng nảy cấp tháo của Chương Tấn. Ytự tung tự tác như vậy ắt có hại cho công việc của Hồng Hoa hội nói chung và cá nhân Văn Thái Lai cùng Lạc Băng nói riêng. Hai người còn đang phân vân chưa biết làm cách nào thì thấy một người khác dìu Chương Tấn giải vào trong. Số là sau khi Chương Tấn thoát ra khỏi đạo viện chạy đến Huyện Hà Môn thì đầu kia có một người đang phi thân tới đạo viện như tên bay chặn đường y lại hỏi: - Hiền đệ đi đâu mà gấp rút vậy? Hãy đi vào bên trong mà bày tỏ lý do cho anh nghe trước đã! Chương Tấn biết không thể thoát khỏi tay người này được đành phải theo vào bên trong. Yvừa đi vừa nói: - Nghe tin Văn tứ ca cùng tứ tẩu bị nạn, đệ không thể ở đây chờ tin tức được nên nhất định phải đến đó xem bệnh tình của Văn tứ ca và tứ tẩu thế nào rồi hộ tống, rước cả hai về đây mà tĩnh dưỡng. Việc gấp rút như vậy sao huynh lại cản tiểu đệ làm trễ nãi cuộc hành trình là ý gì? Người kia đang định tìm lời lẽ khuyên bảo nên vô tình nới lỏng tay ra. Thừa cơ, Chương Tấn giật phăng cánh tay ra khỏi và lại vùng chạy thật lẹ. Lúc đó, Triệu Bán Sơn và Vệ Xuân Hoa cùng Lục Phỉ Thanh vì nghe có tiếng huyên náo bên ngoài nên ra xem thử ra sao. Thấy tình cảnh như vậy, Triệu Bán Sơn bèn nói với người kia rằng: - Thất đệ! Em mau rượt theo bắt hắn lại rồi cố mà khuyên răn, đừng cho hắn nóng nảy làm liều. Nếu rủi không bắt được hắn lại thì phiền em đi theo mà hổ trợ cho hắn. Việc đã dĩ lỡ, có trách cứ hay trừng phạt cũng chẳng có ích lợi gì! Người này, tức thất đương gia của Hồng Hoa hội liền vâng lời. Sẵn ngựa, chàng phóng lên lưng rượt theo.
Nguyên Chương Tấn tính tình rất thẳng thắn, không biết dua nịnh bất cứ một ai, chỉ phải mỗi cái tính quá nóng nảy. Việc nào y đã nhất quyết làm thì bất luận là ai ngăn cản thế nào cũng không nghe. Tuy Chương Tấn bị gù, tàn tật nhưng sức mạnh kinh hồn, không mấy ai hơn được. Bản lãnh y cũng thuộc vào hàng cao thủ trên giang hồ, là cao đồ của họ Tục, một đại gia cao thủ khét tiếng trong cả hai giới bạch đạo lẫn hắc đạo. Chương Tấn vì tật nguyền nên mang mặc cảm rất nhiều, rất thù ghét những ai nhìn cái bướu trên lưng hắn mà cười. Nếu người cười hắn mà chỉ là một kẻ bình thường thì hắn còn bỏ qua cho, nhưng nếu là một người có võ nghệ thì y sẽ đánh cho một trận, hành cho kẻ ấy phải cúi đầu lạy xin tha tội mới chịu thôi. Trong Hồng Hoa hội, Chương Tấn trước kia chỉ phục mệnh có Tổng đà chủ. Giờ Tổng đà chủ đã qua đời, y chỉ còn phục mệnh có mỗi Thiếu đà chủ mà thôi. Nhưng người được hắn nghe lời nhiều hơn cả là Lạc Băng. Bởi vì thương hại Chương Tấn tật nguyền, nên các anh em trong Hồng Hoa hội lúc nào cũng nhân nhượng y đôi ba phần, dù cho y có lầm lỗi điều gì cũng khoan dung tha thứ. Được vậy nên nhiều lúc y đâm ra lộng hành, là người vô kỷ luật nhất trong hội. Còn Lạc Băng thì cũng chỉ vì thương hại Chương Tấn tật nguyền nên đối đãi với hắn rất tốt. Ymuốn gì nàng cũng cố tìm cách làm cho toại nguyện. Quần áo hắn là do Lạc Băng sắm sửa cho. Cơm rượu cũng một tay nàng lo cho đầy đủ chu đáo, chẳng bao giờ để cho thiếu thốn. Chương Tấn tuy xấu xí tật nguyền, nhưng lúc nào cũng thích mặc y phục hoa hòe cho thật đẹp. Lạc Băng cũng chiều chuộng, làm vừa lòng y. Lúc nào muốn y thèm uống rượu ngon, Lạc Băng cũng không để hắn phải thèm thuồng, đều mua cho đầy đủ cả. Cũng chỉ vì những cảm tình đặc biệt ấy mà Chương Tấn quý mến, đối xử với vợ chồng Lạc Băng chẳng khác gì ruột thịt.
Vì vậy, lần này khi được tin Văn Thái Lai và Lạc Băng gặp nạn, Chương Tấn thương xót vô cùng, lại càng oán ghét bọn “chó săn chim mồi” chỉ muốn ăn gan uống máu những kẻ đã gây ra thương tích cho vợ chồng Văn Thái Lai. Vì quá quý mến cặp vợ chồng kia nên cho dù khi nhận ra Lục Phỉ Thanh là người đồng hành với Lý Mộng Ngọc, “thiếu niên” cười chế nhạo mình, Chương Tấn cam tâm cúi đầu lạy bốn lạy thay vì tìm cách chất vấn. Chỉ vì Lục Phỉ Thanh đem đến cho y tin tức của Văn Thái lai với Lạc Băng. Và rồi nóng nảy muốn biết rõ vợ chồng Văn Thái Lai bị thương trầm trọng ra sao, Chương Tấn bất chấp lời khuyên của các sư huynh trong bang, gạt bỏ luôn cả kỷ luật của hội, định đơn thân độc mã một mình đi cứu. Vì hai người thân nhất của mình, Chương Tấn không quan tâm gì đến nhọc nhằn, không sợ bất cứ điều gì nguy hiểm cho tánh mạng của y. Sợ hắn vì cạn nghĩ nên có thể làm bậy nên Triệu Bán Sơn nhờ người anh em thứ bảy trong hội đi theo kèm mà tùy cơ ứng biến. Trong Hồng Hoa hội Chưng Tấn đứng hàng thứ 10. Người bắt hắn trở lại là Từ Thiện Hoằng, đứng thứ 7. Từ Thiện Hoằng tuy hình dung thấp bé nhưng lại là người túc trí đa mưu nhất trong Hồng Hoa hội nên được tất cả phong chức cho là quân sư, xem như là “Khổng Minh” của hội. Từ Thiện Hoằng không phải chỉ có tài thao lược không thôi, chàng còn tinh thông cả võ nghệ nữa. Trong 18 loại binh khí, Từ Thiện Hoằng thuần thục hết tất cả. Các môn bí truyền nội gia công phu lẫn ngoại gia chàng đều có tập qua và đã luyện thành sở đắc. Vì thế, cái ngoại hiệu Võ Gia Cát của Từ Thiện Hoằng không ai nghe thấy mà không phục.
Nghe qua lai lịch, tài năng và thành tích của Thất đương gia và Thập đương gia của Hồng Hoa hội do Triệu Bán Sơn kể lại, Lục Phỉ Thanh thầm khen ngợi và tỏ vẻ khâm phục. Sau đó, từng người một, ông lần lượt được gặp các đương gia khác do trung gian của Triệu Bán Sơn giới thiệu. Chỉ trong một vài câu chuyện ngắn ngủi, Lục Phỉ Thanh đã cảm nhận được ngay đây toàn là những anh hùng hào kiệt mà ông ta đã được gặp qua trong lộ trình. Thấy mọi người có mặt khá đông đủ, Triệu Bán Sơn mới đem chuyện Văn Thái Lai ra kể từ đầu đến cuối để thảo luận ý kiến. Người ngồi ở giao ỷ thứ hai chỉ có một cánh tay là Nhị đương gia Vô Trần đạo nhân lên tiếng trước nhất: - Việc này chúng ta không thể tự chuyên hay tự quyết được. Phải hội ý với Thiếu đà chủ để xem người chủ trương thế nào trước đã. Xin mời tất cả vào phòng họp rồi sẽ bàn sau. Lục Phỉ Thanh theo chân mọi người do sự hướng dẫn của Vô Trần đạo nhân đi thẳng ra phía sau hậu viện. Đến một gian phòng hết sức rộng rãi khoan khoát, Lục Phỉ Thanh nhìn thấy một bàn cờ hết sức vuông vắn được khắc trên tường. Cách đó một trượng là hai người, một già một trẻ ngồi uống trà đàm đạo. Hình như cả hai đang đánh cờ với nhau. Trên bàn cờ đầy dẫy quân hai màu trắng đen. Mỗi quân cờ nằm trong một ô vuông nhỏ như tay ai đặt lên trên rất khéo. Chỉ có một điều lạ là bàn cờ được khắc lên tường nên thật khó hiểu không biết họ làm cách nào mà đặt được những quân cờ lên trên “bàn cờ dựng đứng” đó. Người già đột nhiên cầm một quân cờ màu đen búng một cái, quân cờ như một mũi phi tiêu bay vào nằm dính chặt vào giữa một ô vuông. Không đầy một khắc, người trẻ cầm một quân cờ trắng dùng thủ pháp in hệt như người già búng một cái. Lập tức, quân cờ trắng vút đi một cái, đụng vào đánh rớt quân cờ đen của người già vừa đặt lên, chiếm gọn lấy chỗ nằm ngay ô vuông ấy. Một tiểu đồng liền bước tới nhặt quân cờ đen vừa bị rớt bỏ vào một trong hai cái hộp trên một chiếc bàn nhỏ gần đó.
Lục Phỉ Thanh không khỏi kinh ngạc. Ông vốn là một người nhìn xa hiểu rộng, văn võ song toàn, rành cả Cầm, Kỳ, Thi, Họa từng trải gót giang hồ mấy chục năm nhưng chưa bao giờ thấy được một lối đánh cờ lạ lùng như thế này. Quan sát kỹ bàn cờ, Lục Phỉ Thanh nhận thấy đôi bên đang tranh nhau một thế rất gay go và ngoạn mục là “Liên Hoàn Kiếp”. Đi cờ trắng là người trẻ, một thanh niên mặt như quán ngọc, diện mạo trông vừa oai phong lẫm liệt lại vừa quý phái. Đi cờ đen là người già, một ông lão trông rất thật thà chất phác như
một bác nông phu. Các đương gia của Hồng Hoa hội và Lục Phỉ Thanh chỉ đứng nhìn xem mà cũng bị lôi cuốn bởi những nước cờ bí hiểm của đôi bên. Ai nấy đều yên lặng chăm chú nhìn, không dám làm ồn, sợ ảnh hưởng đến sự tập trung tư tưởng của đôi bên. Lục Phỉ Thanh cũng vốn là một tay cao cờ nên chỉ đứng quan sát một hồi là có thể đoán trước được nước đi của cả hai bên, và nhận thấy rằng người trẻ là tay cao cờ hơn. Nhưng Lục Phỉ Thanh lại trông được một điều nữa là mặc dù đang thắng thế, mỗi nước đi, chàng “công tử” kia đều có ý nhân nhượng người già. Thế nhưng người già lại như có vẻ bực dọc. Mỗi nước đi của ông ta như một trận cuồng phong, mỗi lúc liệng cờ càng mạnh tạo ra hơi gió dữ dội, ấn sâu quân cờ vào bàn cờ trên vách. Lục Phỉ Thanh thấy thế kinh hãi vô cùng nghĩthầm: - “Người này là “thiên hạ đệ nhất cao thủ” chứ chẳng phải tầm thường! Xem cách ông ta liệng quân cờ như thế cũng đủ biết tài phóng ám khí lợi hại đến bực nào. Thật từ trước đến nay ta chưa từng thấy qua một người thứ hai nào có bản lãnh ghê gớm như vậy!” Lục Phỉ Thanh vẫn mải mê chăm chú nhìn thế cờ. Nhưng chỉ trong giây lát, ông ta lại khám phá thêm được một điều bí ẩn trong cuộc thi cờ này. Chàng “công tử” kia rõ ràng không phải chú trọng đến việc thắng thua trong ván cờ mà chỉ chú tâm để ý đến cách thức cầm quân cờ liệng vào vách của người già kia. Thoạt nhìn vào ai cũng tưởng là đây là một ván cờ bình thường, nhưng trên thực tế, đây là một lối truyền thụ võ công thượng thừa. Người già bỗng liệng một quân cờ đen như vũ bão cắm sâu vào một vị trí làm cho tất cả những quân cờ trắng rơi tất cả xuống đất, chỉ còn lại toàn quân đen mà thôi. Không những thế, các quân cờ đen đều nhảy sang vị trí của những quân cờ trắng mà trước đây một vài khắc nếu ai ai nếu chỉ chú ý đến ván cờ đều tin chắc rằng người trẻ tuổi chắc chắn sẽ thắng. Bây giờ tình thế đổi mới làm tất cả mọi người kinh ngạc không ít. Người già phá lên cười đắc ý nói: - Anh đã chịu thua chưa? Cờ anh còn thấp lắm!
- Anh đã chịu thua chưa? Cờ anh còn thấp lắm! Dứt lời, người già đứng dậy. Chàng công tử với vẻ mặt tự nhiên, mỉm cười vui vẻ nói: - Bàn này con xin chịu thua. Chờ bàn khác con sẽ gỡ hòa sau. Hai người cùng cười xòa lên một tiếng rồi sau đó mới để ý rằng có nhiều người trong phòng đứng im lặng như đang chờ đợi việc gì nơi họ. Người già sau đó chậm rãi bước ra khỏi phòng, chẳng chào hỏi hay nói với ai một điều gì. Ông ta vừa đi khỏi, Triệu Bán Sơn mới từ từ tiến lại thi lễ rồi chỉ vào Lục Phỉ Thanh, nói bằng một giọng hết sức cung kính với chàng công tử: - Bẩm Thiếu đà chủ! Đây là người mà trước đây thuộc hạ đã có dịp thưa chuyện cùng Thiếu đà chủ tên gọi Lục Phỉ Thanh, tức Lục đại ca của thuộc hạ đấy! Quay sang phía Lục Phỉ Thanh, Triệu Bán Sơn nói: - Đây là Thiếu đà chủ của Hồng Hoa hội chúng tôi. Chàng công tử, tức Thiếu đà chủ mỉm cười nhã nhặc lên tiếng: - Tại hạ họ Trần tên Gia Cách. Hôm nay được gặp Lục tiên sinh tại đây thật là vạn hạnh. Xin tiên sinh chỉ dạy cho những điều hữu ích. Trước những lời lẽ khiêm nhường của Trần Gia Cách, Lục Phỉ Thanh bèn thi lễ mà đáp lại: - Lão phu không dám. Ngưỡng mộ uy danh của Trần Thiếu đà chủ từ lâu, nay được diện kiến tôn nhan thật thỏa bình sinh khát vọng. Tuy ngoài mặt nói vậy mà trong lòng Lục Phỉ Thanh vừa kinh ngạc, vừa bán tín bán nghi. Con người mang danh hiệu Thiếu đà chủ có tên Trần Gia Cách đang đứng trước mặt ông ta nếu căn cứ vào tuổi tác thì chỉ là một nhân vật vào hàng hậu bối, tuổi còn rất trẻ, có thể
nói là trẻ hơn tất cả những nhân vật trong Hồng Hoa hội mà ông ta được gặp qua. Tài nghệ võ công thì quả thật chưa biết thế nào mà lại được tất cả các anh hùng hào kiệt bậc nhất trên giang hồ của Hồng Hoa hội một lòng kính trọng, hết sức nể nang, hoàn toàn không dám quyết định chuyện gì lớn lao nếu chưa hội thảo với chàng. Triệu Bán Sơn liền đem chuyện Văn Thái Lai bị nạn đang nương náu tại Thiết Đảm trang của Châu Trọng Anh lại cho Trần Gia Cách nghe đồng thời hỏi ý kiến vị Thiếu đà chủ xem chàng định xử trí ra sao. Trần Gia Cách nhìn về phía Vô Trần đạo nhân nói: - Việc này xin đạo trưởng quyết định giùm cho. Ngay khi ấy, sau lưng Vô Trần đạo nhân có một người cao lớn mạnh dạn bước ra cất giọng nói oang oang lên rằng: - Văn tứ ca bị trọng thương từ bao lâu nay rồi mà anh em chúng ta không hề biết đến. May mắn thay, được vị Lục hảo hán không quản
nhọc nhằn vượt suối băng đèo đến đây để thông báo tin tức. Chẳng lẽ chúng ta ngồi yên đợi đến lúc tánh mạng của Văn tứ ca không còn nữa mới chịu ra tay hay sao? Trong khi Văn tứ ca mang thương tích trầm trọng mà lánh nạn thì kẻ thù chung của dân tộc cũng như của chúng ta luôn luôn theo dõi rình rập với mục đích tiêu diệt và phá tan hàng ngũ của Hồng Hoa hội sớm ngày nào hay ngày ấy trong khi nội bộ của chúng ta thì hết sức lủng củng. Tại sao chúng ta không chịu nghĩ ngay kế hoạch mà đối phó cấp tốc mà cứ người này thoái thác nhường cho người kia, người kia đắn đo giao lại người nọ mãi? Giờ đây không phải là lúc chần chừ được nữa. Tôi xin hỏi: di chúc của cố Tổng đà chủ ký thác lại cho ai? Tại sao không chịu tuân theo? Thiếu đà chủ, tại sao anh lại không nghe lời nghĩa phụ của anh dặn dò? Chẳng lẽ anh cam tâm làm người con bất hiếu hay sao? Tại sao còn chưa chịu nghe lời cầu khẩn của tất cả anh em mà đứng ra lãnh đạo Hồng Hoa hội? Thử hỏi tất cả bang chúng toàn quốc ngót trăm vạn có một ai dám nghi kỵ gì anh không? Đã được tất cả anh em khắp nơi từ lớn đến nhỏ đồng thanh công cử một cách danh chánh ngôn thuận sao anh lại phụ lòng mọi người mà trì hoãn mãi công việc là nghĩa gì? Sao còn chưa chịu vâng theo di chúc của cố Tổng đà chủ cũng như lời ủy thác của nghĩa phụ mà nhậm chức? Không lẽ anh đành để cho việc lớn của chung bị trở ngại mãi hay sao? Lục Phỉ Thanh nhìn lại, thấy người ấy dánh cao, thân hình to lớn vạm vỡ mắt sáng như sao, da ngâm ngâm, khí vũ hiên ngang, thần thái uy dũng. Đó là Bát đương gia của Hồng Hoa hội họ Dương, tên Thanh Hiệp. Cùng lúc ấy, tất cả các đương gia khác đồng chắp tay hướng thẳng về phía Trần Gia Cách đang ngồi đồng thanh lên tiếng:
- Hồng Hoa hội chúng ta hiện nay như rắn không đầu, chẳng làm sao bò đi đâu được! Nếu phen này Thiếu đà chủ lại từ chối không chịu nhận lời thỉnh cầu của toàn thể mọi người trong hội mà nhận lãnh chức vụ Tổng đà chủ để gánh vác trọng trách thì ai nấy đều thất vọng tràn trề, cái hào khí đang hăng sẽ mất và đại sự sẽ tiêu tan, còn mong gì đạt được chí nguyện của Vu tổng đà chủ khó khăn một đời theo đuổi, nay ủy thác lại cho chúng ta! Văn tứ ca hiện nay gặp đại nạn chưa biết an nguy thế nào, tất cả anh em đang chờ lệnh sai khiến của Thiếu đà chủ để thi hành cho kịp thời mới mong cứu vãn được tình thế nguy ngập. Vô Trần đạo nhân lại nói: - Số thành viên của Hồng Hoa hội chúng ta không dưới 10 vạn người. Đó là chưa kể đến cảm tình viên hưởng ứng nhận làm hậu thuẫn ở mọi tầng lớp tại toàn lãnh thổ của Đại Trung Hoa. Nếu không được 100 vạn như Bát đương gia nói thì ít ra cũng được 70 80 vạn. Do đó chúng ta có thể kết luận rằng đảng của chúng ta là một tổ chức cách mạng rất có thế lực và ảnh hưởng khả dĩ huy động toàn dân chống ngoại câm giành độc lập, có khả năng công khai ra mặt đương đầu với triều đình Mãn Thanh chứ không phải là một đám người ô hợp thiếu cương lĩnh và kỷ luật. Thử hỏi các vị đương gia đã có ai dám trái hiệu lệnh của Thiếu đà chủ truyền ra chưa? Nếu có kẻ nào cương
ngạnh ngoan cố như vậy thì chẳng khác nào một tên Hán gian nối dáo cho giặc, và Vô Trần Đạ Nhân này không thể coi kẻ ấy là bạn được nữa, mà trái lại sẽ thí hắn một nhát gươm cho xong chuyện. Trần Gia Cách thấy mọi người ai nấy đều khẩu phục lẫn tâm phục, cương quyết đưa mình lên địa vị lãnh đạo bang hội thì vừa cảm động vừa ngần ngại, nhưng biết khó mà từ chối được. Chàng khẽ nhíu mày, trầm ngâm suy nghĩ, chẳng nói được một lời. Thấy Trần Gia Cách như lưỡng lự, Thường Thích Chí, một trong hai vị Tây Xuyên song hiệp lạnh lùng thốt lên với giọng buồn bã: - Thưa tất cả các anh em. Biết bao nhiêu lần rồi chúng ta đã đem đại nghĩa phân trần cho Thiếu đà chủ nghe, lại đem luôn cả di ngôn của Vu tổng đà chủ thiết tha nhắc lại với tất cả lòng thành của từng người một trong bang hội. Thế mà Thiếu đà chủ vẫn khăng khăng nhất quyết chẳng chịu nhận lời, vịn đủ cách, đủ lý do để khước từ trọng trách! Thậm chí lần này cũng không ngoại lệ! Đứng trước sự hưng suy của dân tộc; sự tồn vong của tổ quốc; sự tình cấp bách của bang hội cần người thủ lãnh để điều khiển guồng máy, cũng như quốc gia không thể một ngày không vua. Cho đến sự an nguy cá nhân của Văn tứ ca cũng không sao làm xiêu lòng được Thiếu đà chủ! Không lẽ nguyện vọng chung của tất cả đành tan theo mây khói sao đây? Và không lẽ Hồng Hoa hội đến đây là tan rã hàng ngũ vì không có lãnh tụ tối cao điều khiển? Không lẽ chúng ta cứ hội họp mãi ở đây ngày này sang ngày khác để uổng phí đi bao nhiêu thì giờ mà không đi đến được kết quả nào? Hai anh em chúng tôi xin thưa trước một lời rằng sẽ tình nguyện đi cứu Văn tứ ca đem về đây an toàn, cho dù phải đổi bằng sinh mạng của chính mình. Nếu may mắn thành công đem Văn tứ ca về được và còn giữ được tánh mạng, anh em chúng tôi xin từ giã tất cả về lại Tây Xuyên đi hành hiệp giang hồ như trước chứ sẽ không còn ở đây nữa! Thường Thích Chí vừa dứt lời, Thường Bá Chí lập tức tiếp ý: - Lời anh tôi nói rất hạp ý tôi. Chúng tôi dứt khoát quyết định như thế, quyết không thay đổi.
- Lời anh tôi nói rất hạp ý tôi. Chúng tôi dứt khoát quyết định như thế, quyết không thay đổi. Không khí trong phòng thật hết sức là lạnh lẽo và căng thẳng. Trên gương mặt từng người không sao dấu được nét thê lương ảm đạm. Trần Gia Cách cảm thấy lần này thật hết sức nghiêm trọng, không giống như những lần họp trước. Nếu chàng cứ tiếp tục lặng thinh không nói một lời hay buông thêm một câu từ chối nữa là có thể đưa đến kết quả tai hại không sao mà lường được. Bang chúng sẽ bất mãn mà lần lượt, từng người một bỏ ra đi. Lúc đó, Hồng Hoa hội không cần giải tán cũng tự động tan rã. Trách nhiệm to tát ấy, dù muốn dù không, Trần Gia Cách phải tự mình gánh chịu trước dân tộc và lịch sử. Vì vậy, chàng bèn từ từ đứng dậy hướng về phía bang chúng vái một cái, khoan thai dõng dạc nói:
- Thưa tất cả các anh em trong Hồng Hoa hội! Lâu nay sở dĩ tôi từ chối không dám nhận lãnh, gánh vác trách nhiệm to lớn của mọi người giao phó cho chẳng qua là vì tôi tự xét thấy mình tuổi trẻ, kiến thức nông cạn chứ không phải lý do nào khác hơn. Trọng trách của Hồng Hoa hội chúng ta có liên quan đến 5 tỷ đồng bào Hán tộc chứ không phải là việc tầm thường. Do đó, tôi mới tự lượng sức mình, tự xét thấy mình vô tài vô đức nên mới đề nghị với anh em tìm một người khác xứng đáng hơn mà đảm nhận trách nhiệm để chấn hưng đại cuộc. Chắc anh em cũng nhận thức được lòng tha thiết với bang hội, với nhân dân của tôi như thế nào rồi. Nếu chẳng phải vì cái mỹ ý ấy thì tôi lặn lội xông pha nghìn dặm từ Giang Nam ra chốn biên cương hẻo lánh này làm gì? Vả lại, nghĩa phụ tôi có để lại di chúc, buộc tôi phải tuân theo. Phận làm con, dẫu bất hiếu đến đâu đi chăng nữa, nhưng lẽ nào lại chẳng vâng? Nhưng mỗi khi nghĩ đến trách nhiệm quá nặng nề kia thì tôi lại đắn đo lợi hại, cho nên mới trù trừ, do dự mãi mà chưa dám đi đến một quyết định nào cả. Vì vậy đã mấy phen rồi, anh em cứ thúc giục đại lễ “thiên lý tiếp long đầu” để đưa tôi lên làm Tổng đà chủ mà tôi vẫn khăng khăng từ chối không chịu nghe. Chủ ý của tôi là chờ tin Văn tứ ca mang về đây những điều bí mật trọng đại trình lên trung ương của hội rồi chúng ta sẽ tụ họp đầy đủ các bang chúng lại, mở đại hội mà nghị kế lâu dài. Nhưng nay thì tình thế lại đổi khác. Văn tứ ca đang gặp đại nạn. Chúng ta có bổn phận đi
cứu gấp, không thể chậm trễ được nữa. Nếu tôi còn chần chừ không quyết định thì càng làm tăng lên sự nguy hiểm cho tánh mạng của Văn tứ ca, đồng thời lại phụ lòng tin cậy và ưu ái của tất cả mọi người. “Cung kính bất như tuân mệnh”, anh em dạy bảo thế nào, Trần Gia Cách này nguyện vâng theo chứ không dám cãi nữa. Các đương gia thấy Trần Gia Cách đã chịu nhận lời, bằng lòng làm Tổng đà chủ Hồng Hoa hội thì ai nấy lộ vẻ hân hoan đến cực điểm. Bầu không khí lạnh tanh bỗng nhiên trở nên sôi động khác thường. Tất cả rủ nhau cùng đứng dậy hướng về phía vị tân Tổng đà chủ mà bái kiến, hoan hô nhiệt liệt. Một tiệc trà long trọng sau đó được bày ngay ra, trước là để mừng bang hội vừa có thủ lãnh mới, sau là để thảo luận kế hoạch. Vô Trần đạo nhân nói: - Vì thì giờ quá gấp rút nên không thể tổ chức đại quy mô cho các nghi lễ đại điển để giao trách nhiệm cho Tổng đà chủ được. Phải chờ mọi người tụ họp tại Tổng hương đường ở Thái Hồ rồi sẽ bày sau. Bây giờ xin Tổng đà chủ bái yết tổ sư và nhận hoa lệnh cho danh chánh ngôn thuận đã. Lục Phỉ Thanh biết rõ các bang hội đều có nghi thức điển lễ đặc biệt riêng, người ngoài không thể tham dự, huống hồ Hồng Hoa hội là một tổ chức cách mạng lớn. Mặc dù đây là trường hợp đặc biệt, theo lời của Vô Trần đạo nhân là chỉ phải làm lễ bái yết tổ sư và nhận hoa lệnh rồi mới làm đủ lễ nghi long trọng tại Tổng hương đường ở Thái Hồ sau khi có mặt đầy đủ các bang chúng, nhưng dù sao Lục Phỉ Thanh cũng là người ngoài nên tự ông ta nghĩ là không nên dự vào phần điển nghi trọng đại ấy là hơn. Nghĩ vậy, Lục Phỉ Thanh liền hướng về phía Trần Gia Cách nói đôi câu chúc mừng rồi lui ra khỏi phòng hội nghị. Triệu Bán Sơn đưa Lục Phỉ Thanh về phòng riêng của mình tắm rửa nghỉ ngơi. Khi tiếng trống báo hiệu sang canh ba, Lục Phỉ Thanh mới thức dậy và hay rằng mình đã ngủ được một giấc khá lâu. Triệu Bán Sơn cũng vừa về tới sau khi tham dự lễ bái yết tổ sư và nhận hoa lệnh của Tổng đà chủ Trần Gia Cách. Triệu Bán Sơn nói với Lục Phỉ Thanh rằng:
- Tổng đà chủ đã đích thân xuất lĩnh anh em Hồng Hoa hội đi Thiết Đảm trang rồi. Biết rằng Lục đại ca mệt mỏi nhiều cần nghỉ để lấy lại sức nên dặn tiểu đệ ở lại tiếp đãi. Chờ đến sáng mình sẽ lên đường sau. Lục Phỉ Thanh và Triệu Bán Sơn là đôi bạn thâm giao, tình như ruột thịt, đã hơn 10 năm trời người kẻ chân trời người góc biển không gặp nhau. Nay tình cờ gặp lại, lẽ dĩ nhiên tình bằng hữu kia cùng những nỗi nhớ nhung thương cảm trong bao năm qua nói sao cho xuể. Đôi bên cùng nhau ôn lại những kỷ niệm xưa, kể hết cho nhau nghe những gì đã xảy ra cho họ trong suốt thời gian dài đó. Đêm qua thật lẹ. Chẳng mấy chốc mà tiếng gà gáy sáng đã vang lên ồn ào, và vầng thái dương đã bừng ló dáng. Chuyện chưa hết chuyện. Lòng chưa thỏa lòng. Nhưng cả Lục Phỉ Thanh và Triệu Bán Sơn đành phải tạm ngưng cuộc hàn huyên để cùng nhau lo việc lớn. Lục Phỉ Thanh hỏi Triệu Bán Sơn: - Ngu huynh nhận thấy Tổng đà chủ của Hồng Hoa hội như một thư sinh mặt trắng môi son, tuổi chưa ngoài 20, hay nói đúng hơn trông chẳng khác gì một công tử tuấn tú phong lưu. Nhưng ngu huynh vẫn chẳng hiểu vì sao vị Tổng đà chủ trẻ tuổi này lại được toàn thể các đương gia, đều là những trang hào kiệt anh hùng đời nay, với bản lãnh và kinh nghiệm giang hồ đầy mình, trong đó có cả Vô Trần đạo nhân và hiền đệ, lại đem lòng ngưỡng mộ, mà kính phục đến như thế? Triệu Bán Sơn đáp: - Câu chuyện này dài dòng và khúc chiết lắm, không thể nào nói hết cho đại ca nghe được trong một sớm một chiều. Bây giờ đại ca hãy chuẩn bị đi rồi chúng ta đi dùng cơm trước khi lên đường đi Thiết Đảm trang. Dọc đường, đệ sẽ nói rõ lý do cho đại ca hiểu.
Nghe nói vậy, Lục Phỉ Thanh không hỏi nữa. Nhưng càng lúc ông cảm thấy thân thế của vị Tổng đà chủ Hồng Hoa hội tên Trần Gia Cách kia thật quả là hết sức ly kỳ và bí ẩn...
THƯ KIẾM ÂN CỪU LỤC KimDung www.dtv-ebook.com Chương 6 Thiết Đảm Trang, Rắp Tâm Lừa Con Trẻ - Vọng Nguyệt Đình, Quyết Chí Bắt Phạm Nhân Nhắc lại việc tiêu sư Đổng Triệu Hòa, nhờ biết rõ hành tung của Văn Thái Lai và đường đi đến Thiết Đảm trang nên được cử làm hướng đạo viên dẫn đường cho Trương Siêu Trọng cùng một số đông cao thủ triều đình với công tác phải bắt sống hay giết chết Văn Thái Lai cho kỳ được mới thôi. Đổng Triệu Hòa lòng mừng hớn hở, tin rằng đã lập được một kỳ công vĩ đại, tất sẽ trả được thù riêng và sẽ được hưởng những giây phút khoái lạc bên mình “người yêu trong mộng” là Lạc Băng, người thiếu phụ với nhan sắc kiều diễm mà hắn quyết chiếm đoạt cho bằng được với bất cứ giá nào. Đổng Triệu Hòa đi trước dẫn đường. Trương Siêu Trọng đi sau dắt theo vài chục cao thủ với võ công trác tuyệt được vua Càn Long tuyển chọn và tín nhiệm, sung vào Giám Thị Vệ và Ngự lâm quân cùng gần cả chục tên bổ đầu cùng bổ khoái hữu danh khác. Không chút chậm trễ, Trương Siêu Trọng kéo binh mã theo ngã Thiết Đảm trang đi thẳng... Khi đến trước cửa ngõ vào Thiết Đảm trang, Trương Siêu Trọng gọi một tên tráng đinh ra quát lớn, nói như ra lệnh: - Tên kia! Mau vào trong gọi chủ nhân người ra đây mà đón rước các quan lớn của triều đình, không được chậm trễ mà mang tội lớn. Gã tráng đinh nhìn thấy đám người trước cửa ngõ người nào người nấy khí vũ hiên ngang, oai phong lẫm liệt thì biết ngay không phải là những người tầm thường. Nhất là sau khi nghe Trương Siêu Trọng bảo thế thì vội vàng “ba chân bốn cẳng” chạy vào trong chứ không dám quay đầu lại mà hỏi một lời nào như lệnh Trang chủ vẫn dặn rằng phải hỏi tên họ người đến Thiết Đảm trang trước rồi mới vào bẩm báo sau.
Trương Siêu Trọng tuy là khâm sai của vua Càn Long, làm quan lớn của triều đình Mãn Thanh, võ nghệ siêu đẳng, uy danh lẫy lừng nhưng khi đến Thiết Đảm trang cũng không dám khinh thường mà giở những hành vi lố lăng nên chỉ dừng ở ngoài mà gọi một tên tráng đinh ra mà truyền lệnh thôi. Nếu trường hợp là những nơi bình thường thì y đã bao vây, cho người xông thẳng vào bên trong lục soát rồi. Chẳng qua là vì thanh danh của Châu Trọng Anh quá lớn, được thiên hạ gọi là Châu lão anh hùng, khắp nơi trên giang hồ, đâu đâu cũng kính phục. Do đó mà Trương Siêu Trọng cũng phải có vài phần nể nang, không dám ỷ vào thế khâm sai triều đình mà ngang tàng được. Huống hồ là việc này chưa biết chắc chắn ra sao, liệu Đổng Triệu Hòa báo tin có xác thực hay không? Bọn Văn Thái Lai còn ẩn trú trong sơn trang hay là đã đi xa rồi? Nếu tìm không thấy khâm phạm trong đó thì không biết phải xử trí ra làm sao? Nghĩ đi nghĩ lại một hồi, Trương Siêu Trọng bỗng hối hận vì mấy câu nói hống hách vừa rồi với gã tráng đinh của Thiết Đảm trang. Châu Trọng Anh có chứa chấp khâm phạm hay không, Trương Siêu Trọng chưa dám chắc chắn. Mà cho dù có chứa chấp khâm phạm đi chăng nữa, việc luận tội kia cũng không do Trương Siêu Trọng định đoạt mà phải chờ lệnh của vua Càn Long. Vì vậy, cách tốt hơn hết, Trương Siêu Trọng thấy chỉ nên dùng lễ của một lãnh tụ Võ Đang phái ra mắt một lãnh tụ của các võ phái miền Tây bắc mới đúng theo quy tắc của “luật giang hồ”. Nghĩ vậy, Trương Siêu Trọng liền thay đổi ngay thái độ. Yđến trước mặt một tráng đinh khác mang phận sự canh gác cửa ngõ dùng lời nhỏ nhẹ từ tốn nói: - Xin nhờ đại ca vào trong nhà thưa giúp giùm một việc là có quan Thống chế Ngự lâm quân cùng các vị khâm sai ở đế đô nhân đi kinh lý sang vùng này có chút việc muốn thỉnh giáo cùng Châu lão anh hùng.
Trương Siêu Trọng nói xong liền đảo mắt liếc ra dấu cho bọn bổ đầu và bổ khoái. Bọn Ngô Quốc Đống hội ý khẽ gật đầu mấy cái nên khi tráng đinh này vừa quay gót đi vào trong thì hắn cũng dẫn tám tên bổ khoái theo sát sau lưng. Ý Trương Siêu Trọng là đề phòng chuyện Văn Thái Lai cùng đồng bọn thoát ra cửa sau trốn kịp khi nghe có khâm sai đến. Trong trường hợp này, sẽ có Ngô Quốc Đống cùng tám tên bổ khoái chặn lại ngay. Mạnh Kiện Hùng đang ở trong phòng khách vừa nghe gã tráng đinh chạy vào thuật lại những điều mắt thấy tai nghe cùng những lời hống hách của Trương Siêu Trọng thì hiểu ngay những người này đến đây không ngoài mục đích try nã Văn Thái Lai. Cẩn thận và tinh tế, Mạnh Kiện Hùng gọi Tống Thiện Bằng ra trước ngõ giả vờ tiếp đón niềm nở bọn Trương Siêu Trọng để tạm thời dùng kế hoãn binh, còn chàng thì tức tốc đích thân vào thẳng căn phòng rộng rãi và yên lặng nơi Văn Thái Lai đang nằm dưỡng bệnh. Mạnh Kiện Hùng kề tai Văn Thái Lai nói nhỏ rằng: - Văn tứ gia! Hiện thời ngoài cửa Thiết Đảm trang có một số “chó săn chim mồi” của vua Càn Long dưới sự chỉ huy của tên đại Hán gian Trương Siêu Trọng. Việc này gất rút lắm, không thể trình bày cặn kẽ cho Văn tứ gia được. Theo ý tiểu đệ thì không nên chống cự với bọn chúng làm gì cho bất lợi. Theo ý tiểu đệ thì tốt hơn hết, ba vị đương gia nên tạm lánh mặt để giữ cho mình được an toàn rồi sẽ tính sau. Văn Thái Lai nghe nói khẽ gật đầu tán thành. Mạnh Kiện Hùng lập tức đưa ba người: Văn Thái Lai, Lạc Băng và Dư Ngư Đồng ra thẳng ngoài vườn hoa của Châu Trọng Anh. Tại đây có một căn phòng rất rộng rãi khang trang, mát mẻ mà Châu Trọng Anh thường dùng để ngắm hoa thưởng nguyệt, luyện tập võ công, và phú vịnh ngâm nga trong những lúc cao hứng nhàn rỗi... Đó chỉ là bề ngoài để che mặt kẻ bàng quang. Bên trong là một cơ quan bí mật để Châu Trọng Anh bảo vệ cách nhà cách mạng bị truy nã đến nhờ ông ta khi cần thiết. Phía dưới nền nhà ấy là một cái hầm bí mật rộng rãi, sạch sẽ, đầy đủ tiện nghi, không thiếu gì các vật dụng.
Bốn người vừa đến nơi thì Dư Ngư Đồng hợp sức với Dư Ngư Đồng khiêng một cái bàn cẩm thạch lớn rất dày xê dịch ra khỏi nơi đó một chút, nhìn thấy phía dưới lộ ra một miếng sắt thật dày, được cột chặt bởi một sợi dây xích sắc dài dinh chặt vào. Mạnh Kiện Hùng và Dư Ngư Đồng cùng nắm sợi dây xích kéo, giở hổng miếng sắt lên. Thì ra đó là một miệng rộng rãi và kín đáo, mà miếng sắt chính là nắp dùng đậy lại. Mọi người liền theo miệng hang mà đi xuống hầm bí mật mà Mạnh Kiện Hùng gọi là địa huyệt. Văn Thái Lai đứng nhìn Mạnh Kiện Hùng làm công việc này bất giác nổi giận hét to lên rằng: - Ta Văn Thái Lai chẳng phải hạng người tham sống sợ chết đâu! Bình sinh, ta chưa bao giờ biết lui bước trước một nguy nan nào cả, cũng chưa bao giờ chịu hạ mình làm việc hèn hạ, lại càng không bao giờ biết khiếp sợ những đứa gian manh hung tàn, mặc kệ võ nghệ chúng có cao đến bậc nào cũng vậy. Nếu thấy việc phải sẽ làm ngay, gặp cường địch đương nhiên phải chống cự. Không lẽ giờ đây ta lại chịu khom lưng mà chui xuống cái lỗ này sao? Chui xuống để trốn cái chết mà bảo vệ tánh mạng mình à? Không, nhất định là không! Tuy
hiện tại trong mình ta rất yếu, khí lực giảm suy, các vết thương chưa lành nhưng tinh thần ta vẫn sáng suốt, chí khí vẫn hiên ngang, còn đủ sức đánh với Trương Siêu Trọng cùng bè lũ “chó săn chim mồi” của Càn Long phái tới. Cứ để ta đánh với chúng một trận. Thà là ta chết còn hơn phải chui xuống cái lỗ này để cầu sống. Một khi ta chui xuống cái lỗ này rồi, tất cả anh hùng trong thiên hạ sẽ chê cười ta. Văn Thái Lai này làm việc minh minh bạch bạch, chẳng bao giờ núp trong bóng tối hoặc lợi dụng bóng tối mà hành động bao giờ! Nghe lời nói khảng khái của Văn Thái Lai, Mạnh Kiện Hùng trong thâm tâm hết sức bội phục, lại càng không muốn cho vị Tứ đương gia kia phải chết một cách oan uổng hay bị bắt bởi bọn “chó săn chim mồi” của triều đình. Chàng cố lựa lời khéo mà khuyên Văn Thái Lai rằng: - Tại hạ vẫn biết Văn tứ gia là bậc trượng phu nghĩa khí trên đời này. Chính Châu sư phụ dù chưa gặp mặt Văn tứ gia nhưng vẫn luôn khen ngợi và thán phục vì chính sư phụ cũng là một đấng anh hùng nghĩa khí như Văn tứ gia, coi cái chết nhẽ tựa lông hồng, xem việc thiện như ngọc ngà châu báu. Tuy nhiên đấng trượng phu ở đời cũng có khi co mà cũng có khi duỗi, không nên câu nệ những tiểu tiết làm hỏng việc lớn mà tổ quốc và dân tộc đang trông cậy vào mình. Như Văn tứ gia hiện thời đang mang thương tích nặng, không thể dùng sức mà đượng cự với bọn đầu trâu mặt ngựa cam tâm làm ưng khuyển cho kẻ thù thì việc bảo vệ cái thân hữu dụng của mình để gánh vác công việc lớn lao sau này cho dân cho nước thì đâu có phải là tham sống sợ chết! Xin Văn tứ gia tạm thời lánh nạn ở đây, tạm trú trong cái hầm bí mật này. Thử hỏi người anh hùng nào khi thông suốt đại nghĩa lại có thể cười Văn tú gia được? Văn Thái Lai nói: - Tôi nhất định không chui xuống địa huyệt! Yêu cầu mạnh huynh mở cửa sau vườn hoa cho chúng tôi thoát ra khỏi nơi này! Mạnh Kiện Hùng nói: - Không thể được! Bọn “trâu chó” của Càn Long rất đông! Chắc chắn chúng đã chia nhau ra bao vây tứ phía và canh chừng nghiêm